Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Một số phương pháp dạy học phân môn Tiếng Việt phần từ ngữ trong môn Ngữ văn

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (187.58 KB, 18 trang )

BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
1.Lời giới thiệu
Tiếng việt là tiếng nói phổ thông, tiếng nói dùng trong giao tiếp của cộng
đồng người Việt. Bởi thế, dạy tiếng Việt có vai trò rất quan trọng trong đời
sống.Tiếng việt cung cấp những kiến thức cơ bản về lời nói, cách viết, dùng
ngôn ngữ để giao tiếp… Bên cạnh đó môn tiếng Việt còn góp phần vào việc phát
triển tư duy, khả năng suy luận, trau dồi trí nhớ, kích thích học sinh tìm hiểu…
Dạy học tiếng Việt được thể hiện bằng các hình thức rất đa dạng và phong phú,
đặc biệt là phần từ ngữ, góp phần rèn luyện cho học sinh kỹ năng dùng từ đúng
trong khi nói và viết.
Tiếng việt- phân môn từ ngữ là phân môn có vị trí quan trọng trong
chương trình Ngữ văn Trung học cơ sở (THCS). Nó trang bị vốn từ thông
thường cần thiết rèn luyện cho học sinh khả năng tư duy và năng lực thực hành
những kĩ năng về Tiếng việt, đồng thời rèn luyện cho học sinh ngôn ngữ giao
tiếp ứng xử.
Trong giao tiếp, nếu không nắm được nghĩa của từ thì người tiếp nhận sẽ
không hiểu biết, thậm chí còn hiểu sai lệch vấn đề. Còn bản thân người nói khó
làm người nghe hiểu được ý mình. Cùng với việc non yếu ngữ pháp, non yếu
việc sử dụng từ ngữ làm cho giao tiếp khó khăn và không đạt hiệu quả. Để phát
huy năng lực giao tiếp trước hết ta phải hiểu được từ, có khả năng huy động vốn
từ và sử dụng từ. Vì thế việc dạy học từ ngữ là một nhiệm vụ quan trọng trong
hệ thống môn học trong nhà trường.
Tuy nhiên, trên thực tế việc dạy phân môn từ ngữ ở trường THCS có
nhiều thiếu sót nhất định, nguyên nhân chủ quan là do giáo viên chưa quan tâm
đến việc mở rộng vốn từ cho HS, việc giải nghĩa từ chưa giúp cho HS nắm được
nghĩa “bóng” của từ nhiều nghĩa và ngay cả nghĩa “đen” có khi học sinh cũng
chưa hiểu đầy đủ và chính xác, hệ thống bài tập chưa phong phú để học sinh vận
dụng vốn từ đã học
Bên cạnh đó giáo viên chưa chú ý hướng dẫn học sinh phương pháp học
tập phù hợp và vận dụng vào thực tế. Nguyên nhân khách quan là đa số HS


thuộc gia đình nghèo có hoàn cảnh khó khăn, học sinh ngoài việc đi học ở
trường còn phải làm thuê kiếm sống phụ giúp gia đình nên thời gian học tập ở
nhà rất hạn chế. Ngoài ra cách giao tiếp ứng xử đối với mọi người các em rất
nhút nhát, e dè.
Xuất phát từ những nguyên nhân trên cùng với những trăn trở để tìm ra
một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng dạy môn Tiếng việt phân môn Từ
ngữ, giúp học sinh nhận biết được từ và sử dụng từ một cách hiệu quả nhất. Vì
1


vậy, tôi mạnh dạn xin trao đổi và đề xuất kinh nghiệm: Một số phương pháp
dạy học phân môn Tiếng Việt - phần từ ngữ trong môn Ngữ văn THCS. Với
đề tài này, tôi hi vọng sẽ góp một kinh nghiệm nhỏ với đồng nghiệp trong quá
trình dạy học một tiết tiếng Việt - phần từ ngữ có hiệu quả.
2. Tên sáng kiến: Một số phương pháp dạy học phân môn Tiếng Việt- phần từ
ngữ trong môn Ngữ văn THCS.
3. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến:
- Chủ đầu tư: Phan Thị Luyến
- Địa chỉ: Trường THCS Sơn Lôi, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc.
- Số điện thoại: 0988693398
- E_mail:
4. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến:
- Môn: Ngữ Văn
- Thực hiện trong các tiết dạy tiếng Việt- phần từ ngữ chương trình Ngữ văn 7.
5. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử:
Tháng 9 năm 2015
6. Mô tả bản chất của sáng kiến:
6.1. Về nội dung của sáng kiến:
6.1.1. Những vấn đề lí luận liên quan trực tiếp đến vấn đề nghiên cứu:
Hiện nay, trong xu thế mở cửa, hội nhập với thế giới về kinh tế, văn hóa,

khoa học kĩ thuật…thì ngôn ngữ là một ngành khoa học có tầm quan trọng và
gặp nhiều khó khăn trong việc lĩnh hội. Vì thế, việc dạy học từ ngữ ( tiếng Việt)
được chú trọng ở từng bậc học, cấp học. Mặt khác ngôn ngữ còn là yếu tố cấu
thành dân tộc, duy trì và phát triển truyền thống văn hóa của dân tộc.
a. Nhận thức về vị trí của các bài dạy học tiếng Việt- phần từ ngữ trong
chương trình Ngữ văn THCS thì phân môn tiếng Việt- phần từ ngữ được sắp
xếp đều các khối lớp, từ lớp 6 đến lớp 9. Cụ thể:
Số Lớp
Số Tên bài
TT
Tiết

1

6

6

-Từ và cấu tạo từ Tiếng Việt.
- Từ Mượn.
- Nghĩa của từ
- Từ nhiều nghĩa và hiện tượng chuyển nghĩa của từ.
- Chữa lỗi dùng từ( 2 tiết)
- Từ ghép.
- Từ láy.
- Từ Hán Việt.
2


2


7

6

3

8

3

4

9

9

- Từ đồng nghĩa.
- Từ trái nghĩa.
- Từ đồng âm.
-Trường từ vựng.
- Từ tượng hình, từ tượng thanh.
- Từ ngữ địa phương và biệt ngữ xã hội.
- Thuật ngữ.
- Sự phát triển của từ vựng ( 2 tiết)
- Trau dồi vốn từ.
- Tổng kết từ vựng( 5 tiết)

