VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THỊ HOA
KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG
XÉT XỬ PHÚC THẨM CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU
CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI – 2018
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THỊ HOA
KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG
XÉT XỬ PHÚC THẨM CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU
CÓ TÍNH CHIẾM ĐOẠT TỪ THỰC TIỄN
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 60.38.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM MẠNH HÙNG
HÀ NỘI – 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn “Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử
phúc thẩm các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chiếm đoạt từ thực tiễn thành
phố Hồ Chí Minh” là công trình nghiên cứu do chính tôi thực hiện dưới sự hướng
dẫn khoa học của TS. Phạm Mạnh Hùng. Các nội dung, thông tin được trình bày
trong luận văn là trung thực.
Tôi xin chịu trách nhiệm về lời cam đoan trên của mình.
Hà Nội, ngày 28 tháng 02 năm 2018
Tác giả luận văn
Trần Thị Hoa
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ VỀ KIỂM SÁT VIỆC
TUÂN THEO PHÁP LUẬT TRONG XÉT XỬ PHÚC THẨM CÁC VỤ ÁN
XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT ...................................6
1.1. Khái niệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử phúc thẩm các vụ án
hình sự .........................................................................................................................6
1.2. Khái niệm, đặc điểm hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử
phúc thẩm các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt ..............................15
1.3. Khái quát lịch sử các quy định của pháp luật tố tụng hình sự về kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong xét xử phúc thẩm các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt từ năm 1960 đến trước khi có Bộ luật tố tụng hình sự năm 2015 ..........20
Chương 2: CÁC QUY ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT HIỆN HÀNH VÀ THỰC
TRẠNG HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT
TRONG XÉT XỬ PHÚC THẨM CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ
TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
...................................................................................................................................26
2.1. Các quy định của pháp luật tố tụng hình sự hiện hành (BLTTHS năm 2015) về
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử phúc thẩm các vụ án xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt ......................................................................................26
2.2. Những bất cập trong quy định của BLTTHS năm 2015 về kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong xét xử phúc thẩm các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt .................................................................................................................40
2.3. Thực trạng hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử phúc thẩm
các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn TP Hồ Chí Minh 43
Chương 3: HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP KHÁC NÂNG CAO
HIỆU QUẢ HOẠT ĐỘNG KIỂM SÁT VIỆC TUÂN THEO PHÁP LUẬT
TRONG XÉT XỬ PHÚC THẨM CÁC VỤ ÁN XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ
TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT ................................................................................71
3.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật và các giải pháp khác nâng cao hiệu quả
hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử phúc thẩm các vụ án xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt ........................................................................71
3.2 Các giải pháp khác nâng cao hiệu quả hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong xét xử phúc thẩm các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
trên địa bàn TP Hồ Chí Minh ....................................................................................74
3.3. Các giải pháp khác .............................................................................................76
KẾT LUẬN ..............................................................................................................78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLHS
:
Bộ luật hình sự
BLTTHS
:
Bộ luật tố tụng hình sự
KSVTTPL
:
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật
TTHS
:
Tố tụng hình sự
TAND
:
Tòa án nhân dân
TANDTC
:
Tòa án nhân dân tối cao
TPHCM
:
Thành phố Hồ Chí Minh
VKSND
:
Viện kiểm sát nhân dân
VKSNDTC
:
Viện kiểm sát nhân dân tối cao
XHCN
:
Xã hội chủ nghĩa
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Số liệu kết quả thực hiện công tác kiểm sát xét xử phúc thẩm án
hình sự năm 2013-2017
Bảng 2.2: Số liệu kết quả xét xử phúc thẩm các loại tội xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt năm 2013
Bảng 2.3: Số liệu kết quả xét xử phúc thẩm các loại tội xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt năm 2014
Bảng 2.4: Số liệu kết quả xét xử phúc thẩm các loại tội xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt năm 2015
Bảng 2.5: Số liệu kết quả xét xử phúc thẩm các loại tội xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt năm 2016
Bảng 2.6: Số liệu kết quả xét xử phúc thẩm các loại tội xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt năm 2017
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Xét xử các vụ án hình sự có một ý nghĩa rất quan trọng bảo đảm công lý và
công bằng xã hội, không bỏ lọt tội phạm và không làm oan người vô tội. Vì vậy,
phán quyết của Toà án (thông qua Hội đồng xét xử) Nhân danh nước Cộng hoà xã
hội chủ nghĩa Việt Nam đòi hỏi phải bảo đảm chính xác, đúng người, đúng tội,
đúng pháp luật.
Nhằm đảm bảo nguyên tắc “chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo
đảm” (Điều 27 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015), việc tham gia của Viện kiểm sát
có ý nghĩa rất quan trọng. Viện kiểm sát (VKS) có chức năng thực hành quyền công
tố và kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong vụ án hình sự ở cả 2 cấp xét xử, đề
nghị của VKS ở cả 2 cấp đều là là cơ sở quan trọng để Tòa án xem xét, cân nhắc
trong phán quyết tại bản án hình sự. Tại cấp phúc thẩm là cấp mà bản án có hiệu lực
thi hành ngay nên việc tham gia của VKS nhằm kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong xét xử phúc thẩm có tầm quan trọng to lớn, góp phần kéo giảm tình trạng oan
sai và bỏ lọt tội phạm nhất là trong nhóm tội liên quan đến xâm phạm sở hữu chiếm
tỷ lệ cao trong cơ cấu tội phạm hình sự.
