Tải bản đầy đủ (.pdf) (86 trang)

Giải pháp đào tạo nhân lực khoa học và công nghệ trình độ cao trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử (nghiên cứu trường hợp viện năng lượng nguyên tử việt nam)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (712.3 KB, 86 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BỘ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
VIỆN CHIẾN LƢỢC VÀ CHÍNH SÁCH
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

NGUYỄN THỊ THU HÀ

GIẢI PHÁP ĐÀO TẠO NHÂN LỰC KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
TRÌNH ĐỘ CAO TRONG LĨNH VỰC NĂNG LƢỢNG NGUYÊN TỬ
(NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP
VIỆN NĂNG LƢỢNG NGUYÊN TỬ VIỆT NAM)

Chuyên ngành: Quản lý Khoa học và Công nghệ
Mã số

: 8.34.04.12

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS. TRẦN CHÍ THÀNH

HÀ NỘI, 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số
liệu, ví dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung
thực. Những kết luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất


kỳ công trình khoa học nào khác.
Tác giả luận văn

NGUYỄN THỊ THU HÀ


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐÀO TẠO NHÂN LỰC
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRÌNH ĐỘ CAO TRONG LĨNH VỰC NĂNG
LƢỢNG NGUYÊN TỬ ................................................................................................... 7
1.1. Một số khái niệm cơ bản ............................................................................................ 7
1.2. Vai trò của nhân lực khoa học và công nghệ trình độ cao ......................................... 11
1.3. Đặc thù và nội dung đào tạo nhân lực khoa học và công nghệ trình độ cao trong
lĩnh vực năng lượng nguyên tử .......................................................................................... 14
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến công tác đào tạo nhân lực khoa học và công nghệ trình
độ cao trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử ..................................................................... 16
1.5. Kinh nghiệm quốc tế về quản lý tri thức và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực
ngành năng lượng nguyên tử ............................................................................................. 19
1.6. Bài học kinh nghiệm đào tạo nguồn nhân lực của dự án điện hạt nhân Ninh Thuận . 30
Chƣơng 2: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG CÔNG TÁC ĐÀO TẠO NHÂN LỰC
KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ TRÌNH ĐỘ CAO TẠI VIỆN NĂNG LƢỢNG
NGUYÊN TỬ VIỆT NAM ............................................................................................. 36
2.1. Giới thiệu tổng quan về Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam ............................... 36
2.2. Phân tích thực trạng công tác đào tạo nhân lực khoa học và công nghệ trình độ cao
tại Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam ........................................................................ 45
2.3. Đánh giá tổng hợp công tác đào tạo nhân lực khoa học và công nghệ trình độ cao
tại Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam ........................................................................ 53
Chƣơng 3: ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP ĐÀO TẠO NHÂN LỰC KHOA HỌC VÀ
CÔNG NGHỆ TRÌNH ĐỘ CAO CHO VIỆN NĂNG LƢỢNG NGUYÊN TỬ

VIỆT NAM ....................................................................................................................... 56
3.1. Định hướng phát triển của Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam ........................... 56
3.2. Đề xuất giải pháp hoàn thiện công tác đào tạo nhân lực khoa học và công nghệ
trình độ cao tại Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam .................................................... 66
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ............................................................................................ 77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ....................................................................... 79


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
CNH-HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

ĐHN

Điện hạt nhân

HR

Nguồn nhân lực

IAEA

Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế

IP

Sở hữu trí tuệ

KH&CN


Khoa học và Công nghệ

KM

Quản lý tri thức

LPƯNC

Lò phản ứng nghiên cứu

NEST

Chương trình đào tạo chuyên gia hạt nhân

NLNT

Năng lượng nguyên tử

NLNTVN

Năng lượng nguyên tử Việt Nam

NKM

Quản lý tri thức hạt nhân

OECD

Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế


R&D

Nghiên cứu và phát triển

TSO

Cơ quan hỗ trợ kỹ thuật

UNESCO

Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc

VINATOM

Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam


DANH MỤC HÌNH, BẢNG, BIỂU
Hình 1: Cách tiếp cận và phương pháp thực hiện nghiên cứu .......................................... 5
Hình 1.1: Một số trường phái quan niệm cơ bản về nhân lực KH&CN ........................... 8
Hình 1.2: Các giai đoạn quản lý tri thức ........................................................................... 21
Hình 3.1: Sơ đồ đào tạo cán bộ đầu đàn cho ngành hạt nhân Việt Nam .......................... 59
Biểu đồ 2.1 Phân bố trình độ cán bộ VINATOM năm 2014, 2017 .................................. 48
Bảng 2.1 Nhu cầu đào tạo của Viện NLNTVN giai đoạn 2015 - 2020 ........................... 49
Bảng 2.2. Số liệu đào tạo NCS giai đoạn 2012 – 2016 ................................................... 49
Bảng 2.3. Phân bổ NCS ở các chuyên ngành năm 2016 ................................................. 50
Bảng 2.4. Số lượng cán bộ được cử đi đào tạo SĐH ở nước ngoài ................................ 51



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nguồn nhân lực (nguồn lực con người), nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao, là
một nguồn lực quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội. Có nguồn nhân
lực chất lượng cao mới có khả năng áp dụng tiến bộ khoa học - kỹ thuật, công nghệ
mới và tận dụng được các nguồn lực khác một cách hiệu quả nhất trong quá trình phát
triển xã hội.
Năng lượng nguyên tử (NLNT) là lĩnh vực công nghệ cao, đặc thù, nhạy cảm về
chính trị, xã hội, đòi hỏi nguồn nhân lực có trình độ nhất định, đa ngành, có tinh thần
trách nhiệm và tính kỷ luật cao để đảm bảo an toàn, an ninh cho các cơ sở và các hoạt
động nghiên cứu, phát triển và ứng dụng NLNT, đặc biệt là điện hạt nhân.
Trong những năm qua, chủ trương phát triển đội ngũ nhân lực khoa học và công
nghệ (KH&CN) nói chung, nhân lực KH&CN trình độ cao trong lĩnh vực NLNT nói
riêng, đã được đề cập tại nhiều văn kiện quan trọng của Đảng và Nhà nước. Gần đây,
chủ trương này đã được khẳng định trong Chiến lược phát triển nhân lực Việt Nam
thời kỳ 2011-2020, Chiến lược phát triển KH&CN giai đoạn 2011-2020 và Nghị quyết
20-NQ/TW, Quyết định số 1558/QĐ-TTg ngày 18/8/2010 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Đề án “Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực năng lượng
nguyên tử”.
Ngành NLNT của Việt Nam được hình thành và phát triển hơn 40 năm nay, thực
sự đã có những đóng góp quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội. Ứng dụng kỹ thuật
hạt nhân (KTHN) và công nghệ bức xạ (CNBX) đã góp phần quan trọng trong phát
triển kinh tế xã hội của đất nước, ví dụ như phát triển y học hạt nhân, điều trị ung thư
trong các bệnh viện, tạo ra các giống lúa, đậu tương, … bằng đột biến phóng xạ trong
nông nghiệp, phát triển các kỹ thuật chiếu xạ thanh trùng giúp mở rộng việc xuất khẩu
các sản phẩm nông nghiệp sang các nước tiên tiến. Trong công nghiệp, ứng dụng
KTHN để đánh giá chất lượng, hỏng hóc, lão hóa các thiết bị công nghiệp, các công
trình giao thông v.v... đang ngày càng được phổ biến rộng rãi. Các kỹ thuật hạt nhân
ngày nay góp phần quan trọng trong quan trắc, phân tích, đánh giá ô nhiễm môi
trường. Ngoài việc thúc đẩy các ứng dụng KTHN vào đời sống, việc xây dựng năng

lực để phát triển điện hạt nhân sẽ tạo ra một sự tiến bộ vượt bậc, đóng góp tích cực cho

