Tải bản đầy đủ (.pdf) (168 trang)

Đối chiếu các từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng anh và tiếng việt ( Luận án tiến sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.44 MB, 168 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LÊ PHƯƠNG THẢO

ĐỐI CHIẾU CÁC TỪ NGỮ CHỈ MÀU SẮC TRONG

TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT
Chuyên ngành: Ngôn ngữ học so sánh đối chiếu
Mã số: 9222024

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGÔN NGỮ HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
1. PGS.TS. Hà Quang Năng
2. PGS.TS. Hoàng Tuyết Minh

HÀ NỘI - 2018

i


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, không sao chép
của ai. Các kết quả khảo sát và miêu tả nêu trong luận án là trung thực và chưa từng
được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Lê Phương Thảo


ii


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU.............................................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1 ........................................................................................................................ 6
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN

6

1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu ..........................................................................6
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Anh ..........................6
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Việt ..........................9
1.2. Cơ sở lí luận .......................................................................................................11
1.2.1. Khái niệm về từ ...............................................................................................12
1.2.2. Nghĩa của từ ....................................................................................................15
1.2.3. Từ chỉ màu sắc trong tiếng Anh và tiếng Việt .................................................28
1.2.4. Văn hóa và mối quan hệ giữa văn hóa, ngôn ngữ và tư duy ..........................35
1.2.5. Nghiên cứu đối chiếu từ vựng, ngữ nghĩa .......................................................42
CHƯƠNG 2 ..........................................................................................................................
ĐỐI CHIẾU KHẢ NĂNG TẠO TỪ VÀ NGỮ NGHĨA CỦA TỪ CHỈ MÀU
SẮC CƠ BẢN TRONG TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT ...................................... 46
2.1. Khảo sát tần số xuất hiện của các từ chỉ màu sắc tiếng Anh và tiếng Việt trong
tác phẩm văn học Anh và văn học Việt Nam ............................................................46
2.2. Khả năng tạo từ của từ chỉ màu sắc trong tiếng Anh và tiếng Việt ...................48
2.2.1. Khả năng tạo từ của từ chỉ màu sắc trong tiếng anh ......................................... 48
2.2.2. Khả năng tạo từ của từ chỉ màu sắc trong tiếng Việt .....................................53
2.2.3. Đối chiếu khả năng tạo từ của từ chỉ màu sắc cơ bản trong tiếng Anh và tiếng
Việt ............................................................................................................................60
2.3. Đặc điểm ngữ nghĩa của các từ chỉ màu sắc cơ bản trong tiếng Anh và tiếng

Việt ............................................................................................................................64
2.3.1. Thống kê các tính từ chỉ màu cơ bản và các tính từ phái sinh từ màu sắc cơ
bản .............................................................................................................................65

iii


2.3.2. Đối chiếu ngữ nghĩa của các tính từ chỉ màu sắc cơ bản trong tiếng Anh và
tiếng Việt. ..................................................................................................................69
CHƯƠNG 3 ...................................................................................................................... 93
ĐỐI CHIẾU CÁC THÀNH NGỮ CÓ TỪ CHỈ MÀU SẮC CƠ BẢN TRONG
TIẾNG ANH VÀ TIẾNG VIỆT ................................................................................... 93
3.1. Khái niệm về thành ngữ .....................................................................................94
3.1.1. Quan niệm về thành ngữ trong tiếng Anh .......................................................94
3.2. Ngữ nghĩa của các thành ngữ có từ chỉ màu sắc cơ bản trong tiếng Anh và tiếng
Việt ............................................................................................................................95
3.2.1. Ngữ nghĩa của các thành ngữ có từ chỉ màu sắc cơ bản trong tiếng Anh ......95
3.2.2. Ngữ nghĩa của các thành ngữ có từ chỉ màu sắc cơ bản trong tiếng Việt ....115
3.3. Đối chiếu ngữ nghĩa của các thành ngữ có từ chỉ màu sắc cơ bản trong tiếng
Anh và tiếng Việt ....................................................................................................128
3.3.1. Những điểm tương đồng về ngữ nghĩa của thành ngữ có từ chỉ màu sắc trong
tiếng Anh và tiếng Việt .............................................................................................136
3.3.2. Những điểm khác biệt về ngữ nghĩa của thành ngữ có từ chỉ màu cơ bản
trong tiếng Anh và tiếng Việt ..................................................................................139
KẾT LUẬN ..................................................................................................................... 147
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................................. 151
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CÓ NỘI DUNG LIÊN
QUAN ĐẾN LUẬN ÁN ................................................................................................ 163

iv



DANH MỤC BẢNG BIỂU VÀ HÌNH
Bảng 1.1 Một số ứng dụng của Ngũ hành ................................................................33
Bảng 1.2 Từ chỉ màu cơ bản trong tiếng Anh và tiếng Việt .....................................34
Bảng 2.1 Tần số xuất hiện của các từ chỉ màu sắc cơ bản trong các tác phẩm văn
học Anh .....................................................................................................................47
Bảng 2.2 Tần số xuất hiện của các từ chỉ màu sắc cơ bản trong các tác phẩm văn
học Việt Nam ............................................................................................................47
Bảng 2.3 Từ chỉ màu phái sinh được tạo ra theo các phương thức...........................60
Bảng 2.4 Các nhóm từ ngữ chỉ màu sắc là từ ghép trong tiếng Anh và tiếng Việt ..61
Bảng 2.5 Bảng thống kê các tính từ chỉ màu sắc cơ bản và các tính từ phái sinh
chỉ màu trong tiếng Anh ............................................................................................65
Bảng 2.6 Bảng thống kê các tính từ chỉ màu sắc cơ bản và các từ, ngữ chỉ màu sắc
phái sinh từ các màu cơ bản trong tiếng Việt ............................................................66
Bảng 2.7 Bảng đối chiếu số lượng tính từ chỉ màu phái sinh từ các màu cơ bản trong
tiếng Anh và tiếng Việt .............................................................................................67
Bảng 2.8 Ngữ nghĩa của tính từ white (trắng) trong tiếng Anh ................................69
Bảng 2.9 Ngữ nghĩa của tính từ black (đen) trong tiếng Anh ...................................70
Bảng 2.10 Ngữ nghĩa của tính từ red (đỏ) trong tiếng Anh ......................................72
Bảng 2.11 Ngữ nghĩa của tính từ green (xanh lá cây) trong tiếng Anh ....................73
Bảng 2.12 Ngữ nghĩa của tính từ yellow (vàng) trong tiếng Anh .............................74
Bảng 2.13 Ngữ nghĩa của tính từ blue (xanh lam) trong tiếng Anh .........................75
Bảng 2.14 Ngữ nghĩa của tính từ brown (nâu) trong tiếng Anh ...............................76
Bảng 2.15 Ngữ nghĩa của tính từ purple (tím) trong tiếng Anh ...............................76
Bảng 2.16 Ngữ nghĩa của tính từ pink (hồng) trong tiếng Anh ................................77
Bảng 2.17 Ngữ nghĩa của tính từ orange (cam) trong tiếng Anh .............................78
Bảng 2.18 Ngữ nghĩa của tính từ grey (xám) trong tiếng Anh .................................78
Bảng 3.1 Số lượng thành ngữ có chứa từ chỉ màu cơ bản trong tiếng Anh
và tiếng Việt ............................................................................................................129