Thực tiễn pháp luật hình sự quy định về nhóm tội án xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt còn một số bất cập nên việc cấp sơ thẩm áp dụng vào giải
quyết vụ án còn một số nhầm lẫn giữa các tội với nhau, đánh gía tính chất vụ án còn
một số chưa đúng nên nhóm tội này bị kháng cáo, kháng nghị tương đối nhiều. Từ
đó việc tham gia của VKS trong giai đoạn xét xử phúc thẩm đối với các vụ án hình
sự nói chung và đối với các vụ án án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nói
riêng góp phần quan trọng trong việc kết án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật.
Trong bối cảnh cải cách tư pháp, việc nghiên cứu một cách có hệ thống và đề
xuất phương hướng hoàn thiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của
VKS trong giai đoạn xét xử phúc thẩm vụ án hình sự trong nhóm tội này là việc làm
cần thiết có ý nghĩa cả về mặt lý luận cũng như thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
1
Nghiên cứu về chức năng, nhiệm vụ của VKS trong kiểm sát việc tuân theo
pháp luật ở đối với các vụ án hình sự nói chung và đối với các vụ án án xâm phạm
sở hữu có tính chất chiếm đoạt nói riêng có ý nghĩa to lớn không chỉ về mặt khoa
học mà còn cả về mặt thực tiễn áp dụng pháp luật, đã có nhiều công trình nghiên
cứu về vấn đề này như sau:
Thạc sỹ Nguyễn Văn Thanh “Đặc điểm của tội xâm phạm sở hữu của Thành
phố Hồ Chí Minh trong những năm gần đây”, tạp chí Dân chủ và pháp luật ngày
1.2.2018
Mai Văn Thùy, “Chức năng của Viện kiểm sát trong giai đoạn xét xử vụ án
hình sự”, Luật văn thạc sĩ luật học 2012, Đại học quốc gia Hà Nội [].
Vũ Đức Hạnh “Nguyên tắc thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong tố tụng hình sự”, Luận văn thạc sỹ luật học 2012, Đại học quốc
gia Hà Nội.
Nguyễn Thị Lan Hương “ Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thực hành
quyền công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự của Viện kiểm sát nhân
dân”, luận văn thạc sỹ luật học 2012, Đại học quốc gia Hà Nội
Trang thông tin điện tử của Trường Đại học kiểm sát Hà Nội, mục Kiểm sát
viên cần biết, phần thứ ba về “Hoạt động của kiểm sát viên khi thực hành quyền
công tố và kiểm sát xét xử phúc thẩm hình sự”
TS. Lê Thành Dương- Viện kiểm sát nhân dân tối cao “Một số vấn đề lý luận
và thực tiễn về kháng nghị phúc thẩm hình sự”, Tạp chí điện tử VKSND Tối Cao
ngày 07/3/2018.
Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách
toàn diện, đầy đủ về lý luận và thực tiễn của kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
xét xử phúc thẩm án hình sự nói chung của án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt nói riêng của VKSND.
Qua khảo sát của học viên thấy rằng vấn đề kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong xét xử phúc thẩm án hình sự các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt từ thực tiễn thành phố Hồ Chí Minh vẫn chưa đạt hiệu quả cao. Vì vậy, việc
2
nghiên cứu đề tài là cần thiết và phù hợp với yêu cầu thực tiễn của công cuộc cải
cách tư pháp mà Đảng và Nhà nước đã đề ra trong giai đoạn hiện nay, định hướng
đến năm 2020.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Trên cơ sở nghiên cứu lý luận, quy định của pháp luật và thực tiễn kiểm sát
việc tuân theo pháp luật của VKS trong giai đoạn xét xử phúc thẩm các vụ án xâm
phạm sở hữu có tính chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, nhiệm vụ của
luận văn là đưa ra giải pháp bảo đảm thực hiện tốt chức năng kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong giai đoạn xét xử phúc thẩm vụ án các vụ án xâm phạm sở hữu
có tính chiếm đoạt tại thành phố Hồ Chí Minh.
- Để đạt được mục đích trên, luận văn tập trung giải quyết các nhiệm vụ sau:
- Phân tích làm rõ khái niệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử
phúc thẩm các vụ án hình sự, phân biệt chức năng thực hành quyền công tố với
chức năng kiểm sát xét xử phúc thẩm trong giai đoạn xét xử phúc thẩm vụ án hình
sự;
- Phân tích làm rõ khái niệm, đặc điểm hoạt động kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong xét xử phúc thẩm các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt
- Phân tích làm rõ thực trạng hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong xét xử phúc thẩm các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa
bàn TP Hồ Chí Minh; những kết quả đạt được, hạn chế, vướng mắc và nguyên nhân
của nó; Trên cơ sở đó đề xuất một số giải pháp nâng cao hiệu quả kiểm sát xét xử
phúc thẩm các vụ án có tính chất chiếm đoạt.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng mà luận văn nghiên cứu là các vấn đề lý luận và các quy định của
pháp luật về nhiệm vụ của VKS kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử phúc
thẩm về nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt từ thực tiễn áp dụng tại
thành phố Hồ Chí Minh.
3
Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi về nội dung:Trong phạm vi luận văn tác giả chỉ đi sâu vào nghiên
cứu nhiệm vụ, quyền hạn của VKS trong giai đoạn kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án
hình sự (XXPT VAHS) nói chung, xét xử phúc thẩm các vụ án xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt (XXPT các vụ án XPSH có TCCĐ) nói riêng.
Phạm vi về thời gian: Nghiên cứu hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong xét xử phúc thẩm về nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
từ thực tiễn áp dụng tại thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2013 đến năm 2017.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận
Luận văn nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối chính sách của Đảng và
Nhà nước ta về Nhà nước và pháp luật, về quyền con người và quyền cá nhân trong
tố tụng hình sự.
Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết mục đích của đề tài, tác giả đã sử dụng và kết hợp các phương
pháp lịch sử, nghiên cứu, phân tích, tổng hợp, so sánh
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa mặt lý luận
Luận văn nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ thống các quy định pháp
luật tố tụng hình sự và pháp luật hình sự về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự nói chung trong xét xử phúc thẩm về nhóm tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nói riêng từ thực tiễn trên địa bàn thành
phố Hồ Chí Minh, từ đó góp phần bổ sung, làm rõ hơn những vấn đề lý luận về
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự.
Ý nghĩa thực tiễn
Từ việc nghiên cứu thực tiễn áp dụng pháp luật, luận văn đã nêu lên những
bất hợp lý và những vướng mắc trong việc áp dụng các quy phạm pháp luật tố tụng
hình sự và các quy phạm pháp luật hình sự trong thực tiễn kiểm sát việc tuân theo
4
pháp luật trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự nói chung trong xét xử phúc
thẩm về nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nói riêng. Từ đó đưa ra
những đề xuất về hướng giải quyết sao cho phù hợp với thực tế, đồng thời hạn chế
những sai lầm, khuyết điểm của cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố
tụng.Với những kết quả mà luận văn mang lại, có thể được sử dụng làm tài liệu
tham khảo cho sinh viên, học viên, tài liệu tuyên truyền pháp luật, phục vụ cho
những người làm công tác thực tiễn và những ai có quan tâm đến lĩnh vực pháp luật
hình sự đối với kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử phúc thẩm các vụ án
hình sự nói chung trong xét xử phúc thẩm về nhóm tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt nói riêng.
7. Kết cấu luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần kết luận,
nội dung của luận văn gồm 03 chương:
Chương 1: Những vấn đề chung về kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong
xét xử phúc thẩm các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
Chương 2: Các quy định của pháp luật hiện hành về kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong xét xử phúc thẩm các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt và thực tiễn hoạt động kiểm sát xét xử phúc thẩm các vụ án xâm phạm sở hữu
có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh
Chương 3: Hoàn thiện các quy định của pháp luật và các giải pháp khác
nâng cao hiệu quả kiểm sát việc xét xử phúc thẩm các vụ án xâm phạm sở hữu có
tính chất chiếm đoạt trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh.
5
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ VỀ KIỂM SÁT VIỆC TUÂN
THEO PHÁP LUẬT TRONG XÉT XỬ PHÚC THẨM CÁC VỤ ÁN
XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT
1.1. Khái niệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử phúc thẩm
các vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm và đối tượng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét
xử phúc thẩm các vụ án hình sự
Xét xử phúc thẩm là một giai đoạn của tố tụng hình sự. Trong giai đoạn này,
tòa án cấp trên trực tiếp xét xử lại vụ án hoặc xét xử lại quyết định sơ thẩm mà bản
án, quyết định sơ thẩm đối với vụ án đó chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo
hoặc kháng nghị nhằm khắc phục sai lầm của Tòa án cấp dưới, bảo đảm áp dụng
thống nhất pháp luật, bảo vệ lợi ích Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức và cá nhân.
Xét xử phúc thẩm có ý nghĩa nhằm đảm bảo cho pháp luật được áp dụng một
cách đúng đắn và thống nhất. Trong khi kiểm tra tính hợp pháp và tính có căn cứ
của bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng
nghị, Tòa án cấp phúc thẩm có thể phát hiện những sai lầm trong việc áp dụng pháp
luật hình sự, những vi phạm trong việc áp dụng pháp luật tố tụng hình sự mà cấp xét
xử sơ thẩm đã mắc phải để tuyên hủy để điều tra lại, xét xử lại hoặc hủy và đình chỉ
vụ án nhằm khắc phục, sửa chữa những sai lầm, vi phạm đó, đảm bảo cho pháp luật
được áp dụng một cách đúng đắn và thống nhất.
Kết quả xét xử phúc thẩm có đạt hiệu quả hay không là nhờ vào sự tham gia
và góp phần không nhỏ của Viện kiểm sát nhân dân trong thực hiện chức năng mà
Luật đã giao phó đó là thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Nhiệm
vụ, quyền hạn này theo suốt trong quá trình từ sơ thẩm lên phúc thẩm nhằm đảm
bảo không làm oan người vô tội, không bỏ lọt tội phạm. Một trong những nhiệm vụ
quan trọng là kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử phúc thẩm án hình sự
6
nhằm kiểm sát lại toàn bộ quá trình từ điều tra, truy tố, xét xử ở cấp sơ thẩm và việc
áp dụng pháp luật của cấp sơ thẩm.
Tại giai đoạn phúc thẩm, Khi thực hiện chức năng kiểm sát xét xử trong giai
đoạn xét xử phúc thẩm, Viện kiểm sát có nhiệm vụ, quyền sau đây: Kiểm sát việc
tuân theo pháp luật trong việc xét xử vụ án hình sự của Tòa án; kiểm sát việc tuân
theo pháp luật của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật; kiểm sát
bản án, quyết định, văn bản tố tụng khác của Tòa án; yêu cầu Tòa án cùng cấp, cấp
dưới chuyển hồ sơ vụ án hình sự để xem xét, quyết định việc kháng nghị; kháng
nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật nghiêm trọng về thủ tục tố
tụng; kiến nghị, yêu cầu Tòa án, cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện hoạt động tố
tụng theo quy định của BLTTHS; kiến nghị Tòa án khắc phục vi phạm trong hoạt
động tố tụng; kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng biện pháp phòng ngừa
tội phạm và vi phạm pháp luật trong hoạt động quản lý; hướng dẫn nghiệp vụ cho
cấp sơ thẩm qua các thông báo rút kinh nghiệm, tổ chức hội nghị chuyên đề, hướng
dẫn những vướng mắc trong áp dụng pháp luật; thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị,
nhiệm vụ, quyền hạn khác khi kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án hình sự theo quy
định của BLTTHS[19,tr.27].
