Tải bản đầy đủ (.pdf) (56 trang)

TÌNH HÌNH BỆNH LIÊN QUAN ĐƯỜNG SINH DỤC CHÓ CÁI TẠI TRẠM CHẨN ĐOÁN XÉT NGHIỆM VÀ ĐIỀU TRỊ TẠI CHI CỤC THÚ Y THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 56 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NÔNG LÂM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH


KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

TÌNH HÌNH BỆNH LIÊN QUAN ĐƯỜNG SINH DỤC CHÓ CÁI TẠI
TRẠM CHẨN ĐOÁN XÉT NGHIỆM VÀ ĐIỀU TRỊ TẠI CHI CỤC
THÚ Y THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Sinh viên thực hiện: NGUYỄN TIẾN THỊNH
Ngành

: Thú y

Niên khoá

: 2003 - 2008

Tháng 7/2008
1


TÌNH HÌNH BỆNH LIÊN QUAN ĐƯỜNG SINH DỤC CHÓ CÁI TẠI
TRẠM CHẨN ĐOÁN XÉT NGHIỆM VÀ ĐIỀU TRỊ TẠI CHI CỤC
THÚ Y THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Tác giả

NGUYỄN TIẾN THỊNH


Khoá luận được đệ trình để đáp ứng yêu cầu
cấp bằng Bác sỹ ngành Thú y

Giáo viên hướng dẫn:
PGS.TS. LÂM THỊ THU HƯƠNG
BSTY. HUỲNH HỮU THỌ
BSTY. VŨ KIM CHIẾN

Tháng 7 năm 2008
2


CẢM TẠ

Trước hết, con muốn tạ ơn cha mẹ, các đấng đã sinh thành ra con , hết lòng nuôi
dưỡng, dạy dỗ con nên người và cho con cuộc sống ngày hôm nay.
Em cũng xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến:
Ban Giám Hiệu Trường Đại Học Nông Lâm TP.HCM
Ban Chủ Nhiệm Khoa Chăn Nuôi – Thú Y
Bộ môn Bệnh lý – Ký sinh
Cùng toàn thể các thầy cô thuộc Khoa Chăn Nuôi – Thú Y, Trường Đại Học Nông
Lâm đã tận tình giảng dạy , truyền đạt cho em những kiến thức chuyên môn cũng như
những kinh nghiệm quý báu về cuộc sống trong suốt thời gian em thụ học.
Đặc biệt, em xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành đến PGS.TS. Lâm Thị Thu Hương,
TS. Đường Chi Mai, BSTY. Huỳnh Hữu Thọ và BSTY. Vũ Kim Chiến đã tận tình hướng
dẫn, giúp đỡ em hoàn thành tốt bài luận văn tốt nghiệp.
Em xin cảm ơn Ban Lãnh Đạo Chi Cục Thú Y Thành Phố Hồ Chí Minh cùng các
cô chú, anh chị tại Trạm Chẩn Đoán, Xét Nghiệm và Điều Trị đã tạo mọi điều kiện thuận
lợi và giúp đỡ em trong thời gian thực tập.
Và cuối cùng, xin cảm ơn các bạn lớp thú y 29 đã hết lòng hỗ trợ, giúp đỡ và động

viên tôi vượt qua khó khăn trong suốt những năm học tập tại Trường Đại Học Nông Lâm
TP.Hồ Chí Minh.

3


TÓM TẮT LUẬN VĂN
Đề tài “Tình hình bệnh liên quan đường sinh dục chó cái tại trạm Chẩn đoán, Xét
nghiệm và Điều trị tại Chi Cục Thú Y Thành Phố Hồ Chí Minh” được thực hiện trong
thời gian từ 12/03/2008 đến 12/05/2008.
Chúng tôi đã khảo sát 1431 chó cái mang đến khám và điều trị tại Trạm để đánh
giá tình hình bệnh đường sinh dục chó cái đến khám và điều trị tại Trạm, khảo sát một số
đặc điểm về đường sinh dục trên chó cái và đánh giá hiệu quả điều trị.
Kết quả ghi nhận:
- Số chó cái có bệnh liên quan đường sinh dục là 142 ca (9,92%), trong đó có 11 ca
bệnh đường sinh dục ghép tiết niệu, 4 ca đường sinh dục ghép tiêu hóa và 2 ca đường sinh
dục ghép hô hấp.
- Bệnh đường sinh dục phổ biến nhất trên chó cái khảo sát là bệnh viêm tử cung có
mủ (72 ca, 57,6%), kế đó là thai chết (16 ca, 12,8%), sảy thai (10 ca, 8%), bướu tử cung
(5 ca, 4%), bướu buồng trứng (4 ca, 3,2%), bướu âm đạo (4 ca, 3,2%), viêm âm đạo (4 ca,
3,2%), sót nhau (4 ca, 3,2%), thai yếu (3 ca, 2,4%), viêm vú (2 ca, 1,6%) và cuối cùng là
bướu vú (1 ca, 0,8%).
- Trong số ca bướu liên quan sinh đường sinh dục thì bướu tử cung chiếm tỷ lệ cao
nhất (5 ca, 35,71%), kế đó là bướu âm đạo (4 ca, 28,57% ), bướu buồng trứng (4 ca,
28,57%) và thấp nhất là bướu vú (1ca, 7,14%).
- Trong số các ca được chẩn đoán bằng siêu âm thì tỷ lệ phát hiện chó bị viêm tử
cung có mủ chiếm tỷ lệ cao nhất (89 ca, 67,93%), kế đó là thai chết (16 ca, 12,21%), sảy
thai (10 ca, 7,63%), bướu tử cung (5 ca, 3,82%), bướu buồng trứng (4 ca, 3,05%), sót
nhau (4 ca, 3,05%) và thấp nhất là thai yếu (3 ca, 2,3%).
- Kết quả kiểm tra sự hiện diện của bạch cầu trong 19 mẫu dịch viêm, cho thấy 8

mẫu có sự hiện diện của bạch cầu trung tính, trong đó có 5 mẫu ở mức độ 3+, 2 mẫu ở
mức độ 2+ và 1 mẫu ở mức độ 1+.
- Kết quả theo dõi trên 142 ca điều trị cho thấy có 128 trường hợp (90,14%) chó
khỏi bệnh trong đó tỷ lệ khỏi bệnh theo từng dạng bệnh như sau: viêm tử cung có mủ (65
ca, 90,27%), viêm âm đạo (4 ca, 100%), viêm vú (2 ca, 100%), bướu vú (100%), bướu âm
4


đạo (3 ca, 75%), bướu tử cung (4 ca, 80%), bướu buồng trứng (4 ca, 100%), sót nhau (3
ca, 75%), sảy thai (9 ca, 90%), thai chết (15 ca, 93,75%), thai yếu (3 ca, 100%) và bệnh
đường sinh dục ghép (15 ca, 88,23%).