1


khoa học và công nghệ như nghiên cứu cơ bản như vật lý hạt nhân, thủy nhiệt, cơ học
dòng chảy, khoa học vật liệu v.v... và góp phần đưa nền KH&CN, nền công nghiệp
Việt Nam lên một trình độ cao hơn.
Được thành lập từ năm 1976, Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam (NLNTVN)
là Viện nghiên cứu quốc gia, đảm nhận các nhiệm vụ chính trong nghiên cứu và ứng
dụng NLNT, bao gồm cả phát triển điện hạt nhân (ĐHN) của đất nước.
Cho đến nay, Viện NLNTVN có 9 đơn vị trên phạm vi toàn quốc, với tổng số cán
bộ viên chức khoảng 800 người, trong đó có hơn 60 cán bộ là GS., PGS., Tiến sỹ.
Trong giai đoạn hiện nay, ngoài nhiệm vụ thường xuyên là thúc đẩy nghiên cứu, ứng
dụng năng lượng nguyên tử, Viện NLNTVN tập trung thực hiện một số nhiệm vụ quan
trọng sau đây:
Thứ nhất, xây dựng Trung tâm Khoa học và Công nghệ Hạt nhân (KH&CNHN)
dự kiến tại Đồng Nai. Trung tâm KH&CNHN với vốn đầu tư khoảng 500 triệu USD
bao gồm nhiều tổ hợp nghiên cứu lớn như: Lò nghiên cứu công suất 10-15 MW, các
phòng thí nghiệm đồng bộ về nghiên cứu công nghệ, thiết kế nhà máy ĐHN, phân tích
an toàn các công nghệ thiết kế ĐHN, xử lý chất thải phóng xạ, nghiên cứu vật liệu thép
hợp kim sử dụng trong lò phản ứng và các ngành công nghiệp khác, và các phòng thí
nghiệm hiện đại về ứng NLNT trong lĩnh vực sản xuất đồng vị phóng xạ, khoa học vật
liệu, công nghệ bức xạ, công nghệ sinh học và y học.
Thứ hai là triển khai nhiệm vụ xây dựng Mạng lưới quan trắc phóng xạ và ứng
phó sự cố, nhằm giúp ứng phó với các tình huống sự cố (mặc dù xác suất rất thấp) từ 8
tổ máy ĐHN của Trung Quốc đang vận hành gần biên giới Việt Nam.
Thứ ba, xây dựng Cơ sở Chiếu xạ của Viện NLNTVN tại Đà Nẵng, và phát triển
thành Viện Nghiên cứu phóng xạ môi trường biển, đưa KTHN vào nghiên cứu biển,
phóng xạ trong nước biển nhằm góp phần bảo vệ môi trường biển Việt Nam. Thực tế

cho thấy, muốn thực hiện thành công các nhiệm vụ đặt ra trước mắt của ngành NLNT,
nguồn nhân lực đóng vai trò quyết định. Do đó, Viện NLNTVN cần xây dựng các
chương trình đào tạo, bồi dưỡng để có một nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn
cao để triển khai các nhiệm vụ nghiên cứu ứng dụng, sẵn sàng tiếp quản các cơ sở
nghiên cứu trên khi đưa vào hoạt động.
Nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề nêu trên, thời gian qua, Viện NLNTVN
đã xem “Phát triển nguồn nhân lực và nguồn nhân lực chất lượng cao” là một chương

2


trình đột phá, là động lực chủ yếu thúc đẩy sự phát triển của Viện. Trung tâm Đào tạo
hạt nhân được thành lập trong Viện NLNTVN nhằm triển khai các nhiệm vụ đào tạo,
phối hợp với các đối tác nước ngoài như Mỹ, Nga, Nhật Bản, Hàn Quốc, Pháp, Ấn Độ
… để đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao. Tuy nhiên, do bối cảnh thay đổi, đặc biệt
là việc dừng dự án điện hạt nhân Ninh Thuận (tháng 11/2016), việc đào tạo nhân lực
KH&CN trình độ cao của Viện trong những năm qua còn hạn chế, còn nhiều vướng
mắc, chưa đáp ứng được yêu cầu mới đặt ra hiện nay. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài
“Giải pháp đào tạo nhân lực khoa học và công nghệ trình độ cao trong lĩnh vực năng
lượng nguyên tử (Nghiên cứu trường hợp Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam)” là
vấn đề cấp thiết, có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trên thế giới, các chính sách về phát triển nguồn nhân lực NLNT đã được chú
trọng và đầu tư kinh phí rất lớn, đặc biệt là công tác đào tạo, bồi dưỡng để xây dựng
nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu cả về số lượng và chất lượng. Các nước như Hàn
Quốc, Liên bang Nga, Nhật Bản, Pháp… được coi là những nước đi tiên phong trong
công tác đào tạo, bồi dưỡng nhân lực NLNT và rất thành công trong lĩnh vực này.
Ở Việt Nam, trong những năm gần đây, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực nói
chung, nguồn nhân lực KH&CN trình độ cao trong lĩnh vực NLNT nói riêng là chủ đề
được các nhà khoa học quan tâm nghiên cứu dưới nhiều mức độ và góc độ khác nhau.

Trong đó, đáng chú ý là các đề tài sau đây:
- Phát triển nguồn nhân lực ngành hạt nhân, thúc đẩy nghiên cứu ứng dụng đáp
ứng yêu cầu thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước (Trần Chí
Thành, 2015);
- Đề án đào tạo, bồi dưỡng chuyên gia, nhân lực quản lý nhà nước trong lĩnh vực
năng lượng nguyên tử đến năm 2020 của Bộ Khoa học và Công nghệ (Hoàng Anh
Tuấn, 2014);
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn để xây dựng chính sách đào tạo, thu
hút, sử dụng nhân lực KH&CN trình độ cao ở Việt Nam đến năm 2020 (Tạ Doãn
Trịnh, 2012);
Các công trình nghiên cứu trên đã có những đóng góp tích cực cả về lý luận và
thực tiễn, tuy nhiên, chưa đưa ra được các giải pháp đào tạo cho nhân lực KH&CN
trình độ cao trong lĩnh vực NLNT nói chung và Viện NLNTVN nói riêng trong tình