Như vậy, kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử phúc thẩm các vụ án
hình sự là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng hình sự để kiểm sát
tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, người có thẩm quyền tiến
hành tố tụng hình sự, người tham gia tố tụng, cơ quan, tổ chức, cá nhân khác có
liên quan đến các hoạt động tố tụng hình sự; kiểm sát tính hợp pháp của bản án,
quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị.
Phạm vi kiểm sát xét xử phúc thẩm: được tính bắt đầu từ khi bản án, quyết
định sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo hoặc kháng nghị, cho đến khi
Toà án phúc thẩm ra bản án. Có thể chia ra thành ba giai đoạn kiểm sát xét xử phúc
thẩm đó là: trước khi mở phiên toà phúc thẩm, tại phiên toà phúc thẩm và sau khi
kết thúc phiên toà phúc thẩm.
7
Trước khi mở phiên toà, chức năng kiểm sát hoạt động xét xử phúc thẩm là
kiểm sát bản án sơ thẩm để thực hiện quyền kháng nghị, kiến nghị theo thủ tục
phúc thẩm; là nghiên cứu toàn bộ hồ sơ phúc thẩm do Tòa án nhân dân cùng cấp
chuyển qua nhằm phát hiện các thiếu sót, các vi phạm để kịp thời kiến nghị và
chuẩn bị hồ sơ kiểm sát, báo cáo đề xuất với lãnh đạo về đường lối xử lý vụ án.
Tại phiên toà phúc thẩm, chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của
Hội đồng xét xử cũng như các chủ thể khác tham gia tố tụng cũng được tiến hành
như việc kiềm sát tại phiên toà sơ thẩm: như việc kiểm sát thủ tục bắt đầu phiên toà
phúc thẩm xét xử vụ án hình sự có đúng trình tự và thủ tục có đúng quy định pháp
luật tố tụng hình sự không, kiểm sát tư cách của những người tiến hành tố tụng,
người tham gia tố tụng có đúng như trong quyết định đưa vụ án ra xét xử không…
Sau khi kết thúc phiên toà phúc thẩm, do tính chất của xét xử phúc thẩm là
việc phán quyết của Hội đồng xét xử có hiệu lực pháp luật ngay sau khi tuyên án,
do vậy, sau khi kết thúc phiên toà phúc thẩm, VKS phải kiềm sát chặt chẽ các quyết
định của Hội đồng xét xử như quyết định trả tự do cho bị cáo ngay tại phiên toà…
và các văn bản tố tụng khác như biên bản phiên toà phúc thẩm, bút ký phiên toà,
bản án… có được lập đúng trình tự thẩm quyền. Sau xét xử phúc thẩm, kiểm sát
viên còn có nhiệm vụ báo cáo kết quả xét xử và đề nghị kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm, tái thẩm (nếu thấy có vi phạm), tập hợp các vi phạm, sai sót kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử phúc thẩm án hình sự của cấp sơ thẩm để
thông báo rút kinh nghiệm, hướng dẫn nghiệp vụ cho cấp sơ thẩm. Đó là chức năng
cơ bản nhất của VKS sau khi kết thúc phiên toà phúc thẩm.
Đặc điểm kiểm sát xét xử phúc thẩm:
Viện kiểm sát là chủ thể của hoạt động kiểm sát xét xử phúc thẩm các vụ án
hình sự
Luật đã giao phó trách nhiệm cho Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo
vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống
nhất.
8
Như vậy, trong hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử phúc
thẩm các vụ án hình sự thì Viện kiểm sát là chủ thể duy nhất và là chủ thể đặc biệt.
Chỉ có Viện kiểm sát mới được giao nhiệm vụ nên mới có quyền thực hiện nhiệm
vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự.
Mục đích của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử phúc
thẩm các vụ án hình sự
Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử phúc thẩm các vụ
án hình sự nhằm đảm bảo hoạt động tư pháp của các cơ quan tư pháp như cơ quan
điều tra của công an, viện kiểm sát, tòa án trong khởi tố, điều tra, xét xử ở cấp sơ
thẩm và hoạt động của Tòa án phúc thẩm đối với các vụ án hinhd sự được hoạt động
đúng quy định của pháp luật; mọi vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp phải
được phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh; không làm oan người vô tội, không bỏ
lọt tội phạm; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người phạm tội, người bị hại,
người có nghĩa vụ, quyền lợi liên quan trong các vụ án hình sự.
Đối tượng của hoạt động kiểm sát xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự Hoạt
động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự có
đối tượng là các bản án, quyết định sơ thẩm chưa có hiệu lực bị kháng cáo, kháng
nghị; Là hoạt động tố tụng kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử phúc thẩm
án hình sự của các cơ quan tố tụng như cơ quan điều tra của công an, Viện kiểm sát,
tòa án trong khởi tố, điều tra, xét xử ở cấp sơ thẩm và hoạt động của Tòa án phúc
thẩm đối với các vụ án hình sự; Là hoạt động của các cơ quan khác được phát hiện
trong quá trình giải quyết vụ án hình sự ở cấp sơ thẩm và phúc thẩm...
