VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THANH CA
THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ CỦA
PHƯỜNG BÌNH THỌ, QUẬN THỦ ĐỨC,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LUẬN VĂN THẠC SỸ CHÍNH TRỊ HỌC
HÀ NỘI, NĂM 2018
VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
TRẦN THANH CA
THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ CƠ SỞ CỦA
PHƯỜNG BÌNH THỌ, QUẬN THỦ ĐỨC,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành
: Chính trị học
Mã số
: 8310201
LUẬN VĂN THẠC SỸ CHÍNH TRỊ HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. VŨ MẠNH TOÀN
HÀ NỘI, NĂM 2018
MỤC LỤC
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN
CHỦ Ở CƠ SỞ................................................................................................. 9
1.1 Nhận thức chung về Dân chủ và Quy chế dân chủ ở cơ sở .................... 9
1.2. Nội dung của quy chế dân chủ ở cơ sở ................................................ 25
Chương 2: THỰC TRẠNG VIỆC THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở
CƠ SỞ CỦA PHƯỜNG BÌNH THỌ, QUẬN THỦ ĐỨC, THÀNH PHỐ
HỒ CHÍ MINH .............................................................................................. 35
2.1. Khái quát chung về phường Bình Thọ, Quận Thủ Đức, thành phố Hồ
Chí Minh ..................................................................................................... 35
2.2. Thực trạng việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở của phường Bình
Thọ, Quận Thủ Đức, TP Hồ Chí Minh ....................................................... 38
2.3. Một số vấn đề đặt ra trong việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở của
phường Bình Thọ, Quận Thủ Đức, TP Hồ Chí Minh ................................. 53
Chương 3: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
THỰC HIỆN QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ ......................................... 62
3.1. Nâng cao nhận thức, năng lực thực hành dân chủ cho cán bộ, đảng viên
và nhân dân ................................................................................................. 62
3.2. Củng cố, kiện toàn hệ thống chính trị cơ sở ....... Error! Bookmark not
defined.
3.3. Tăng cường công tác tổng kết thực tiễn, trao đổi kinh nghiệm giữa các
địa phương, các cơ sở.................................................................................. 69
3.4. Kiện toàn Tổ chỉ đạo đồng thời củng cố hoạt động của Ban thanh tra
nhân dân ...................................................................................................... 72
KẾT LUẬN .................................................................................................... 75
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 77
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ trước đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn coi thực hiện dân
chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân vừa là mục tiêu, vừa là động lực
của cách mạng. Đảng ta khẳng định phải “lấy dân làm gốc”, đề ra phương
châm: “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”. Để đáp ứng yêu cầu của
giai đoạn phát triển mới, những năm qua, Đảng và Nhà nước ta đã ban hành
nhiều Nghị định, Chỉ thị quan trọng nhằm phát huy quyền làm chủ, sức sáng
tạo của nhân dân để phát triển kinh tế, ổn định chính trị, phát triển xã hội như
Chỉ thị 30- CT/TW của Bộ Chính trị về xây dựng và thực hiện Quy chế dân
chủ ở cơ sở, Nghị định số 79/2003/NĐ-CP của Chính phủ ban hành quy chế
thực hiện dân chủ ở xã, Pháp lệnh 34/2007/PL-UBTVQH11. Đây là một bước
tiến lớn thể hiện sự quyết tâm củng cố, hoàn thiện và phát triển nền dân chủ
XHCN của Đảng và Nhà nước ta, đồng thời cũng là phương thức giải quyết
các nhiệm vụ, mục tiêu chung của đất nước trong công cuộc đổi mới. Việc
ban hành Quy chế dân chủ ở cơ sở là một chủ trương hết sức đúng đắn, hợp
lòng dân của Đảng và Nhà nước ta; đáp ứng kịp thời tâm tư, nguyện vọng,
những vấn đề bức xúc của người dân, đáp ứng được nhu cầu bức thiết và lợi
ích to lớn, trực tiếp của đông đảo quần chúng nhân dân lao động, được nhân
dân hưởng ứng rất nhiệt tình và tích cực thực hiện. Vì vậy, sau gần 10 năm
thực hiện, Quy chế dân chủ ở cơ sở thực sự đã đi vào cuộc sống, tác động
tích cực tới nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội, nâng cao tính chủ động, sáng
tạo của mỗi người dân, thiết thực củng cố, tăng cường hệ thống chính trị ở cơ
sở, thúc đẩy nhanh tiến trình đổi mới, phát triển đất nước.
Tuy nhiên, sau nhiều năm triển khai tình hình thực hiện QCDC ở cơ sở
vẫn còn nhiều vấn đề đáng quan tâm: một số nơi việc xây dựng và thực hiện
QCDC ở cơ sở chưa đạt yêu cầu, quyền làm chủ của nhân dân còn bị vi phạm;
2
một số cán bộ có trách nhiệm triển khai thực hiện chưa nghiêm túc QCDC ở
cơ sở, hoặc triển khai một cách hình thức, chiếu lệ, nhiều người chưa nhận
thức đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Do đó, tình trạng nhũng nhiễu, gây
phiền hà cho nhân dân vẫn còn xảy ra; một bộ phận nhân dân mới chỉ thấy
quyền lợi nhiều hơn nghĩa vụ, vì vậy, hiện tượng lợi dụng dân chủ, dân chủ
quá trớn đang là nguy cơ đe dọa mối quan hệ giữa Đảng, chính quyền với
nhân dân, gây không ít khó khăn cho việc phát triển kinh tế, ổn định xã hội,...
Là người đang công tác trong bộ máy Nhà nước, tác giả nhận thấy rõ vị
trí và tầm quan trọng của việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, đặc biệt là
thực hiện dân chủ ở cấp xã, phường, thị trấn; nơi gần dân nhất, nơi trực tiếp
lắng nghe những tâm tư, nguyện vọng của người dân. Từ việc xác định vị trí
và tầm quan trọng đó, tác giả muốn tìm hiểu việc thực hiện Quy chế dân chủ
cơ sở tại cấp phường nhằm phát hiện ra những thuận lợi, khó khăn, bất cập
trong việc triển khai tổ chức, thực hiện cũng như những đánh giá về việc thực
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở từ phía người dân. Từ thực tiễn trên, tôi chọn
đề tài "Thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở của phường Bình Thọ, quận
Thủ Đức, Thành phố Hồ Chí Minh" làm luận văn tốt nghiệp, đồng thời
mong muốn góp phần nâng cao hiệu quả việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ
sở trên địa bàn phường.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Hiện nay, vấn đề thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở được nhiều nhà
khoa học quan tâm, nghiên cứu với nhiều bài viết, nhiều công trình đã được
công bố, xuất bản thành sách. Có thể chia thành 2 nhóm: Nhóm lý luận chung
và Nhóm khảo sát kết quả thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở một số địa
phương.