3


hình mới hiện nay (Việt Nam dừng thực hiện các dự án điện hạt nhân Ninh Thuận và
điện hạt nhân Trung Quốc phát triển mạnh mẽ, nhiều nhà máy được xây dựng và đang
vận hành gần biên giới nước ta).
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Dựa trên kết quả nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn tại Việt Nam về đào tạo,
phát triển nhân lực KH&CN trình độ cao và đặc thù phát triển của ngành NLNT, luận
văn sẽ đề xuất các giải pháp đào tạo, bồi dưỡng hiệu quả để xây dựng nguồn nhân lực
KH&CN trình độ cao của ngành NLNT và Viện NLNTVN.
3.2. Nhiệm vụ
- Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn trong vấn đề đào tạo, phát triển nhân lực
KH&CN trình độ cao trong lĩnh vực NLNT của thế giới và Việt Nam.
- Đánh giá thực trạng, phân tích nguyên nhân thành công và những vấn đề còn tồn tại

trong đào tạo, phát triển nguồn nhân lực KH&CN trình độ cao của Viện NLNTVN giai
đoạn 2014 – 2017.
- Đề xuất giải pháp đào tạo nhân lực KH&CN trình độ cao cho Viện NLNTVN trong
giai đoạn 2018-2025.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu các vấn đề về lý thuyết
và thực tiễn về đào tạo nhân lực KH&CN trình độ cao, xây dựng kế hoạch đào tạo,
phát triển nhân lực KH&CN trình độ cao cho ngành NLNT.
- Phạm vi nghiên cứu:
+ Về không gian: Luận văn nghiên cứu công tác đào tạo nhân lực KH&CN trình
độ cao tại Viện NLNTVN.
+ Về thời gian: Luận văn nghiên cứu công tác đào tạo nhân lực KH&CN trình độ
cao tại Viện NLNTVN giai đoạn 2014 – 2017.
+ Về nội dung: Luận văn tập trung phân tích, đánh giá thực trạng công tác đào
tạo nhân lực KH&CN trình độ cao và đề xuất các giải pháp thực hiện các nhiệm vụ
này cho Viện NLNTVN.

4


5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn kết hợp phương pháp thu thập, tổng hợp, phân tích, diễn giải các thông
tin thứ cấp, sơ cấp và vận dụng tổng hợp kiến thức chuyên ngành để đề xuất giải pháp
(Hình 1).
Cụ thể, những thông tin dùng trong phân tích được thu thập gồm:
- Nguồn thông tin thứ cấp: thông tin bên ngoài là sách báo, tài liệu đã xuất bản,
mạng internet, các nghiên cứu tổng kết liên quan đến hoạt động đào tạo nhân lực trước
đây; thông tin bên trong là các báo cáo thường niên của Viện NLNTVN.
- Nguồn thông tin sơ cấp: điều tra, khảo sát các cán bộ phụ trách nhân sự và một số
cán bộ của các đơn vị trực thuộc Viện NLNTVN theo phương pháp tự ghi báo (phát và

thu phiếu), phỏng vấn nhanh và xử lý số liệu bằng phương pháp thống kê.
Lý thuyết về
đào tạo nhân
lực KH&CN
trình độ cao
trong lĩnh vực
NLNT

Thông tin
bên ngoài
Dữ liệu
thứ cấp
Thông tin
bên trong

Dữ liệu
sơ cấp

Thực trạng
công tác đào
tạo nhân lực
KH&CN trình
độ cao tại Viện
NLNTVN

Điều tra
khảo sát

Giải pháp
đào tạo nhân

lực KH&CN
trình độ cao
làm việc tại
Viện
NLNTVN

Hình 1: Cách tiếp cận và phƣơng pháp thực hiện nghiên cứu
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể đóng góp vào lý luận
quản lý KH&CN, đồng thời góp phần vào việc phát triển nhân lực KH&CN.
- Ý nghĩa thực tiễn: Từ những kết quả nghiên cứu chuyên sâu nêu trên, Viện
NLNTVN có thể đề xuất các giải pháp chính sách đào tạo nhân lực KH&CN trình độ cao
làm việc trong lĩnh vực NLNT nói chung và Viện NLNTVN nói riêng.

5


7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, phần Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Luận văn được
trình bày trong 3 chương:
Chƣơng 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn về đào tạo nhân lực khoa học và công nghệ
trình độ cao trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử.
Chƣơng 2: Phân tích thực trạng công tác đào tạo nhân lực khoa học và công nghệ
trình độ cao tại Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam.
Chƣơng 3: Đề xuất giải pháp đào tạo nhân lực khoa học và công nghệ trình độ cao
cho Viện Năng lượng nguyên tử Việt Nam.

6



Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ ĐÀO TẠO NHÂN LỰC KHOA HỌC
VÀ CÔNG NGHỆ TRÌNH ĐỘ CAO TRONG LĨNH VỰC
NĂNG LƢỢNG NGUYÊN TỬ
1.1. Một số khái niệm cơ bản
1.1.1. Khái niệm nhân lực khoa học và công nghệ
Nhân lực KH&CN là một khái niệm rộng, được hiểu theo nhiều cách khác nhau tùy
thuộc vào quan điểm cách tiếp cận riêng của mỗi quốc gia và các tổ chức nghiên cứu.
Theo Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế - OECD (1995), nhân lực KH&CN
gồm những người đáp ứng được một trong những điều kiện sau đây [13, tr.9]:
- Hoàn thành bậc giáo dục đại học (tertiary level of education) (tương ứng bậc
5-8 (tức Mức III) của Bảng ISCED-11_ The international Standard Classification of
Education) hoặc những người tuy chưa được đào tạo chính quy như trên, nhưng làm
một nghề thuộc chuyên ngành KH&CN đòi hỏi trình độ tương đương bậc 5-8.
Theo Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa của Liên hiệp quốc - UNESCO
(2002), nhân lực KH&CN là những người trực tiếp tham gia vào hoạt động KH&CN
trong một cơ quan, tổ chức và được trả lương hay thù lao cho lao động của họ, bao
gồm các nhà khoa học và kỹ sư, kỹ thuật viên và nhân lực phụ trợ [13, tr.12] (Hình
1.1). Như vậy, cách tiếp cận của UNESCO có điểm khác với OECD, thể hiện ở chỗ:
UNESCO cho rằng nhân lực KH&CN bao hàm cả đội ngũ nhân lực phụ trợ, trong khi
đó OECD không tính bộ phận này là nhân lực KH&CN, trừ trường hợp họ có bằng
cấp. Đồng thời, UNESCO cho rằng nhân lực KH&CN phải làm việc trong lĩnh vực
KH&CN còn theo OECD, nhân lực KH&CN không nhất thiết phải làm việc trong lĩnh
vực KH&CN.

7


Hình 1.1: Một số trƣờng phái quan niệm cơ bản về nhân lực KH&CN [6]
Quan niệm về nhân lực KH&CN của một số nước trong Hiệp hội các Quốc gia Đông

Nam Á - ASEAN [6, tr.1].
Thái Lan: Là một thành viên của UNESCO, Thái Lan chủ yếu áp dụng quan
niệm của UNESCO về nhân lực khoa học và công nghệ ngoại trừ một điểm đặc biệt,
đó là Thái Lan coi trọng vai trò và năng lực thích ứng với khoa học và công nghệ của
các doanh nghiệp ngoài quốc doanh. Do đó, Thái Lan coi đây là một trong những mũi
nhọn phát triển thúc đẩy toàn diện hệ thống nhân lực khoa học và công nghệ.
Singapo: Quan niệm của Singapo không phân biệt nhân lực KH&CN là công dân
của Singapo hay người ngoại quốc, chỉ cần những người làm việc cho Singapo, phục
vụ các mục tiêu phát triển của đất nước này và hưởng lương của Chính phủ Singapo
chi trả, thì họ chính là nguồn nhân lực của Singapo. Và đội ngũ nhân lực khoa học
công nghệ của Singapo cũng như đa số các quốc gia tiên tiến trên thế giới, đều gồm
đội ngũ các nhà nghiên cứu, kỹ thuật viên và tương đương và công nhân kỹ thuật.
Inđônêxia: Chưa thể hiện rõ định nghĩa hoàn chỉnh về nhân lực KH&CN, chú
trọng vào sinh viên tốt nghiệp và người làm việc trong ngành KHKT. Nguyên tắc chỉ
đạo trong xây dựng đội ngũ nhân lực KH&CN của Inđônêxia là “think globally, act
locally” (tư duy hòa nhập quốc tế, hành động duy trì bản sắc địa phương).