5


Chương 1
MỞ ĐẦU
1.1 ĐẶT VẤN ĐỀ
Xã hội ngày càng phát triển làm cho mức sống của người dân ngày càng được cải
thiện và nâng cao. Ở những trung tâm đô thị lớn, nơi có áp lực công việc và cuộc sống
căng thẳng hơn, người dân càng có xu hướng tìm về với thiên nhiên. Họ trồng cây cảnh,
nuôi chim thú các loại, trong đó chó, mèo là hai con vật được ưa chuộng và phổ biến nhất,
đặc biệt là chó.
Có thể nói chó là người bạn lâu đời nhất của con người. Sở dĩ chó được ưa chuộng
là do có các đặc tính: dễ nuôi, tinh khôn và trung thành với chủ. Người ta nuôi chó với
nhiều mục đích khác nhau. Có người nuôi chó để giữ nhà. Có người nuôi chó để làm
cảnh… Chó được xem như là một người bạn thân của các em nhỏ, người già cô đơn, và
còn là một thành viên của gia đình. Cũng như các loài động vật khác, việc nuôi chó đòi
hỏi cần phải có một số kiến thức nhất định về dinh dưỡng, chăm sóc và phòng bệnh cho
chó. Hiện nay cùng với sự gia tăng về số lượng và chủng loại chó thì tình hình bệnh trên

loài động vật này cũng ngày càng đa dạng và phức tạp. Bên cạnh các bệnh truyền nhiễm
khác, thì bệnh trên đường sinh dục của chó cái là một loại bệnh khá phổ biến.
Từ những nhu cầu thực tiễn trên và do được sự phân công của Bộ Môn Bệnh LýKý Sinh thuộc Khoa Chăn Nuôi Thú Y Trường Đại Học Nông Lâm Tp.HCM, cùng với sự
chấp thuận của Trạm Chẩn đoán Xét nghiệm và Điều trị thuộc Chi cục Thú y Tp.HCM,
dưới sự hướng dẫn của PGS.TS. Lâm Thị Thu Hương, BSTY. Huỳnh Hữu Thọ, BSTY.
Vũ Kim Chiến, chúng tôi thực hiện đề tài:
“ TÌNH HÌNH BỆNH LIÊN QUAN ĐƯỜNG SINH DỤC CHÓ CÁI TẠI TRẠM
CHẨN ĐOÁN XÉT NGHIỆM VÀ ĐIỀU TRỊ THUỘC CHI CỤC THÚ Y THÀNH
PHỐ HỒ CHÍ MINH”.

6


1.2 MỤC ĐÍCH-YÊU CẦU
1.2.1 Mục đích
Đánh giá tình hình bệnh liên quan đường sinh dục ở chó cái và hiệu quả điều trị
đang được áp dụng tại Trạm Chẩn đoán Xét nghiệm và Điều trị - Chi cục Thú y TP.HCM
nhằm mục đích cung cấp thêm những thông tin trong việc phòng và điều trị bệnh liên
quan đường sinh dục chó cái.
1.2.2 Yêu cầu
- Khảo sát tình hình bệnh liên quan đường sinh dục ở chó cái theo tuổi và giống.
- Chẩn đoán bệnh bằng phương pháp lâm sàng và phi lâm sàng.
- Theo dõi và ghi nhận hiệu quả điều trị bệnh liên quan đường sinh dục ở chó cái.

7


Chương 2
TỔNG QUAN
2.1 ĐẶC ĐIỂM SINH LÝ CỦA CHÓ

2.1.1 Thân nhiệt
- Chó lớn 38 - 390C
- Chó nhỏ 35,5 - 36,10C
2.1.2 Nhịp thở và nhịp tim
Nhịp thở
- Chó lớn: 10 - 40 lần/phút
- Chó nhỏ: 15 - 35 lần/phút
Nhịp tim
- Chó lớn: 60 - 160 lần/phút
- Chó nhỏ: trên 200 lần/phút
2.1.3 Tim
- Chó có tầm vóc càng nhỏ thì nhịp tim đập càng nhanh:
Chó con: khoảng 120 lần/phút.
Chó trưởng thành: khoảng 100 lần/phút.
Chó già: khoảng 80 lần/phút.
- Chó có tầm vóc càng lớn thì nhịp tim đập càng chậm.
St-Bernard: 70 lần/phút.
Caniche:

90 lần/phút.

Yorkshire:

120 lần/phút..

2.1.4 Sinh sản
- Chó đực có tuổi thành thục: 7 - 10 tháng tuổi.
- Chó cái có tuổi thành thục: 6 - 12 tháng tuổi.

8



Chu kỳ lên giống thông thường xảy ra mỗi năm 2 lần , thời gian động dục 12 – 20
ngày, thời điểm phối giống thích hợp từ 9 - 13 ngày sau khi có biểu hiện lên giống đầu
tiên.
Theo quy luật chung, chó cái có tuổi thành thục từ 7 - 10 tháng tuổi nhưng tuổi
thành thục cũng có sự khác biệt rõ rệt giữa các giống. Ở những giống có tầm vóc nhỏ thì
tuổi thành thục bắt đầu từ 6 tháng tuổi và từ 15 - 18 tháng tuổi đối với những giống chó
có tầm vóc lớn.
Chó cái có chu kỳ động dục là 180 ngày, chu kỳ động dục cũng có sự khác biệt
giữa các giống với nhau, chu kỳ động dục cũng có thể kéo dài từ 4 - 12 tháng tùy theo
giống.
Trong những ngày đầu của chu kỳ động dục, chó cái có hiện tượng kinh nguyệt.
Chó cái chưa sẵn sàng cho việc giao phối thì chó sẽ từ chối việc gần gũi với chó đực và có
xu hướng là hung dữ với chính nó và cả những chó cái ở chung với nó. Từ ngày thứ 10,
chu kỳ động dục được biểu hiện bằng lượng máu mất đi ít hơn, chó cái sẵn sàng cho việc
giao phối và chấp nhận gần gũi với chó đực. Thời gian phối giống thích hợp nhất là từ
ngày thứ 10 đến ngày thứ 12 sau động dục.
Thông thường, thời điểm bắt đầu của chu kỳ động dục rất khó xác định, do đó
trong trường hợp muốn phối giống thích hợp thì cần có sự giúp đỡ của bác sỹ thú y để đo
lượng progesterone có trong máu và để xác định ngày phối giống thích hợp.
Chó cái có thể đẻ trong suốt cuộc đời của nó. Những hoạt động sinh dục không
biến mất, nó chỉ có xu hướng thưa đi và giảm cường độ.
2.1.5 Thời gian mang thai
Thời gian mang thai của chó từ 58 - 63 ngày, số con đẻ phụ thuộc vào giống chó,
thông thường 1 - 15 con/lứa, cai sữa từ 8 - 9 tuần tuổi.
2.1.6 Nước tiểu
Trung bình một ngày chó thải một lượng nước tiểu có thể tích từ 0,5 đến 2 lít,
lượng nước tiểu mà chó thải ra có các thông số sau:
- pH: 5,5 - 7.