Kiểm sát tính hợp pháp:
Tính hợp pháp ở đây được hiểu là hành vi, quyết định, bản án của cơ quan tố
tụng đã phù hợp với các quy định trong tố tụng hình sự, quy định trong luật hình sự
và các luật khác có liên quan hay chưa; Hoạt động kiểm sát tính hợp pháp, Viện
kiểm sát chỉ căn cứ vào pháp luật và làm theo pháp luật đồng thời cũng căn cứ vào
tính chất, mức độ của hành vi vi phạm nhằm có hướng xử lý cho hợp tình, hợp lý
nhưng pháp luật vẫn được đặt lên cao nhất.
Bản án, quyết định chưa có hiệu lực pháp luật:
9
Bản án chưa có hiệu lực pháp luật là bản án sơ thẩm chưa hết thời hạn kháng
cáo, kháng nghị hoặc bị kháng cáo, kháng nghị nhưng chưa xét xử phúc thẩm. Bản
án chưa có hiệu lực pháp luật thì không được đem ra thi hành.
Thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Trường hợp có người có
quyền kháng cáo vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn tính từ ngày bản án được giao
cho họ hoặc được niêm yết [20, tr. 283]. Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát
cùng cấp là 15 ngày, của viện kiểm sát cấp trên là 30 ngày kể từ ngày tuyên án
[20,tr.286].
Như vậy: Bản án sơ thẩm có hiệu lực pháp luật sau 30 ngày kể từ ngày tuyên
án trong trường hợp không có kháng cáo, kháng nghị đồng thời không có người
vắng mặt. Trường hợp có kháng cáo, kháng nghị mà bản án phúc thẩm giữ nguyên
bản án sơ thẩm hoặc sửa bản án sơ thẩm thì bản án sơ thẩm có hiệu lực kể từ ngày
tuyên án phúc thẩm. Trường hợp bản án phúc thẩm hủy bản án sơ thẩm thì bản án
sơ thẩm không có hiệu lực pháp luật.
Bản án, quyết định sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị:
Trong thời hạn kháng cáo là 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Trường hợp có
người có quyền kháng cáo vắng mặt tại phiên tòa thì thời hạn tính từ ngày bản án
được giao cho họ hoặc được niêm yết– bị cáo, bị hại, người có nghĩa vụ, quyền lợi
liên quan nếu phát hiện quyền lợi của mình bị xâm hại, chưa được bản án, quyết
định sơ thẩm đề cập tới hoặc mức án là quá nặng, quá nhẹ, có dấu hiệu oan sai…thì
có quyền kháng cáo để cấp phúc thẩm xem xét lại.
Thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát cùng cấp là 15 ngày, của viện kiểm
sát cấp trên là 30 ngày kể từ ngày tuyên án. Trong thời hạn này, qua quá trình kiểm
sát xét xử án hình sự, kiểm sát bản án, quyết định sơ thẩm và qua nghiên cứu hồ sơ
vụ án, VKSND hai cấp phát hiện vi phạm của cơ quan tố tụng, phát hiện có dấu
hiệu oan sai thì có quyền kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm để cấp phúc thẩm xem
xét lại.
Như vậy, ngay sau khi tuyên án, bản án sơ thẩm chưa có hiệu lực pháp luật
ngay mà có thể bị kháng cáo, kháng nghị. Tuy nhiên việc kháng cáo, kháng nghị
không phải là vô thời hạn mà có quy định về thời hạn nhất định để tránh kéo dài
10
việc thi hành bản án. Việc quy định, bản án sơ thẩm có thể bị kháng cáo, kháng nghị
là đảm bảo nguyên tắc xét xử hai cấp được quy định trong tố tụng hình sự đảm bảo
quyền lợi hợp pháp của mọi công dân được bảo vệ, pháp luật được tuân thủ thống
nhất…
Thẩm quyền kháng nghị phúc thẩm Luật chỉ giao cho VKSND:
Thẩm quyền quyết định việc kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm thuộc Viện
trưởng Viện kiểm sát và Phó Viện trưởng Viện kiểm sát khi Phó Viện trưởng Viện
kiểm sát được phân công thực hành quyền công tố và kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong hoạt động tố tụng đối với vụ án hình sự. BLTTHS năm 2015 chỉ giao
nhiệm vụ kháng nghị bản án hoặc quyết định sơ thẩm cho VKSND tại Điều 336.
Kháng nghị phúc thẩm là thể hiện nguyên tắc mọi hoạt động của Hội đồng xét xử sơ
thẩm phải tuân thủ đúng theo quy định của pháp luật, nếu không sẽ bị VKSND
kháng nghị. Kháng nghị phúc thẩm cũng là thể hiện quyền năng và nhiệm vụ của
VKSND trong kiểm sát xét xử hình sự.
Kháng nghị phúc thẩm thuộc thẩm quyền của Viện kiểm sát để thực hiện cả
2 chức năng là thực hành quyền công tố và kiểm sát xét xử hình sự:
Trong thực hiện chức năng thực hành quyền công tố, nhiệm vụ kháng nghị
phúc thẩm thể hiện ở vai trò thực hành quyền công tố của kiểm sát viên tại phiên tòa
sơ thẩm; Nếu quan điểm của hội đồng xét xử sơ thẩm không phù hợp với quy định
của pháp luật, với quan điểm của VKSND sơ thẩm thì sau phiên tòa sơ thẩm,
VKSND sơ thẩm sẽ thực hiện quyền kháng nghị của mình.