8


Ở Việt Nam chưa đưa ra một định nghĩa chính thức về nhân lực KH&CN hay
nguồn nhân lực KH&CN. Tuy nhiên, trên thực tế, khi thống kê nhân lực KH&CN
người ta đã đưa ra định nghĩa như sau:
“Nguồn nhân lực KH&CN là toàn bộ những người có bằng cấp chuyên môn nào đó
trong một lĩnh vực KH&CN và những người có trình độ, kỹ năng thực tế tương đương mà
không có bằng cấp và tham gia thường xuyên vào hoạt động KH&CN” [13, tr.14].
Trong khuôn khổ luận văn này, tác giả sẽ sử dụng định nghĩa trên cho nguồn nhân
lực KH&CN nói chung và làm cơ sở để định nghĩa nguồn nhân lực NLNT nói riêng.
1.1.2. Khái niệm về nhân lực khoa học và công nghệ trình độ cao trong lĩnh
vực năng lượng nguyên tử

+ Khái niệm về nhân lực KH&CN trong lĩnh vực NLNT
Nguồn nhân lực KH&CN trong lĩnh vực NLNT bao gồm toàn bộ những người
tham gia thường xuyên vào hoạt động NLNT, kể cả những người có bằng cấp chuyên
môn về NLNT và những người có trình độ kỹ năng NLNT thực tế tương đương tuy
không có bằng cấp về NLNT.
Theo dự thảo Kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng chuyên gia, nhân lực quản lý nhà
nước trong lĩnh vực NLNT đến năm 2020 của Bộ KH&CN trình Thủ tướng Chính phủ
vào ngày 20/9/2014 [3, tr.3] nhân lực NLNT được chia thành 03 nhóm là:
- Nhân lực NLNT trong cơ quan quản lý nhà nước và pháp quy hạt nhân;
- Nhân lực NLNT trong nghiên cứu - triển khai, hỗ trợ kỹ thuật ĐHN;
- Nhân lực NLNT trong các cơ quan nghiên cứu, ứng dụng bức xạ và đồng vị
phóng xạ
Nguồn nhân lực NLNT là một bộ phận cấu thành nguồn nhân lực KH&CN, vì
vậy cũng có thể được phân loại như sau:
Phân loại theo lĩnh vực chuyên môn: có 42 chuyên môn/công việc khác nhau
trong lĩnh vực NLNT như: công nghệ lò năng lượng; công nghệ lò nghiên cứu; an toàn
hạt nhân; an toàn bức xạ; công nghệ chế biến quặng phóng xạ; công nghệ nhiên liệu
hạt nhân; công nghệ xử lý chất thải phóng xạ; quan trắc phóng xạ môi trường; công
nghệ sản xuất đồng vị phóng xạ, dược chất phóng xạ; kỹ thuật kiểm tra không phá huỷ
(NDT); quan hệ quốc tế và thực thi điều ước quốc tế về NLNT; quan hệ công chúng,
thông tin và truyền thông về ĐHN; văn bản quy phạm pháp luật, cơ chế chính sách về
năng lượng nguyên tử; cấp phép, thanh tra, kiểm tra an toàn bức xạ và hạt nhân; thanh

9


sát và an ninh hạt nhân; ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân; quản lý dự án (ĐHN,
KH&CN...); quy hoạch năng lượng, … [3, tr.3]
Phân loại theo trình độ kỹ năng, gồm hai loại chính:
-


Nhân lực chuyên ngành hạt nhân;

-

Nhân lực chuyên ngành phi hạt nhân.

Phân loại theo trình độ đào tạo, bao gồm:
-

Công nhân kỹ thuật;

-

Cao đẳng;

-

Đại học NLNT;

-

Thạc sĩ NLNT;

-

Tiến sĩ NLNT.
Ngoài ra còn có thể phân loại theo độ tuổi và giới tính.

Trong giới hạn nghiên cứu, luận văn này chỉ tập trung vào nhóm nhân lực

KHCN trình độ cao trong lĩnh vực NLNT.
+ Khái niệm về nhân lực KH&CN trình độ cao trong lĩnh vực NLNT
Nhân lực KH&CN trình độ cao trong lĩnh vực NLNT được hiểu là những người
tham gia gián tiếp hay trực tiếp vào các hoạt động trong lĩnh vực NLNT (bao gồm hoạt
động nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ trong lĩnh vực NLNT; xây dựng,
vận hành, bảo dưỡng, khai thác, quản lý và tháo dỡ cơ sở hạt nhân, cơ sở bức xạ; thăm
dò, khai thác, chế biến, sử dụng quặng phóng xạ; sản xuất, lưu giữ, sử dụng, vận
chuyển, chuyển giao, xuất khẩu, nhập khẩu nguồn phóng xạ, thiết bị bức xạ, nhiên liệu
hạt nhân, vật liệu hạt nhân nguồn, vật liệu hạt nhân và thiết bị hạt nhân; xử lý, lưu giữ
chất thải phóng xạ và các dịch vụ hỗ trợ ứng dụng năng lượng nguyên tử) - (Luật Năng
lượng nguyên tử ngày 03 tháng 06 năm 2008), có trình độ học vấn thạc sĩ trở lên hoặc
tương đương, có kỹ năng, bí quyết vượt trội đã được chứng minh bằng kết quả thực tế.
Ngoài ra, họ có khả năng đáp ứng các yêu cầu phức tạp của công việc, từ đó tạo ra
năng suất và hiệu quả cho công việc của ngành NLNT.
Trên thực tế, nhân lực KH&CN trình độ cao trong lĩnh vực NLNT thường
là những người tốt nghiệp chuyên ngành vật lý, hóa học, toán học..., trực tiếp
tham gia các hoạt động nghiên cứu, ứng dụng và quản lý của ngành NLNT. Họ là
những người có đủ năng lực, kinh nghiệm chuyên môn, ngoại ngữ để có thể đại

10


diện cho ngành NLNT Việt Nam tham gia các hội nghị, hội thảo, diễn đàn về
NLNT do Cơ quan NLNT quốc tế và các nước liên quan tổ chức. Đặc biệt, nhân
lực KH&CN trình độ cao trong lĩnh vực NLNT thường là những người giữ vị trí
lãnh đạo, chủ chốt trong cơ quan.
1.2. Vai trò của nhân lực khoa học và công nghệ trình độ cao
1.2.1. Vai trò của ngành năng lượng nguyên tử trong phát triển khoa học và
công nghệ, kinh tế của các nước phát triển
Lịch sử phát triển kinh tế thế giới hiện đại cho thấy, để thực hiện quá trình công

nghiệp hóa, hiện đại hóa, nhiều quốc gia đã sớm xác định việc ứng dụng NLNT là một
trong những nhiệm vụ trọng tâm. Chính vì vậy, họ sớm xây dựng và thực hiện chiến
lược nghiên cứu, ứng dụng và phát triển NLNT. Nhờ đó, NLNT đã phát huy vai trò và
có đóng góp hiệu quả, nâng cao tiềm lực KH&CN của quốc gia, góp phần tích cực vào
việc giữ gìn, bảo vệ môi trường và phát triển bền vững.
Ở nhiều quốc gia trên thế giới, NLNT có đóng góp quan trọng cho phát triển
kinh tế - xã hội trên cả hai lĩnh vực ứng dụng phi năng lượng (ứng dụng bức xạ và
đồng vị phóng xạ) và năng lượng (ĐHN). Quy mô đóng góp cho phát triển kinh tế xã hội có xu hướng tăng theo trình độ công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế.
Chẳng hạn ở Hoa Kỳ, đóng góp của ứng dụng NLNT vào giá trị kinh tế xã hội đạt
mức 2