- Urê: 0,8.
9


- Tỷ trọng: 1,016 - 1,060.
2.1.7 Máu
- Máu chiếm thể tích là 7,2 % trọng lượng cơ thể.
- Thời gian đông máu là 2,5 phút.
Chỉ tiêu

Thông số lý thuyết

Hồng cầu

5 - 10

Hb (g/dL)

8 - 15

Hematocrit (%)

24 - 48

Tiểu cầu (ngàn/mm3)

50 - 750

Bạch cầu (ngàn/mm3)


4 - 12

Bách phân bạch cầu:
40 - 70

Lymphocyte
Monocyte

1-6

Eosinophile

0-4

Basophile

0-2

Neutro gậy cầu

0-4

Neutro ấu cầu

0

Neutro tuỷ cầu

0


Neutro đốt cầu

20-40

( Nguồn: Chi cục Thú Y, 2008 )
2.2 ĐẶC ĐIỂM HỆ SINH DỤC CHÓ CÁI
2.2.1 Cấu tạo hệ sinh dục chó cái
Cơ quan sinh dục chó cái bao gồm: buồng trứng, ống dẫn trứng, tử cung, âm đạo,
tiền đình, âm hộ, dây rộng.

10


Hình 2.1: Cấu tạo cơ quan sinh dục cái
( www.vietpet.com )
2.2.1.1 Buồng trứng
Buồng trứng là nơi sản xuất trứng (noãn bào), tổng hợp và phân tiết hormone sinh
dục cái.
- Hình thái
Chó cái có 2 buồng trứng hình bầu dục nằm trong túi buồng trứng , nằm ở hai bên
trong xoang bụng và nằm phía sau thận. Mỗi buồng trứng được nối với tử cung bằng một
dây riêng. Buồng trứng bên phải nằm về phía trước so với buồng trứng bên trái. Mặt
ngoài của buồng trứng tròn lồi, mặt trong là đường đi của mạch máu, dây thần kinh gọi là
tể noãn. Buồng trứng dính chặt với thắt lưng nhờ vào phần trước của dây chằng rộng tử
cung gọi là màng treo buồng trứng.
- Cấu tạo
Buồng trứng có hệ thống mô liên kết, trên đó có nhiều nang noãn chứa noãn ở
nhiều giai đoạn phát triển khác nhau. Các noãn còn non có nhiều lớp tế bào bao bọc, bên
trong chứa dịch nang. Noãn chín hay noãn trưởng thành có kích thước lớn, lớp bao bên
ngoài mỏng dần do các lớp tế bào tiêu biến, có chứa dịch chất và trồi lên bề mặt của

buồng trứng gọi là noãn De Graaf (Phan Quang Bá, 2004). Khi nang noãn vỡ các chất
dịch thoát ra cùng với noãn bào, hiện tượng này gọi là sự xuất noãn. Sau khi xuất noãn,
11


xoang của nang noãn sẽ đông máu gọi là hồng thể. Sau đó lớp tế bào của nang phát triển
và thành lập hoàng thể. Nếu không có sự thụ tinh hoàng thể sẽ thoái hoá dần, mô liên kết
phát triển thành sẹo có màu trắng hay nâu nhạt, được gọi là bạch thể (Lâm Thị Thu
Hương, 2000).
2.2.1.2 Ống dẫn trứng
Đây là một ống ngoằn ngoèo, nối từ buồng trứng đến tử cung . Một đầu ống dẫn
trứng có đường kính nhỏ, đầu còn lại gần buồng trứng thì đường kính càng lớn dần, tới
buồng trứng thì nở rộng ra tạo thành vòi Fallop. Trứng rụng sẽ rơi vào vòi Fallop để đi
vào ống dẫn trứng, trứng sẽ đi tiếp vào tử cung và sự thụ tinh xảy ra ở 1/3 ống dẫn trứng.
Cấu tạo của ống dẫn trứng gồm 3 lớp:
- Lớp áo trơn bên ngoài, dính trực tiếp với màng treo ống dẫn trứng.
- Lớp cơ gồm 2 lớp: cơ dọc ở ngoài và cơ vòng ở trong.
- Lớp niêm mạc nằm ở trong cùng, có nhiều nếp gấp, cấu tạo bằng những tế bào
trục có tiêm mao. Các tiêm mao có chức năng hướng trứng về phía tử cung.
2.2.1.3 Tử cung
Ở thú ăn thịt thì tử cung có hai sừng có kích thước rộng và dài. Đối với chó cái có
kích thước trung bình thì tử cung có chiều dài từ 12 - 16 cm, chiều rộng từ 8 - 9 mm,
nhưng thân tử cung có chiều dài không quá 3 - 4 cm và cổ tử cung có chiều dài không quá
1,5 - 2 cm và hai sừng tử cung có chiều dài khoảng vài cm. Trong thực tế, sừng tử cung
bên phải dài hơn sừng tử cung bên trái. Tử cung có chức năng giữ và nuôi dưỡng noãn
trong quá trình phôi và bào thai được hình thành.
- Kích thước và hình dạng bên ngoài
Tử cung là ống tiếp nối ống dẫn trứng phía trước và âm đạo phía sau. Tử cung là
một ống cơ rỗng, phần lớn nằm trong xoang bụng, phần còn lại nằm trong xoang chậu.
Kích thước của tử cung rất thay đổi, tùy thuộc vào kích thước của thú, số lần mang thai,

tình trạng bệnh lý sinh sản và thú có mang thai hay không.
Tử cung có cấu tạo gồm 3 phần: sừng tử cung, thân tử cung và cổ tử cung.