Bảng 3.2 Các nghĩa biểu trưng xuất hiện trong thành ngữ chứa từ chỉ màu cơ bản
trong tiếng Anh và tiếng Việt ..................................................................................131

v


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Màu sắc là một trong những thuộc tính của vật thể tồn tại trong thế giới xung
quanh chúng ta mà thị giác con người có thể nhận biết được. Màu sắc tồn tại trong
thế giới vật chất nhưng lại gắn bó chặt chẽ với đời sống tinh thần của con người,
góp phần làm cho cuộc sống trở nên sinh động và tràn đầy sức sống. Những màu
sắc khác nhau với những ý nghĩa khác nhau đã mang lại những sắc màu phong phú
cho cuộc sống.
Các dân tộc trên thế giới cảm nhận màu sắc trong tự nhiên và đánh dấu chúng
bằng một hệ thống chỉ màu sắc riêng. Do sự khác biệt về loại hình ngôn ngữ, sự
cách biệt về địa lí, sự không đồng nhất về điều kiện sinh hoạt và môi trường, nên
cách thể hiện và diễn đạt các khái niệm ngôn ngữ không như nhau. Từ vựng của
một ngôn ngữ là nơi có thể thể hiện rõ nét nhất bản sắc văn hóa dân tộc. Các thành
tố văn hóa dân tộc đều được thể hiện rõ qua bình diện nội dung của từ. Việc nắm
vững văn hóa của một ngôn ngữ sẽ tạo điều kiện cho việc cảm nhận một cách sắc
sảo và tinh tế các từ mà ngữ nghĩa của chúng thể hiện đặc trưng văn hóa dân tộc.
Dù số lượng từ ngữ chỉ màu sắc trong mỗi ngôn ngữ khác nhau, ngôn ngữ có
thể hạn chế số lượng từ vựng gọi tên cho màu sắc cụ thể đó nhưng cộng đồng
người sử dụng ngôn ngữ đó vẫn nhận ra sự khác biệt về các loại màu sắc. Đặc
trưng văn hóa dân tộc được thể hiện rõ nét trong ý nghĩa biểu trưng của các sắc
màu trong từng nền văn hóa. Ở các quốc gia khác nhau, các nền văn hóa khác
nhau, màu sắc cũng thể hiện các ý nghĩa khác nhau. Mỗi dân tộc với những bức
tranh ý niệm khác nhau sẽ hình thành bức tranh ngôn ngữ thế giới khác nhau và
như thế, từ ngữ về màu sắc sẽ không nằm ngoài qui luật chung đó.

Lớp từ ngữ chỉ màu sắc có số lượng không nhỏ và mang ý nghĩa phong phú,
đa dạng và được thể hiện trong nhiều phong cách văn bản, đặc biệt là trong phong
cách ngôn ngữ văn chương. Vì thế, lớp từ chỉ màu sắc trở thành đối tượng được
ngôn ngữ học quan tâm nghiên cứu từ nhiều góc độ, trên nhiều bình diện, nhất là
về đặc điểm ngữ nghĩa, tính biểu trưng hay về đặc điểm tri nhận.
Với những nhận thức như trên, chúng tôi chọn đề tài Đối chiếu các từ ngữ

1


chỉ màu sắc trong tiếng Anh và tiếng Việt để nghiên cứu với hi vọng sẽ có thể đưa
ra những kiến giải có tính chất gợi mở, tìm hiểu kĩ về khả năng tạo từ và ngữ nghĩa
của các từ chỉ màu sắc cơ bản, cách thể hiện và cảm nhận thế giới màu sắc của
người Anh và người Việt để tìm ra những tương đồng và dị biệt về nhóm từ ngữ
này trong quá trình nhận thức và biểu đạt các màu trong hai ngôn ngữ. Việc nghiên
cứu đề tài này sẽ góp phần phục vụ cho thực tiễn giảng dạy tiếng Anh cho người
Việt cũng như trong công tác dịch thuật của các nhà biên phiên dịch.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
2.1. Mục đích nghiên cứu
Luận án tập trung nghiên cứu đối chiếu nhằm mục đích:
- Tìm ra những điểm giống nhau và khác nhau về khả năng tạo từ và ngữ nghĩa của
các tính từ chỉ màu sắc cơ bản trong tiếng Anh và tiếng Việt;
- Làm sáng tỏ một số đặc trưng văn hóa thông qua cách sử dụng từ chỉ màu sắc cơ
bản trong thành ngữ tiếng Anh và tiếng Việt;
- Góp phần vào công tác giảng dạy ngoại ngữ, công tác biên phiên dịch Anh-Việt,
Việt-Anh và công tác biên soạn từ điển của các học giả.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được những mục đích trên, chúng tôi thực hiện các nhiệm vụ sau:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu và xác định cơ sở lí luận cho luận án;
- Thống kê số lượng từ chỉ màu sắc cơ bản trong một số tác phẩm văn học Anh, văn

học Việt Nam và từ điển thành ngữ tiếng Anh và tiếng Việt để tìm ra tần số sử dụng
của từng màu sắc cơ bản trong hai ngôn ngữ;
- Miêu tả và phân tích khả năng tạo từ và đặc điểm ngữ nghĩa của từ, ngữ chỉ màu
sắc cơ bản trong tiếng Anh và tiếng Việt để tìm ra những điểm giống nhau và khác
nhau về mặt cấu trúc, ngữ nghĩa trong việc liên hệ với văn hóa hai dân tộc;
- So sánh, đối chiếu ý nghĩa của từ chỉ màu sắc cơ bản trong tiếng Anh và tiếng Việt
thông qua các thành ngữ có yếu tố từ chỉ màu sắc cơ bản trong mối liên hệ với đặc
trưng văn hóa dân tộc của ngôn ngữ và tư duy.

2


3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận án là những tính từ chỉ màu sắc cơ bản trong
tiếng Anh và tiếng Việt dưới góc nhìn của ngữ nghĩa học.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi nghiên cứu là khả năng tạo từ và đặc điểm ngữ nghĩa của 11 tính
từ chỉ màu sắc cơ bản trong tiếng Anh và 9 tính từ chỉ màu sắc cơ bản trong tiếng
Việt dựa trên 1065 lượt từ chỉ màu sắc cơ bản được thống kê từ 950 trích đoạn của
8 tác phẩm văn học Anh, 1189 lượt từ chỉ màu sắc cơ bản được thống kê từ 925
trích đoạn của 11 tác phẩm văn học Việt Nam và 295 thành ngữ tiếng Anh, 339
thành ngữ tiếng Việt được thống kê từ 11 cuốn từ điển thành ngữ tiếng Anh và 9
cuốn từ điển thành ngữ tiếng Việt.
- Luận án cũng tập trung nghiên cứu ý nghĩa biểu trưng của các thành ngữ có
từ chỉ màu sắc cơ bản trong tiếng Anh và tiếng Việt.
- Trong luận án, tiếng Anh được sử dụng như là ngôn ngữ cơ sở và tiếng Việt
là ngôn ngữ đưa vào đối chiếu, có nghĩa là so sánh đối chiếu một chiều và theo
chiều Anh - Việt.
- Luận án tiếp cận đối tượng nghiên cứu dưới góc độ ngữ nghĩa học. Các từ

chỉ màu cơ bản trong tiếng Anh và tiếng Việt được nghiên cứu từ các phương diện:
khả năng tạo từ; các nét nghĩa (từ nghĩa gốc, nghĩa phái sinh, đến nghĩa chuyển); sự
khu biệt nghĩa của các nghĩa phái sinh và các hướng chuyển nghĩa; đặc biệt, từ khối
liệu thành ngữ có chứa từ chỉ màu sắc cơ bản trong tiếng Anh và tiếng Việt, luận án
phân xuất, chỉ ra các hướng nghĩa biểu trưng của thành ngữ có chứa từ chỉ màu sắc
trong hai ngôn ngữ, đối chiếu để tìm ra những điểm tương đồng và dị biệt, từ đó
làm rõ mối liên hệ mật thiết giữa bộ ba ngôn ngữ - văn hóa và tư duy trong mỗi
cộng đồng ngôn ngữ.
4. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của luận án
Để thực hiện nhiệm vụ của luận án, chúng tôi sử dụng các phương pháp
nghiên cứu chính sau:
- Phương pháp miêu tả: Phương pháp này được sử dụng để miêu tả khả năng