Như vậy, có thể nói hệ thống bài học về phần từ ngữ trong chương trình Ngữ
Văn THCS rất phong phú. Giúp học sinh nắm được những kiến thức, kĩ năng

cơ bản khi dùng từ.
b. Nhận thức về vai trò và ý nghĩa của các tiết dạy học từ ngữ.
Trong hệ thống ngôn ngữ, từ ngữ là đơn vị tín hiệu đích thực. Bản chất tín
hiệu là tạo điều kiện cho ngôn ngữ trở thành công cụ giao tiếp của loài người.
Từ vựng là một trong những bộ phận của hệ thống ngôn ngữ, thiếu từ vựng thì
không có bất kì ngôn ngữ nào. Thành phần ngữ âm, thành phần ngữ pháp cũng
được thể hiện trong từ.
Việc dạy học từ ngữ ngày càng có ý nghĩa cấp thiết vì tiếng Việt đang trong
giai đoạn phát triển ào ạt, chưa bao giờ tiếng Việt lại đòi hỏi phải bổ sung và
sáng tạo nhiều từ ngữ như bây giờ vì công cuộc đổi mới sâu sắc, toàn diện của
chúng ta đang phát triển với tốc độ nhanh chóng. Chính sách mở cửa đã đặt
tiếng Việt của chúng ta trong quan hệ tiếp xúc với nhiều ngôn ngữ trên thế giới.
Hàng loạt từ mới, cách nói mới ra đời… Việc tạo ra từ mới là cần thiết song
chúng ta không thể chấp nhận tiếng nói lai căng, lối tạo từ một cách từ phát vì
như thế chúng sẽ làm cho tiếng Việt mất bản sắc dân tộc. Như Bác Hồ cũng đã
từng nhắc nhở: “ Đời sống xã hội ngày càng phát triển và đổi mới, có những chữ
ta không có sẵn và khó dùng đúng thì cần phải mượn chữ nước ngoài…nhưng
còn những chữ tiếng ta có, vì sao không dùng mà cũng mượn chữ nước ngoài.
Tiếng nói là thứ của cải có từ lâu đời và vô cùng quý báu của dân tộc. Chúng ta
phải giữ gìn nó, quý trọng nó làm cho nó ngày càng phổ biến, rộng khắp. Của
mình có mà không dùng lại đi mượn của nước ngoài đó chẳng phải đầu óc quen
ỷ lại hay sao?”
Từ những điều trình bày ở trên có thể khẳng định một lần nữa việc dạy từ ngữ
là vô cùng cần thiết và quan trọng.
6.1.2. Thực trạng việc dạy và học các tiết từ ngữ trong chương trình Ngữ
văn THCS.
3


Qua thực tế giảng dạy, tôi tự nhận thấy, hiện trạng nắm và sử dụng từ ngữ của

học sinh chưa khả quan lắm. Khảo sát qua bài kiểm tra của học sinh còn thấy HS
mắc quá nhiều lỗi: lỗi lặp từ, sai chính tả, lỗi diễn đạt, dùng từ không đúng
nghĩa, đặc biệt là lỗi dập khuôn theo mầu có sẵn. Điều đó đã phản ánh tình trạng
nghèo nàn trong tâm hồn, trong suy nghĩ, làm cho tâm hồn và suy nghĩ trở thành
xơ cứng, làm mất cá tính trong diễn đạt
Tình trạng trên thật đáng lo ngại, nên đòi hỏi ta phải có sự giáo dục ngôn ngữ
kịp thời và chu đáo. Trong đó việc dạy học từ ngữ trong nhà trường là hết sức
cần thiết và quan trọng.
6.1.3. Mục đích của dạy học từ ngữ.
Mục đích nhận thức của việc dạy học từ ngữ thể hiện ở việc hình thành cho học
sinh thế giới quan khoa học, trang bị những kiến thức cơ bản về từ ngữ tiếng
Việt với tư cách là một hệ thống hoạt động chức năng và phát triển năng lực
thẩm mĩ cho học sinh.
Khi hình thành cho học sinh thế giới quan khoa học, kiến thức về từ vựng
đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát hiện chức năng của ngôn ngữ trong
xã hội., quan hệ giữa ngôn ngữ với cuộc sống xã hội. Ngôn ngữ của loài người
là ngôn ngữ bằng từ ngữ. Từ là gọi tên của sự vật , hiện tượng mà con người
nhận thức được trong thế giới hiện thực xung quanh mình. Từ vựng thể hiện một
cách đầy đủ, toàn diện mối quan hệ giữa ngôn ngữ và cuộc sống xã hội. Sự xuất
hiện một sự vật, một hiện tượng mới trong thế giới hiện thực kéo theo sự xuất
hiện những đơn vị từ vựng mới trong ngôn ngữ.
Đặc biệt, việc dạy học từ ngữ giúp các em hiểu sâu thêm về tiếng Việt vì như
trên đã nói từ ngữ là một bộ phận của tiếng Việt, mọi đơn vị khác đều có quan
hệ mật thiết với từ ngữ. Thông qua việc học tập từ ngữ, các em hiểu được sự thể
hiện, sự kết hợp của các âm tiết như thế nào. Có nắm được nghĩa của từ, đặc
điểm ngữ pháp của từ, các em mới nắm được các quy tắc ngữ pháp sắp xếp và
kết hợp các từ thành câu.
Tiếp theo, nhiệm vụ giáo dục thẩm mĩ ngôn ngữ cũng chỉ có thể thực hiện
thông qua, nhờ vào việc dạy học từ ngữ. Phần từ ngữ không những chỉ trang bị
cho các em các tri thức về từ ngữ tiếng Việt mà còn cung cấp cho các em những

hiểu biết về từ ngữ để có thể hiểu được giá trị nghệ thuật của chúng trong ngôn
ngữ nghệ thuật.
Việc dạy học từ ngữ còn cần phải góp phần giáo dục tình cảm dân tộc , tạo
điều kiện phát triển năng lực trí tuệ và tình yêu tiếng Việt, có ý thức giữ gìn và
phát triển tiếng Việt.
Về mặt ứng dụng, việc dạy học từ ngữ cần phải hướng tới mục đich trang bị tri
thức từ ngữ để các em có thể giao tiếp tốt hơn, giúp các em có cơ sở để phát hiện
4


và đánh giá được hiệu quả thẩm mĩ của ngôn ngữ nghệ thuật, góp phần sáng tạo
nên cái đẹp bằng nghệ thuật ngôn từ.
6.1.4. Những nguyên tắc khi học tiếng Việt- phân môn từ ngữ.
Dạy học từ ngữ tuân theo nguyên tắc dạy học tiếng Việt nói chung, nó còn tuân
theo một nguyên tắc đặc thù. Các nguyên tắc đặc thù này một mặt phản ánh
những riêng biệt của dạy học từ ngữ, mặt khác cũng phải thống nhất, dựa trên cơ
sở nguyên tắc dạy tiếng để làm sáng tỏa cho nguyên tắc dạy học từ ngữ.
a. Nguyên tắc trực quan:
Tín hiệu từ là một chỉnh thể thống nhất giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt,
bởi vậy cần phải luôn luôn đảm bảo mối liên hệ giữa từ với hiện thực khách
quan mà từ biểu đạt. Nguyên tắc này thể hiện ở chỗ dùng các phương tiện trực
quan( vật thật hoặc tranh ảnh) để giải nghĩa của từ. Mối liên hệ này thường được
thực hiện nhờ chức năng siêu ngôn ngữ của tiếng Việt, nghĩa là dùng chính tiếng
Việt để giải thích, lí giải ý nghĩa của từ, làm cho học sinh nắm được ý nghĩa của
từ.
VD: Giáo viên dùng bảng phụ ghi nội dung ví dụ:
- Em hãy giải thích nghĩa của từ “ ăn” và từ “ nón”
Giáo viên đưa thêm một số câu hỏi gợi ý dể kích thích tư duy của học sinh
như:
+ Ăn là hoạt động của bộ phận nào và hoạt động như thế nào?