12


+ Sừng tử cung: có dạng hình chữ S, nằm hoàn toàn trong xoang bụng. Các sừng
tử cung thường bị ép sát vào thành bụng bởi ruột, các sừng tử cung nhỏ về phía trước và
rộng dần về phía sau. Sừng tử cung có chiều dài từ 5 - 15 cm.
+ Thân tử cung: nằm một phần trong xoang bụng và nằm một phần trong xoang
chậu. Thân tử cung là nơi tiếp giáp giữa hai sừng. Thân tử cung có đường kính lớn hơn
nhưng ngắn hơn hai sừng tử cung. Thân tử cung có mặt trên tiếp giáp với trực tràng, mặt
dưới tiếp giáp với bàng quang.
+ Cổ tử cung: là phần thu hẹp ở phía sau nhưng có thành rất dày, tiếp giáp giữa
thân tử cung với âm đạo. Cổ tử cung có kích thước 1 - 2 cm.
- Cấu tạo
Từ ngoài vô trong, tử cung gồm 3 lớp:
+ Lớp áo trơn: liên tục với dây rộng tử cung.
+ Lớp cơ: gồm cơ dọc ở ngoài mỏng và cơ vòng ở trong dày hơn. Giữa 2 lớp cơ có
1 lớp mô liên kết chứa rất nhiều mạch máu. Áo cơ dày nhất ở cổ tử cung.
+ Lớp niêm mạc có màu hồng, với nhiều tế bào tiết dịch nhầy và có lông mao, khi
cơ hoạt động các tiêm mao đẩy dịch nhầy về phía sau.

Hình 2.2: Cấu tạo tử cung của chó
( www.vietpet.com )
13


2.2.1.4 Âm đạo
Âm đạo là đường sinh dục lớn, phía sau tiếp tục với cổ tử cung và âm hộ, đây là

nơi tiếp nhận cơ quan sinh dục của thú đực. Âm đạo nằm hoàn toàn trong xoang chậu,
nằm phía sau cổ tử cung, phía trên tiếp xúc với trực tràng, phía dưới tiếp xúc với bàng
quan và ống thoát tiểu. Ở chó cái âm đạo có kích thước rất dài, chiều dài có kích thước từ
12 - 15 cm đối với những con chó có kích thước trung bình. Nếu nhìn từ phía ngoài rất
khó phân biệt ranh giới giữa âm đạo và tử cung.
Âm đạo có cấu tạo gồm 3 lớp:
- Áo trơn ở bên ngoài, gồm phần lớn là mô liên kết đàn hồi, phía trước được phần
sau màng bụng bao phủ.
- Áo cơ gồm 2 lớp: cơ dọc ở ngoài và cơ vòng ở trong.
- Lớp niêm mạc có nhiều nếp gấp dọc, nhờ đó âm đạo có thể tăng đường kính rất
lớn.
2.2.1.5 Tiền đình
Là giới hạn cuối âm đạo và âm hộ phía sau. Ở chó cái, tiền đình có chiều dài từ 5 6 cm, tiền đình được che phủ bởi lớp màng nhầy trơn, màu đỏ xanh nhạt, sậm màu hơn
âm hộ. Chó cái có một bọng tiền đình có kích thước giới hạn, chiều cao từ 10 - 15 mm, có
một đám rối thần kinh trải dài lớp màng nhầy tiền đình.
2.2.1.6 Âm hộ
Âm hộ là cửa mở ra ngoài của cơ quan sinh dục cái, nằm dưới hậu môn, bên ngoài
là lớp da chứa sắc tố, hình bầu dục. Âm hộ có hai môi, một ống niệu dục ngoài và một
khe hẹp. Mép dưới của âm hộ có thể tròn nằm trong một xoang nhỏ, đó chính là âm vật
hay dấu vết của dương vật trên thú đực. Âm hộ phân biệt với âm đạo bằng một bờ liên kết
thấp là dấu vết của màng trinh.
2.2.1.7 Dây rộng
Là những nếp gấp phúc mô có nhiệm vụ treo các cơ quan sinh dục bên trong ngoại
trừ âm đạo, âm hộ và gồm:
- Màng treo tử cung: bắt nguồn từ phần bên xương chậu và vùng dưới thắt lưng để bám
vào cạnh của đoạn trước âm đạo, cổ tử cung, thân tử cung và sừng tử cung tương ứng.
14


- Màng treo ống dẫn trứng: là phần nối tiếp phần trên để bám vào các ống dẫn trứng và

tạo với màng treo buồng trứng thành túi buồng trứng.
- Màng treo buồng trứng: là phần dây rộng là thành vách phía trong của túi buồng trứng.
Túi buồng trứng là túi phúc mô mỏng, thành bao bọc và chứa đựng buồng trứng, túi thông
vào xoang phúc mô qua một khe hẹp ở mặt trong (Phan Quang Bá, 1998).
2.2.2 Tuyến vú
Phát triển hoàn toàn cho tới tuổi thành thục, vú phát triển dần theo chu kỳ động
dục và suốt thời gian mang thai và sự tiết sữa xảy ra ngay sau khi sinh (Trần Thi Dân,
2000).
2.2.3 Sinh lý sinh sản chó cái
Tuổi thành thục hay trưởng thành sinh dục là tuổi mà cơ quan sinh dục bắt đầu
hoạt động, buồng trứng của thú cái có thể sinh sản noãn bào, dịch hoàn sinh tinh trùng và
các tế bào giao tử này có khả năng thụ tinh.
Sinh lý sinh sản của chó cái rất phức tạp hơn là chó đực do có sự xuất hiện của
chu kỳ sinh dục. Chu kỳ sinh dục có sự lập đi lập lại mang tính chu kỳ xảy ra theo thứ tự
trong suốt quá trình sống của chó cái, do hình thái cơ thể và sinh lý của bộ máy sinh dục
mà chu kỳ sinh dục được đặc trưng bằng sự động dục.
Chó có khoảng thời gian không động dục rất dài và trong kỳ sinh sản chỉ có một
chu kỳ động dục. Chó có 2 đợt động dục trong một năm, mỗi đợt cách nhau 6 tháng,
thường vào mùa xuân từ tháng 1 đến tháng 3 và mùa thu từ tháng 7 đến tháng 9.
Các yếu tố ảnh hưởng đến chu kỳ động dục của chó:
- Tuổi: những con chó già lớn tuổi thì sự động dục sẽ chậm và ít hơn những con chó đang
ở thời kì trưởng thành sinh dục. Chó cái đạt đến tuổi thành thục sớm thì ở lần động dục
đầu tiên số lượng trứng xuất thấp hơn so với các lần động dục tiếp.
- Giống: các giống chó có tầm vóc nhỏ thì có tuổi thành thục sớm hơn các giống chó có
tầm vóc lớn. Chó lai đạt tuổi thành thục sớm hơn chó thuần chủng.
- Dinh dưỡng: chế độ chăm sóc nuôi dưỡng hợp lý giúp cho chó có thể đạt tuổi thành thục
phù hợp với loại giống. Ngoài ra, khi chó lên giống và kỳ đẻ tới khi động dục trở lại nếu
gia tăng mức dinh dưỡng thì sẽ làm gia tăng tỉ lệ rụng trứng.
15