3


tạo từ và ngữ nghĩa của các từ chỉ màu sắc cơ bản.
- Phương pháp phân tích thành tố nghĩa: Phương pháp này được sử dụng
nhằm phân tích các đặc điểm ngữ nghĩa các từ chỉ màu sắc cơ bản cũng như ý nghĩa
biểu trưng của chúng được thể hiện trong các thành ngữ tiếng Anh và tiếng Việt
nhằm tìm ra các nét nghĩa của các từ ngữ này xuất hiện trong hai ngôn ngữ.
- Phương pháp so sánh đối chiếu: Đây là một phương pháp được sử dụng
để tìm ra những tương đồng và dị biệt trong ngôn ngữ và văn hóa, tư duy của
người Anh và người Việt thông qua các từ chỉ màu sắc cơ bản trong tiếng Anh
và tiếng Việt.
- Thủ pháp thống kê, phân loại: Mục đích của phương pháp này nhằm thống
kê và phân loại các từ chỉ màu sắc cơ bản trong từ điển tiếng Anh và tiếng Việt để
làm tư liệu cho việc nghiên cứu.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Luận án là công trình nghiên cứu có hệ thống và chuyên sâu về từ ngữ chỉ

màu sắc trong tiếng Anh và tiếng Việt dưới góc nhìn của ngữ nghĩa học.
Luận án đã hệ thống hóa và làm sáng tỏ lí luận về từ, nghĩa của từ, từ chỉ
màu sắc cơ bản trong tiếng Anh và tiếng Việt, mối quan hệ giữa văn hóa, ngôn ngữ
và tư duy thể hiện trong ngữ nghĩa của các từ chỉ màu sắc cơ bản.
Trên cơ sở miêu tả, phân tích và đối chiếu khả năng tạo từ và ngữ nghĩa của
từ chỉ màu sắc cơ bản trong tiếng Anh và tiếng Việt, luận án tìm ra các điểm giống
và khác nhau về khả năng tạo từ và ngữ nghĩa của nhóm từ này trong hai ngôn ngữ,
đưa ra các nhận xét và rút ra một số đặc trưng văn hóa dân tộc của hai dân tộc Anh
và Việt Nam thể hiện trong các thành ngữ có chứa từ chỉ màu sắc cơ bản.
6. Ý nghĩa lí luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lí luận
Luận án đóng góp những cơ sở lí luận về việc nghiên cứu từ ngữ chỉ màu sắc
trong tiếng Anh và tiếng Việt, chỉ ra những nét tương đồng và khác biệt về khả năng
tạo từ và ngữ nghĩa của 11 từ chỉ màu sắc cơ bản trong tiếng Anh và 9 từ chỉ màu
sắc cơ bản trong tiếng Việt, đồng thời rút ra một số đặc trưng văn hóa dân tộc được
thể hiện qua khả năng tao từ và ngữ nghĩa của các từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng

4


Anh và tiếng Việt dưới góc nhìn của ngữ nghĩa học.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận án đóng góp cho công tác nghiên cứu ngôn ngữ,
công tác giảng dạy, học tập và nghiên cứu của giáo viên và học viên, đồng thời
phục vụ cho công tác dịch thuật của các nhà biên, phiên dịch cũng như công tác
biên soạn từ điển Anh- Việt, Việt- Anh.
7. Cơ cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án được
triển khai trong 3 chương:
Chương 1. Tổng quan tình hình nghiên cứu và cơ sở lí luận

Chương 2. Đối chiếu khả năng tạo từ và ngữ nghĩa của các từ chỉ màu sắc cơ bản
trong tiếng Anh và tiếng Việt
Chương 3. Đối chiếu ngữ nghĩa của thành ngữ có chứa từ chỉ màu sắc cơ bản trong
tiếng Anh và tiếng Việt

5


Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CƠ SỞ LÍ LUẬN
1.1. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Trong chương này, chúng tôi sẽ tổng hợp các công trình nghiên cứu của các
tác giả đi trước về từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Anh và tiếng Việt để có được cái
nhìn toàn diện về các khía cạnh và hướng nghiên cứu của nhóm từ này trong tiếng
Anh và tiếng Việt, đồng thời tìm ra những khoảng trống, những điểm chưa được đề
cập đến hoặc đi sâu để chúng tôi có thể tiếp tục nghiên cứu trong luận án.
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Anh
Lịch sử nghiên cứu về các từ chỉ màu sắc đã phát triển qua ba giai đoạn chính:
giai đoạn đối đầu của hai trường phái Tương đối [Sapir-Whorf (1921-1956)] và Phổ
niệm [Berlin & Kay (1969)]; giai đoạn hậu Berlin & Kay với những tranh luận phê
phán Berlin & Kay và ủng hộ Berlin & Kay và giai đoạn hiện nay là những hướng
nghiên cứu từ ngữ chỉ màu sắc theo tri nhận luận, kinh nghiệm luận và văn hóa luận.
Từ trước đến nay, các từ chỉ màu sắc được xem là đối tượng nghiên cứu của rất nhiều
ngành khoa học như Vật lí học, Tâm lí học và đặc biệt là Ngôn ngữ học.
Các nghiên cứu về màu sắc trên phương diện Tâm lí học: Nội dung cơ bản
của các nghiên cứu về các từ chỉ màu sắc là đưa ra những giả thuyết tâm sinh lí học
về sự khác biệt trong văn hóa qua việc nhìn thấy và gọi tên màu sắc và xem xét
những khía cạnh phổ quát trong việc tìm hiểu việc mã hóa các màu sắc. [96].
Tác giả Hardin trong bài báo Explaining basic color catergories (giải thích các
loại từ chỉ màu sắc cơ bản) in trong tạp chí Nghiên cứu đa văn hóa đãkhảo sát một

số nhóm minh chứng cho thấy sự gắn kết chặt chẽ giữa các cơ chế cảm nhận màu
sắc, các màu cơ bản theo cảm quan và việc đặt tên các màu cơ bản. Tuy nhiên,
những câu hỏi quan trọng vẫn tồn tại liên quan đến các thuộc tính chung của con
người về nhận thức màu sắc và sự phát triển và cấu trúc của các loại màu cơ bản đa
văn hóa. [115]
Nghiên cứu về màu sắc trên phương diện Vật lý học: Trong bài viết Colour
categories are not universal: Replications and new evidence from a stone-age

6


culture, các tác giả Roberson, Davies, and Davidoff (2000) đã tìm cách tái tạo và mở
rộng công trình của Heider (1972) với việc so sánh người Papua, New Guinea, những
người nói tiếng Berinmo mà ngôn ngữ của họ chỉ có 5 thuật ngữ cơ bản chỉ màu.
Việc xác định tên và bộ nhớ cho các kích thích vật lí và phi vật lí với độ bão hòa thấp
đã được khảo sát. Họ đã tìm ra việc các màu đã bão hòa bị ảnh hưởng bởi nhóm từ
vựng màu. Các hiệu ứng nhận thức phân loại đối với cả tiếng Anh và Berinmo đã
được tìm thấy, nhưng chỉ ở ranh giới của các thể loại ngôn ngữ hiện có [141].
Nghiên cứu về màu sắc dưới góc độ Văn hóa học: Trong công trình đồ sộ
Dictionnaire des symboles: mythes, rêves, coutumes, gestes, formes, figures,
couleurs, nombres (Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới), với phụ đề “Các huyền
thoại, chiêm mộng, phong tục, cử chỉ, dạng thể, các hình, màu sắc, con số” Chevalier
và Gheerbrant (1997) đã trình bày khá chi tiết về biểu tượng màu sắc của các nước
trên thế giới. Các từ chỉ màu sắc trong cuốn từ điển này đã được các tác giả miêu tả
bao quát được nhiều khu vực văn hóa trên thế giới liên quan đến các phương tiện Dân
tộc học, Xã hội học, Tâm lí học, Thần thoại học, Tôn giáo học. [15].
Nghiên cứu về màu sắc dưới góc độ Ngôn ngữ học: từ năm 1969, hai nhà
nghiên cứu Berlin & Kay của Trường đại học California ở Berkerly đã tiến hành
nghiên cứu tổng kết toàn bộ tư liệu, kinh nghiệm về từ ngữ chỉ màu sắc của các dân
tộc khác nhau trên thế giới. Berlin & Kay đã xác lập “phương pháp giai đoạn tiến

hóa đối với sự xuất hiện những từ ngữ chỉ màu sắc”. Gần như toàn bộ phương pháp
này đã được trình bày vào năm 1969 với Basic Color Terms (Những thuật ngữ màu
cơ sở). Trong công trình này, hai tác giả đã tìm hiểu và nghiên cứu từ ngữ chỉ màu
sắc trong 98 ngôn ngữ của các dân tộc khác nhau trên thế giới. Tác giả đã kết hợp
giữa tính khái niệm và tính thực tiễn, liên quan đến vấn đề mối quan hệ giữa màu
sắc và văn hóa. Từ sự khái quát thực tế dựa trên các ngôn ngữ khác nhau, Berlin &
Kay đã kết luận: Mọi ngôn ngữ ít nhất cũng có 2 từ chỉ màu đen và màu trắng, có 3
từ thì có thêm màu đỏ, có 4 từ thì có thêm màu xanh lá hoặc vàng, có 5 từ thì thêm
cả màu xanh lá và vàng, có 6 từ thì thêm màu xanh da trời, có 7 từ thì có thêm màu
nâu, có trên 7 từ thì có thêm màu tím, hồng, da cam, xám hoặc hỗn hợp những màu
này. Ở một mức độ nhất định, có thể coi đó là chìa khóa mở ra nhiều công trình