+ Giáo viên dùng cái nón thật và hỏi: Nón là vật dụng dùng để làm gì? Nhằm
mục đích gì?
Học sinh có thể trả lời:
+ Ăn là đưa thức ăn vào miệng nhai và nuốt.
+ Nón là vật dụng dùng để đội trên đầu nhằm để che nắng che mưa.
Hiệu quả: GV đảm bảo nguyên tắc trên sẽ giúp HS dễ dàng nắm được nội dung
vấn đề và phát triển được năng lực tư duy. Vì nguyên tắc này thường gắn với
thực tế khách quan.
b. Nguyên tắc chức năng:
Là đơn vị của một hệ thống chức năng, Từ đảm bảo chức năng gọi tên, chỉ quan
niệm và thái độ tình cảm của người nói hoặc người viết. Dạy từ cần làm cho HS
nắm được các chức năng này của chúng được thực hiện như thế nào trong ngôn
ngữ và trong lời nói. Mặt khác việc sử dụng từ ngữ còn tùy thuộc vào lĩnh vực
giao tiếp, mục đích giao tiếp, tức là phụ thuộc vào các phong cách chức năng
của ngôn ngữ. có những từ được dùng chung cho mọi phong cách, nhưng lại có
những từ chỉ dùng trong một phong cách nhất định. Vì vậy, khi dạy từ phải gắn
liền với đặc điểm phong cách chức năng, phải thấy được sự chi phối của phong
cách chức năng đối với việc lựa chọn và sử dụng từ ngữ. Theo tinh thần này,
Phần từ ngữ trong chương trình của ban khoa học tự nhiên và ban khoa học tự
5


nhiên- kĩ thuật được hướng vào các ngôn bản khoa học, chỉ ra những quy tắc sử
dụng từ trong loại văn bản đó. Trái lại, phần từ ngữ ở ban khoa học xã hội lại
hướng vào ngôn ngữ nghệ thuật, gắn liền việc dạy học từ ngữ với văn học. Các
tài liệu dạy học đều được trích từ những tác phẩm văn học, nội dung dạy học
phục vụ trực tiếp cho việc hiểu và bình giá hiệu quả thẩm mĩ của ngôn ngữ nghệ
thuật. Chương trình và sách giáo khoa viết về từ ngữ ở ban này dựa vào nguyên
tắc: những tri thức nào gắn trực tiếp với các đặc điểm của ngôn ngữ nghệ thuật,
là cơ sở để lí giải các đặc điểm của ngôn ngữ nghệ thuật thì sẽ được lựa chọn.

Từ ngữ trong ngôn ngữ và từ ngữ trong ngôn bản là thống nhất chứ không phải
đồng nhất. Muốn nắm được cách sử dụng từ ngữ trong ngôn bản nghệ thuật và
đánh giá được hiệu quả thẩm mĩ của chúng, học sinh phải cần phải được trang bị
những tri thức về từ ngữ gắn liến với hoạt động của chúng trong ngôn bản.
Ví du: Học sinh đọc các câu văn, câu thơ sau và cho biết ý nghĩa của nó, từ ngữ
nào là trọng tâm biểu đạt nội dung ý nghĩa đó? Từ ngữ ấy có chức năng gì trong
các câu thơ, câu văn đó?
“Bác đã đi rồi sao Bác ơi?”
-> Biểu lộ cảm xúc buồn, thương tiếc khi biết Bác đã chết.
- Từ ngữ trọng tâm trong câu trên: “ đi rồi”, “ sao…ơi !”
- Chức năng của các từ trọng tâm đó là: Biểu cảm.
“ Thương thay thân phận con rùa
Ở đình đội hạc, ở chùa đội bia”.
-> Thể hiện sự thương cảm, đồng cảm với số phận con rùa luôn chịu thiệt thòi.
- Từ ngữ trọng tâm trong câu: “ Thương thay”
- Chức năng của từ trọng tâm đó: biểu cảm.
c. Nguyên tắc hệ thống:
Từ vựng trong ngôn ngữ là một hệ thống, tính hệ thống này cũng được thể hiện
trong vốn từ và cách sử dụng từ ngữ của mỗi cá nhân. Đặc trưng này của từ
vựng tiếng Việt đòi hỏi các hiểu biết lý thuyết về từ ngữ phải được trình bày
theo một mối quan hệ liên tưởng nào đấy, Việc tích lũy và rèn luyện kĩ năng từ
ngữ cũng phải theo các hệ hình được tạo lập theo quan hệ liên tưởng nhất định.
Chẳng hạn: Khi dạy bài từ nhiều nghĩa, GV cần phải đến từ đồng âm.
Ví dụ: HS đọc bài thơ “ Những cái chân” ( SGK Ngữ văn 6/ tập 1) và cho biết
nghĩa của những từ “ Chân” trong bài thơ.
- Chân: Là bộ phận dưới cùng của cơ thể người và động vật dùng để nâng đỡ, di
chuyển cơ thể.
- Chân bàn, chân núi, chân kiềng: là phần cuối của một số đồ vật dùng để nâng
đỡ hoặc bám trên mặt đất.
-> Từ “ chân” là từ có nhiều nghĩa.