- Nhóm lý luận chung bao gồm:
3
Một trong nhiều công trình điển hình có giá trị tham khảo như "Quy
chế thực hiện dân chủ cấp xã - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn" của tác giả
Dương Xuân Ngọc (2000). Công trình đã đi sâu vào chỉ rõ ý nghĩa và tầm
quan trọng của Quy chế thực hiện dân chủ cấp xã cả về mặt lý luận và thực
tiễn.
Cũng quan tâm đến vấn đề lý luận và thực tiển của việc thực hiện Quy
chế dân chủ ở cơ sở trong tình hình hiện nay, tác giả Nguyễn Cúc (2002) đã
tập trung làm sáng tỏ một số khía cạnh chủ yếu về lý luận và thực tiễn của
việc thực hiện QCDC ở cơ sở trong tình hình hiện nay ở nước ta trong đề tài
“Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trong tình hình hiện nay. Một số vấn đề
lý luận và thực tiễn”.
Tác giả Trần Bạch Đằng cũng khẳng định thực hiện dân chủ ở cơ sở là
một trong những khâu rất quan trọng nhằm hoàn thiện cơ chế nhân dân làm
chủ xã hội trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam trong đề tài “Dân chủ ở cơ sở
một sức mạnh truyền thống của dân tộc Việt Nam”, Tạp chí Cộng sản, số
35/2003. Theo tác giả, đây là một vấn đề không chỉ mang ý nghĩa thời sự mà
còn là một sự tiếp nối truyền thống, phát huy sức mạnh của dân được hình
thành trong lịch sử mấy nghìn năm đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân
tộc ta.
Cũng đề cập về thực trạng việc Thực hiện dân chủ cơ sở ở nước ta hiện
nay tác giả Trần Khắc Việt tại Tạp chí Lý luận chính trị, số 9/2004 đã chỉ ra
những vấn đề nảy sinh trong quá trình thực hiện dân chủ hoá đời sống xã hội
ở nước ta, đồng thời đưa ra những giải pháp nhằm tiếp tục phát huy dân chủ
trong tình hình hiện nay trong đề tài “Thực hiện dân chủ ở nước ta hiện nay:
Vấn đề đặt ra và giải pháp”.
Nói về tầm quan trọng và sức mạnh của việc thực hiện Dân chủ ở cơ sở
tác giả Hoàng Chí Bảo (2007) đã đi nghiên cứu vấn đề lý luận và thực tiễn về
4
dân chủ và dân chủ ở cơ sở, đồng thời nêu bật tầm quan trọng của việc thực
hành dân chủ ở nước ta trong giai đoạn hiện nay trong đề tài “Dân chủ và dân
chủ cơ sở ở nông thôn trong tình hình đổi mới”.
- Nhóm khảo sát kết quả thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở ở một số địa
phương
Đi sâu vào nghiên cứu thực tiễn về quá trình thực hiện Quy chế dân chủ
cơ sở ở địa phương có một số công trình nổi bật như “Quá trình thực hiện
Quy chế dân chủ cơ sở ở một số tỉnh đồng bằng sông Hồng hiện nay", Đề tài
khoa học cấp bộ 2002-2003 của tác giả Nguyễn Thị Ngân đã đề cập đến thực
trạng việc thực hiện QCDC cơ sở ở các tỉnh đồng bằng sông Hồng, qua đó tác
giả đã đề xuất những giải pháp nhằm đẩy mạnh và hoàn thiện việc thực hiện
QCDC ở khu vực đồng bằng sông Hồng.
Cùng với đó có Nguyễn Minh Thi: "Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở
tại các vùng nông thôn miền núi của tỉnh Bắc Giang hiện nay", Luận văn thạc
sĩ CNXHKH bảo vệ tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh năm 2000.
Phan Văn Bình: "Thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn thành phố
Vinh - Những vấn đề đặt ra và giải pháp", Luận văn thạc sĩ CNXHKH bảo vệ
tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh năm 2001. Nguyễn Thanh Sơn:
"Thực hiện QCDC ở xã trên địa bàn tỉnh Sơn La - Thực trạng và giải pháp",
Luận văn thạc sĩ CNXHKH bảo vệ tại Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh năm 2003.
Đánh giá kết quả các công trình nghiên cứu đã công bố
Nhìn chung, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở là chủ đề được nhiều
người quan tâm, đặc biệt là các nhà quản lý và các nhà khoa học, do đó số
lượng công trình nghiên cứu khá nhiều. Các công trình được tiếp cận chủ yếu
dưới góc độ chính trị học, xã hội học. Đặc biệt nhiều công trình đi sâu nghiên
cứu về cơ sở lý luận, ý nghĩa thực tiễn của việc thực hiện Quy chế dân chủ ở
5
cơ sở, đồng thời phân tích đánh giá thực trạng việc thực hiện Quy chế dân chủ
ở cơ sở... từ đó đưa ra những đề xuất, kiến nghị và giải pháp cho việc thực
hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở ngày một tốt hơn.
Trên phạm vi thành phố Hồ Chí Minh, các tư liệu về lĩnh vực này được
thể hiện dưới hình thức các báo cáo tổng kết của UBND TP. HCM, Ủy ban
Mặt trận Tổ quốc hay Ban Dân vận Thành ủy TP.HCM. Các báo cáo cho thấy
Quy chế dân chủ cơ sở đã dần dần đi vào cuộc sống và phát huy được tác
dụng tại địa phương và việc đưa Quy chế đến người dân đã đạt được những
kết quả khả quan, như theo Báo cáo số 79 của UBND TP.HCM, Báo cáo số
62 của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam TP.HCM, Báo cáo số 28 của Ban
Dân vận Thành uỷ TP. HCM.