Trong thực hiện chức năng kiểm sát xét xử phúc thẩm thì nhiệm vụ kháng
nghị phúc thẩm thể hiện ở việc nghiên cứu bản án, quyết định chưa có hiệu lực của
cấp sơ thẩm; nếu thấy có vấn đề thì yêu cầu cấp sơ thẩm chuyển hồ sơ nhằm thực
hiện nhiệm vụ kháng nghị theo thủ tục phúc thẩm.
Nhiệm vụ kiểm sát xét xử phúc thẩm án hình sự không chỉ tại phiên tòa phúc
thẩm mà còn mở rộng ra trước và sau phiên tòa phúc thẩm:
Như đã nêu trong phần phạm vi, để thực hiện chức năng kiểm sát xét xử
phúc thẩm hình sự, Luật tổ chức VKSND đã giao nhiều nhiệm vụ cho VKSND như:
11
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử vụ án hình sự của Tòa án; kiểm
sát việc tuân theo pháp luật của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị cơ quan,
tổ chức có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp
luật; kiểm sát bản án, quyết định, văn bản tố tụng khác của Tòa án; yêu cầu Tòa án
cùng cấp, cấp dưới chuyển hồ sơ vụ án hình sự để xem xét, quyết định việc kháng
nghị; kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật nghiêm trọng
về thủ tục tố tụng; kiến nghị, yêu cầu Tòa án, cơ quan, tổ chức, cá nhân thực hiện
hoạt động tố tụng theo quy định của BLTTHS; kiến nghị Tòa án khắc phục vi phạm
trong hoạt động tố tụng; kiến nghị cơ quan, tổ chức hữu quan áp dụng biện pháp
phòng ngừa tội phạm và vi phạm pháp luật trong hoạt động quản lý; hướng dẫn
nghiệp vụ cho cấp sơ thẩm qua các thông báo rút kinh nghiệm, tổ chức hội nghị
chuyên đề, hướng dẫn những vướng mắc trong áp dụng pháp luật; thực hiện quyền
yêu cầu, kiến nghị, nhiệm vụ, quyền hạn khác khi kiểm sát xét xử phúc thẩm vụ án
hình sự theo quy định của BLTTHS.
Những yêu cầu nhiệm vụ đã nêu phải được thực hiện xuyên suốt từ trước,
trong và sau quá trình xét xử phúc thẩm.
Nhiệm vụ hướng dẫn nghiệp vụ cho cấp sơ thẩm là nhiệm vụ quan trọng
trong thực hiện chức năng kiểm sát xét xử phúc thẩm:
Cấp phúc thẩm không chỉ là cấp tìm tòi các sai sót, vi phạm của cấp sơ thẩm
mà quan trọng là qua đó, hứơng dẫn nghiệp vụ cho cấp sơ thẩm để cùng rút kinh
nghiệm, nâng cao nghiệp vụ nhằm nâng tầm cho VKS sơ thẩm, đó cũng là nâng tầm
cho ngành kiểm sát nói chung.
Theo tác giả thì phần này là phần quan trọng nhất và nên lấy đây làm tiêu chí
thi đua quan trọng nhất của bộ phận kiểm sát xét xử phúc thẩm hình sự.
1.1.2 Phân biệt chức năng thực hành quyền công tố với chức năng kiểm
sát xét xử phúc thẩm trong giai đoạn xét xử phúc thẩm vụ án hình sự
Thực hành quyền công tố là hoạt động của Viện kiểm sát nhân dân trong tố
tụng hình sự để thực hiện việc buộc tội của Nhà nước đối với người phạm tội, được
thực hiện ngay từ khi giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và
trong suốt quá trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.
12
Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi thực hành quyền công
tố trong giai đoạn xét xử phúc thẩm vụ án hình sự là: Xét hỏi, tranh luận, phát biểu
quan điểm về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa; Kháng nghị bản án, quyết định của
Tòa án trong trường hợp phát hiện oan, sai, bỏ lọt tội phạm, người phạm tội; Thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn khác trong việc buộc tội theo quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự [19, tr.26].
Kiểm sát hoạt động tư pháp trong tố tụng hình sự là hoạt động của Viện kiểm
sát nhân dân để kiểm sát tính hợp pháp của các hành vi, quyết định của cơ quan, tổ
chức, cá nhân trong hoạt động tư pháp, được thực hiện ngay từ khi tiếp nhận và giải
quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá trình giải
quyết vụ án hình sự; các hoạt động tư pháp khác theo quy định của pháp luật.
Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân khi kiểm sát xét xử phúc
thẩm các vụ án hình sự là: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử các
vụ án hình sự của Tòa án; Kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án; Kiểm sát hoạt
động tố tụng hình sự của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ
chức có thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật;
Yêu cầu Tòa án cùng cấp, cấp dưới chuyển hồ sơ vụ án hình sự để xem xét, quyết
định việc kháng nghị; Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm
nghiêm trọng về thủ tục tố tụng; Thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị và nhiệm vụ,
quyền hạn khác trong kiểm sát xét xử vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật tố
tụng hình sự.
Từ khái niệm trên có thể phân biệt sự giống và khác nhau của hai chức năng
trên như sau:
Giống nhau:
Hai nhiệm vụ đều đi song song, xuyên suốt trong tố tụng hình sự từ khi tiếp
nhận và giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố và trong suốt quá
trình khởi tố, điều tra, truy tố, xét xử vụ án hình sự.
Cùng chung mục đích không làm oan người vô tội, không để lọt tội phạm và
người phạm tội; bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ pháp luật…
13
Trong quá trình thực hiện hai nhiệm vụ thực hành quyền công tố và kiểm sát
xét xử phúc thẩm án hình sự, VKSND có cùng quyền hạn là kháng nghị theo thủ tục
phúc thẩm bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm pháp luật.