7


nghiên cứu và thực tế đã có rất nhiều công trình nghiên cứu trên cơ sở tư tưởng của
Berlin và Kay. Công trình của Lakoff (1987) cũng ủng hộ quan điểm của Berlin &
Kay với tiêu đề “Women, fire and dangerous things” (Đàn bà, lửa và những thứ
nguy hiểm). Trong công trình này, Lakoff đã chứng minh rằng các phạm trù chỉ
màu sắc đều có các phần từ trung tâm, và vì vậy, có thể thực hiện việc so sánh các
phạm trù chỉ màu sắc trong các ngôn ngữ khác nhau [131]. Cùng quan điểm với
Berlin & Kay, trong nghiên cứu với tựa đề “Metaphor of anger, pride and love”
(Ẩn dụ chỉ sự giận dữ, niềm kiêu hãnh và tình yêu) Kovecses (1986) đã khẳng định:
Trong miền ngữ nghĩa của các từ chỉ màu sắc có những điểm trung tâm hơn và các
thuật ngữ chỉ các điểm trung tâm này được gọi là các từ chỉ màu cơ sở [128]. Năm
1978, Kay và Chad đã đặt vấn đề và nghiên cứu: Liệu ngôn ngữ có thêm khả năng
tri nhận sắc thái về màu sắc của chúng ta hay không? Hay nó ảnh hưởng theo cách
nào khác? Các tác giả này đã có những kết luận vô cùng thú vị: Quá trình nhận biết
màu sắc bắt đầu từ phần não bên phải và truyền sang bên trái thông qua sự tiến triển
của ngôn ngữ, đồng thời những nhận thức màu sắc của chúng ta được liên kết chặt

chẽ với ngôn ngữ của chúng ta. [123]
Tiếp theo hướng này, tác giả Quinion (1996), trong bài viết The fugitive names
of hues (Những tên gọi nhất thời của màu sắc) đăng trên trang English in the British
viewpoint (Tiếng Anh theo quan điểm của người Anh) đã nghiên cứu từ ngữ chỉ
màu sắc tiếng Anh bằng phương pháp từ nguyên học. Ông đã xác định màu từ màu
xanh da trời (blue) bắt nguồn từ tiếng Pháp, xanh lá cây (green) có cùng gốc với
“grow” và xuất xứ từ tiếng Đức, màu đỏ (red) được vay mượn từ tiếng Hy Lạp, màu
hồng (pink) cùng gốc từ với tiếng Hà Lan,…[140]. Cách nghiên cứu của tác giả đã
mở ra thêm một hướng tiếp cận khác trong tiến trình nghiên cứu từ ngữ chỉ màu sắc
trên thế giới nói chung và tiếng Anh nói riêng. Có thể nói, ở một mức độ nhất định,
Berlin & Kay (1969) là những người tiên phong trong việc nghiên cứu các từ chỉ
màu sắc nói chung hay các từ chỉ màu cơ bản nói riêng để sau đó nhiều các công
trình khoa học đã lấy đối tượng nghiên cứu là từ chỉ màu sắc.
Nghiên cứu của hai tác giả Soriano và Valenzuela (2009) trong bài báo Emotion
and colour across languages (Cảm xúc và màu sắc qua các nền văn hóa) đã khám

8


phá ra các lí do tại sao các từ màu sắc và từ biểu đạt cảm xúc thường liên quan đến
các ngôn ngữ khác nhau trên thế giới. Một trong số đó là sự chồng chéo giữa thuật
ngữ chỉ màu sắc và thuật ngữ chỉ cảm xúc. Một phương pháp thử nghiệm mới được
sử dụng để khảo sát cấu trúc ẩn dụ của các thuật ngữ chỉ màu cơ bản về phương
diện ngữ nghĩa. Các kết quả cho thấy một bản so sánh với các công trình trước đây,
ngoại trừ giá trị của một số thuật ngữ chỉ màu. Những điểm tương đồng và khác biệt
đã được đưa ra để kiểm tra những ảnh hưởng của ngữ nghĩa đối với từ chỉ màu sắc
và từ chỉ cảm xúc. [145]
Sau giai đoạn này, một số các công trình nghiên cứu dưới góc độ ngôn ngữ
học tri nhận hoặc liên ngành ngôn ngữ học tâm lí đã đưa ra các hướng giải quyết
vấn đề về những đặc điểm chung trong việc gọi tên màu sắc như công trình của

Kay và Regier (1997) [127], hoặc những điểm phổ quát trong tri nhận màu sắc của
Wierzbicka (1989) [154], Lucy (1997) [133], Lindsey, & Brown (2004) [132].
1.1.2. Tình hình nghiên cứu về từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Việt
Các nghiên cứu về từ chỉ màu sắc trong tiếng Việt chủ yếu tập trung trên
phương diện ngôn ngữ học. Các nghiên cứu về từ chỉ màu sắc tập trung nhiều ở
bình diện cấu trúc luận, chủ yếu tiếp cận về cấu trúc nghĩa, đặc điểm cấu tạo, đặc
điểm ngữ nghĩa của từ chỉ màu sắc trong tiếng Việt. Đào Thản (1993) trong bài “Hệ
thống từ ngữ chỉ màu sắc tiếng Việt trong sự liên hệ với mấy điều phổ quát”, đã viết
về việc nhận thức về màu và phân chia dải màu trên cảm nhận thị giác và quan điểm
truyền thống của từng cộng đồng người về màu sắc [68]. Tác giả Trịnh Thị Thu
Hiền với các bài viết “Một số đặc điểm của các đơn vị từ chỉ màu sắc cơ bản tiếng
Việt”, “Một vài đặc điểm của các từ chỉ màu phụ trong tiếng Việt” và “Đặc điểm
của hai từ chỉ màu sắc xanh và đỏ trong tiếng Việt” bước đầu đã lần lượt khảo sát,
đưa ra một số đặc điểm của các từ chỉ màu sắc cơ bản và màu phụ trong tiếng Việt
và đi sâu khảo sát hai từ xanh và đỏ [40,41]. ; Phạm Văn Tình (2004) với các bài
viết: “Hai từ xanh và xanh xanh; phấn trắng, bảng đen, tóc trắng- hình tượng đẹp
về người thầy” [81]; Lê Thị Vy (2006) với “Đặc trưng văn hóa dân tộc thể hiện qua
các từ chỉ màu sắc” [93]. Các bài viết này đã đề cập đến một màu (hoặc nhiều màu)
như biểu tượng của văn hóa hoặc nét đặc thù của dân tộc. Tuy nhiên, các tác giả chỉ