Tuy nhiên, chưa có công trình nghiên cứu nào đi sâu nghiên cứu việc
thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở từ thực tiễn ở cơ sở cấp phường. Riêng ở
thành phố Hồ Chí Minh, cho đến nay ngoài ngoài các báo cáo tổng kết của
UBND TP Hồ Chí Minh, Ủy ban Mặt trận Tổ quốc hay Ban Dân vận Thành
ủy TP.HCM và các báo cáo của các quận/huyện, phường/xã về việc thực hiện
Quy chế dân chủ ở cơ sở cũng chưa có công trình nghiên cứu nào đề cập riêng
đến việc thực hiện QCDC ở cơ sở trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh nói
chung và phường Bình Thọ, quận Thủ Đức nói riêng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Đề tài được thực hiện nhằm đề xuất các giải pháp nhằm nâng cao hiệu
quả thực hiện quy chế dân chủ ở phường Bình Thọ góp phần thực hiện thắng
lợi sự nghiệp đổi mới, phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần cho nhân dân, phường Bình Thọ, quận Thủ Đức, thành phố Hồ
Chí Minh.
3.2. Nhiệm vụ
6
- Phân tích khái quát một số vấn đề lý luận của việc thực hiện Quy chế
dân chủ cơ sở.
- Phân tích, đánh giá thực trạng việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở
của phường Bình Thọ, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh.
- Đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả thực hiện Quy chế
dân chủ ở cơ sở tại phường Bình Thọ, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí
Minh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Việc thực hiện quy chế dân chủ cơ sở của phường Bình Thọ, quận Thủ
Đức, Thành phố Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: Phường Bình Thọ, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí
Minh.
- Thời gian: Việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở ở phường Bình
Thọ từ năm 2015 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận: Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu được sử dụng chủ yếu là phương pháp logic
và lịch sử, phương pháp tiếp cận chức năng xã hội, tổng hợp, so sánh, thống
kê, qui nạp, diễn dịch.
7
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Góp phần làm rõ thêm cơ sở lý luận và thực tiễn của việc thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở tại cấp phường.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu,
giảng dạy về dân chủ, dân chủ cơ sở; đồng thời các kết quả của luận văn có
thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan chức năng trong việc tiếp tục
đẩy mạnh và hoàn thiện việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở trên địa bàn
thành phố Hồ Chí Minh.
7. Kết cấu của luận văn:
Kết cấu của luận văn gồm có 3 chương, 9 tiết.
Chương 1: Cơ sở lý luận của việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở
Chương 2: Thực trạng việc thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở của
phường Bình Thọ, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh
Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng thực hiện Quy
chế dân chủ ở cơ sở
8
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC THỰC HIỆN
QUY CHẾ DÂN CHỦ Ở CƠ SỞ
1.1. Dân chủ và Quy chế dân chủ ở cơ sở
1.1.1. Khái niệm Dân chủ, Dân chủ cơ sở và Quy chế dân chủ ở cơ sở
1.1.1.1. Dân chủ
Thuật ngữ dân chủ xuất hiện từ thời cổ đại. Người đầu tiên đưa ra khái
niệm dân chủ là nhà sử học, nhà chính trị học người Hy Lạp là Hêrôđốt (484
- 425 trước Công nguyên) khi ông xem xét các thể chế chính trị trong lịch sử.
Theo ông, lịch sử đã xuất hiện ba kiểu thể chế chính trị: quân chủ, quý tộc và
dân chủ, trong đó dân chủ là thể chế chính trị do nhân dân nắm quyền lực
thông qua con đường bầu cử. Để chỉ một hiện thực dân chủ đã được thiết lập
trên thực tế, trong ngôn ngữ đã xuất hiện thuật ngữ democratia, nghĩa là
quyền lực thuộc về nhân dân (democratia là từ ghép của hai từ demos là nhân
dân, cratos là quyền lực). Như vậy, với nguyên nghĩa của từ, dân chủ là
quyền lực thuộc về nhân dân. Nhân dân là chủ thể của quyền lực, sử dụng
quyền lực để tổ chức, quản lý xã hội, phát triển xã hội, phát triển con người.
Với ý nghĩa đó, dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã
hội - nhất là xã hội có giai cấp.
Ngay từ xã hội cộng sản nguyên thủy con người đã biết sống gắn bó với
nhau thành cộng đồng để tồn tại và phát triển. Họ biết sử dụng sức mạnh của
cộng đồng để thực hiện quyền sống, quyền tự do và quyền mưu cầu hạnh
phúc. Một hình thức đặc biệt của dân chủ đã xuất hiện mà Ăngghen gọi là dân
chủ quân sự hay dân chủ nguyên thủy. Thông qua Đại hội nhân dân, nhân dân
đã bầu ra Hội đồng thị tộc và Thủ lĩnh quân sự, đồng thời quyết định những
vấn đề quan trọng của thị tộc. Trong "nền dân chủ quân sự", quyền lực của
9
nhân dân "thiêng liêng và bất khả xâm phạm, đều là một quyền lực tối cao do
tự nhiên ban cho, quyền lực mà mỗi người phải phục tùng một cách vô điều
kiện, trong tình cảm, tư tưởng, và hành động của mình" [14, tr. 149-150].
Sự phát triển của sản xuất và phân công lao động xã hội, phân hóa giai
cấp và đấu tranh giai cấp đã làm cho xã hội cộng sản nguyên thủy tan rã, hình
thành nên Nhà nước chiếm hữu nô lệ. Giai cấp chủ nô đã biến Nhà nước
thành công cụ thực hiện quyền lực chính trị, phục vụ lợi ích của mình. Nhà
nước chủ nô dân chủ là hình thức đầu tiên của chế độ dân chủ trong xã hội có
giai cấp - dân chủ của giai cấp chủ nô.
Theo Các Mác, trong tác phẩm Phê phán Cương lĩnh Gôta (1875), dân
chủ tức là chính quyền của nhân dân. Trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng
Lênin cũng cho rằng chế độ dân chủ là một hình thức nhà nước, một trong
những hình thái của Nhà nước. Nhà nước chủ nô là hình thái dân chủ đầu tiên
trong lịch sử nhưng không phải giành cho nhân dân với tư cách là số đông mà
là cho giai cấp chủ nô. Tuyệt đại bộ phận con người đã bị đẩy xuống hàng nô
lệ trở thành "con vật biết nói". Đây chính là một trong những nguyên nhân
khiến cho cuộc đấu tranh giành quyền dân chủ trở thành một trong những nội
dung của cuộc đấu tranh giai cấp.