- Pheromon: con cái mẫn cảm với mùi pheromon có trong nước tiểu của con đực. Vì vậy
nên đặt chuồng của con đực gần với chuồng con cái thì chó cái sẽ sớm động dục trở lại.
- Tiếng kêu của con đực: cũng là nhân tố bên ngoài quan trọng trong việc gợi cảm sự
thèm muốn sinh dục cho con cái, làm nó có biểu hiện động dục sớm.
- Khí hậu: chó ở vùng khí hậu nóng trưởng thành sớm hơn chó ở vùng khí hậu lạnh.
- Sử dụng con đực giao phối cho con cái: là yếu tố kích thích mạnh làm xuất hiện phản xạ
đứng yên (mê ì) khêu gợi sự thèm muốn sinh dục.
- Yếu tố thần kinh: khi con thú bị stress thì cũng ảnh hưởng đến chu kỳ động dục của con
cái.
- Kích thích tố: các hormone FSH, LH, estrogen, progesterone,…được phân tiết không
đều ảnh hưởng tới sự động dục của chó cái.
- Bệnh lý: con cái rối loạn sinh sản, mang thai giả do tồn hoàng thể, viêm tử cung, viêm
âm đạo, u nang buồng trứng,…
Chu kỳ động dục của chó cái thường kéo dài 6 tháng hay có những cá thể kéo dài
đến 10 - 12 tháng. Một chu kỳ được chia làm bốn giai đoạn: giai đoạn trước động dục,
giai đoạn động dục, giai đoạn sau động dục và giai đoạn nghỉ ngơi.
2.2.3.1 Giai đoạn trước động dục
Âm hộ sưng to, có chất nhờn, sau đó có máu, giai đoạn này kéo dài khoảng 9 ngày.
Nếu quá ngắn (2 - 3 ngày) hay quá dài (hơn 25 ngày) là tình trạng bất thường. Giai đoạn
này lượng estrogen tăng cao dưới sự kích thích của FSH và sự hỗ trợ của LH. Kết quả là
lượng estrogen trong máu tăng cao dần và đạt đỉnh cao vào khoảng 1 - 2 ngày cuối của
giai đoạn trước động dục.
Giai đoạn này pheromon được phân tiết để dẫn dụ chó đực nhưng không cho chó
đực giao phối.
2.2.3.2 Giai đoạn động dục
Giai đoạn này xác định được khi chó có biểu hiện chịu đực, âm môn bớt sưng và ít
chảy máu. Giai đoạn này kéo dài khoảng 9 ngày, chó có thời gian động dục từ 5 - 10 ngày
thì tỷ lệ thụ thai rất cao, nếu kéo dài từ 17 - 19 ngày thì tỷ lệ thụ thai thấp, trứng rụng vào
khoảng 3 - 4 ngày đầu của thời kì động dục.. Do đó nên phối giống vào 4 ngày đầu tiên

16


của thời kỳ động dục. Nếu cho giao phối hai lần thì lần đầu tiên vào ngày đầu khi chó bắt
đầu chịu đực và lần phối giống thứ hai là vào ngày thứ ba.
Giai đoạn này thú có những hành vi tính dục như tìm kiếm chó đực, đứng yên cho
chó đực nhảy và chờ phối, âm hộ giảm trương phồng, dịch tiết trong và keo lại.
2.2.3.3 Giai đoạn sau động dục
Giai đoạn sau động dục kéo dài 70 - 80 ngày, trung bình là 60 ngày. Từ giai đoạn
động dục tới giai đoạn nghỉ ngơi, giai đoạn này chó có biểu hiện không chịu đực, giai
đoạn này tử cung vẫn chuẩn bị cho sự mang thai hoặc chuẩn bị bước vào giai đoạn nghỉ
ngơi, giai đoạn này kéo dài khoảng 2 tháng.
Trong giai đoạn sau động dục, chó cái từ chối chó đực. Âm hộ teo và không xuất
dịch, cổ tử cung thắt lại.
2.2.3.4 Giai đoạn nghỉ ngơi
Giai đoạn nghỉ ngơi là giai đoạn dài nhất, giai đoạn này kéo dài khoảng 15 tuần,
thú không có biểu hiện về hoạt động sinh sản, thể vàng teo dần và bắt đầu một chu kỳ mới
(Nguyễn Văn Thành, 2004).