9


điểm qua mà chưa đi sâu vào nghiên cứu ảnh hưởng của ngôn ngữ và văn hóa đến
cách sử dụng các từ chỉ màu sắc.
Biện Minh Điền (2000) với bài viết Về tính từ chỉ màu sắc trong thơ Nguyễn
Khuyến [25] đã thống kê tỉ lệ từ ngữ chỉ màu sắc trong thơ và câu đối của Nguyễn
Khuyến và đã xác định tỉ lệ màu sắc tươi chiếm ưu thế, đặc biệt là cách dùng màu
xanh và tương tự, trong bài Màu xanh trong thơ Nguyễn Bính, Nguyễn Thị Thành
Thắng (2001) [70] đã khái quát được sự đa dạng về nghĩa của cùng một màu xanh

trong thơ Nguyễn Bính, từ đó, nêu bật vài điểm trong phong cách nghệ thuật của
Nguyễn Bính. Trên tạp chí Ngôn ngữ và Đời sống số 8 năm 2006, Hà Thị Thu Hoài
viết: “Từ chỉ màu sắc để miêu tả thiên nhiên trong tác phẩm Truyện Tây Bắc của
nhà văn Tô Hoài”. Qua khảo sát, tác giả bài viết đã phân tích nét đặc sắc sáng tạo
trong việc tạo ra nhiều sắc độ của màu trắng, đỏ, vàng trên những trang văn Tô
Hoài.[45]
Cũng có một số công trình (các luận án, luận văn thạc sĩ) đi sâu nghiên cứu
kĩ hơn về về các từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Việt như luận án của Chu Bích Thu
(1996) với công trình “Những đặc trưng ngữ nghĩa của tính từ tiếng Việt hiện đại”.
Tác giả đã sử dụng phương pháp phân tích thành tố nghĩa để phân tích các nhóm
tính từ trong đó có nhóm tính từ chỉ màu sắc. Tuy nhiên, trong luận án, khi đề cập
đến tính từ chỉ màu sắc, tác giả chỉ mới dừng lại ở chỗ phân tích cấu trúc ngữ nghĩa
của nhóm tính từ này. [79]
Trong luận văn của Nguyễn Khánh Hà (1995) “Hệ thống từ chỉ màu sắc
trong tiếng Việt”, tác giả đã thống kê và lập một bảng từ ngữ chỉ màu sắc trong
tiếng Việt, phân loại, sắp xếp nhóm từ này thành hệ thống và phân tích ý nghĩa từ
vựng và ngữ cảnh sử dụng. Luận văn đã hệ thống hóa các từ chỉ màu sắc trong tiếng
Việt trên góc độ của sự liên hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa, nêu ra những đặc điểm
của các lớp từ như lớp từ chỉ màu cơ sở, lớp từ chỉ màu thứ cấp, lớp từ chỉ màu đặc
trưng và so sánh các lớp từ này để tìm ra mối quan hệ và kết cấu giữa các lớp từ
này. Tuy nhiên, luận văn mới chỉ đề cập đến các từ chỉ màu sắc trong tiếng Việt,
các thành ngữ, tục ngữ và các ngữ có chứa từ chỉ màu sắc chưa được tác giả đề cập
đến. Luận văn chưa đi vào so sánh đối chiếu từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Anh và

10


tiếng Việt để tìm ra sự giống nhau và khác nhau về đặc điểm, ngữ nghĩa của các lớp
từ này. [33]
Cũng bàn về từ ngữ chỉ màu sắc, Trịnh Thị Minh Hương (1999) đã tiến hành

khảo sát và phân tích nghĩa biểu trưng của từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Việt dựa
trên ngữ liệu là các văn bản thuộc phong cách ngôn ngữ văn chương [49]. Luận văn
đã nghiên cứu phương thức tạo tính biểu trưng cho các từ ngữ chỉ màu sắc và đồng
thời cũng giới thiệu một số thành ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Việt và tiếng Anh
nhưng chưa đi sâu vào so sánh đối chiếu từ ngữ chỉ màu sắc trong hai ngôn ngữ
Anh – Việt.
Các nghiên cứu về từ chỉ màu sắc theo hướng tiếp cận so sánh, đối chiếu
giữa hai ngôn ngữ, có thể kể đến một số công trình của các tác giả như: Hoàng Văn
Hành (1982) [37] với tiêu đề “Về cấu trúc nghĩa của tính từ tiếng Việt (trong sự so
sánh với tiếng Nga)”. Trần Thị Thu Huyền (2001) với bài “Hoa cỏ và màu sắc
trong thành ngữ- tục ngữ tiếng Anh và tiếng Việt” [48]. Bùi Thị Thùy Phương
(2004) đã nghiên cứu một số đặc điểm hình thức, cấu trúc nghĩa của từ chỉ màu sắc
trong tiếng Việt nói chung cũng như tần số xuất hiện của chúng trong thơ ca và
thống kê, phân tích cấu trúc ngữ nghĩa của lớp từ chỉ màu sắc trong tiếng Anh và
tiếng Hán. [64]Trong các công trình kể trên, từ ngữ chỉ màu sắc trong tiếng Việt và
tiếng Anh đã được đề cập đến về mặt cấu trúc và ngữ nghĩa với những phạm vi khác
nhau cũng như tần số xuất hiện của chúng dựa vào ngữ liệu là những văn bản thuộc
phong cách ngôn ngữ văn chương. Một số công trình chỉ đi vào hệ thống các từ chỉ
màu sắc trong tiếng Việt, số khác chỉ nghiên cứu hai trong số các màu sắc cơ bản...
Tóm lại, việc so sánh đối chiếu từ chỉ màu sắc cơ bản trong tiếng Anh và
tiếng Việt dưới góc nhìn của ngôn ngữ, văn hóa và tư duy chưa được nghiên cứu
một cách hệ thống và toàn diện. Tuy nhiên, những công trình trên là những tài liệu
tham khảo quan trọng để chúng tôi tiếp tục đào sâu, bổ sung và đi tiếp việc nghiên
cứu về các từ ngữ chỉ màu sắc dưới góc nhìn của ngôn ngữ học so sánh đối chiếu.
1.2. Cơ sở lí luận
Trong mục tiếp theo, chúng tôi sẽ tập trung vào các vấn đề lí thuyết liên quan
đến đề tài và cụ thể là các khái niệm về từ, ngữ, nghĩa của từ, ý nghĩa biểu trưng,

11



các quan điểm về từ ngữ chỉ màu sắc, về văn hóa, mối quan hệ giữa ngôn ngữ và
văn hóa trong tiếng Anh và tiếng Việt. Các khái niệm sẽ được tổng hợp, phân tích
và chúng tôi sẽ đưa ra quan điểm của mình trong việc sử dụng khái niệm hoặc định
nghĩa làm cơ sở cho luận án.
1.2.1. Khái niệm về từ
1.2.1.1. Định nghĩa về từ
a. Định nghĩa về từ trong tiếng Anh
“Từ” (word) xuất hiện như là một khái niệm đơn giản, nhưng để trả lời câu
hỏi “Từ là gì?" lại không hề dễ, nhiều nhà ngôn ngữ đã đưa ra các định nghĩa khác
nhau về từ. Theo Bloomfield (1933), “Về mặt cú pháp, từ được định nghĩa là một
câu ngắn nhất”.
Theo Saussure (1973), mặc dù khó có thể đưa ra định nghĩa chính xác về từ
nhưng ông khẳng định trong toàn bộ cơ cấu của ngôn ngữ, từ vẫn là một đơn vị
trung tâm.[65]
b. Định nghĩa về từ trong tiếng Việt
Hoàng Văn Hành (2008) đã vận dụng năm tiêu chuẩn để xác định từ. Năm
tiêu chuẩn đó là: (i) Từ ngữ âm: Đó là những đơn vị được thống nhất với hiện tượng
ngữ âm nào đó. Đối với Việt ngữ, hiện tượng âm đều đặt trên ngữ lưu có thể dùng
làm tín hiệu phân giới chính là âm tiết; (ii) Từ chính tả: Đó là những khoảng cách
giữa hai chỗ trống trên chữ viết, tức là những đơn vị được viết liền thành một khối;
(iii) Từ hoàn chỉnh: Đó là những cấu trúc ổn định, không thể tách hoặc hoán vị các
thành tố của chúng; (iv) Từ từ điển học: Đó là đơn vị mà căn cứ vào đặc điểm ý
nghĩa của nó phải xếp riêng trong từ điển; (v) Từ biến tố: Đó là những đơn vị luôn
luôn gồm hai phần: một phần nhân từ, biểu hiện ý nghĩa đối tượng, còn một phần
biến tố biểu thị mối liên hệ của từ đó với các từ khác trong câu. Thực chất tiêu
chuẩn này muốn nói đến đặc điểm ngữ pháp của từ - Từ ngữ pháp. [38, tr. 21]
Theo Nguyễn Thiện Giáp (2010), “Từ là đơn vị tồn tại hiển nhiên, sẵn có của
ngôn ngữ. Do tính chất hiển nhiên, có sẵn của các từ mà ngôn ngữ của loài người
bao giờ cũng được gọi là ngôn ngữ của các từ. Chính tổng thể của các từ là vật liệu

xây dựng mà thiếu nó thì không thể hình dung được một ngôn ngữ. Có thể chấp
nhận một định nghĩa chung về từ như sau: Từ là đơn vị nhỏ nhất của ngôn ngữ, độc
lập về ý nghĩa và hình thức.” [31, tr. 440]