Nền dân chủ sơ khai của xã hội loài người không được tiếp tục phát
triển ở thời kỳ lịch sử tiếp theo mà lại bị thủ tiêu bởi chế độ chuyên chế phong
kiến. Nhà nước phong kiến, độc đoán chuyên quyền câu kết với các thế lực
của thần quyền đã gạt nhân dân lao động ra khỏi cơ chế quyền lực. Cuộc đấu
tranh giành quyền lực - giành quyền làm chủ lại tiếp tục diễn ra gay gắt. Kết
quả là chế độ chuyên chế phong kiến lại bị một trật tự dân chủ mới mạnh mẽ
hơn phủ định - đó là chế độ dân chủ tư sản. Nền dân chủ tư sản mạnh mẽ vì
nó dựa trên một nền kinh tế - xã hội phát triển hơn so với các chế độ trước đó.
10
So với chế độ dân chủ sơ khai thời kỳ cổ đại, nền dân chủ tư sản đạt tới
trình độ phát triển cao hơn. Theo đó, các quan niệm về dân chủ được bắt đầu
từ khái niệm nhân dân là người chủ của quyền lực, có quyền và nghĩa vụ công
dân được pháp luật quy định và bảo vệ.
Dưới chế độ dân chủ tư sản địa vị xã hội của công dân được pháp luật
thành văn và không thành văn quy định. Nhưng nền dân chủ tư sản trong thực
chất còn rất nhiều hạn chế và không thoát khỏi sự mị dân nhằm bảo vệ quyền
lợi cho giai cấp tư sản cầm quyền. "Trong Nhà nước tư sản dân chủ nhất,
quần chúng bị áp bức đều luôn vấp phải các mâu thuẫn hiển nhiên giữa quyền
bình đẳng hình thức do "chế độ dân chủ" của bọn tư bản ban bố với hàng
nghìn hạn chế và mánh khóe dối trá thực sự, đang biến những người vô sản
thành nô lệ làm thuê" [24, tr.36]. Sự hạn chế và tính chất mị dân của dân chủ
tư sản thể hiện như thế nào? Dưới chế độ dân chủ tư sản cùng với sự tha hóa
của con người là sự tha hóa về quyền lực, đặc biệt là quyền lực chính trị.
Đúng như nhận xét của C.Mác về chế độ dân chủ tư sản rằng bầu cử trong
chủ nghĩa tư bản là sự "tự do" của nhân dân lựa chọn những người thống trị
mình. Trong tác phẩm Nhà nước và cách mạng, Lênin có nhận xét tinh tế về
bản chất chế độ dân chủ tư sản: "Chế độ đại nghị tư sản là chế độ kết hợp chế
độ dân chủ (không phải cho nhân dân) với chế độ quan liêu (chống nhân
dân)" [25, tr.135].
Cơ sở bảo vệ lợi ích của nền dân chủ tư sản là bảo vệ, bênh vực và tạo
mọi cơ hội cho giai cấp tư sản ngày càng giàu có. Điều đó được thể hiện tập
trung trong các quy định pháp luật của Nhà nước tư sản. Chẳng hạn, các quy
định về kiểm soát tài sản, nơi cư trú, quy định về vận động tài chính cho các
cuộc bầu cử v.v... Nhà nước tư sản luôn luôn đề cao chức năng chính trị
(thống trị giai cấp) khi hình thành bất kỳ một quy định pháp luật nào để thực
thi trong xã hội. Trong xã hội tư bản mâu thuẫn giữa tính chất giai cấp của
11
giai cấp tư sản cầm quyền với tính nhân dân (tính vô sản) của dân chủ càng
trở nên gay gắt. Đó là một trong những nguyên nhân dẫn đến cách mạng vô
sản để giải quyết mâu thuẫn trên bằng việc thiết lập chế độ dân chủ XHCN.
Trong tác phẩm Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, C.Mác và Ph.Ăngghen đã
chỉ rõ: "Giai cấp vô sản mỗi nước trước hết phải tự giành lấy chính quyền,
phải tự mình vươn lên thành giai cấp dân tộc" [15, tr.623-624], phải giành lấy
dân chủ với ý nghĩa trực tiếp là giành lấy quyền lực Nhà nước (quyền làm chủ
về chính trị), thiết lập Nhà nước dân chủ vô sản, chế độ dân chủ vô sản. Đó là
"chế độ sẽ thi hành ngay lập tức những biện pháp để chặt tận gốc chế độ quan
liêu và sẽ có thể thi hành những biện pháp ấy tới cùng, tới chỗ hoàn toàn phá
hủy chế độ quan liêu, tới chỗ hoàn toàn xây dựng một chế độ dân chủ cho
nhân dân" [25, tr.135]. Với ý nghĩa đó, chế độ dân chủ vô sản, chế độ dân chủ
XHCN đóng vai trò to lớn trong các cuộc đấu tranh giải phóng giai cấp, giải
phóng xã hội và con người, trở thành mục tiêu và động lực của cuộc cách
mạng vô sản.
Chế độ dân chủ XHCN là chế độ chính trị mà ở đó những giá trị dân
chủ, quyền lực của nhân dân được thể chế hóa thành pháp luật, thành những
nguyên tắc tổ chức và hoạt động của hệ thống chính trị, thành nguyên tắc mục
tiêu của sự phát triển kinh tế - xã hội, các giá trị và chuẩn mực dân chủ chi
phối hoạt động của mọi lĩnh vực xã hội. Nền dân chủ XHCN với tư cách là
chế độ chính trị, đồng thời với tư cách là quyền lực của nhân dân sẽ từng
bước hoàn thiện và phát huy vai trò to lớn trong tiến trình cách mạng, dưới sự
lãnh đạo của Đảng mácxít - lêninnít. Sự thống nhất giữa dân chủ về chính trị
- pháp lý và dân chủ trong kinh tế, làm chủ trong kinh tế và xã hội sẽ tạo điều
kiện để dân chủ XHCN ra đời, tồn tại và phát triển vì lợi ích của nhân dân lao
động. Theo Lênin:
12
"Không có chế độ dân chủ thì chủ nghĩa xã hội không thể thực hiện
được theo hai ý nghĩa sau đây: (1) giai cấp vô sản không thể hoàn thành được
cuộc cách mạng xã hội chủ nghĩa nếu họ không được chuẩn bị cho cuộc cách
mạng đó thông qua cuộc đấu tranh cho chế độ dân chủ; (2) chủ nghĩa xã hội
chiến thắng sẽ không giữ được thắng lợi của mình và sẽ không dẫn được nhân
loại đi đến chỗ thủ tiêu nhà nước, nếu không thực hiện được đầy đủ chế độ
dân chủ" [24, tr.167].