GDP, đạt giá trị 158 tỷ USD vào năm 1997, trong đó đóng góp của các

ứng dụng phi năng lượng chiếm 75

và của ĐHN chiếm 25 ; ở Nhật Bản việc ứng

dụng năng lượng bức xạ trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội đã đóng góp 1,5

GDP

cho ngân sách quốc gia (năm 1997); ở Trung Quốc, việc ứng dụng năng lượng bức
xạ trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội đã đóng góp 10

GDP cho ngân sách quốc

gia (năm 1997) [15, tr.1].
Đối với ĐHN: Trong lịch sử phát triển ĐHN đã xảy ra các sự cố nghiêm trọng
tại Nhà máy ĐHN Three Mile Island năm 1979 (Mỹ), Chernobyl năm 1986 (Liên Xô
cũ) và Nhà máy ĐHN Fukushima năm 2011 (Nhật Bản) đã gây ra ảnh hưởng đáng kể

đối với môi trường và con người. Nhưng với những ưu thế riêng của ĐHN là hầu như
không phát thải các khí gây hiệu ứng nhà kính - một trong những nguyên nhân gây ra
biến đổi khí hậu toàn cầu, đặc biệt là giải quyết được vấn đề thiếu hụt nguồn tài
nguyên hiện nay, nên theo dự báo của IAEA cho thấy trong thời gian tới việc phát
triển ĐHN trên thế giới vẫn gia tăng với tốc độ đáng kể. ĐHN đóng góp quan trọng

11


vào tổng sản lượng điện trong một số quốc gia: Đứng đầu là Pháp, năm 2015 ĐHN
chiếm tới 76,34 %; thứ hai là Ukraina: 56,49%, Slovakia: 55,9%; Hungary: 52,67%...
Mỹ đứng đầu thế giới về số lượng nhà máy ĐHN nhưng sản lượng ĐHN chỉ đóng góp
19,5% cho sản lượng điện quốc gia, đứng thứ 15 trong số 33 quốc gia.
Có thể thấy rằng các nước phát triển hiện nay đều có ngành công nghiệp hạt
nhân hùng mạnh, và sự phát triển mạnh mẽ này rơi vào khoảng những năm 60-80 của
thế kỷ trước. Gần đây, một số quốc gia như Hàn Quốc, Ấn Độ, chiến lược phát triển
ngành NLNT đã thực sự trở thành chiến lược trụ cột của các quốc gia này trong phát
triển khoa học công nghệ, công nghiệp của đất nước, có nghĩa là ngành công nghiệp
hạt nhân thành đầu tàu để thúc đẩy khoa học công nghệ và công nghiệp. Chính vì
chính sách phát triển điện hạt nhân dưới thời Tổng thống Park Chung Hy, nên Hàn
Quốc hiện nay đã vươn lên các quốc gia có sự phát triển vượt bậc, đời sống thu nhập
đều cao gần với các quốc gia hàng đầu thế giới. Điện hạt nhân Hàn Quốc được coi là
rất thành công, hiện nay đóng góp gần 40% sản lượng điện quốc gia với giá rẻ, cạnh
tranh. Ấn Độ có chính sách chú trọng phát triển ngành hạt nhân từ năm 1948, là một
trong những ngành quan trọng và được ưu tiên của đất nước. Cho đến nay, Ấn Độ sở
hữu công nghệ của họ (lò nước nặng, lò tái sinh nhanh), và chương trình phát triển
điện hạt nhân đang được triển khai mạnh mẽ. Chính ngành hạt nhân, và vũ trụ (làm tên
lửa, phóng vệ tinh) đã giúp Ấn Độ phát triển khoa học công nghệ và công nghiệp.
Tiềm lực khoa học công nghệ hạt nhân cũng giúp Ấn Độ đảm bảo khả năng quốc
phòng, an ninh của đất nước. Ngoài các nước trên, Triều Tiên cũng đã và đang phát

triển đất nước của họ dựa trên tiềm lực khoa học công nghệ của ngành hạt nhân và vũ
trụ (phát triển tên lửa đạn đạo).
Như vậy, trong lịch sử phát triển của nhiều quốc gia, ngành hạt nhân trở thành
chiến lược để thúc đẩy khoa học công nghệ và công nghiệp, và thực sự đã đóng góp tốt
cho quá trình phát triển đó.
1.2.2. Vai trò của nhân lực khoa học và công nghệ trình độ cao
Nhân lực KH&CN trình độ cao có vai trò quan trọng trong quá trình phát triển
kinh tế - xã hội, được thể hiện rõ ở những điểm sau:
Nhân lực KH&CN trình độ cao là lực lượng chủ yếu trong việc xây dựng các
luận cứ khoa học giúp Đảng và Nhà nước xác định đường lối chiến lược, chính sách,

12


kế hoạch CNH-HĐH đất nước; đồng thời là lực lượng nòng cốt trong triển khai thực
hiện các đường lối, chính sách đó.
Nhân lực KH&CN trình độ cao đảm nhiệm việc nghiên cứu, khảo nghiệm và
ứng dụng các quy trình công nghệ mới, các thiết bị, công cụ mới, các vật liệu; cải tiến
và hệ thống hóa công nghệ truyền thống, nâng cao trình độ công nghệ, tạo ra sự
chuyển biến mới về năng suất, chất lượng, hiệu quả sản xuất, nâng cao tính cạnh tranh
và hiệu quả của nền kinh tế.
Nhân lực KH&CN trình độ cao là lực lượng xung kích trong việc lựa chọn,
tiếp thu và ứng dụng những tiến bộ công nghệ mới của thế giới vào phát triển các
ngành KH&CN.
Nhân lực KH&CN trình độ cao đóng góp vào việc tuyên truyền, phổ biến rộng
rãi tri thức khoa học, kiến thức và công nghệ sản xuất tiên tiến, thực hiện việc dẫn dắt
cho những bộ phận có năng lực và trình độ thấp hơn đi lên, qua đó góp phần nâng cao
trình độ hiểu biết về KH&CN [7, tr.7].
1.2.3. Vai trò của nhân lực khoa học và công nghệ trình độ cao trong lĩnh vực
năng lượng nguyên tử

Trong ngành NLNT cũng như các ngành kinh tế - xã hội khác, yếu tố nhân lực
đóng vai trò trọng tâm và là yếu tố quyết định mọi thành công trong việc phát triển
ngành. Để có đủ nhân lực đáp ứng được yêu cầu thì công tác phát triển nguồn nhân lực
được xem là nhiệm vụ quan trọng, cần ưu tiên hàng đầu.
Hầu hết các quốc gia đều xem yếu tố con người giữ vị trí trung tâm trong Chiến
lược phát triển NLNT và đều dành cho công tác giáo dục - đào tạo nhân lực NLNT
những ưu tiên to lớn. Đối với các nước đứng đầu thế giới về thành tựu ứng dụng và
phát triển NLNT như Mỹ, Nga, Nhật,…việc hình thành đội ngũ cán bộ quản lý, kỹ
thuật, nhân lực KH&CN trình độ cao đông đảo, giàu năng lực, có tư duy sáng tạo,
được coi là nhiệm vụ quan trọng nhất.
Ở Việt Nam, Đảng và Nhà nước ta luôn chăm lo đến sự nghiệp đào tạo và bồi
dưỡng nguồn nhân lực NLNT, trong đó có nhân lực KH&CN trình độ cao. Đảng ta đã
khẳng định, phát triển nguồn nhân lực NLNT là yếu tố then chốt, có ý nghĩa quyết
định đối với việc ứng dụng và phát triển NLNT. Thực hiện chủ trương của Đảng, trong
giai đoạn 2010 – 2015, Chính phủ và các Bộ, ngành, địa phương đã tập trung quan tâm
công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực NLNT nói chung và nhân lực lĩnh vực