Biểu đồ 2.1: Chu kỳ động dục của chó cái
( www.vietpet.com )

17


2.2.3 MỘT SỐ BỆNH THƯỜNG GẶP TRÊN HỆ SINH DỤC CHÓ CÁI
2.2.3.1 Viêm tử cung
Viêm tử cung là một bệnh xảy ra ở tử cung nguyên nhân là do tình trạng rối loạn
hormone (hormone sinh dục) xảy ra trong thời gian 2 tháng sau động dục trên chó cái. Sự
rối loạn hormone sinh dục sẽ tạo ra nhiều chất nhờn hay là chất tiết của các tuyến ở màng

tử cung . Cổ tử cung bị đóng kín tạo điều kiện cho các chất tiết này tích tụ trong tử cung.
Sự nhiễm trùng kế phát thường kéo theo sau đó.
Phân loại:
Dựa vào triệu chứng trên đường sinh dục mà người ta phân biệt viêm tử cung làm
2 loại: viêm tử cung kín và viêm tử cung hở.
- Viêm tử cung kín: không thấy sự chảy dịch âm hộ, thường trong trường hợp này thì
quan sát thấy bụng căng to. Việc sờ nắn tử cung thì rất khó phân biệt được, nhất là trên
những chó cái có tầm vóc lớn hoặc chó béo phì. Triệu chứng chung thường rất nghiêm
trọng.
- Viêm tử cung hở: dịch viêm tử cung chảy ra liên tục hay gián đoạn qua cổ tử cung. Âm
hộ đỏ lên và gia tăng kích thước. Hình dạng âm hộ lúc này có thể so sánh với hình dạng
âm hộ lúc động dục. Đặc tính của mủ thì rất đa dạng, mủ có thể đặc hay lỏng, màu trắng,
màu vàng hay màu xanh. Triệu chứng chung thường là đáng nguy cấp.
Nguyên nhân:
Do nhiễm trùng tại cơ quan sinh dục khi sinh hay có thể do thú đực truyền sang thú
cái trong lúc giao phối. Tử cung thường bị viêm do sự can thiệp trong quá trình xảy thai,
đẻ khó làm cho niêm mạc đường sinh dục bị tổn thương, hay do thú mẹ bị suy nhược cơ
thể, sót nhau, căng thẳng do sinh đẻ.
Cơ thể học: cơ thể học bất thường tạo điều kiện cho việc nhiễm đường tiết niệu,
nhiễm bẩn quanh âm hộ làm viêm âm đạo sẽ gây ra hiện tượng mở cổ tử cung và gây ra
chứng viêm tử cung… Mầm bệnh còn hiện diện trong ruột truyền qua lớp niêm mạc, đi
vào máu rồi xâm nhập vào tử cung, nguyên nhân là do hoạt động nhu động ruột kém nhất
là khi táo bón và sự giảm sút sức đề kháng của cơ thể, nhiễm trùng mãn tính bàng quang,
thận và đường niệu với sự hiện diện của vi khuẩn có trong phân và nước tiểu.
18


Sinh lý cơ thể: do thay đổi sinh lý học vào cuối kì mang thai, do thai lớn có thể
chèn ép làm giảm nhu động ruột và gây ứ đọng nước tiểu trong bàng quang, cổ tử cung
mở làm nhiễm vi sinh vật.

Chế độ ăn uống: thiếu nước gây viêm bàng quang, viêm bể thận, viêm thận, gây
nhiễm trùng đường tiết niệu sẽ gây ra nhiễm độc máu.
Môi trường: thời tiết quá nóng, quá lạnh trong thời gian đẻ dễ đưa đến viêm
Triệu chứng:
Vật kém ăn, uống nước nhiều, nôn, tiểu nhiều, thở nhanh, ủ rũ và lười hoạt động.
Ban đầu thân nhiệt tăng, khi bệnh tiến triển thì thân nhiệt không tăng và hạ xuống,
có khi xuống dưới mức bình thường.
Bụng căng và có dịch dính bết ở vùng lông xung quanh âm hộ và đuôi.
Nếu không chữa trị kịp thời thì chó sẽ bị nhiễm trùng máu, mất nước, shock, hôn
mê cuối cùng là chết.
Chẩn đoán:
Bệnh ở thể nhẹ thì khó phát hiện, đa số chó khi đem tới khám thì đã ở tình trạng có
nhiều mủ, có biểu hiện sốt, bỏ ăn, nôn ói, toàn thân bị suy nhược, tiết mủ, dịch và máu,
âm hộ có dịch đường sinh dục, bụng to và thú có biểu hiện đau khi sờ nắn.
Dùng phương pháp sịêu âm để chẩn đoán chó bị viêm tử cung cho kết quả rất
chính xác, đặc biệt là những trường hợp viêm tử cung dạng kín. Khi siêu âm thì thấy lòng
tử cung mở rộng ra chứa đầy dịch.
Lấy dịch tử cung để nuôi cấy phân lập vi khuẩn.
Lấy mẫu mô bị tổn thương do viêm làm tiêu bản mô học.
Kiểm tra sự hiện diện của bạch cầu có trong dịch viêm.
Điều trị:
- Điều trị nội khoa:
Kháng sinh: ampiciline, peniciline, kanamycine,…
Cầm máu: Vitamin K, transamine
Hồi phục tổ chức niêm mạc: Vitamin A, D, E
Thuốc bổ trợ: dùng dung dịch glucose 5%
19


- Điều trị ngoại khoa:

Đây là cách điều trị ưu tiên khi chó bị viêm tử cung mà chủ nuôi không có ý định
cho nhân giống về sau. Chó sẽ được phẫu thuật cắt bỏ tử cung và buồng trứng.
2.3.2 Viêm âm đạo
Màng niêm âm đạo và âm hộ thường bị tổn thương sau khi sinh, đặc biệt là chó đẻ
lứa đầu hay do bộ phận sinh dục có kích thước nhỏ hơn bình thường.
- Nguyên nhân:
- Tổn thương niêm mạc tử cung (rách, trầy,…) do sự can thiệp bên ngoài hay do đẻ
khó trong quá trình sinh đẻ.
- Viêm tử cung, sót nhau làm dịch viêm chảy ra âm đạo.
- Sa âm đạo.
- Do nhiễm chất bẩn có trong phân, nước tiểu.
- Ung thư âm đạo.
- Triệu chứng:
Âm hộ, âm đạo sưng đỏ hay xám đỏ, thấy xây sát khi khám bằng mỏ vịt, thú sẽ đau
khi sờ khám chó, màng niêm dễ chảy máu, lở loét, hoại tử có mủ, tế bào tróc ra và dịch
viêm có mùi hôi thối rơi vãi nơi thú nằm hay dính bết vào hai mép âm môn. Môi âm đạo
sưng to tùy mức độ bệnh.
Dịch viêm tiết ra có thể gây hấp dẫn trên chó đực và dễ nhầm lẫn với hiện tượng
lên giống.
Bệnh ít gây ảnh hưởng đến tình trạng chung của thú cái. Bệnh có thể lây sang tử
cung.
Bệnh kéo dài sẽ rất khó phân bịệt với dịch tiết lên giống, gây chậm sinh sản.
- Chẩn đoán:
Dựa vào vết mủ rơi vãi nơi thú nằm hay dịch dính ở mép âm hộ, chó ít hoạt động
chỉ thích nằm, bỏ ăn, ủ rũ, sốt nhẹ. Kiểm tra âm đạo bằng mỏ vịt thấy có các hạt đỏ nhỏ,
có mủ, nếu trường hợp viêm nặng thì cả âm đạo viêm đỏ.
- Điều trị
Vệ sinh đường sinh dục và âm môn.
20