12


Các nhà ngôn ngữ học người Anh và người Việt có các quan điểm khác nhau
về định nghĩa của từ. Tuy nhiên, trong tiếng Anh, chúng tôi sử dụng quan điểm của
Hornby A. S. (2005) làm cơ sở cho luận án: “Từ là một đơn vị của ngôn ngữ có
nghĩa và có thể được sử dụng để nói hoặc viết”. [119, tr. 1695]. Trong tiếng Việt,
chúng tôi sử dụng quan điểm của Đỗ Hữu Châu (2005): “Từ của tiếng Việt là một
hoặc một số âm tiết cố định, bất biến, mang những đặc điểm ngữ pháp nhất định,
nằm trong những kiểu cấu tạo nhất định, tất cả ứng với một kiểu ý nghĩa nhất định,
lớn nhất trong tiếng Việt.” [14, tr. 471]
1.2.1.2. Phương thức cấu tạo từ
Khi nghiên cứu đặc điểm cấu tạo tiếng Anh và tiếng Việt, một điểm đáng
chú ý đó là tiếng Anh là một ngôn ngữ phi đơn lập còn tiếng Việt là ngôn ngữ đơn
lập. Sự khác biệt này đã khiến cho tiếng Anh và tiếng Việt có những cách cấu tạo từ
không giống nhau. Nói cách khác tiếng Anh có phương thức tạo từ mà tiếng Việt,
một ngôn ngữ đơn lập, không có, ngược lại tiếng Việt có một số cách cấu tạo từ mà
tiếng Anh không thể nào có được.
a. Phương thức cấu tạo từ trong tiếng Anh
Theo Sidney Greenbaum (1996), tiếng Anh có các phương thức tạo từ chính
đó là phương thức phụ tố (affixation), phương thức ghép (compound) và phương
thức chuyển loại (conversion). Phương thức phụ tố bao gồm phương thức thêm tiền
tố (prefixation) và phương thức thêm hậu tố (suffixation).
(i) Phương thức phụ tố (affixation)
Phương thức phụ tố là phương thức sử dụng phụ tố để bổ sung ý nghĩa từ
vựng cho chính tố để tạo nên một từ mới. Nó cũng có thể được sử dụng để biểu thị

ý nghĩa ngữ pháp của từ. Ví dụ, trong tiếng Anh, từ “happy” (hạnh phúc) có thể
thêm tiền tố un hoặc hậu tố ness để tạo nên các từ phái sinh (derived words) như
unhappy, happiness.
(ii) Phương thức ghép (compounding)
Bên cạnh phương thức sử dụng phụ tố, phương thức ghép (compound) cũng
rất phổ biến trong tiếng Anh. Trong hệ thống từ vựng tiếng Anh, các từ là những từ
đa tiết. Vì vậy, các từ trong tiếng Anh khi đi cùng nhau để tạo thành từ ghép có thể
được đặt thành một từ như: schoolgirl; hai từ nối nhau bằng gạch ngang: recordplayer; hoặc hai từ riêng lẻ: flower garden… Từ ghép trong tiếng Anh cũng được

13


chia thành hai loại: Từ ghép đẳng lập và từ ghép chính phụ.
Trên thực tế sử dụng, hầu hết các từ ghép trong tiếng Anh đều có quan hệ chính
- phụ. Không giống tiếng Việt, yếu tố chính thường đứng trước: vườn hoa, trong
tiếng Anh, yếu tố chính thường đứng sau flower garden. Trật tự của từ ghép quyết
định nội dung ý nghĩa của từ đó: schoolboy (nam sinh) khác với boyschool (trường
dành cho con trai).
Những từ ghép cũng có thể quan hệ đẳng lập với nhau trong từ ghép: secretarydriver (thư kí- lái xe); bitter - sweet (đắng - ngọt)… Những từ ghép này không có
yếu tố phụ thuộc vào yếu tố khác, và nghĩa của nó thường có nội dung của cả hai từ:
secretary - driver (thư kí và lái xe, để gọi một người có thể kiêm cả hai vị trí chứ
không phải đây là từ ghép để gọi tên một loại lái xe).
Ngoài 2 phương thức trên, theo Greenbaum (1996), tiếng Anh còn sử dụng các
phương thức khác như phương thức chuyển loại (conversion), phương thức kết hợp
(combining form), phương thức rút gọn (clipping), phương thức viết tắt
(shortening). Tiếng Anh cũng sử dụng phương thức láy âm (alliteration) như ping
pong (bóng bàn) và láy vần (rhyme) như drain brain (chảy máu chất xám), hurryscurry (hối hả, bận rộn)… nhưng để tạo nên các từ chỉ màu sắc, tiếng Anh chỉ sử
dụng các 2 phương thức: phương thức phụ tố (tiền tố) và phương thức ghép nên
luận án chỉ miêu tả và phân tích các phương thức này làm cơ sở lí luận cho luận án.
b. Phương thức cấu tạo từ trong tiếng Việt

Trong tiếng Việt, đơn vị ngôn ngữ nhỏ nhất có nghĩa là hình vị. Các hình vị
được dùng để cấu tạo ra các từ theo các phương thức cấu tạo từ của tiếng Việt, hay
dựa trên các phương thức tạo từ, ngôn ngữ tác động vào các hình vị để sản sinh ra
các từ. Theo Đỗ Hữu Châu (2005), tiếng Việt có ba phương thức cấu tạo từ là từ
hóa hình vị, ghép hình vị và láy hình vị. [14, tr. 480]
Phương thức từ hóa hình vị là phương thức tác động trực tiếp vào hình vị để
tạo cho nó các đặc điểm ngữ pháp và ý nghĩa của từ, biến hình vị thành từ mà không
thêm bớt gì vào hình thức của hình vị. Phương thức ghép là phương thức kết hợp
hai hoặc hơn hai hình vị có nghĩa để tạo ra một từ mới mang đặc điểm ngữ pháp và
ý nghĩa như một từ. Phương thức thứ ba là phương thức láy. Phương thức này tác
động vào một hình vị cơ sở để sinh ra một hình vị láy giống nó toàn bộ hay bộ phận
về âm thanh. Cả hình vị cơ sở và hình vị láy tạo thành một từ, hay có đặc điểm ngữ

14


pháp và ngữ nghĩa của từ.
Khi nghiên cứu để phân loại từ đã có một số ý kiến khác nhau. Phần lớn tác
giả đều căn cứ vào số lượng hình vị để chia thành từ đơn và từ kép (từ phức hợp).
Các từ phức hợp lại được chia thành từ láy và từ ghép. Căn cứ vào quan hệ cú pháp,
từ ghép lại được chia thành ghép đẳng lập và ghép chính phụ.
Khi phân loại các từ về mặt cấu tạo cần phải chú ý đến tất cả các nhân tố
tham gia cấu tạo từ. Phân loại từ không chỉ là để sắp xếp các từ thành loại mà còn
để phát hiện ra cách thức cấu tạo, tạo điều kiện cho quá trình nhận thức từ… Do
vậy, nói một cách đơn giản, chúng ta có thể phân chia từ tiếng Việt về mặt cấu tạo
thành từ đơn và từ phức, trong đó từ phức bao gồm từ láy và từ ghép. Từ đơn được
tạo thành từ phương thức từ hóa, từ láy từ phương thức láy và từ ghép từ phương
thức ghép. Từ việc phân loại này, chúng ta có thể hình dung ra các phương thức để
sản sinh từ mới từ từ đơn gốc trong tiếng Việt.
1.2.2. Nghĩa của từ