Khác nhau:
Phạm vi để thực hiện chức năng thực hành quyền công tố trong giai đoạn xét
xử phúc thẩm có phần hạn chế hơn, chỉ thể hiện tại phiên tòa phúc thẩm qua phần
tranh luận, phát biểu quan điểm về vụ án; Còn phạm vi để thực hiện chức năng kiểm
sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử phúc thẩm án hình sự rộng hơn, thể hiện ở
trước, trong và sau phiên tòa phúc thẩm.
Do phạm vi rộng hơn nên nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân
khi kiểm sát xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự bắt đầu kể từ khi án sơ thẩm xét xử
xong, có bản án hình sự chuyển lên cho đến xuyên suốt quá trình giải quyết vụ án
hình sự theo trình tự phúc thẩm của Tòa án và kể cả sau phiên tòa phúc thẩm. Đó là
các hoạt động bao gồm: Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc xét xử các vụ
án hình sự của Tòa án; Kiểm sát bản án, quyết định của Tòa án; Kiểm sát hoạt động
tố tụng hình sự của người tham gia tố tụng; yêu cầu, kiến nghị cơ quan, tổ chức có
thẩm quyền xử lý nghiêm minh người tham gia tố tụng vi phạm pháp luật; Yêu cầu
Tòa án cùng cấp, cấp dưới chuyển hồ sơ vụ án hình sự để xem xét, quyết định việc
kháng nghị; Kháng nghị bản án, quyết định của Tòa án có vi phạm nghiêm trọng về
thủ tục tố tụng; Thực hiện quyền yêu cầu, kiến nghị và nhiệm vụ, quyền hạn khác
trong kiểm sát xét xử vụ án hình sự theo quy định của Bộ luật tố tụng hình sự.
Nhiệm vụ chính của chức năng thực hành quyền công tố là thực hiện việc
buộc tội của Nhà Nước đối với người phạm tội nhưng nhiệm vụ chính của chức
năng kiểm sát xét xử phúc thẩm án hình sự là đảm bảo mọi hoạt động tư pháp được
hoạt động đúng quy định của pháp luật, mọi vi phạm pháp luật trong hoạt động tư
pháp phải được phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh.
Chức năng thực hành quyền công tố và chức năng kiểm sát xét xử phúc thẩm
án hình sự, tuy có khác nhau nhưng có mối quan hệ biện chứng với nhau, bổ trợ cho
14
nhau nhằm đi tới một mục đích chung là không làm oan người vô tội, không để lọt
tội phạm và mọi hoạt động tư pháp tuân thủ đúng quy định của pháp luật.
Viện kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử phúc thẩm nhẳm
đảm bảo mọi hành vi phạm tội đều phải được xử lý kịp thời, đảm bảo việc khởi tố,
điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án đúng người, đúng tội, đúng pháp luật, không
để lọt tội phạm và người phạm tội, không làm oan người vô tội. Hoạt động kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong xét xử phúc thẩm có hiệu quả là điều kiện để bào đảm
thực hành quyền công tố đúng đắn, chính xác, khách quan và ngược lại.
1.2. Khái niệm, đặc điểm hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong xét xử phúc thẩm các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
1.2.1 Khái niệm tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
Theo quy định tại Điều 58 Hiến pháp năm 1992 thì công dân có quyền sở
hữu về thu nhập hợp pháp, của cải để dành, tư liệu sinh hoạt, tư liệu sản xuất, vốn
và tài sản khác…Nhà nước bảo hộ quyền sở hữu hợp pháp của công dân. Để bảo vệ
quyền sở hữu của công dân, Nhà nước có nhiều công cụ và biện pháp khác nhau,
trong đó có biện pháp nghiêm khắc nhất là sử dụng pháp luật hình sự.
Theo Từ điển tiếng Việt, chiếm đoạt là chiếm của người khác làm của mình,
bằng cách dựa vào vũ lực hoặc quyền thế. Ở khái niệm này chiếm đoạt được xem là
hành vi dùng vũ lực hoặc quyền uy để lấy tài sản của người khác một cách cố ý.
Nhưng trong Luật hình sự thì hành vi chiếm đoạt là hành vi cố ý chuyển dịch trái
pháp luật tài sản đang được sự quản lí của chủ tài sản thành tài sản của mình.
Trong BLHS 2015 sửa đổi 2017 dành một chương cho tội xâm phạm sở hữu
đó là chương XVI với các tội từ Điều 168 đến Điều 180, trong đó các tội xâm phạm
sở hữu có tính chất chiếm đoạt nằm ở các điều từ 168 đến Điều 175.
Giống như phần lớn các chương trong phần các tội phạm của BLHS, nhà làm
luật không định nghĩa về các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt. Tuy
nhiên, từ phân tích trên có thể định nghĩa: Các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt là những hành vi nguy hiểm cho xã hội, do người đủ tuổi chịu trách
nhiệm hình sự và có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý, chuyển
dịch một cách bất hợp pháp tài sản của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp, cá nhân
thành tài sản của mình với động cơ tư lợi.
15
1.2.1.2. Đặc điểm
Từ khái niệm có thể phân tích các đặc điểm của tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt như sau:
Khách thể của tội phạm
Khách thể của tội phạm là quyền sở hữu tài sản của Nhà nước, cơ quan, tổ
chức, doanh nghiệp hoặc cá nhân.