Sau thắng lợi của cách mạng Tháng mười Nga, Nhà nước Xô viết chế độ dân chủ XHCN đầu tiên trên thế giới ra đời. Theo Lênin: "Chế độ Xô
viết là chế độ dân chủ ở mức cao nhất cho công nhân và nông dân; đồng thời,
nó có nghĩa là sự đoạn tuyệt với chế độ dân chủ tư sản và sự xuất hiện trong
lịch sử thế giới một chế độ dân chủ kiểu mới, tức là chế độ dân chủ vô sản
hay là chuyên chính vô sản" [27, tr.184].
Chế độ dân chủ ở nước Nga Xô viết đã từng bước hiện thực hóa quyền
dân chủ của nhân dân trên thực tế, hiện thực hóa sự bình đẳng của quần chúng
trong việc tham gia vào tổ chức và hoạt động chính quyền nhà nước - xác
định hình thức, nội dung và nhiệm vụ của Nhà nước.
Ở Việt Nam, sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945, Nhà
nước Việt Nam dân chủ cộng hòa - Nhà nước công - nông đầu tiên ở Đông
Nam Á được thiết lập. Nhân dân ta từ địa vị nô lệ làm thuê đã trở thành người
chủ của đất nước. Sau chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ năm 1954, miền Bắc
đi lên chủ nghĩa xã hội, nhân dân miền Bắc đã trở thành chủ thể của mọi
quyền lực. Năm 1975 đất nước hoàn toàn thống nhất, nhân dân cả nước ta trở
thành người chủ của mọi quyền lực trong đó có quyền lực chính trị, quyền lực
nhà nước, hệ thống chính trị XHCN được thiết lập trên phạm vi cả nước. Từ
đó đến nay nền dân chủ XHCN đã và đang được xây dựng phát huy vai trò
13
ngày càng to lớn, góp phần quan trọng vào sự nghiệp xây dựng và phát triển
đất nước.
Dân chủ với tư cách là khát vọng, là quyền của con người, trong đó có
quyền sử dụng tất cả sức mạnh để thực hiện vai trò của người chủ và quyền
làm chủ đã lần lượt được nhiều giai cấp thống trị trong lịch sử nhận thức và
thể chế hóa thành nguyên tắc tổ chức và vận hành của Nhà nước cùng các
thiết chế chính trị khác nhau. Tuy nhiên, trong các chế độ dân chủ đã từng tồn
tại cho đến nay thì chỉ có chế độ dân chủ vô sản - dân chủ XHCN mới thực sự
là chế độ dân chủ của đa số nhân dân trong xã hội, là chế độ dân chủ của dân,
do dân và vì dân.
1.1.1.2. Dân chủ ở cơ sở
V.I. Lênin xác định mục tiêu xây dựng một nền dân chủ XHCN là một
nền dân chủ toàn diện và triệt để trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn
hóa và xã hội; tạo điều kiện cho mọi thành viên trong xã hội làm chủ bản
thân, làm chủ xã hội và làm chủ tự nhiên. Đó là nhiệm vụ mà CNXH phải
phấn đấu lâu dài mới thực hiện được.
Trong chế độ dân chủ XHCN, nhân dân thực hiện quyền làm chủ của
mình vừa bằng hình thức gián tiếp thông qua bầu cử các cơ quan, tổ chức đại
diện thực hiện quyền tổ chức và quản lý xã hội; vừa bằng hình thức trực tiếp,
bảo đảm cho nhân dân có quyền tham gia quản lý xã hội một cách thiết thực
và hiệu quả, trước hết là ở cơ sở theo phương châm dân biết, dân bàn, dân
làm, dân kiểm tra. Sức sống của nền dân chủ XHCN do Đảng cộng sản lãnh
đạo dựa trên cơ sở thực hiện tốt và kết hợp chặt chẽ hai hình thức dân chủ nói
trên, từ đó động viên sức mạnh của toàn dân tham gia vào công cuộc phát
triển kinh tế - xã hội và bảo vệ tổ quốc.
Theo Lênin: "Không phải chỉ tuyên truyền về dân chủ, tuyên bố sắc
lệnh về dân chủ là đủ, không phải chỉ giao trách nhiệm thực hiện chế độ dân
14
chủ cho "những người đại diện" nhân dân trong những cơ quan đại diện là
đủ. Cần xây dựng ngay chế độ dân chủ bắt đầu từ cơ sở (tác giả luận văn nhấn
mạnh) dựa vào sáng kiến của bản thân quần chúng, với sự tham gia thật sự
của quần chúng vào tất cả đời sống của nhà nước, không có "sự giám sát" từ
trên, không có quan lại" [25, tr.336-337].
Hiện nay, đề cao dân chủ trực tiếp là làm phong phú thêm hình thức
thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân lao động, là xuất phát từ bản chất
của chế độ XHCN, một chế độ từng bước thực hiện trong thực tế mọi quyền
lực thật sự thuộc về nhân dân.
Trong nhiều trường hợp, dân chủ trực tiếp có những ưu điểm mà dân
chủ gián tiếp không có được. Đó là khả năng thể hiện một cách khách quan ý
chí, nguyện vọng của nhân dân không cần thông qua một hình thức trung gian
nào. Theo Lênin: "Phát triển dân chủ đến cùng, tìm ra những hình thức của
sự phát triển ấy, đem thử nghiệm những hình thức ấy trong thực tiễn v.v... đó
là một trong những nhiệm vụ cấu thành của cuộc đấu tranh cách mạng xã hội"
[26, tr.97] và thể hiện một cách ưu việt nhất quyền lực của nhân dân trong
việc quản lý xã hội.
Nền dân chủ XHCN ở nước ta được khẳng định trong đường lối của
Đảng, Hiến pháp, Pháp luật của Nhà nước. Hệ thống chính quyền ở nước ta
gồm 4 cấp: Trung ương, tỉnh (thành phố trực thuộc), huyện (thị, quận) và xã
(phường) đều vận hành theo nguyên tắc tập trung dân chủ - nguyên tắc cơ bản
của nền dân chủ XHCN. Hiệu quả của dân chủ thể hiện trực tiếp đến nhân
dân là ở cấp cơ sở. Đường lối của Đảng, chính sách của Nhà nước có đi vào
cuộc sống hay không tùy thuộc chủ yếu vào sự quán triệt và thực hiện như thế
nào ở cấp cơ sở. Cơ sở xã, phường, cơ quan, doanh nghiệp v.v.. là nơi trực
tiếp thực hiện đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước; là địa bàn nhân
dân sinh sống, lao động, sản xuất, học tập và công tác; là nơi diễn ra các mối
15
quan hệ nhiều mặt giữa các tầng lớp nhân dân với các cấp ủy Đảng và chính
quyền, cán bộ, đảng viên, công chức điều hành và xử lý công việc hàng ngày.