6


* GV cần phân biệt cho học sinh thấy rõ được sự khác nhau giữa từ đồng nghĩa
và từ nhiều nghĩa.
- Từ đồng nghĩa là những từ có nghĩa giống nhau hoặc gần giống nhau.
- Từ nhiều nghĩa là từ : từ nghĩa gốc sinh ra nhiều nghĩa khác.
Đặc biệt lưu ý đến sự chi phối của nguyên tắc hệ thống đến việc lựa chọn nội
dung và cách trình bày về nghĩa của từ. Sách cần chỉ ra bản chất hệ thống của tổ
chức nghĩa của từ vựng và từng từ một. Hiện tường trường nghĩa, đồng nghĩa,
trái nghĩa, tính hệ thống của việc sử dụng từ ngữ trong ngôn bản là biểu hiện
tính hệ thống của từ vựng về mặt nghĩa của từ. Tính hệ thống này còn được thể
hiện ngay trong bản thân từng từ một ở hiện tượng nhiều nghĩa của từ, hiện
tượng các thành phần ngữ nghĩa và các nét nghĩa của một từ.
d. Nguyên tắc lịch sử:
Nguyên tắc lịch sử đòi hỏi việc dạy học từ ngữ phải chỉ ra ngườn gốc của từ.
Việc thực hiện nguyên tắc này góp phần hình thành ở học sinh quan điểm lịch sử
và qua đó phát triển vốn từ ngữ cho các em. Thông qua những bài học này, HS
nắm được quá trình những nguyên tắc vay mượn, đồng thời tích lũy thêm vốn
từ. Trong chương trình có phân bổ các tiết dạy từ Hán Việt.
Ví dụ: Khi dạy bài Từ mượn ( Ngữ văn 6/ tập 1) cần làm rõ cho học sinh biết
được các nguồn gốc mượn từ như từ Hán việt, và cho biết vì sao ta mượn từ? khi
nào cần sử dụng từ mượn, khi nào cần phải làm giàu ngôn ngữ tiếng Việt và
giữu gìn sự trong sáng của tiếng Việt.
6.1.5. Một số phương pháp nâng cao chất lượng dạy phân môn Tiếng Việtphần từ ngữ trong chương trình Ngữ văn THCS.
Bàn về cách dạy lí thuyết tiếng Việt nói chung, về tri thức từ vựng nói riêng
thật khó mà có một mẫu, và cũng không nên có một mẫu duy nhất ứng dụng cho
mọi trường hợp, vì cách dạy học phải tùy theo đối tượng, tùy theo đặc điểm của
nội dung tri thức cần cho học sinh lĩnh hội. Trước hết trong phần này chúng ta
cần đề cập đến những thao tác chung nhất bắt buộc phải thực hiện khi dạy học lí

thuyết về từ ngữ.
Để nâng cao chất lượng dạy học phân môn từ ngữ cho học sinh đối với
chương trình ngữ văn bậc THCS qua quá trình đổi mới sách giáo khoa nói
chung. Theo tôi cần áp dụng một số biện pháp sau:
6.1.5.1. Việc giải nghĩa từ cho học sinh phải đầy đủ chính xác:
a. Giải nghĩa bằng định nghĩa:
Giải nghĩa bằng định nghĩa là biện pháp giải nghĩa bằng cách nêu nội dung
nghĩa, gồm tập hợp các nét nghĩa bằng một định nghĩa. Tập hợp nét nghĩa được
liệt kê theo sự sắp xếp nét nghĩa khái quát, cũng là nét nghĩa từ loại lên trước hết
và các nét nghĩa càng hẹp, càng riêng thì càng ở sau.
7


Điều quan trọng trong việc từ Ngữ là giúp học sinh hiểu đúng và chính xác
nghĩa của từ ngữ. Muốn vậy giáo viên phải giải nghĩa từ, thông thường việc giải
nghĩa từ cần giúp cho học sinh
Học sinh phải nắm được nghĩa chính lẫn nghĩa phụ (nghĩa đen và nghĩa
bóng )
Ví dụ : từ “Trông “ HS phải nắm được nghĩa chính của từ này là
“nhìn”các nghĩa phụ là “mong”, “coi giữ”…
Nhưng việc giải nghĩa từ trên kiến HS khó phân biệt nghĩa chính và nghĩa
phụ của từ. Vì thế cách giải nghĩa tốt nhất là sự phát triển các mối quan hệ của
từ nhiều nghĩa. Nói như vậy có nghĩa là sự phát triển ngữ nghĩa của từ có một cơ
sở, một lí do nhất định, có thể giải thích được chẳng hạn các nghĩa của từ như từ
“chân”
(1) “chân” bộ phận dưới của cơ thể của người hay động vật dùng để đứng
(2) “chân” bộ phận dưới của một số đồ dùng, có tác dụng đở cho bộ phận
khác (chân bàn, chân giường )
(3) “chân” phần dưới của một số vật, tiếp giáp và bám chặt vào mặt nền
Chúng ta có thể thấy rõ cơ sở chung của sự phát triển nghĩa ở đây là nét

nghĩa “ bộ phận dưới cùng” có như thế thì HS dễ dàng phân biệt được nghĩa
chính và nghĩa phụ
Giáo viên cần lưu ý HS cần tham khảo thêm sách vở và giáo viên cũng dựa vào
từ điển để trách sai sót trong giải nghĩa của từ, đồng thời trong giải nghĩa của từ
cần đặt trong văn cảnh, sử dụng các ví dụ vui, hấp dẫn, các câu tục ngữ, thành
ngữ… Để giúp HS dễ nhớ,dễ hiểu qua đó mà nắm được nghĩa của từ.
b. Giải nghĩa theo lối so sánh từ đồng nghĩa, gần nghĩa hoặc trái nghĩa:
Đây là cách giải nghĩa một từ bằng cách quy nó về những từ đã biết, các từ
dùng để quy chiếu đó phải được giảng kĩ.
Ví dụ1: “ Siêng học, siêng làm” tức là “ chăm học, chăm làm” ( dùng từ đồng
nghĩa)
Ví dụ 2: “ Ngăn nắp”: là không lộn xộn ( dùng từ trái nghĩa)
Ví dụ 3: “ siêng năng”: là cần cù, chăm chỉ ( Dùng từ gần nghĩa)
Tương ứng với cách giải nghĩa này là các bài tập yêu cầu giải nghĩa bằng từ
đồng nghĩa, gần nghĩa và trái nghĩa.
Ví dụ 4 : trắng – đen; trên- dưới... Khi nói trên có nghĩa là không phải ở dưới.
Có những từ trái nghĩa phương hướng là các từ chỉ hướng đối lập nhau trong
không gian hoặc thời gian.
Ví dụ 5 : nam- bắc; đông – tây; lên – xuống; ra – vào....

8


Lại có những từ trái nghĩa thang độ, tức là những cặp từ có nghĩa trái ngược
nhau tạo thành hai cực có điểm trung gian, phủ định cực này chưa hẳn đã tất yếu
chấp nhận cực kia.
Ví dụ 6: nóng – lạnh, ở giữa có mát, ấm; già – trẻ, ở giữa có trung niên.... Vì
thế khi giải nghĩa từ bằng cách so sánh với các từ trái nghĩa, có trường hợp ta
nói: . Vì cặp rủi – may còn có nghĩa từ bình thường (cuộc đời rủi ro, cuộc đời
bình thường, cuộc đời may mắn). Trong thực tế, học sinh thường quen giải nghĩa