1.2.2.1. Khái niệm về nghĩa từ vựng của từ
Theo tác giả Goddard và Wierzbicka (2014), ngữ nghĩa cũng được xem như
một thành phần của ngôn ngữ học hơn là một quan điểm về ngôn ngữ và ngôn ngữ
học. Tuy nhiên, ý nghĩa chính là tất cả những gì ngôn ngữ diễn đạt. Đối với hầu hết
người dùng ngôn ngữ, người nói và người nghe, nhà văn và người đọc - từ là luôn
luôn “sống”(alive) và "xanh" (green), trong khi các hình thức, biểu tượng và các
công thức trừu tượng có thể dần dần mất đi hoặc không được dùng nữa.[111]
Các nhà Việt ngữ học có nhiều quan điểm và định nghĩa khác nhau về nghĩa
của từ. Tuy nhiên, có thể chia thành 3 nhóm như sau:
(i)

Quan niệm thứ nhất coi nghĩa của từ là một bản thể nào đó. “Nghĩa của từ
là sự vật, hành động, tính chất ngoài thực tế khách quan mà từ biểu thị”.

(ii)

Quan niệm thứ hai coi nghĩa của từ là một quan hệ nào đó. Theo Saussure
(1975), nghĩa, là quan hệ của cái biểu hiện (significant) và cái được biểu
hiện (signifie), trong đó, cái biểu hiện không phải là bản thân tổ hợp ngữ âm
cụ thể mà là hình ảnh tâm lý của nó và cái được biểu hiện là tư tưởng. [65]

(iii)

Theo Nguyễn Thiện Giáp (2010) “Nghĩa của từ (cũng như ở các đơn vị
ngôn ngữ khác) là quan hệ của từ với cái gì đó nằm ngoài bản thân đó.

15


Hiểu nghĩa của một đơn vị nào đó là hiểu đơn vị ấy có quan hệ với cái gì,

tức là nó biểu thị cái gì. Có thể thấy rõ khi quan sát cách người lớn và trẻ
con nắm nghĩa của từ như thế nào. Đối với người lớn, khi không hiểu
nghĩa của một từ nào đó, người ta tra từ điển. Nghĩa của từ chưa biết
được phát hiện thông qua lời giải thích trong từ điển…Khi trẻ con nắm
ngôn ngữ lần đầu tiên thì phải liên hệ âm thanh của từ với sự vật”. Theo
tác giả, cần phân biệt nghĩa của từ với sự hiểu biết vì trong nhận thức của
con người không tồn tại bản thân nghĩa của các từ mà chỉ có sự hiểu biết,
nghĩa của từ tồn tại khách quan trong lời nói, còn trong nhận thức chỉ có
sự phản ánh những nghĩa đó mà thôi. [31,tr 261].
(iv)

Quan niệm thứ ba coi nghĩa của từ là một thực thể tinh thần. Ở Việt Nam,
Đỗ Hữu Châu chính là người nghiên cứu tập trung nhất về nghĩa của từ.
Ông đã đưa ra hình tháp nghĩa hình học không gian thay thế tam giác
hình học phẳng của Stern. Khắc phục những thiếu sót của Stern trình bày
trong tam giác hình học, Đỗ Hữu Châu (2005) cho rằng: Ở đỉnh cao nhất
của hình tháp là từ (trừu tượng) với hai phần hình thức và ý nghĩa (cũng
trừu tượng). Hai phần này quy định lẫn nhau và đều thuộc về từ. Ở mỗi
đỉnh của đáy là năm nhân tố góp phần làm thành ý nghĩa, lần lượt là: sự
vật, hiện tượng; những hiểu biết của tư duy (khái niệm); nhân tố người sử
dụng (nhân tố lịch sử - xã hội); chức năng tín hiệu học và cấu trúc ngôn
ngữ. Số lượng các đỉnh của đáy sẽ tăng lên tùy theo số lượng những nhân
tố được phát hiện thêm. Có thể nói, ưu điểm của hình tháp này là, một
mặt tách được những thực thể đang xem xét (từ các nhân tố) ra khỏi nhau,
đồng thời vạch ra được mối quan hệ giữa chúng. [14, tr. 750]

16


Sơ đồ: Tháp nghĩa hình học không gian [Đỗ Hữu Châu (2005) tr. 750]

Cùng quan điểm với Đỗ Hữu Châu, tác giả Đỗ Việt Hùng (2013) cũng cho
rằng: “Nghĩa của từ là một thực thể tinh thần có quan hệ ổn định với hình thức từ”.
[47, tr. 37].
Ở bình diện khái quát, thoát khỏi các ngôn ngữ cụ thể, có thể nhận thấy cách
nhìn nhận về nghĩa là ngữ nghĩa học cấu trúc-chức năng luận quan hệ với ngữ nghĩa
học tri nhận.
Theo hướng ngữ nghĩa học cấu trúc chức năng hướng đến ngữ nghĩa học tri
nhận, Lê Quang Thiêm (2015) hiểu nghĩa từ vựng của từ như sau: “Nghĩa của từ,
cũng như nghĩa của ngôn ngữ nói chung là một sản phẩm văn hóa tinh thần, tâm lý
của con người… Nó là kết quả của sự phản ảnh, ánh xạ, tri nhận thực tại được tích
hợp lại trong nội dung kí hiệu từ. Nó là nội dung được biểu đạt trong kí hiệu từ mà
hình thức là cái biểu đạt. Nội dung này là sự kí hiệu hóa, là việc sử dụng vào giao
tiếp, tư duy. Đồng thời là kết quả của sự biểu trưng hóa, cấu trúc hóa trong vốn từ
ngữ cũng như trong đặc điểm của ngôn ngữ dân tộc xác định.” [77, tr 27].
Theo hướng ngôn ngữ học tri nhận thì cấu trúc của thế giới khách quan (hiện
thực) được phản ánh trong ngôn ngữ là một sản phẩm của trí tuệ con người, do đó ý
nghĩa thuộc phạm trù tinh thần, phạm vi ý thức, trong hiểu biết của cá nhân và cộng
đồng sử dụng ngôn ngữ, dưới dạng những khái niệm tập quán, thói quen. Với cách

17


tiếp cận biểu hiện này (mà không phải tiếp cận quy chiếu), nghĩa ngôn ngữ thuộc về
nội dung hiểu biết, tri nhận, tri thức của người nói trong ngôn ngữ nói chung, còn
nghĩa của tín hiệu nói riêng là thuộc về tri thức đời thường của người nói (khác với
tri thức bách khoa, có tính khoa học).
Với quan niệm coi trọng vai trò của chủ thể con người trong việc tạo ra, sử
dụng và lưu giữ nghĩa, Lê Quang Thêm cho rằng nghĩa được sử dụng trong hoạt
động, bộc lộ trong quá trình tư duy - giao tiếp bằng ngôn ngữ. Mặt khác, nghĩa cũng
bộc lộ đặc trưng văn hóa tinh thần của người bản ngữ. Khác với quan niệm qui