13


ĐHN nói riêng.
1.3. Đặc thù và nội dung đào tạo nhân lực khoa học và công nghệ trình độ
cao trong lĩnh vực năng lƣợng nguyên tử
1.3.1. Đặc thù ngành năng lượng nguyên tử và nhân lực ngành năng lượng
nguyên tử
+ Ngành khoa học và công nghệ trình độ cao, phức tạp và nhạy cảm
NLNT là một lĩnh vực công nghệ cao, đặc thù, nhạy cảm. Để hiểu và nắm rõ nguyên
lý hoạt động trong ngành NLNT cần gắn liền với ngành vật lý, hóa học và toán học.
Nhân lực, đặc biệt là trong nghiên cứu - triển khai, hỗ trợ kỹ thuật ĐHN và
trong các cơ quan nghiên cứu, ứng dụng phải được đào tạo đúng chuyên ngành về

NLNT mới đáp ứng được yêu cầu phức tạp của công việc.
Để có thể ứng dụng NLNT vào trong đời sống kinh tế xã hội đòi hỏi mỗi quốc
gia phải xây dựng kế hoạch dài hạn và triển khai đồng bộ nhiều mặt như: nguồn nhân
lực, trình độ KH&CN, đầu tư lớn cơ sở vật chất…
+ Vai trò của năng lượng nguyên tử và nguồn nhân lực năng lượng nguyên
tử trong phát triển kinh tế - xã hội
a) Năng lượng nguyên tử thúc đẩy phát triển ngành khoa học và công nghệ
Sự phát triển nhanh và mạnh của ngành NLNT là một cuộc cách mạng có ý
nghĩa sâu sắc. Việc ứng dụng NLNT vào trong các lĩnh vực sản xuất đã và sẽ đem lại
những năng suất lao động vượt trội, đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của con người.
Thực tế đã khẳng định rằng NLNT là một ngành kỹ thuật khó, để có thể khai
thác tối đa những mặt tích cực của ứng dụng NLNT trên nhiều lĩnh vực của đời sống
kinh tế xã hội, đặc biệt là trong phát triển ĐHN (một lĩnh vực công nghệ cao, phức tạp
và nhạy cảm) rất cần đầu tư lớn, đồng bộ từ cơ sở vật chất, máy móc, trang thiết bị và
điều đặc biệt quan trọng là sự đồng thuận của toàn xã hội.
Mặt khác, để đạt hiệu quả cao trong việc triển khai các ứng dụng NLNT, cần
thường xuyên nghiên cứu, đổi mới công nghệ, quy trình sản xuất để phù hợp, đồng bộ
với sự phát triển của các ngành khác trong xã hội. Việc thực hiện và đẩy mạnh các
nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu ứng dụng NLNT và tham gia đào tạo chuyên gia về
KH&CN hạt nhân hay tăng cường năng lực nghiên cứu triển khai và hỗ trợ kỹ thuật
phục vụ phát triển ứng dụng NLNT và bảo đảm an toàn, an ninh trong ngành NLNT
cũng đồng nghĩa với thúc đẩy ngành KH&CN phát triển.

14


b) Năng lượng nguyên tử đóng vai trò động lực phát triển kinh tế - xã hội
Trong nền kinh tế mới, tri thức và sức lao động là yếu tố quan trọng nhất. Chức
năng của nền kinh tế hiện đại là sản xuất và phân phối tri thức. Vì vậy, sản xuất và tri
thức trở thành nguồn gốc và động lực của tăng trưởng kinh tế.

Để ứng dụng NLNT phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, Chính phủ
của nhiều quốc gia trên thế giới đã đưa ra các cam kết trước cộng đồng quốc tế về việc
chỉ sử dụng NLNT vì mục đích hòa bình để phát triển các ngành kinh tế xã hội. Ở
nước ta, Chính phủ đã phê duyệt “Chiến lược ứng dụng NLNT vì mục đích hòa bình
đến năm 2020” tại Quyết định số 01/2006/QĐ-TTg ngày 03/01/2006 [16, tr. 4]. Tiếp
theo đó, ngày 27/12/2007 tại Quyết định số 1855/QĐ -TTg Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt chiến lược phát triển năng lượng quốc gia của Việt Nam đến năm 2020, tầm
nhìn đến năm 2050 [17]. Ngày 24/6/2010 tại Quyết định số 957/QĐ -TTg, Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt quy hoạch tổng thể phát triển, ứng dụng NLNT vì mục đích hòa
bình đến năm 2020 [23].
Với lợi thế đem lại hiệu quả kinh tế - xã hội cao từ ứng dụng NLNT như đã nêu
ở phần trên cho thấy vai trò quan trọng của NLNT đối với phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước.
+ Nguồn nhân lực năng lượng nguyên tử trong đó nhân lực KH&CN trình
độ cao đóng vai trò trọng tâm trong phát triển lĩnh vực năng lượng nguyên tử và
ngành khoa học và công nghệ
NLNT cũng như các ngành kinh tế - xã hội khác, yếu tố nhân lực đóng vai trò
trọng tâm và là yếu tố quyết định mọi thành công trong việc phát triển ngành. Để có đủ
nhân lực đáp ứng được yêu cầu thì công tác phát triển nguồn nhân lực được xem là
nhiệm vụ quan trọng cần ưu tiên hàng đầu.
Đảng đã khẳng định, phát triển nguồn nhân lực NLNT là yếu tố then chốt có ý
nghĩa quyết định đối với việc ứng dụng và phát triển NLNT. Thực hiện chủ trương của
Đảng, trong giai đoạn 2010 – 2015, Chính phủ và các Bộ, ngành, địa phương đã tập
trung quan tâm công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực NLNT nói chung và
nhân lực lĩnh vực ĐHN nói riêng.