theo kiểu đối lập có – không. Như vậy, giáo viên cần chú ý giải thích rõ hơn cho
các em hiểu.
Vì từ đồng nghĩa thường khác nhau về sắc thái cho nên cách giảng theo lối so
sánh từ đồng nghĩa nên kết hợp với cách giảng định nghĩa hoặc với cách giảng
theo lối miêu tả. Bên cạnh việc đưa ra các từ đồng nghĩa, gần nghĩa để đối chiếu,
cần bổ sung thêm những nét nghĩa riêng cho từng từ nên khi giải nghĩa chúng ta
có thể chỉ cần làm rõ nghĩa một từ nhưng việc xác định loạt đồng nghĩa sẽ giúp
chúng ta hiểu rõ nghĩa của từ cần giải nghĩa hơn.
Ví dụ: Khi giải nghĩa từ lốc (cơn lốc), chúng ta đưa từ này về loạt đồng nghĩa:
lốc, gió, bão, giông, giông tố,..... Trong loạt từ trên, chúng ta chọn từ gió làm từ
trung tâm rồi giảng nghĩa từ thật kĩ, rồi bổ sung những nghĩa đặc thù cho các từ
lốc, bão, giông...
+ gió: là hiện tượng không khí trong khí quyển chuyển động thành luồng từ
vùng có áp suất cao đến vùng có áp suất thấp.
+ lốc: gió xoáy mạnh trong phạm vi nhỏ.
+ giông: biến động mạnh của thời tiết, thường có gió to giật mạnh và có sấm
sét, mưa rào.
+ giông tố: cơn giông có gió rất to và mạnh (thường dùng để ví cảnh gian nan
đầy thử thách)
Hoạt động giải nghĩa các từ ghép chính phụ cùng hình vị chính, khác nhau
về hình vị phân nghĩa sắc thái hóa, cũng thực hiện theo cách thức nêu trên.
c. Giải nghĩa từ bằng so sánh, đối chiếu:
Ví dụ 1: Giải nghĩa từ “ đồi” bằng cách so sánh “ Đồi” với “núi”, “ đồi” thấp
hơn “ núi” , sườn thoai thoải hơn.
Ví dụ 2: Giải nghĩa từ “sách” với “ vở” bằng cách so sánh, đối chiếu chúng với
nhau:
“ Sách”: có chữ in dùng để đọc, “ vở” là tập giấy trắng đóng lại dùng để viết.
d. Giải nghĩa bằng ngữ cảnh:
Giải nghĩa bằng ngữ cảnh là để cho từ xuất hiện trong một nhóm từ, một câu,
một bài để làm rõ nghĩa của từ. GV không cần giải thích, nghĩa của từ được bộc

lộ như ngữ cảnh.
9


Ví dụ 1 : Để giải nghĩa từ “ náo nức”, GV đưa ra câu: “ Chúng em náo nức đón
tết”
Ví dụ 2: Để thay từ “ nhỏ nhoi” trong câu: “ Suốt đời, tôi chỉ là một chiếc lá
nhỏ nhoi bình thường” bằng từ nào dưới đây?
a) Nhỏ nhắn
b) Nhỏ xinh
c) nhỏ bé.
e. Giải nghĩa bằng từ điển:
Đây là biện pháp giải nghĩa từ phổ biến nhất, là biện pháp giải nghĩa làm cơ sở
Cho rất nhiều bài tập giải nghĩa khác nhau. Giải nghĩa của từ bằng từ điển tức là
GV hoặc HS nêu nội dung nghĩa của từ bằng một định nghĩa.
VD: Ông nội là cha của cha em.
Tự trọng là coi trọng phẩm giá của mình.
g. Giải nghĩa theo cách miêu tả:
Nếu như cách giải nghĩa theo định nghĩa bắt đầu từ các ý nghĩa biểu niệm
thì giảng nghĩa theo cách miêu tả về cơ bản là bắt đầu bằng một ý nghĩa biểu vật
tiêu biểu. Điều này cho phép giáo viên chấp nhận những lời giải nghĩa của học
sinh như sau:
Ví dụ 1 : Giáo viên cho HS giải nghĩa các từ sau:
+ Vàng ối: là mà vàng đậm và đều khắp. Ví dụ màu vàng của lá mít.
+ Vàng xuộm: là màu vàng đậm và đều khắp. Ví dụ màu của cánh đồng
lúa chín đều.
+ Vàng giòn: là màu vàng của rơm, rạ phơi rất khô.
chất của từ trái nghĩa là những từ có nghĩa trái ngược, đối lập nhau xét theo một
phạm trù nhất định. Tuy nhiên cần phân biệt, có những cặp từ trái ngược nhau
tạo thành hai cực mâu thuẫn, phủ định cực này tất yếu phải chấp nhận cực kia.

h. Giải nghĩa theo cách phân tích từ ra từng tiếng và giải nghĩa từng tiếng:
- Cách giải nghĩa này có ưu thế đặc biệt khi giải nghĩa từ Hán việt. Việc giải
nghĩa từng tiếng rồi khái quát nêu ý nghĩa chung của cả từ sẽ giúp học sinh cơ
sở nắm vững nghĩa từ.
- Đối với từ đơn nghĩa, nhiệm vụ ở bước này là so sánh với các từ khác cùng
nhóm (tương đồng, tương cận hoặc tương phản với nó) để phát hiện các nghĩa tố
cần yếu trong cấu trúc nghĩa của từ.
- Riêng từ đa nghĩa, vấn đề phức tạp hơn. Cùng với việc so sánh, phát hiện
các nghĩa tố cần yế của từng nghĩa, thì việc tách ra bao nhiêu nghĩa trong toàn
bộ cơ cấu nghĩa từ phải được tiến hành trước một bước. Ta cần phải làm những
bước sau đây:
- Xác định nghĩa gốc của từ (trong thế tương quan lưỡng phân nghĩa gốc –
nghĩa phái sinh). Nghĩa gốc của từ có thể là một nghĩa từ nguyên, nhưng cũng có
thể chỉ là một nghĩa phái sinh rồi phái sinh tiếp tục ra nghĩa khác. Ví dụ tính từ
"bạc" có 3 nghĩa:
10


+ Mỏng manh, ít ỏi, không trọn vẹn: Mệnh bạc,...
+ Ít ỏi, sơ sài (trái với hậu): Lễ bạc lòng thành,...
+ Không nhớ ơn nghĩa, không giữ được tình nghĩa trọn vẹn trước sau như
một: Ăn ở bạc với bố mẹ,...
Nghĩa (1) của tính từ "bạc" là nghĩa từ nguyên, vốn từ gốc Hán.
Nghĩa (2) và (3) của nó đều được phái sinh từ nghĩa (1).
Thế nhưng trong tiếng Việt hiện đại, nghĩa (3) mới là nghĩa phổ biến nhất.
Dựa vào nghĩa gốc, ta phát hiện các nghĩa phái sinh và các quy tắc chuyển nghĩa
của chúng.
6.1.5.2 Coi trọng việc mở rộng vốn từ cho học sinh:
Mở rộng vốn từ cho học sinh là một nhiệm vụ cơ bản của phân môn từ ngữ,
khi có vốn từ phong phú HS sẽ rất thuận lợi trong hoạt động giao tiếp và hoạt