Nhân dân đòi hỏi được biết, được bàn và được tham gia giải quyết những vấn
đề đặt ra ở cơ sở, đồng thời có yêu cầu kiểm tra, giám sát hoạt động hàng
ngày của cấp ủy, chính quyền và cán bộ lãnh đạo. Điều đó có nghĩa là nhân
dân có quyền làm chủ từ cơ sở và ở cơ sở.
Nhận rõ bản chất của dân chủ XHCN, ngay từ khi chính quyền nhân
dân mới được thành lập, Hồ Chí Minh đã khẳng định quyền lực Nhà nước là
của nhân dân. Theo đó, "Nhà nước ta phải phát triển quyền dân chủ và sinh
hoạt chính trị của toàn dân, để phát huy tính tích cực và sáng tạo của nhân
dân, làm cho mọi người công dân Việt Nam thực sự tham gia công việc quản
lý của Nhà nước" [19, tr.590]. Hồ Chí Minh thấy rất rõ rằng: "Có lực lượng
dân chúng việc to tát mấy, khó khăn mấy làm cũng được. Không có, thì việc
gì làm cũng không xong. Dân chúng biết giải quyết nhiều vấn đề một cách
giản đơn, mau chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn,
nghĩ mãi không ra" [16, tr.295].
Người nhấn mạnh việc thực thi dân chủ ở từng địa phương, từng cơ sở,
từng cán bộ, từng người dân, từng công việc cụ thể. Vận động tất cả lực lượng
của mỗi một người dân phải làm cho dân hiểu được quyền lợi và nghĩa vụ của
mình trong vị thế của người làm chủ. Theo Hồ Chí Minh, "chế độ ta là chế độ
dân chủ, tư tưởng phải được tự do. Tự do là thế nào? Đối với mọi vấn đề, mọi
người tự do bày tỏ ý kiến của mình, góp phần tìm ra chân lý. Đó là một quyền
lợi mà cũng là một nghĩa vụ của mọi người" [19, tr.216]. Vì vậy, Người yêu
cầu: "Bất cứ việc gì đều phải bàn bạc với dân, hỏi ý kiến và kinh nghiệm của
dân, cùng với dân đặt kế hoạch cho thiết thực với hoàn cảnh địa phương" [16,
tr. 698-699].
16
Khi dân được biết, được hiểu, được bàn bạc xây dựng kế hoạch của địa
phương, cơ sở mình, họ sẽ dùng chính sức lao động của họ và những việc làm
cụ thể một cách tự giác. Khi thi hành một công việc xong, theo Hồ Chí Minh,
việc kiểm tra rút kinh nghiệm là vô cùng quan trọng và cần thiết giúp chúng ta
thực hiện tốt những công việc khác. Dân kiểm tra cán bộ, cán bộ kiểm tra dân,
dân và cán bộ cùng kiểm tra mọi hoạt động. "Lề lối làm việc phải dân chủ.
Cấp trên phải thường xuyên kiểm tra cấp dưới. Cấp dưới phải phê bình cấp
trên" [16, tr.9]; "nhất là phê bình từ dưới lên" [18, tr.157]. Dân kiểm tra là
một nội dung quyền dân chủ của nhân dân về xây dựng Đảng, xây dựng Nhà
nước và các đoàn thể nhân dân thật sự vững mạnh, trong sạch; bảo vệ lợi ích
chính đáng, hợp pháp của nhân dân. Việc đấu tranh chống tham ô, lãng phí,
quan liêu, cậy thế trái phép v.v... chỉ có thể thực hiện có hiệu quả nếu thật sự
dựa vào sự kiểm tra, giám sát của quần chúng nhân dân.
Ngày nay phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra là thể
hiện tư tưởng đó của Hồ Chí Minh. Từ Đại hội VI, Đảng ta đã chủ trương
thực hiện có nề nếp phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra và
chủ trương đó ngày càng được thực tế kiểm nghiệm tính cần thiết khách quan
của nó. Để quá trình dân chủ hóa thực sự đi vào cuộc sống cần cụ thể hóa
phương châm này, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 3 Ban chấp hành Trung ương
Đảng khóa VIII (tháng 6/1997) khẳng định khâu quan trọng và cấp bách trước
mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, là nơi trực tiếp thực hiện
mọi chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, là nơi cần thực hiện
quyền dân chủ của nhân dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất. Theo tinh
thần Nghị quyết đó, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị 30/CT-TW tháng 2/1998 và
Chính phủ đã ban hành Quy chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn, cơ quan và
doanh nghiệp nhà nước. Đó là những văn bản có tính chính trị và pháp lý làm
17
cơ sở để mọi người, mọi tổ chức ở cơ sở xây dựng và thực hành dân chủ - làm
chủ.
Dân chủ ở cơ sở là quyền dân chủ trực tiếp của người dân (mặc dù có
cả dân chủ đại diện) được tiến hành từ cấp xã, phường trở xuống (đến cấp
thôn, xóm, đơn vị, cơ quan, nhà máy, xí nghiệp) theo phương châm dân biết,
dân bàn, dân làm, dân kiểm tra. Dân chủ ở cơ sở trước hết là dân chủ trực
tiếp, là hình thức nhân dân thực hiện quyền làm chủ của mình bằng cách trực
tiếp thể hiện ý chí (qua ý kiến) nguyện vọng của mình đối với tổ chức và hoạt
động của cơ quan chính quyền ở cơ sở.
Có nhiều hình thức để thực hiện dân chủ ở cơ sở như: trưng cầu ý dân;
bầu và bãi miễn đại biểu cơ quan dân cử; bàn bạc, thảo luận, tham gia quyết
định, giám sát, kiểm tra việc thực hiện các vấn đề phát triển kinh tế, văn hóa
xã hội, trật tự an ninh ở cơ sở; tố cáo, khiếu nại; xây dựng quy định, quy ước
tự quản.
Như vậy, dân chủ ở cơ sở đề cập đến cả dân chủ ở xã, phường, thị trấn,
cơ quan nhà nước và doanh nghiệp nhà nước, còn dân chủ ở cấp xã mà chúng
ta nghiên cứu ở đây là dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Thực hiện Quy chế dân
chủ ở cấp xã chính là thực hiện "Quy chế thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị
trấn" do chính phủ ban hành.