Đặt kháng sinh và sulfamide vào tử cung và âm đạo.
Có thể dùng liều thấp oxytocine để tống dịch viêm ra ngoài.
Dùng kháng sinh để điều trị toàn thân.
Nếu điều trị lâu dài mà không khỏi bệnh thì tiến hành phẫu thuật cắt bỏ tử cung và
buồng trứng (Nguyễn Văn Thành, 2004).
2.3.3 Bướu âm đạo
Bướu hay còn gọi là tân bào, khối u là sự tăng trưởng bất thường của tế bào mới và
có các đặc tính sau:
-

Sự sinh sản của chúng không kiểm soát được.

-

Không có nhiệm vụ hữu ích.

-

Sắp xếp hỗn độn.
Bướu âm đạo thường mọc ở phần sau âm đạo lồi ra âm hộ, bướu có dạng hình tròn,

cầu, bầu dục hay có nhiều tiểu thuỳ.
- Nguyên nhân:
Nguyên nhân chưa xác định rõ, thường chia làm hai nhóm chính: yếu tố bên trong
(di truyền, nội tiết, tuổi, sắc tố, giới tính, miễn nhiễm,…), yếu tố bên ngoài (tác nhân vật
lý, hoá học, sinh học).
- Triệu chứng:
Bướu có thể ở dạng bướu lành hay bướu độc. Quan sát sờ nắn bên ngoài để thấy
được kích thước, trọng lượng, hình dáng, màu sắc, dộ cứng mềm.

Thú tiểu khó, tiết chất lẫn mủ có mùi hôi thối, thú giảm cân, đau khi sờ nắn.
- Điều trị:
Chó cái đã chẩn đoán chính xác bị bướu cơ quan sinh dục thì nên chỉ định phẫu
thuật hoặc dùng phương pháp hóa trị liệu.
2.3.4 Bướu buồng trứng
Trong quá trình hình thành và phát triển của noãn bào, các tế bào thượng bì noãn
bào dần dần bị thoái hoá và biến đổi. Mặc khác các tổ chức liên kết của nang noãn bào
được tăng sinh mạnh làm cho các màng bao noãn dày lên, vì vậy mà noãn bào không bị
vỡ ra, tế bào trứng bị chết nên dịch noãn bào được chứa đầy trong bao noãn. Hiện tượng
21


này gọi là u nang noãn bào hay u nang buồng trứng hay bướu buồng trứng. U nang có thể
xuất hiện ở một hay cả hai buồng trứng.
- Nguyên nhân:
Bệnh bướu buồng trứng thường xuất hiện trong các trường hợp sau:
- Do quá trình nuôi dưỡng chăm sóc kém, khẩu phần ăn hằng ngày đơn điệu, kém
phẩm chất. Do chế độ khai thác không hợp lý.
- Rối loạn cơ năng của hệ thống thần kinh và hormone trong cơ thể. Đặc biệt khi
chức năng sinh lý của tuyến yên bị trở ngại, gây hiện tượng rối loạn hoạt động chu kỳ
sinh dục. Sự rối loạn trạng thái động dục và rụng trứng có thể coi là triệu chứng đặc hiệu
của hiện tượng giảm cơ năng buồng trứng. Noãn bào phát triển chưa thành thục hoàn
toàn, không phóng noãn và cũng không được teo lại mà nó tồn tại lâu dài dưới dạng u
nang.
- U nang buồng trứng có thể kế phát từ một số bệnh như sót nhau, sẩy thai, viêm
nội mạc tử cung, viêm ống dẫn trứng, viêm buồng trứng,…
- Chó xuất hiện động dục nhiều lần mà không được phối giống hoặc phối giống
không đậu thai.
- Trong quá trình hình thành và phát triển noãn bào, chó gặp phải điều kiện khí hậu
và nhiệt độ không phú hợp.

- Triệu chứng:
Bệnh xuất hiện sau động dục một tháng hay hơn một tháng, bệnh xuất hiện do
thương tổn chung, do âm hộ bị phù thủng chảy dịch vào trong, do tử cung triển dưỡng khi
chạm vào
Chó cái thu hút chó đực.
Thiệt hại gây ra tình trạng tử cung bị sung huyết làm cho mô cơ dày lên và màng
trong tử cung ở trạng thái giống như dạng gelatin.
- Điều trị:
Dùng thuốc LH hay HCG 500 UI chống lại hàng rào động dục, tiêm 2 lần mỗi lần cách
nhau 48 h.
2.3.5 Sót nhau
22


Bình thường sau khi đẻ nhau sẽ bong ra, nếu thời gian bong nhau kéo dài có thể
xem là sót nhau. Bệnh sót nhau hay gặp ở chó ít thấy ở mèo.
- Nguyên nhân:
Có nhiều nguyên nhân dẫn tới sót nhau nhưng nguyên nhân chủ yếu và hay gặp là:
- Sau khi đẻ, tử cung co bóp yếu. Trong thời gian con mẹ có thai, nhất là những
tháng cuối của thai, chó mẹ ít vận động, thức ăn thiếu canxi, thiếu khoáng do đó cơ tử
cung co bóp yếu.
- Chó mẹ quá gầy hoặc quá béo, đẻ quá nhiều con, con quá to, nước ối quá nhiều,
do đó tử cung dãn quá mức, co bóp yếu dần dẫn đến hiện tượng sót nhau.
Nhau mẹ và nhau con dính vào nhau khó tácg ra, thường do các nguyên nhân sau:
- Viêm núm nhau: niêm mạc tử cung hay màng thai bị viêm làm cho lien hệ giữa
nhau mẹ và nhau con dính lại với nhau. Cho nên sau khi đẻ, tử cung co bóp mạnh nhưng
nhau vẫn không dễ bong ra.
- Do bệnh sảy thai truyền nhiễm bởi vi trùng Brucella hay phầy khuẩn Vibrio
fortus.
- Do cấu tạo núm nhau làm cho nhau mẹ và nhau con liên kết với nhau chặt chẽ,

nếu tử cung co bóp yếu một chút là nhau không bong ra được.
- Triệu chứng:
Căn cứ vào mức độ sót nhau nhiều hay ít người ta chia ra sót nhau hoàn toàn hay
không hoàn toàn.
- Sót nhau hoàn toàn: là toàn bộ nhau thai còn ở trong tử cung.
- Sót nhau không hoàn toàn: là một bộ phận màng thai còn dính chặt với niêm mạc
tử cung, còn một phần nhau treo lủng lẳng ở mép âm môn.
Về mùa hè, sau 24 - 48 giờ nhau sẽ thối, phần lộ ra ngoài mép âm môn còn thối
hơn.
Chó cái bị sót nhau thường biểu hiện:
- Ăn uống kém, nhiệt độ tăng, lượng sữa giảm, vật bệnh đau đớn, cong lưng rặn.
- Mép âm môn hôi thối, chảy dịch màu đỏ máu.
- Phòng và trị bệnh:
23