15


1.3.2. Nội dung đào tạo nhân lực khoa học và công nghệ trình độ cao trong

lĩnh vực năng lượng nguyên tử
Nhân lực quản lý nhà nước cần được đào tạo, bồi dưỡng kiến thức và kỹ năng
cần thiết về quản lý và kỹ thuật trong các lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng ĐHN; thẩm
định an toàn hạt nhân; đánh giá tác động môi trường; cấp phép; thanh tra an toàn; an
ninh, thanh sát hạt nhân và bảo vệ thực thể; quản lý chất lượng trong thiết kế, chế tạo,
xây dựng, vận hành nhà máy ĐHN; công nghệ và an toàn lò phản ứng, nhà máy ĐHN;
ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân và các lĩnh vực khác phục vụ phát triển ĐHN.
Nhân lực nghiên cứu - triển khai và hỗ trợ kỹ thuật cần được đào tạo, bồi dưỡng
kiến thức và kỹ năng chuyên sâu về các lĩnh vực KH&CN hạt nhân; công nghệ và an
toàn lò phản ứng; an toàn bức xạ và hạt nhân; hệ thống thiết bị nhà máy ĐHN; an toàn
địa điểm nhà máy ĐHN; thiết kế, chế tạo, xây dựng và vận hành nhà máy ĐHN; chu
trình nhiên liệu hạt nhân; quản lý chất thải phóng xạ; đánh giá tác động môi trường;
ứng phó sự cố bức xạ và hạt nhân và hạt nhân và các lĩnh vực KH&CN liên quan phục
vụ phát triển ĐHN.
Nhân lực trong các cơ quan nghiên cứu ứng dụng cần được đào tạo, bồi dưỡng
kiến thức và kỹ năng chuyên sâu về các lĩnh vực: ứng dụng kỹ thuật hạt nhân trong y
tế, nông nghiệp, công nghiệp và môi trường, quan trắc phóng xạ môi trường, công
nghệ bức xạ.
1.4. Các yếu tố ảnh hƣởng đến công tác đào tạo nhân lực khoa học và công
nghệ trình độ cao trong lĩnh vực năng lƣợng nguyên tử
1.4.1. Các yếu tố khách quan và chính sách của Nhà nước
+ Các yếu tố khách quan (bên ngoài) bao gồm 5 yếu tố: Thể chế - Pháp luật;
Kinh tế; Văn hóa – Xã hội; Công nghệ; Hội nhập.
Đây là những yếu tố khách quan bên ngoài ảnh hưởng trực tiếp đến các tổ chức
KH&CN nói chung và lĩnh vực NLNT nói riêng. Dựa trên các điều kiện môi trường vĩ
mô, các tổ chức KH&CN sẽ đưa ra những cơ hội và thách thức, là một trong những
tiền đề để hình thành chiến lược, chính sách phát triển nhằm thúc đẩy đào tạo theo
hướng phù hợp với đặc điểm của môi trường, đảm bảo chất lượng nhân lực đáp ứng
được yêu cầu thực tiễn đặt ra.
- Yếu tố thể chế - pháp luật: Thể chế pháp luật có sự bình ổn cao, không có yếu

tố xung đột về chính trị, ngoại giao sẽ tác động tốt đến các hoạt động KH&CN, đặc

16


biệt là hoạt động đào tạo trong lĩnh vực NLNT và ngược lại.
- Yếu tố kinh tế: Các tổ chức KH&CN, nhất là các đơn vị được Chính phủ giao
nhiệm vụ đào tạo và phát triển nguồn nhân lực NLNT chịu tác động rất lớn của yếu tố
kinh tế. Do vậy, khi đưa ra chính sách thúc đẩy đào tạo nhân lực phải chú ý đến các
yếu tố kinh tế cả trong ngắn hạn, dài hạn và sự can thiệp của Chính phủ đến nền kinh
tế. Các chính sách kinh tế vĩ mô của Chính phủ (chính sách tài khóa, chính sách tiền
tệ, luật tiền lương cơ bản, các chiến lược phát triển kinh tế của Chính phủ, các chính
sách ưu đãi cho ngành…) sẽ tác động tới sự vận hành của nền kinh tế và ảnh hưởng
trực tiếp đến hoạt động KH&CN, do đó ảnh hưởng đến các quyết định về chính sách
thúc đẩy đào tạo nhân lực. Mặt khác, triển vọng kinh tế trong tương lai (tốc độ tăng
trường, mức gia tăng GDP, cơ cấu kinh tế,…) sẽ có tác động tới định hướng cho
những chính sách thúc đẩy đào tạo nhân lực KH&CN trong lĩnh vực ĐHN.
- Yếu tố văn hóa xã hội: Mỗi quốc gia, vùng lãnh thổ đều có những giá trị văn
hóa và các yếu tố xã hội đặc trưng và khác nhau, điều này tạo nên sự khác biệt về lối
sống, học thức, các quan điểm về vấn đề học tập, tâm lý sống,… của đại bộ phận
người dân các quốc gia khác nhau. Do đó, các tổ chức KH&CN phải căn cứ vào những
đặc điểm văn hóa, xã hội của quốc gia mình để có những chính sách thúc đẩy đào tạo
nguồn nhân lực về nội dung, phương pháp, phù hợp với đặc điểm cư dân, điều kiện
sống, truyền thống học tập, tâm lý chung của dân tộc.
- Yếu tố công nghệ: Công nghệ và tốc độ phát triển KH&CN luôn tạo ra nhiều cơ
hội phát triển song cũng đặt những tổ chức KH&CN trong sự cạnh tranh khốc liệt.
Điều này đòi hỏi nhân lực của các tổ chức KH&CN phải nắm bắt được công nghệ, áp
dụng những thành tựu KH&CN vào thực tế hoạt động của tổ chức. Do đó, nội dung
đào tạo, số lượng các chuyên đề đào tạo, phải được thiết lập dựa trên sự phát triển của
KH&CN, đảm bảo tính thời sự và yêu cầu của thực tiễn. Mặt khác, các tổ chức

KH&CN phải có những chính sách để cải tiến phương pháp đào tạo và phát triển
nguồn nhân lực áp dụng những thành tựu của KH&CN vào việc cải tiến phương pháp
giảng dạy, nâng cao công tác đào tạo.
- Yếu tố hội nhập: Xu thế phát triển theo hướng toàn cầu hóa, quốc tế hóa của
nền kinh tế và KH&CN cũng tạo ra những cơ hội phát triển cho những tổ chức KHCN
trong nước. Quá trình hội nhập sẽ khiến các tổ chức KH&CN phải điều chỉnh phù hợp
với các nước trên thế giới. Điều này cũng ảnh hưởng đến quá trình nghiên cứu hoạch

17


định chính sách thúc đẩy đào tạo nhân lực KH&CN.
Như vậy nghiên cứu các môi trường bên ngoài để xác định được các cơ hội và
thách thức trong đào tạo và chính sách thúc đẩy đào tạo nhân lực KH&CN, là một
trong những cơ sở quan trọng để xác định các chiến lược đào tạo nhân lực KH&CN
trong lĩnh vực ĐHN.
+ Chính sách của nhà nƣớc
Để phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực năng lượng nguyên tử (NLNT)
trong đó có nguồn nhân lực trình độ cao trong lĩnh vực NLNT, Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt: Đề án “Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực NLNT” tại
Quyết định số 1558/QĐ-TTg ngày 18/8/2010 [22]; Dự án Đào tạo nguồn nhân lực cho
các dự án nhà máy điện hạt nhân tại tỉnh Ninh Thuận tại Quyết định số 584/QĐ -TTg
ngày 11/4/2013[19]; Quy định chính sách ưu đãi, hỗ trợ người đi đào tạo trong lĩnh
vực NLNT tại Quyết định số 124/2013/NĐ - CP ngày 14/10/2013[20].
Theo đó, mục tiêu chung là đào tạo nguồn nhân lực trong lĩnh vực NLNT trong
đó có nguồn nhân lực trình độ cao trong lĩnh vực NLNT bảo đảm về số lượng và chất
lượng, đáp ứng nhu cầu chương trình phát triển ĐHN, yêu cầu phát triển, ứng dụng an
toàn, an ninh NLNT trong các lĩnh vực kinh tế - xã hội và tăng cường tiềm lực khoa
học và công nghệ của đất nước [20, mục.II.1].
Mặc dù hiện nay chưa có số liệu thống kê cụ thể về nhu cầu nhân lực NLNT

đến năm 2030 nhưng dựa trên định hướng phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực
NLNT của Chính phủ và căn cứ vào hiện trạng cũng như nhu cầu nhân lực đến năm
2020, có thể dự báo rằng nhu cầu nhân lực NLNT đến năm 2030 của nước ta là rất lớn.
Để giải quyết được vấn đề trên, Chính phủ cần ban hành các cơ chế chính sách
đồng bộ để các Bộ, ngành, địa phương triển khai thực hiện nhằm giải quyết được vấn
để nhân lực NLNT, đặc biệt là nhân lực trình độ cao.
1.4.2. Các yếu tố đặc thù của ngành năng lượng nguyên tử và Viện Năng
lượng nguyên tử Việt Nam ảnh hưởng đến công tác đào tạo nhân lực khoa học và
công nghệ trình độ cao
- Đầu tư của nhà nước: Sự eo hẹp về tài chính cho lĩnh vực NLNT nói chung và Viện
NLNTVN nói riêng trong khi lĩnh vực NLNT yêu cầu một nguồn kinh phí rất lớn
trong nghiên cứu và triển khai.