1.1.1.3. Quy chế dân chủ ở cơ sở
Trải qua 60 năm xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân dưới sự
lãnh đạo của Đảng, nhân dân ta đã đạt được nhiều thành quả quan trọng: đất
nước đã được độc lập tự do, thống nhất và ngày nay toàn Đảng, toàn dân đang
ra sức phấn đấu xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Tuy nhiên, trong quá trình xây dựng cũng bộc
lộ những yếu kém, khuyết điểm. Về tình hình đó, đồng chí Đỗ Mười đã nêu
rõ: "... trong nội bộ Đảng và nhà nước ta, tình hình tiêu cực, suy thoái phẩm
18
chất vẫn có chiều hướng phát triển, nhất là tệ quan liêu và nạn tham nhũng,
tác hại không nhỏđến việc củng cố nhà nước, làm nhân dân lo lắng, đang thực
sự là một nguy cơ đối với chế độ XHCN, đối với con đường mà nhân dân ta
đã lựa chọn" [20, tr.4].
Tháng 3/1998, đồng chí Lê Khả Phiêu, cũng đã nêu bật tính cấp thiết
của việc xây dựng QCDC cơ sở, đồng chí chỉ rõ: "... Quyền làm chủ của nhân
dân còn bị vi phạm ở nhiều nơi, trên nhiều lĩnh vực; tệ quan liêu, mệnh lệnh,
cửa quyền, tham nhũng, sách nhiễu, gây phiền hà cho dân vẫn đang phổ biến
và nghiêm trọng mà chúng ta chưa ngăn chặn, đẩy lùi được. Phương châm
"dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" chưa được cụ thể hóa và thể chế
hóa thành pháp luật, cho nên chậm đi vào cuộc sống. Tình trạng mất dân chủ,
không để dân bàn bạc và quyết định những công việc cụ thể liên quan trực
tiếp đến đời sống của dân, bắt dân đóng góp nhiều khoản vượt quá khả năng,
lại không minh bạch về tài chính, thậm chí xà xẻo vào những khoản tiền do
dân đóng góp như ở một số xã thuộc tỉnh Thái Bình và vài nơi khác; tình
trạng để tồn đọng hàng vạn đơn khiếu tố bị đùn đẩy không giải quyết hoặc
giải quyết không kịp thời, không đúng; tình trạng quan liêu, quản lý lỏng lẻo
để thất thoát lớn trong một số ngân hàng hoặc gây lãng phí lớn trong xây
dựng, v.v. chẳng những làm suy giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng và
chính quyền mà còn làm triệt tiêu nguồn động lực của nhân dân và xâm phạm
vào bản chất tốt đẹp của chế độ" [23, tr.4].
Trước tình hình đó, Nghị quyết trung ương 3 khóa VIII (6/1997) nêu rõ
yêu cầu: "Tiếp tục phát huy tốt hơn và nhiều hơn quyền làm chủ của dân qua
các hình thức dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp; tiếp tục hoàn thiện Nhà
nước CHXH chủ nghĩa Việt Nam đảm bảo trong sạch, vững mạnh và tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước, mở rộng dân chủ XHCN, phát
huy quyền làm chủ của nhân dân trong xây dựng và quản lý nhà nước " [12,
19
tr.8]. Mở rộng dân chủ XHCN, phát huy quyền làm chủ của nhân dân phải
được thể hiện trên mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh,
từ việc xây dựng luật pháp, cơ chế, chính sách đến tổ chức bộ máy, phong
cách làm việc, bao quát mọi hoạt động của mọi cấp, mọi ngành, từ trung ương
đến địa phương và cơ sở. Vấn đề dân chủ, bảo đảm quyền làm chủ của nhân
dân để phát huy động lực, thực hiện mục tiêu CNH, HĐH, làm cho dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh phải được đặt ra cho cả hệ
thống chính trị, phải tác động hai chiều dưới lên, trên xuống, cả trong Đảng
và trong nhân dân.
Thực tiễn cho thấy, muốn phát huy được quyền làm chủ trực tiếp của
dân ở cơ sở, Đảng phải lãnh đạo, phải có quan điểm chính sách lớn để định
hướng, đồng thời phải xây dựng được thiết chế dân chủ ở cơ sở một cách cụ
thể, phù hợp với từng đối tượng dân cư. Đó là những quy định có giá trị pháp
lý do nhà nước ban hành mang tính bắt buộc mọi người, mọi tổ chức nghiêm
chỉnh thực hiện. Do vậy, ngày 18/2/1998, Bộ Chính trị đã ra Chỉ thị số 30/CTTW về xây dựng và thực hiện QCDC ở cơ sở nhằm "giữ vững và phát huy
quyền làm chủ của dân, thu hút nhân dân tham gia quản lý nhà nước, tham gia
kiểm kê, kiểm soát nhà nước, khắc phục tình trạng suy thoái, quan liêu, mất
dân chủ và nạn tham nhũng" [1, tr.3]. Chỉ thị nhấn mạnh: khâu quan trọng và
cấp bách trước mắt là phát huy quyền làm chủ của nhân dân ở cơ sở, là nơi
trực tiếp thực hiện mọi chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước, là nơi
cần thực hiện quyền làm chủ của dân một cách trực tiếp và rộng rãi nhất. Vì
cơ sở là nơi đông đảo nhân dân (bao gồm nông dân, công nhân, cán bộ, công
chức, viên chức, quân nhân và các thành phần lao động khác) sinh sống hàng
ngày. Cơ sở là nơi sản xuất, kinh doanh, lao động, học tập, nơi nảy sinh nhiều
yêu cầu bức xúc hàng ngày về đời sống kinh tế, xã hội, chính trị, nơi trực tiếp
thực hiện mọi chủ trương chính sách của Đảng và nhà nước. Cơ sở là nơi
20
nhân dân đang có nhiều đòi hỏi về làm chủ và cũng là nơi có điều kiện thực
hiện quyền dân chủ một cách trực tiếp và rộng rãi nhất. Bộ Chính trị cũng chỉ
rõ, thực hiện dân chủ ở cơ sở sẽ thúc đẩy cải cách hành chính, sửa đổi những
cơ chế chính sách và thủ tục hành chính không phù hợp với cuộc sống. Nhân
dân ở cơ sở thực hiện quyền làm chủ, tham gia kiểm kê, kiểm soát sẽ tích cực
xây dựng Đảng, chính quyền, đoàn thể trong sạch, vững mạnh, tích cực đấu
tranh bài trừ tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm. Muốn
vậy, cần ban hành QCDC ở cơ sở có tính pháp lý, yêu cầu mọi người, mọi tổ
chức ở cơ sở đều phải nghiêm chỉnh thực hiện.