chiếu theo hình tháp nghĩa hình học không gian của Đỗ Hữu Châu, theo đó, nhân tố
chính quy định nghĩa là ba nhân tố “sự vật”, “hệ thống ngôn ngữ”, “chức năng tín
hiệu học”, trong quan niệm của Lê Quang Thiêm, nhân tố chính là “người nói”; văn
cảnh”; “ngữ cảnh” và “chức năng tín hiệu học”. Việc xác định nhân tố chính trong
việc qui định nghĩa đã tạo ra sự đột phá trong cách hiểu về bản chất của nghĩa cũng
như về việc xác định, phân tích ngữ nghĩa: Nghĩa là một phẩm chất tinh thần biểu
hiện trong tín hiệu ngôn ngữ, nghĩa được dựa trên sự tri nhận định hình ở cấu trúc,
khái niệm thông tục quy ước hóa. Cấu trúc ngữ nghĩa tuân theo qui luật tri nhận ánh
xạ của những phạm trù tri nhận tinh thần mà con người đã hình thành từ kinh
nghiệm của mình. [77, tr. 68-70]
Như vậy, từ nhiều quan niệm khác nhau, theo chúng tôi, có thể xác định
cách hiểu mang tính tổng quát về nghĩa của từ như sau: Nghĩa của từ là nội dung
mà từ biểu hiện, là nội dung hiểu biết, tri nhận, tri thức đời thường của người nói,
được bộc lộ trong quá trình tư duy - giao tiếp bằng ngôn ngữ, nghĩa được hình
thành do sự kết hợp và tác động của nhiều nhân tố. Trong số đó, có những nhân tố
nằm trong và ngoài ngôn ngữ (sự vật, hiện tượng trong thực tế khách quan, tư duy
người sử dụng) và những nhân tố nằm trong ngôn ngữ (chức năng tín hiệu học, hệ
thống cấu trúc của ngôn ngữ), trong đó các nhân tố chính là người nói, văn cảnh,
ngữ cảnh và chức năng tín hiệu học. Nghĩa cũng bộc lộ đặc trưng văn hóa tinh thần
của người bản ngữ.
1.2.2.2. Các thành phần nghĩa của từ
Khi đưa ra hình tháp nghĩa hình học không gian, tác giả Đỗ Hữu Châu

18


(2005) đã chỉ ra mối quan hệ giữa từ và các nhân tố góp phần hình thành ý nghĩa.
Tác giả nhấn mạnh từ mối quan hệ giữa từ và sự vật hình thành ý nghĩa biểu vật, từ
mối quan hệ của từ với khái niệm sẽ hình thành các ý nghĩa biểu niệm, từ mối quan
hệ với nhân tố người dùng hình thành các ý nghĩa phong cách và liên hội, từ mối

quan hệ với cấu trúc của ngôn ngữ với các từ khác sẽ hình thành các ý nghĩa, cấu
trúc và quan hệ giữa ý nghĩa với các thành phần hình thức mà hình thành các ý
nghĩa cấu tạo từ, các ý nghĩa ngữ pháp. Từ sự phân định trên của tác giả Đỗ Hữu
Châu, ta thấy có hai thành phần nghĩa lớn là ý nghĩa từ vựng và ý nghĩa ngữ pháp.
Trong đó, ý nghĩa từ vựng là ý nghĩa của riêng từng từ, còn ý nghĩa ngữ pháp là ý
nghĩa mang tính đồng loạt chung cho nhiều từ.
Trong ngôn ngữ có những từ có chức năng định danh, hay còn gọi là khả
năng gọi tên cho các sự vật, hiện tượng, hoạt động, tính chất, quan hệ… trong thực
tại khách quan, ta gọi đó là các từ định danh (đen, trắng, đỏ,…). Bên cạnh các từ
định danh, có các từ không có khả năng gọi tên như trên mà chỉ có vai trò thực hiện
các chức năng ngữ pháp khác nhau khi tạo câu, tạo văn bản, ta gọi đó là các từ phi
định danh (vì, nên, hoặc..). Nghĩa của từ định danh không phải là một khối không
phân hóa. Nó là một thể thống nhất gồm bốn thành phần nghĩa: nghĩa biểu vật,
nghĩa biểu niệm và nghĩa ngữ pháp, nghĩa biểu thái (nghĩa ngữ dụng). Trong đó ba
thành phần nghĩa biểu vật, nghĩa biểu niệm và nghĩa biểu thái gộp thành nghĩa từ
vựng của từ. Vì vậy, hễ nói đến nghĩa từ vựng của từ thì ta chỉ đề cập đến loại từ
định danh. Dưới đây, chúng ta sẽ lần lượt xem xét từng thành phần nghĩa từ vựng
của từ.
* Ý nghĩa biểu vật (denotative meaning): Là phần nghĩa của từ liên quan đến sự vật
hoặc phạm vi sự vật mà từ đó được sử dụng trong thế giới mà từ gợi ra khi ta tiếp
xúc với nó. Ý nghĩa biểu vật ứng với chức năng biểu vật. Nói cách khác, ý nghĩa
biểu vật của từ là các ánh xạ của các sự vật, thuộc tính ngoài ngôn ngữ vào ngôn
ngữ. Tuy nhiên, các ánh xạ của các sự vật, thuộc tính trong thực tế được phản ánh
vào ngôn ngữ không hoàn toàn đồng nhất với các ánh xạ được phản ánh trong tự
nhiên. Đó là những mẩu, những mảnh, những đoạn cắt của thực tế nhưng không
hoàn toàn trùng khớp với thực tế. Nghĩa là, ánh xạ trong ngôn ngữ có sự cải tạo lại,

19



sáng tạo lại những cái có trong thực tế. [14, tr. 777].
* Ý nghĩa biểu niệm (signicative meaning): Là phần nghĩa của từ liên quan đến hiểu
biết về ý nghĩa biểu vật của từ. Sự vật, hiện tượng trong thực tế khách quan có các
thuộc tính, các thuộc tính đó được phản ánh vào tư duy và hình thành nên khái
niệm. Vậy nên, khái niệm là một phạm trù của tư duy được hình thành từ những
hiểu biết trong thực tế. Đấy là những dấu hiệu bản chất về sự vật, hiện tượng. Khi
các dấu hiệu bản chất đó được phản ánh vào ngôn ngữ sẽ hình thành nên các nét
nghĩa. Tập hợp các nét nghĩa đó trong ngôn ngữ chính là ý nghĩa biểu niệm của từ.
[14, tr. 548].
Như vậy, ý nghĩa biểu niệm của từ là tập hợp của một số nét nghĩa chung và
riêng, khái quát và cụ thể theo một tổ chức, một trật tự nhất định. Giữa các nét
nghĩa có những quan hệ nhất định.
* Ý nghĩa biểu thái (pragmatical meaning): Là phần nghĩa của từ liên quan đến thái
độ, cảm xúc, cách đánh giá. Sự vật, hiện tượng biểu thị trong ngôn ngữ đều là
những sự vật, hiện tượng đã được nhận thức, được thể nghiệm bởi con người. Do
đó, khi gọi tên sự vật, hiện tượng, con người thường gửi kèm theo những cảm xúc,
thái độ và cách đánh giá của bản thân vào ngôn ngữ. Thuộc phạm vi ý nghĩa biểu
thái của từ bao gồm những nhân tố đánh giá, nhân tố cảm xúc, nhân tố thái độ… mà
từ gợi ra cho người nói và người nghe.
Đỗ Hữu Châu (2005) cho rằng: Nếu như thông điệp có lõi miêu tả và bộ
phận tình thái thì ở từ lõi miêu tả là ý nghĩa biểu niệm còn bộ phận tình thái chính là
ý nghĩa biểu thái của từ. Do đó, ý nghĩa biểu thái có vai trò quan trọng trong việc
định hướng dùng từ trong hoạt động giao tiếp cụ thể. [14, tr. 870]
Theo Nguyễn Thiện Giáp (2001), khi nói đến ý nghĩa trong ngôn ngữ, người
ta thường nghĩ ngay đến nghĩa riêng của từng đơn vị (từ, câu...). Ý nghĩa riêng của
từng từ được gọi là ý nghĩa từ vựng, còn ý nghĩa riêng của từng câu cũng thuộc
phạm trù ý nghĩa từ vựng vì nó do ý nghĩa từng vựng của các từ trong câu trực tiếp
tạo nên. Bên cạnh loại ý nghĩa trên, mỗi loạt đơn vị còn có ít nhất một ý nghĩa
chung bao trùm lên. Chẳng hạn 3 từ boy, pen, book đều có ý nghĩa chung là "sự vật"
và "số ít"... Loại ý nghĩa chung bao trùm lên một loạt đơn vị ngôn ngữ như vậy gọi


20


×