Tài sản là đối tượng tác động của hành vi chiếm đoạt đòi hỏi phải có đặc
điểm là tài sản thuộc quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt tài sản của chủ thể, có
khả năng chuyển dịch được giữa các chủ thể với nhau. Tài sản ở đây phải được thể
hiện dưới dạng những vật cụ thể có giá trị và giá trị sử dụng.
Mặt khách quan của tội phạm
Hành vi phạm tội có tính chất chiếm đoạt tài sản là các hành vi chuyển dịch
bất hợp pháp tài sản đang do một chủ thể quản lý thành tài sản của mình. Hành vi
chiếm đoạt làm cho chủ sở hữu mất khả năng thực hiện quyền sở hữu, đồng thời tạo
khả năng cho người phạm tội thực hiện được việc chiếm giữ, sử dụng, định đoạt trái
phép tài sản đó. Tài sản là đối tường tác động của hành vi chiếm đoạt là tài sản còn
nằm trong sự quản lý của chủ sở hữu.
Mặt chủ quan của tội phạm
Ở tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt thì chỉ tồn tại loại lỗi cố ý
trực tiếp, đó là: người phạm tội nhận thức rõ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã
hội, thấy trước hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra.
Chủ thể của các tội xâm phạm sở hữu phải là người có năng lực trách
nhiệm hình sự
Chủ thể của các tội xâm phạm sở hữu phải là người đủ tuổi chịu trách nhiệm
sự (theo quy định tại Điều 12 BLHS) và có năng lực trách nhiệm hình sự, nghĩa là
khi thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội, người thực hiện hành vi có khả năng
nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã hội của hành vi của mình và có khả
năng điều khiển được hành vi ấy.
1.2.2. Khái niệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử phúc thẩm
các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
16
BLHS năm 2015 sửa đồi, bổ sung 2017 quy định tại Chương XVI về tội xâm
phạm sở hữu nhưng chỉ có các Điều từ 168 đến Điều 175 là có tính chất chiếm đoạt.
Nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử phúc thẩm các vụ án xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nằm chung trong nhiệm vụ kiểm sát việc tuân
theo pháp luật trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự nói chung, không thể tách
rời. Tuy nhiên do tính chất, đặc điểm của loại tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt có khác so với các loại tội khác nên khi thực hiện nhiệm vụ kiểm sát
việc tuân theo pháp luật trong xét xử phúc thẩm các vụ án này cũng có những phân
biệt nhất định.
Do không thể tách rời với nhiệm kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét
xử phúc thẩm các vụ án hình sự, nên khái niệm cũng có phần tương ứng.
Kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử phúc thẩm các vụ án xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt là hoạt động của VKSND để kiểm sát tính hợp
pháp của bản án, quyết định sơ thẩm về các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt chưa có hiệu lực pháp luật bị kháng cáo, kháng nghị.
1.2.3. Đặc điểm
Từ khái niệm trên, có thể nhận thấy đặc điểm của kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong xét xử phúc thẩm các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt, như sau:
Viện kiểm sát là chủ thể của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong xét xử phúc thẩm các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt:
Luật đã giao phó trách nhiệm cho Viện kiểm sát nhân dân có nhiệm vụ bảo
vệ Hiến pháp và pháp luật, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ
xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ
chức, cá nhân, góp phần bảo đảm pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh và thống
nhất [18-tr.32].
Như vậy, trong hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử phúc
thẩm các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt thì Viện kiểm sát là chủ
thể duy nhất và là chủ thể đặc biệt. Chỉ có Viện kiểm sát mới được giao nhiệm vụ
17
nên mới có quyền thực hiện nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử
phúc thẩm các vụ án hình sự xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt. Cũng có cơ
quan có thẩm quyền giám sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử phúc thẩm các
vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nói riêng như Mặt trận Tổ quốc, tuy
nhiên chủ thể này chỉ thực hiện việc giám sát mà không thể thực hiện hoạt động
kiểm sát. Viện kiểm sát là cơ quan theo suốt trong quá trình các cơ quan thực thi
nhiệm vụ theo quy định của Tố tụng hình sự nên hoạt động kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong xét xử phúc thẩm các vụ án hình sự xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt đạt nhiều hiệu quả thiết thực hơn.
Mục đích của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử phúc
thẩm các vụ án hình sự xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử phúc thẩm các vụ
án hình sự xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nhằm đảm bảo hoạt động tư
pháp của các cơ quan tư pháp như cơ quan điều tra của công an, viện kiểm sát, tòa
án trong khởi tố, điều tra, xét xử ở cấp sơ thẩm và hoạt động của Tòa án phúc thẩm
đối với các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt được hoạt động đúng
quy định của pháp luật; mọi vi phạm pháp luật trong hoạt động tư pháp phải được
phát hiện, xử lý kịp thời, nghiêm minh; không làm oan người vô tội, không bỏ lọt
tội phạm; bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người phạm tội, người bị hại, người
có nghĩa vụ, quyền lợi liên quan trong các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt…
Đối tượng của hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử phúc
thẩm các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt nói riêng:
Hoạt động kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong xét xử phúc thẩm các vụ
án hình xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt có đối tượng là các bản án, quyết
định sơ thẩm đối với án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt chưa có hiệu lực
bị kháng cáo, kháng nghị; Là hoạt động tố tụng kiểm sát việc tuân theo pháp luật
trong xét xử phúc thẩm án hình sự của các cơ quan tố tụng như cơ quan điều tra của
công an, Viện kiểm sát, tòa án trong khởi tố, điều tra, xét xử ở cấp sơ thẩm và hoạt
động của Tòa án phúc thẩm đối với các vụ án xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
18