Thực hiện Chỉ thị 30/CT-TW, Ủy ban thường vụ Quốc hội (khóa X) ra
Nghị quyết số 45-1998/NQ-UBTVQH 26/2/1998 về việc ban hành Quy chế
thực hiện dân chủ ở xã. Nghị quyết giao Chính phủ ban hành Quy chế thực
hiện dân chủ với các định hướng nội dung cụ thể. Thực hiện chủ trương của
Đảng và Nghị quyết của Ủy ban thường vụ Quốc hội, ngày 11/5/1998, Chính
phủ đã ban hành Nghị định số 29/1998/NĐ-CP (nay là Nghị định số
79/2003/NĐ-CP) về việc ban hành QCDC. Nghị định nêu rõ: "Điều 1: Ban
hành kèm theo Nghị định này bản Quy chế thực hiện dân chủ ở xã. Điều 2:
Quy chế này áp dụng đối với cả phường và thị trấn" [15, tr.1]. QCDC ở cơ sở
còn bao gồm cả dân chủ trong cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị doanh
nghiệp nhà nước với các văn bản quy định riêng.
Những văn bản trên đây từ chủ trương của Đảng đến việc thể chế hóa
bằng các văn bản pháp luật của nhà nước thể hiện sự quan tâm của Đảng, nhà
nước ta đối với việc xây dựng thể chế về dân chủ ở cơ sở. Thực hiện phương
châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" thể hiện bản chất nhà nước là
nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Quy chế thực hiện dân chủ ở cơ sở gồm các văn bản quy phạm pháp
luật quy định những biện pháp làm chủ trực tiếp của nhân dân ở cơ sở xã,
21
phường, cơ quan hành chính nhà nước và đơn vị doanh nghiệp nhà nước. Đó
là những điều nhân dân phải được biết, những việc nhân dân được bàn để nhà
nước quyết định hoặc nhân dân được quyết định và những việc nhân dân được
giám sát, kiểm tra, nhằm phát huy quyền làm chủ, sức sáng tạo của nhân dân.
Quy chế thực hiện dân chủ ở xã là văn bản quy phạm pháp luật quy
định cụ thể những việc HĐND và UBND xã phải thông tin kịp thời và công
khai để dân biết; những việc dân bàn và quyết định trực tiếp; những việc dân
tham gia ý kiến trước khi cơ quan nhà nước quyết định; những việc dân giám
sát, kiểm tra và các hình thức thực hiện QCDC ở xã nhằm phát huy quyền làm
chủ, sức sáng tạo của nhân dân ở xã, động viên sức mạnh vật chất và tinh thần
to lớn của nhân dân trong phát triển kinh tế - xã hội, cải thiện dân sinh, nâng
cao dân trí, ổn định chính trị, tăng cường đoàn kết, xây dựng Đảng bộ, chính
quyền và các đoàn thể ở xã trong sạch, vững mạnh; ngăn chặn và khắc phục
tình trạng suy thoái, quan liêu, tham nhũng của một số cán bộ, đảng viên và
các tệ nạn xã hội, góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh, theo định hướng XHCN.
QC thực hiện dân chủ ở xã, vì vậy thực chất là một định chế pháp lý
bảo đảm quyền làm chủ của dân.
Văn bản khung pháp lý về Quy chế dân chủ cơ sở
Nói đến Quy chế dân chủ cơ sở ở Việt Nam, văn bản đầu tiên phải kể
đến là Chỉ thị 30-CT/TW xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ cơ sở, của
Bộ Chính trị được đồng chí Lê Khả Phiêu ký ban hành ngày 18/02/1998. Chỉ
thị nêu rõ mở rộng dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân là mục tiêu, đồng thời là động lực bảo đảm cho thắng lợi của cách
mạng, của công cuộc đổi mới. Chỉ thị đưa ra những quan điểm chỉ đạo cần
quán triệt về việc xây dựng quy chế dân chủ cơ sở; cùng với những nội dung
22
quy chế dân chủ ở cơ sở cần chú trọng và phương châm, phương pháp thực
hiện cần chú ý.
Ngoài Chỉ thị 30-CT/TW cần kể đến một số văn bản về thực hiện quy
chế dân chủ ở cơ sở gồm có:
- Nghị định số 71/1998/NĐ–CP ngày 8/9/1998 của Chính phủ, ban hành
Quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan.
- Chỉ thị số 38/1998/CT–TTg ngày 11/11/1998 của Thủ tướng Chính phủ
về triển khai quy chế thực hiện dân chủ trong hoạt động của cơ quan.
- Thông tư liên tịch số 09/1998/TTLT-TCCP-TLĐLĐ ngày 4/12/1998
của Ban Tổ chức - cán bộ Chỉnh phủ và Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam
hướng dẫn về tổ chức và nội dung hội nghị cán bộ, công chức trong cơ quan.
- Nghị định số 99/2005/NĐ-CP ngày 28/7/2005 của Chính phủ ban hành
Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thanh tra về tổ
chức và hoạt động của ban thanh tra nhân dân.
- Pháp lệnh số 34/2007/PL-UBTVQH11 ngày 20/04/2007 của Ủy ban
thường vụ Quốc hội về thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị trấn. Trong Pháp
lệnh nêu rõ những quy định chung; Những nội dung công khai để dân biết;
Những nội dung nhân dân bàn và quyết định; Nội dung, hình thức nhân dân
bàn, biểu quyết đế cấp có thẩm quyền quyết định; Trách nhiệm tổ chức thực
hiện những nội dung nhân dân vàn và quyết định; Những nội dung tham gia ý
kiến trước khi cơ quan có thẩm quyền quyết định; Những nội dung nhân dân
giám sát.
- Kết luận số 65-KL/TW ngày 04/02/2010 của Ban Bí thư về việc tiếp
tục thực hiện chỉ thị số 30-CT/TW của Bộ Chính trị (khóa VIII) về xây dựng
và thực hiện quy chế dân chủ cơ sở. Kết luận đưa ra những kết quả đạt được
sau hơn 10 năm thực hiện Chỉ thị 30-CT/TW về xây dựng và thực hiện Quy
chế dân chủ cơ sở cùng với những hạn chế, khuyết điềm. Từ đó tiếp tục đẩy
23