18


- Đặc thù của ngành năng lượng nguyên tử cũng là một thách thức: NLNT là một
ngành kỹ thuật khó, đòi hỏi chuyên môn sâu và việc ứng dụng chưa được triển khai
rộng rãi ở nhiều ngành nghề. Hơn nữa môi trường làm việc được coi là rất nhạy cảm,
điều kiện lao động rất ngặt nghèo,… Điều này đã tác động đến nhận thức của người
dân về vai trò của NLNT cũng như định hướng cho con em học về các chuyên ngành
NLNT, lựa chọn ngành nghề về NLNT để sau này phục vụ đất nước.
- Thu nhập thấp: Với mức thu nhập, môi trường và điều kiện làm việc như hiện nay
của ngành NLNT có thể nói chưa đủ hấp dẫn để các bậc phụ huynh cho con em mình
theo học ngành NLNT- vốn được xem là khó và khổ này. Thậm chí, đối với một số
người đang làm việc trong lĩnh vực NLNT còn muốn đổi nghề, đối với người ngoài thì
nói không với ngành NLNT.
1.5. Kinh nghiệm quốc tế về quản lý tri thức và đào tạo, phát triển nguồn
nhân lực ngành năng lƣợng nguyên tử
1.5.1. Quản lý tri thức và đào tạo, phát triển nguồn nhân lực ngành năng

lượng nguyên tử của Cơ quan Năng lượng nguyên tử quốc tế
Trong chương trình phát triển nguồn nhân lực của bất cứ cơ quan, tổ chức hạt
nhân nào đều bao gồm: Giáo dục và Đào tạo, lập kế hoạch nhân lực và Quản lý tri thức
(Knowledge Management - KM).
Cơ quan NLNT quốc tế IAEA đã ban hành bộ tài liệu hướng dẫn về quản lý tri
thức: “Guide on Nuclear Knowledge Management (NKM)” trong các tổ chức hạt nhân
cho cơ quan vận hành, cơ quan pháp quy và cơ quan nghiên cứu triển khai và hỗ trợ kỹ
thuật [24] - (Bản dịch Cục Năng lượng nguyên tử). Viện NLNTVN là cơ quan nghiên
cứu, triển khai và hỗ trợ kỹ thuật (gọi tắt là cơ quan R&D và TSO). Theo tài liệu
hướng dẫn này thì: “Quản lý tri thức được định nghĩa như một cách tiếp cận tích hợp
và có hệ thống để xác định, thu thập, chuyển đổi, phát triển, phổ biến, sử dụng, chia sẻ
và giữ gìn tri thức, nhằm đạt được các mục tiêu cụ thể”.
Cơ quan R&D và TSO là nơi tạo ra, sử dụng và sở hữu rất nhiều tri thức, vì vậy
chính cơ quan này cần phải thực hiện công tác quản lý tri thức, bao gồm tri thức hiện,
tri thức ẩn và đặc biệt là tri thức ngầm.
- Tri thức hiện (Explicit knowledge) là các tri thức đã được công bố, tri thức
này thường được viết trong sách. Điều quan trọng nhất của việc quản lý tri thức hiện là
việc xây dựng và sử dụng một bản đồ tri thức – knowledge Mapping (ví dụ như Xây

19


dựng Cổng Thông tin hoặc Thư viện điện tử).
- Tri thức ẩn (Implicit knowledge): là những tri thức chưa được ghi lại thành tài
liệu. Tri thức ẩn tuy khó phát hiện nhưng vẫn có thể được ghi lại khi cần. Nói chung,
có thể chuyển tri thức ẩn thành tri thức hiện thông qua việc chuyển nó thành tài liệu.
- Tri thức ngầm (Tacit Knowledge): là tri thức khó nhất để có thể nhớ và vì thế
khó có thể chuyển tải. Tri thức ngầm không thể được giải thích một cách hoàn chỉnh,
vì nó hoàn toàn được biểu hiện ở cá nhân, được sinh ra từ thực tế và kinh nghiệm,
được thể hiện thông qua việc thực hiện một cách thành thạo và được truyền tải bằng

cách học việc và đào tạo thông qua các hình thức học, xem và làm. Tri thức ngầm có
thể được quan sát, tuy nhiên khó có thể được chuyển thể sang tri thức hiện.
Trong những năm gần đây, quản lý tri thức hạt nhân nổi lên như một thách
thức gia tăng trong các tổ chức hạt nhân. Nhu cầu gìn giữ và chuyển giao tri thức hạt
nhân được pha trộn bởi những xu hướng gần đây như tình trạng già đi của lực lượng
nhân lực hạt nhân, giảm số lượng sinh viên trong các lĩnh vực liên quan đến hạt nhân
và mối đe dọa mất tri thức hạt nhân đã được tích lũy ngày càng hiện hữu trong cộng
đồng hạt nhân. Nhận thức được những thách thức này, IAEA đã đẩy mạnh chương
trình "văn hóa quản lý tri thức" thông qua các hoạt động sau đây:
1/ Đưa ra hướng dẫn đối với việc xây dựng chính sách và thực hiện việc quản lý
tri thức trong các loại hình tổ chức hạt nhân (cơ quan vận hành, cơ quan pháp quy, cơ
quan nghiên cứu triển khai và hỗ trợ kỹ thuật (R&D vàd TSO).
2/ Tăng cường việc đóng góp tri thức hạt nhân trong việc giải quyết các vấn đề
cụ thể, dựa trên nhu cầu và ưu tiên của các nước thành viên.
3/ Tổng hợp, phân tích và chia sẻ thông tin để tạo điều kiện tạo lập và ứng dụng
tri thức.
4/ Thực hiện các hệ thống quản lý tri thức hiệu quả.
5/ Gìn giữ và duy trì tri thức hạt nhân.
6/ Bảo đảm an ninh nguồn nhân lực bền vững cho lĩnh vực hạt nhân.
7/ Nâng cao việc giáo dục và đào tạo hạt nhân.
Xây dựng năng lực (Capacity building) là một bước quan trọng đầu tiên trong
quá trình đảm bảo cung cấp bền vững nguồn nhân lực có trình độ và sẵn sàng để đảm
nhận trách nhiệm sử dụng bền vững, hiệu quả và an toàn các công nghệ, thiết bị hạt
nhân. Xây dựng năng lực trong IAEA, bao gồm bốn yếu tố thiết yếu sau đây:

20


×