động tư duy, có thể mở rộng vốn từ cho học sinh bằng nhiều cách khác nhau :
a. Phương pháp ghép từ:
Xuất phát từ một từ gốc, bằng phương pháp giúp học sinh tìm ra từ mới
Ví dụ : Giáo viên lần lượt cho từ : “Học”, “Bà”,”Giầy” học sinh dễ dàng tìm
ra từ mới để tao từ ghép :
“Học”: học sinh, học tập, học hành, học đường ….
“Bà” : Bà nội, Bà ngoại, Bà cô, Bà dì …
“Giầy”: Giầy dép,giầy vớ …
Bằng phương pháp ghép từ như trên học sinh dễ dàng nhận biết đâu là từ
ghép chính phụ và từ ghép đẳng lập.
Qua đó học sinh nắm vững hơn khái niệm về từ ghép, ý nghĩa của từ ghép,
đặc điểm của mỗi loại từ ghép
b. Phương pháp láy:
Đây là phương pháp giúp học sinh tìm ra các từ mới bằng nhiều cách, lặp lại
phụ âm đầu, vần hay toàn bộ từ đã có. Các từ mới này có thể làm giảm nhẹ sắc
thái từ hoặc tăng tốc độ, tính chất… của các sự vật hoặc hiện tượng nói đến .
Ví dụ : Bài từ láy tiết 11 ngữ văn 7 tập một : giáo viên cho từ “xinh’
Bằng phương pháp láy, học sinh tìm ra từ mới với một từ là láy hoàn toàn và
một từ láy bộ phận:
“xinh xinh”: Láy hoàn toàn
“ Xinh xắn”: Láy bộ phận
Giáo viên đưa ra cho học sinh từ “ló”, Giáo viên cho học sinh tìm ra từ mới để
tạo từ láy lập lại phụ âm đầu. Học sinh có thể tìm ra nhiều từ có từ ló trong đó
như “lấp ló”
c. Phương pháp liên tưởng:
11


Nói đến ngôn ngữ trong chức năng làm công cụ tư duy trừu tượng và cộng cụ giao tiếp là
nói tới đơn vị Từ của hệ thống ngôn ngữ. Chính là Từ và trước hết là Từ đã tạo nên những

xung động liên tưởng trong vỏ não, vùng liên tưởng, trung khu ngôn ngữ Broca và Vernike,
làm thức dậy các cảm giác, biểu tượng, ý nghĩ, cảm xúc… tiềm ẩn trong kinh nghiệm cá thể
của người nói (người viết), người nghe (người đọc).
Vì sao vậy? Đơn giản chỉ là bởi từ hầu như trước hết và chủ yếu mang chức năng định
danh, chức năng gọi tên mọi sự vật, trạng thái, đặc điểm thế giới khách quan. Trong Bút kí
triết học của Lênin có đoạn: “Tri giác cảm tính đem lại cho ta sự vật, nhưng lí trí thì đem lại
cho ta tên gọi. Không có cái gì tồn tại trong lí trí mà lại không tồn tại trong tri giác cảm tính;
nhưng cái tồn tại một cách thực tế trong tri giác thì chỉ tồn tại bằng tên gọi trong lí trí. Lí trí là
vật tồn tại tối cao, là kẻ thống trị thế gới; nhưng chỉ trên danh nghĩa, chứ không phải trên
thực tế. Nhưng tên gọi là cái gì? Một phù hiệu dùng để phân biệt, một dấu hiệu đập vào mắt
mà tôi đem làm thành đặc trưng của đối tượng, làm thành cái tiêu biểu cho đối tượng để hình
dung đối tượng trong chỉnh thể của nó”. Cho nên từ không phải là sự vật, không đồng nhất
với sự vật được nói tới trong từ, thậm chí, về mặt nhận thức có khi chỉ là “một dấu hiệu được
đem làm thành đặc trưng của đối tượng, làm thành cái tiêu biểu cho đối tượng”, nhưng tên
gọi (từ) vẫn giúp ta hình dung đối tượng trong tính chỉnh thể (tất nhiên ở các mức độ khác
nhau phụ thuộc vào “kinh nghiệm cá thể”) của nó. Người nói (người viết, nhất là nhà văn)
lựa chọn được một tên gọi (từ), người nghe (người đọc) giải mã được một từ nào đó (nhất là
trong tác phẩm văn học) đều phải trải qua quá trình liên tưởng không hề đơn giản, nhưng lại
rất nhanh và quen thuộc tới mức cơ hồ không hề diễn ra quá trình này trong ý thức của con
người.
6.1.5.3. Giúp học sinh sử dụng được vốn từ :
Trong hoạt động giao tiếp, vốn từ được hình thành theo hai con đường: con
đường tự nhiên - vô thức và con đường có ý thức. Cá nhân được coi là
nắm được một từ khi cá nhân đó phải nắm được hình thức ngữ âm cùng
nội dung biểu đạt tương ứng. Vốn từ của cá nhân là hệ thống mở. Ở
trường học, nguồn cung cấp từ cho các em chủ yếu là môn Tiếng Việt.
Việc làm giàu vốn từ cho học sinh bao gồm: mở rộng vốn từ, dạy nghĩa
từ, dạy sử dụng từ. Việc làm giàu vốn từ cho học sinh vừa phải tuân
theo những quy luật nêu trên vừa phải chú ý một số đặc điểm: Về mặt tâm
sinh lý; Về mặt tâm lí - ngôn ngữ học. Như vậy, các bài tập Mở rộng vốn

từ phải giúp học sinh chuyển từ việc sử dụng từ theo kinh nghiệm sang sử
dụng một cách khoa học.
Học phân môn từ ngữ, học sinh phải sử dụng được vốn từ đã có trong giao
tiếp, để giúp học sinh sử dụng được vốn từ của mình. Theo tôi cần áp dụng các
biện pháp sau :
a. Làm các bài tập điền từ:
Mục đích của bài tập điền từ là giáo viên luyện cho học sinh biết kết hợp từ:
12


Loại bài tập này có 2 mức độ
- Mức độ 1 : Cho trước các từ yêu cầu tìm trong số những từ đã cho
những từ thích hợp để điền vào chổ trống trong đoạn
Ví dụ : Yêu cầu học sinh điền vào chổ trống các từ sau : ai, bao nhiêu,
bấy nhiêu, ta :
+ …………ơi đừng bỏ ruộng hoang
+………….Tất đất, tất vàng
+………….làm cho bể kia đầy
Cho ao kia cạn cho gầy cò con
+ Qua đình ngã nón trông đình
Đình ……………….. ngói thương mình ………………..
- Mức độ 2 : Không cho trước các từ để học sinh tự tìm trong vốn từ
của mình mà điền từ vào :
Ví dụ :
- Dù ai nói ………........nói …………......
Lòng ta vẫn vửng ………. kìm ba chân
- Gần ………..thì đen, gần …………thì sáng…………..
- …………bị bệnh………… Nam phải nghỉ học
b. Đặt câu với từ cho trước:
Loại bài tập này yêu cầu học sinh tự đặt câu và qua việc đặt câu các em thể