Phòng bệnh
Theo kinh nghiệm của nhân gian, sau khi đẻ, nếu bong nhau chậm ta cho uống
nước ối để năng cao trương lực cơ tử cung, làm tử cung co bóp nhanh và mạnh hơn để
tống nhau ra ngoài ( phải cho uống nước ối sạch, bảo quản ở nhiệt độ ấm, có thể lấy nước
ối của con này cho con khác uống miễn sao phải là nước ối của con vật khoẻ mạnh, không
có bệnh truyền nhiễm ).
Điều trị
Sử dụng hormone sau:
- Oxytocin: tiêm bắp hay tiêm dưới da liều 1 - 2 UI hay 1 - 2 ml/con ( trong thú y
thường dung dưới dạng dung dịch tiêm chứa 100 UI/ml. Ngày tiêm 2 lần. Kết hợp tiêm
dung dịch glucoza 30% 1 ml/5 kg thể trọng để bồi bổ cơ thể và giả độc.
- Kinh nghiệm một số người cho biết: thụt vào tử cung Rivanol 1 % cho chó cái
với liều 50 - 100 ml nhau sẽ bong ra.
2.3.6 Thai chết lưu

- Nguyên nhân:
Do thai chết hay do tử cung thú mẹ bị nhiễm trùng, bệnh thường gặp ở chó già,
bệnh thường kết hợp với hoàng thể lưu ban hay rối loạn nội tiết tố của buồng trứng (phân
tiết progesterone quá cao), nhiễm trùng tử cung do các vi sinh vật như E.Coli,
Streptococcus spp,…
- Triệu chứng:
Thú có biểu hiện ăn kém, đôi khi bỏi ăn; sau đó thú có biểu lộ khát nước, đôi lúc
nôn mửa sau khi uống nước, thú đi tiểu nhiều.
Thân nhiệt tăng kèm theo mạch tăng và thở nhanh; sau đó diễn biến của bệnh giảm
dần với thân nhiệt và các triệu chứng phụ giảm dưới mức trung bình đến khi thú yếu,
không đứng vững, bụng căng to và tỏ vẻ đau đớn khi chạm vào vùng bụng.
Âm hộ có xuất huyết tiết vật và chất lỏng có mùi hôi thối, dính khô quanh mép âm
hộ và phần long đuôi. Âm hộ đôi khi bị sưng đỏ và thú có lúc bị tiêu chảy.
Hàm lượng bạch cầu trong máu tăng, nhưng giảm xuống khi thú suy yếu.
Dễ phát hiện bệnh lý qua việc khám bằng X – Quang.
24


- Điều trị:
Dùng thuốc phá hủy hoàng thể như prosolvin, Diethylstillbestrol (2 – 5 mg/ngày 3
- 4 lần), phối hợp cùng oxytocine tạo sự co thắt tống mủ ra.
Dùng kháng viêm và bơm tại chỗ để ngừa nhiễm trùng.
Có thể phẫu thuật cắt bỏ tử cung và buồng trứng.
2.4 Lược duyệt vài công trình nghiên cứu
- Feldman và Nelson (1996); Biemborn và ctv (2003) ghi nhận vết phết kính âm
đạo của chó cái bị viêm âm đạo ngoại trừ các tế bào biểu mô còn có bạch cầu trung tính bị
thoái hoá, bạch cầu lâm ba, đại thực bào và vi khuẩn.
- Feldman và Nelson (1996), ghi nhận những triệu chứng thường gặp trên chó bị
viêm tử cung có mủ là chảy dịch âm đạo (85%), lờ đờ, suy nhược (62%), biếng ăn (42 %),
tiểu nhiều, khát nước (28%), ói mửa (15%) và vùng bụng căng to (5%).

- Phan Thị Kim Chi (2003) khảo sát tại Trạm Chẩn đoán Xét nghiệm và Điều trị
trên 352 chó cái có triệu chứng liên quan đường sinh dục, phát hiện có 83 chó cái bị viêm
tử cung qua khám lâm sàng bằng kỹ thuật siêu âm, chiếm tỷ lệ 23,58%.
- Phan Thị Bích (2004) ghi nhận trong chẩn đoán tế bào học âm đạo của một số
trường hợp bệnh lý đường sinh dục trên chó cái: trường hợp polype đường sinh dục và u
nang buồng trứng, vết phết âm đạo hiện diện những tế bào biểu mô bất thường về hình
dạng và kích thước. Các tế bào có nhân rất to, tỉ lệ giữa nhân và tế bào chất thấp, có nhiều
không bào nằm trong nhân và tế bào chất. Ngoài ra, hồng cầu và bạch cầu hiện diện trong
vết phết.
Vết phết âm đạo của chó cái bị viêm đường sinh dục được ghi nhận vi trường có
nhiều bạch cầu, số lượng tế bào biểu mô âm đạo rất thấp. Tình trạng này thường xảy ra
vào giai đoạn sau động dục và nghỉ ngơi của chó cái.
- Lý Sơn Ca (2006) khảo sát 1864 chó cái mang đến khám và điều trị tại Trạm
Chẩn đoán Xét nghiệm và Điều trị, ghi nhận tỷ lệ chó bệnh đường sinh dục là 7,99%,
bệnh viêm tử cung có mủ chiếm tỷ lệ cao nhất trên chó bệnh đường sinh dục, phân lập từ
dịch viêm tử cung có 4 loại vi khuẩn trong đó Escherichia coli chiếm tỷ lệ cao nhất
(54,35%).
25


×