hiện sự hiểu biết của mình về nghĩa của từ và cách kết hợp từ với nhau
Ví dụ : Đặt câu với từ “bàn” là danh từ, từ “bàn” là động từ
Chúng em ngồi xung quanh bàn để bàn về buổi biểu diển văn nghệ mừng
ngày Nhà giáo Việt Nam 20/11
c. Lựa chọn từ phản ánh cô động, hàm xúc chính xác 1 tình huống, một
hoàn cảnh, một tâm trạng nào đó:
Từ ngữ là công cụ giao tiếp rất hữu hiệu. Nhưng để từ ngữ đạt được mục tiêu
cụ thể, chúng ta cần lựa chọn kỹ lưỡng. Cùng một từ có thể thích hợp trong tình
huống này, nhưng lại có thể phản tác dụng trong một tình huống khác. Sử dụng
không đúng, từ ngữ bóng bẩy có thể trở nên “lời nói tổn thương”. Việc dùng
những từ ngữ như thế có thể chỉ vì thiếu suy nghĩ, phản ánh sự thiếu quan tâm.
Một số từ có hai nghĩa, một trong hai nghĩa ấy xúc phạm đến người khác hoặc
xem thường họ. Vậy khi lựa chọn từ cần chú ý:
* Ngôn từ dễ hiểu: Tính dễ hiểu là một điều kiện cơ bản của cách nói hữu
hiệu. Nếu những từ ngữ bạn dùng khó hiểu đối với cử tọa, thì chẳng khác nào
bạn đang nói tiếng ngoại quốc với họ.
13


Một số từ có nghĩa chuyên môn được dùng giữa những người cùng làm một
nghề nào đó. Họ có thể dùng những từ như thế hàng ngày. Nhưng việc dùng từ
ngữ không đúng môi trường có thể cản trở khả năng giao tiếp của bạn. Hơn nữa,
ngay cả khi dùng những từ vựng thường ngày, nếu bạn cứ lẩn quẩn trong những
chi tiết không cần thiết, người nghe có thể dễ dàng nghĩ sang những chuyện
khác.
Những từ ngữ đơn giản, khéo lựa chọn truyền đạt ý tưởng một cách mạnh
mẽ. Những câu ngắn và những nhóm từ đơn giản thì dễ hiểu. Có thể xen lẫn một
số câu dài hơn để cách nói không trở thành nhát gừng. Nhưng đối với những ý
tưởng mà bạn đặc biệt muốn cử tọa ghi nhớ, hãy chọn những từ ngữ đơn giản và
những câu ngắn gọn.

* Cách diễn đạt đa dạng và chính xác: Những từ ngữ hay, đẹp không thiếu.
Thay vì dùng mãi một câu nói cho mọi tình huống, hãy dùng nhiều từ ngữ khác
nhau. Có vậy lời lẽ của bạn mới lý thú và đầy ý nghĩa. Làm thế nào bạn có thể
gia tăng vốn từ vựng?
Khi đọc, hãy đánh dấu những chữ nào bạn không hiểu rõ, và tra nghĩa từ điển
trong ngôn ngữ của bạn, nếu có. Chọn vài chữ trong số này, và cố chủ ý sử dụng
khi thích hợp. Hãy cẩn thận phát âm cho đúng và sử dụng những từ này trong
một văn cảnh khiến chúng dễ hiểu và không chỉ nhằm thu hút sự chú ý. Gia tăng
vốn từ vựng sẽ làm cho cách nói của bạn thêm đa dạng. Nhưng cần thận trọng—
khi một người phát âm sai hay sử dụng từ ngữ không đúng, người nghe có thể
kết luận rằng anh ấy không hiểu mình nói gì.
Mục tiêu của chúng ta trong việc gia tăng vốn từ vựng là để truyền đạt sự
hiểu biết, chứ không gây ấn tượng với người nghe, làm cho họ thán phục chúng
ta. Ngôn từ phức tạp và dài dòng thường khiến người nghe chú ý vào diễn giả.
Mong muốn của chúng ta phải là chia sẻ các thông tin quý giá và làm cho người
nghe thích thú. Hãy nhớ câu châm ngôn: “Lưỡi người khôn-ngoan truyền ra sự
tri-thức cách phải”. Dùng những từ hay, tức những từ thích hợp, dễ hiểu, giúp
cách nói năng của chúng ta tươi sáng và khích lệ thay vì nhàm chán và vô vị.
Khi gia tăng vốn từ vựng, hãy chú ý cẩn thận đến việc dùng đúng từ ngữ. Hai
từ ngữ có thể có nghĩa tương tự nhưng hơi khác nhau khi dùng trong những tình
huống khác nhau. Nếu nhận thức được điều này, bạn sẽ làm cho lời nói được
sáng sủa hơn và không xúc phạm đến người nghe. Hãy cẩn thận lắng nghe
những người nói giỏi. Trong một số từ điển, cả chữ đồng nghĩa (những từ có
nghĩa tương tự nhau, nhưng hơi khác nhau) lẫn chữ phản nghĩa (những từ có
nghĩa hơi trái ngược nhau) đều được liệt kê bên dưới mỗi chữ. Như thế bạn
không những tìm được nhiều cách diễn đạt cho cùng một ý tưởng mà cả những
nghĩa tinh tế, hơi khác nhau một chút. Điều này rất có ích khi bạn tìm kiếm một
từ thích hợp cho một tình huống cá biệt. Trước khi thêm một từ vào vốn từ vựng,
14



hãy chắc chắn rằng bạn hiểu nghĩa, biết cách phát âm, và khi nào nên dùng từ
đó.
* Những từ ngữ biểu đạt sự hăng hái, cảm xúc, màu sắc: Khi gia tăng vốn từ
vựng, bạn không chỉ nghĩ đến những từ mới mà còn đến những từ có đặc điểm
cá biệt. Thí dụ, hãy xem những động từ diễn đạt sự hăng hái; những tính từ biểu
đạt màu sắc; và những từ ngữ nói lên sự nồng ấm, tử tế, hoặc truyền đạt sự tha
thiết.
Những từ ngữ khéo lựa chọn có thể truyền đạt ấn tượng sâu sắc trong trí
người nghe. Nếu bạn dùng những từ ngữ sống động, người nghe sẽ “thấy” và
“sờ” những vật mà bạn diễn tả, “nếm” và “ngửi” những thức ăn mà bạn nhắc
đến, và “nghe” những âm thanh mà bạn miêu tả và những người mà bạn trích
dẫn. Cử tọa sẽ bị cuốn hút vào những điều bạn nói vì bạn làm cho những điều ấy
trở nên sống động đối với họ.
Những từ ngữ truyền đạt ý tưởng một cách sống động có thể làm cho người
nghe cười hoặc khóc
Mục đích của bài tập này là hình thành cho học sinh thói quen cân nhắc, thận
trọng, có ý thức khi sử dụng từ.
Ví dụ : Tiếng gió thổi rì rào.
Tóm lại, qua quá trình giảng dạy và áp dụng 1 số biện pháp ở phân môn này tôi
nhận thấy học sinh rất hứng thú, tích cực trong học tập, chất lượng học tập của
học sinh cũng được nâng cao đặc biệt là học sinh yếu kém .
6.2. Về khả năng áp dụng của sáng kiến:
Thực hiện sáng kiến này, tôi đã điều tra thực trạng về công tác giảng dạy phân
môn tiếng Việt- phần từ ngữ ở môn Ngữ Văn lớp 7 nói riêng và phần từ ngữ ở
môn Ngữ Văn ở các khối lớp khác nói chung của trường THCS Sơn Lôi, huyện
Bình Xuyên, tỉnh vĩnh Phúc.
Đề xuất và hiện thực hóa các phương pháp nhằm nâng cao chất lượng các tiết
dạy học từ ngữ trong nhà trường.
- Giáo viên phải chuẩn bị trước một cách công phu thông qua việc “ thiết kế bài

giảng”
+ Nghiên cứu sách giáo khoa và tài liệu tham khảo để nắm vững nội dung, yêu
cầu bài học. Việc học tập nâng cao trình độ là công việc thường xuyên của người
giáo viên. Tuy nhiên, đối với từng bài học, thấy có điểm nào còn hiểu chưa chắc
chắn, chưa sâu sắc, người thầy cần tìm lời giải đáp trong tài liệu tham khảo.
+ Phải xác định được bài học đó gồm có bao nhiêu đơn vị kiến thức. Kiến thức
nào là trọng tâm và khó đối với học sinh.
- Tạo tâm thế tốt nhất cho học sinh tiếp nhận kiến thức trong giờ học.
- Phát huy tính tích cực của học sinh trong giờ học.
15


- Thường xuyên giao bài tập cho học sinh làm và thu kết quả có chấm chữa hiệu
quả.
- Khuyến khích học sinh ý thức tự giác tìm tòi để có được vốn từ phong phú
bằng nhiều phương tiện: Giao tiếp với những người xung quanh, qua từ điển
tiếng Việt…
- Hướng dẫn học sinh nắm vững cách giải nghĩa của từ.
- Ngoài giờ học chính khóa, giáo viên có thể tổ chức các trò chơi, các cuộc thi
vấn đáp để phát huy tính sáng tạo của học sinh và đặc biệt là qua các hoạt động
đó rèn cho học sinh kĩ năng giao tiếp.
Với những kinh nghiệm và thành công bước đầu này, tôi đã mạnh dạn trau
dồi, chia sẻ cùng đồng nghiệp để cùng vận dụng vào dạy bộ môn Ngữ Văn trong
nhà trường để góp phần nâng cao kĩ năng trau dồi và sử dụng vốn từ cho học
sinh.
7. Những thông tin cần được bảo mật ( nếu có)
Không
8. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến:
- Sự tìm tòi, nghiên cứu của giáo viên.
- Sự tạo điều kiện của BGH, tổ chuyên môn, các đồng nghiệp và học sinh.

9. Đánh giá lợi ích thu được:
9.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tác giả:
- Năm học 2015- 2016, tôi được phân công giảng dạy môn Ngữ văn tại lớp 7B,
7C trường THCS Sơn Lôi, huyện Bình Xuyên, tỉnh Vĩnh Phúc. Qua thực tế
giảng dạy và thực nghiệm sáng kiến, tôi đã thu được kết quả như sau
- Về phía giáo viên: Giáo viên có điều kiện trau kiến thức chuyên môn thêm
vững vàng, vận dụng được nhiều phương pháp dạy học vào quá trình giảng dạy.
- Về phía học sinh: Học sinh nắm vững được kiến thức, vạn dụng được vào các
nhiệm vụ thực tế: Biết giải nghĩa của từ, viết văn ít mắc lỗi hơn, cách diễn đạt
câu văn lưu loát, trôi chảy hơn.
Kết quả điều tra đầu năm học 2015- 2016
Lớp Tổng số
HS
7B 33
7C 30

Giỏi
SL %
1
3,03
0
0,0

Khá
SL %
10
30,3
0
0,0


Kết quả khảo sát tháng 11 năm 2016

16

TB
SL
14
18

Yếu
%
SL %
42,4 8
24,2
60
10
33,3

Kém
SL %
0
0
1
3,3


Lớp Tổng số
HS


Giỏi
SL %

Khá
SL %

TB
SL

Yếu
SL %

Kém
SL %

Yếu
SL %

Kém
SL %

2

5,8

0

0,0

10


33,3 2

6.6

%
51,
7B 33
2
6,1 11
33,3 17
3
9,1 0
0,0
5
7C 30
0
0,0 2
6,6 23
76,6 5
16,6 0
0,0
9.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân:
- Đồng chí Nguyễn Trung Kiên- Tổ trưởng tổ KHXH - Giáo viên dạy môn Ngữ
văn tại lớp 7A, 7D của trường THCS Sơn Lôi cùng tham gia thử nghiệm sáng
kiến của tôi và đã thu được kết quả khả quan.
Kết quả điều tra đầu năm học 2015- 2016
Lớp Tổng số
HS


Giỏi
SL %

Khá
SL %

7A

34

2

12

7D

30
0
0,0 0
0,0 18
Kết quả khảo sát tháng 11 năm 2016

5,8

TB
SL

35,2 18


%
25,
9
60

Lớp Tổng số
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
SL %
SL %
SL %
SL %
SL %
HS
7A 34
4
11,7 14
41,1 17
50
0
0,0 0
0,0
7D 30
0
0,0 1
3,3 23
76,6 6

20
0
0,0
Thầy Kiên cùng nhiều thầy cô trong tổ bộ môn đều thừa nhận những chuyển
biến tích cực do sáng kiến tạo ra. Điều đó góp phần thúc đẩy chất lượng học tập
của học sinh nâng cao hơn.
10. Danh sách những tổ chức/ cá nhân đã tham gia áp dụng thử hoặc áp
dụng sáng kiến lần đầu (nếu có):
Số Tên tổ chức/ cá Địa chỉ
Phạm vi/Lĩnh vực áp
TT nhân
dụng sáng kiến
1
NguyễnTrung Kiên Trường THCS Sơn Áp dụng vào giảng dạy cho
Lôi
học sinh đại trà.
2
Lớp 7B, 7C
Trường THCS Sơn Áp dụng vào giảng dạy đại
Lôi
trà thông qua việc luyện
viết các bài tập làm văn.

17


………., ngày…..tháng…..năm 2018
Thủ trưởng đơn vị/
Chính quyền địa phương
( Ký tên, đóng dấu)


Sơn Lôi, ngày 10 tháng 1năm 2018
Tác giả sáng kiến

Phan Thị Luyến

18



×