Tải bản đầy đủ (.pdf) (80 trang)

Ảnh hưởng của đầu tư công lên đầu tư tư nhân bằng chứng thực nghiệm tại một số quốc gia đang phát triển khu vực châu á

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.2 MB, 80 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

***

ĐỖ THỊ THU HOÀI

ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẦU TƯ CÔNG LÊN ĐẦU TƯ TƯ NHÂN:
BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA
ĐANG PHÁT TRIỂN KHU VỰC CHÂU Á

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

TP. HỒ CHÍ MINH – 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH

***

ĐỖ THỊ THU HOÀI

ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẦU TƯ CÔNG LÊN ĐẦU TƯ TƯ NHÂN:
BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA
ĐANG PHÁT TRIỂN KHU VỰC CHÂU Á

Chuyên ngành: TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG
Mã số: 60340201



LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. SỬ ĐÌNH THÀNH

TP. HỒ CHÍ MINH – 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan những kết quả nghiên cứu được trình bày trong luận văn của
tôi với đề tài “Ảnh hưởng của đầu tư công lên đầu tư tư nhân: Bằng chứng thực
nghiệm tại một số quốc gia đang phát triển khu vực Châu Á” là công trình của
riêng tôi dưới sự hướng dẫn của GS.TS. Sử Đình Thành. Các nội dung nghiên cứu
và kết quả nghiên cứu trong đề tài này là trung thực và chưa được công bố dưới bất
kỳ hình thức nào trước đây. Những kết quả nghiên cứu của các tác giả khác, cơ
quan tổ chức khác và các số liệu được sử dụng trong luận văn của tôi đều được trích
dẫn và chú thích nguồn gốc đầy đủ.
TP. Hồ Chí Minh, Ngày

tháng

năm 2017

Tác giả luận văn

Đỗ Thị Thu Hoài


MỤC LỤC

TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC HÌNH
TÓM TẮT .................................................................................................................. 1
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ...................................................................................... 2
CHƯƠNG 2: TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC
ĐÂY ............................................................................................................................ 6
2.1. Tổng quan lý thuyết: .........................................................................................6
2.1.1. Đầu tư công: ...............................................................................................6
2.1.2. Đầu tư tư nhân: ...........................................................................................7
2.1.3. Mối quan hệ giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân: ......................................8
2.2. Các nghiên cứu trước đây: ..............................................................................10
2.2.1. Các nghiên cứu thực nghiệm trước đây về ảnh hưởng của đầu tư công lên
đầu tư tư nhân: ....................................................................................................10
2.2.2. Mối quan hệ giữa đầu tư tư nhân và một số yếu tố vĩ mô khác: ..............15
CHƯƠNG 3: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA ĐANG
PHÁT TRIỂN KHU VỰC CHÂU Á TRONG GIAI ĐOẠN NĂM 1990-2013.. 21
CHƯƠNG 4: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU .................................................. 32
4.1. Phương pháp nghiên cứu: ...............................................................................32
4.2. Dữ liệu: ...........................................................................................................36


4.2.1. Bảng thống kê mô tả: ...............................................................................37
4.2.2. Mối quan hệ giữa tổng đầu tư công và tổng đầu tư tư nhân tính theo phần
trăm GDP:...........................................................................................................37
CHƯƠNG 5: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU.............................................................. 41
5.1. Kết quả kiểm định tính dừng: .........................................................................41

5.2. Kết quả ma trận tương quan giữa các biến trong mô hình: ............................42
5.3. Kết quả kiểm định đồng liên kết: ....................................................................43
5.4. Kết quả ước lượng tính năng động dài hạn và ngắn hạn theo mô hình hiệu
chỉnh sai số PMG: ..................................................................................................43
CHƯƠNG 6: KẾT LUẬN ...................................................................................... 48
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
FDI
GDP
IMF
MNEs
TNC
UNCTAD
USD
WB
WIR

Đầu tư trực tiếp nước ngoài
Tổng sản phẩm quốc nội
Quỹ tiền tệ quốc tế
Các công ty đa quốc gia
Tập đoàn đa quốc gia
Hội nghị Liên Hiệp Quốc về Thương mại và Phát triển
Đô la Mỹ
Ngân hàng thế giới
Báo cáo đầu tư thế giới



DANH MỤC BẢNG
Bảng 4.1: Thống kê mô tả các biến trong mô hình nghiên cứu ................................ 37
Bảng 5.1: Kết quả kiểm định tính dừng .................................................................... 41
Bảng 5.2: Kết quả ma trận tương quan giữa các biến trong mô hình ....................... 42
Bảng 5.3 : Kết quả kiểm định đồng liên kết dữ liệu bảng Kao (1999) ..................... 43
Bảng 5.4: Tính năng động dài hạn và ngắn hạn theo mô hình hiệu chỉnh sai số
PMG. ......................................................................................................................... 43
Bảng 5.5: Kết quả hồi quy mô hình ngắn hạn của các quốc gia đang phát triển khu
vực Châu Á................................................................................................................ 46


DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1: Các nhân tố ảnh hưởng đến đầu tư tư nhân .............................................. 19
Hình 3.1: Tổng đầu tư công và đầu tư tư nhân tại Bahrain trong giai đoạn năm
1990-2013.................................................................................................................. 21
Hình 3.2: Tổng đầu tư công và đầu tư tư nhân tại Bangladesh trong giai đoạn năm
1990-2013.................................................................................................................. 22
Hình 3.3: Tổng đầu tư công và đầu tư tư nhân tại Trung Quốc trong giai đoạn năm
1990-2013.................................................................................................................. 23
Hình 3.4: Tổng đầu tư công và đầu tư tư nhân tại Ấn Độ trong giai đoạn năm 19902013 .......................................................................................................................... 24
Hình 3.5: Tổng đầu tư công và đầu tư tư nhân tại Indonesia trong giai đoạn năm
1990-2013.................................................................................................................. 25
Hình 3.6: Tổng đầu tư công và đầu tư tư nhân tại Jordan trong giai đoạn năm 19902013 .......................................................................................................................... 26
Hình 3.7: Tổng đầu tư công và đầu tư tư nhân tại Malaysia trong giai đoạn năm
1990-2013 ................................................................................................................ 27
Hình 3.8: Tổng đầu tư công và đầu tư tư nhân tại Oman trong giai đoạn năm 19902013 .......................................................................................................................... 28
Hình 3.9: Tổng đầu tư công và đầu tư tư nhân tại Philippines trong giai đoạn năm
1990-2013 ................................................................................................................ 29
Hình 3.10: Tổng đầu tư công và đầu tư tư nhân tại Thái Lan trong giai đoạn năm

1990-2013 ................................................................................................................ 30
Hình 4.1: Tổng đầu tư công và tổng đầu tư tư nhân tính theo phần trăm GDP của 10
quốc gia nghiên cứu ................................................................................................. 38


1

TÓM TẮT
Bài nghiên cứu xem xét ảnh hưởng của đầu tư công lên đầu tư tư nhân, thông
qua việc tìm kiếm các bằng chứng về sự tồn tại của hiệu ứng thúc đẩy hoặc hiệu
ứng lấn át của đầu tư công lên đầu tư tư nhân ở 10 quốc gia đang phát triển khu vực
Châu Á, trong giai đoạn năm 1990-2013. Sử dụng phương pháp ước lượng PMG
(Pooled Mean Group), các kết quả nghiên cứu cho thấy sự tồn tại của hiệu ứng lấn
át trong ngắn hạn và hiệu ứng thúc đẩy trong dài hạn. Ngoài ra, nghiên cứu còn tìm
thấy bằng chứng về tác động tiêu cực của lãi suất thực và chênh lệch khỏi vị trí cân
bằng dài hạn giữa khối lượng đầu tư công và khối lượng đầu tư tư nhân trong ngắn
hạn lên đầu tư tư nhân.


2

CHƯƠNG 1:

GIỚI THIỆU

Đầu tư luôn là nhân tố quan trọng giúp phát triển nền kinh tế của một quốc
gia, đặc biệt là đối với các nước đang phát triển, với nguồn lực còn yếu kém thì việc
thúc đẩy đầu tư luôn là một bài toán khó. Sau khủng hoảng tài chính toàn cầu năm
2008, hoạt động đầu tư tại các nước đang phát triển và mới nổi giảm mạnh (giảm
10% trong năm 2010). Sau đó, hoạt động đầu tư có dấu hiệu phục hồi nhưng vẫn

giảm 3,5% trong năm 2016. Trong ba năm qua, hoạt động đầu tư của khu vực nhà
nước và tư nhân vẫn chưa bằng 50% tốc độ tăng trưởng trung bình thời kỳ trước
khủng hoảng. Ngoài ra, những yếu kém trong hoạt động đầu tư ngày càng mở rộng.
Trong năm 2016, hoạt động đầu tư tại các nước đang phát triển và mới nổi thấp hơn
tốc độ tăng trưởng dài hạn trên 60%, phần lớn các nước ghi nhận xu hướng trì trệ,
rõ nét nhất là năm 2009, khi kinh tế toàn cầu bị suy thoái trầm trọng (Hoàng Thế
Thỏa, 2017). Theo kết quả nghiên cứu của các chuyên gia kinh tế về triển vọng phát
triển thiên niên kỷ đăng trên tạp chí “Tài chính & Phát triển” của Quỹ Tiền tệ quốc
tế (IMF) nhận định xu hướng suy giảm đầu tư sau thời kỳ khủng hoảng có thể gây
tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế toàn cầu. Bên cạnh đó tích lũy tư bản có
xu hướng giảm, tăng trưởng đầu tư yếu ớt liên quan đến yếu tố năng suất tổng thể.
Việc tăng trưởng kinh tế không thể tiếp tục dựa vào việc tăng vốn và lao động, mà
phải dựa trên những thay đổi về công nghệ và hiệu quả. Do đó nguồn vốn đầu tư
vào các lĩnh vực này là vô cùng quan trọng.
Trái ngược với nhận định này, theo Báo cáo Viễn cảnh Kinh tế toàn cầu của
Ngân hàng Thế giới (WB), tốc độ tăng trưởng kinh tế toàn cầu sẽ tăng nhẹ và đạt
mức 2,7% trong năm 2017. Tuy nhiên báo cáo cũng cho rằng viễn cảnh này có thể
không xảy ra, do định hướng chính sách chưa rõ ràng tại các nền kinh tế lớn dẫn
đến thời kỳ đầu tư thấp tại các nền kinh tế thu nhập thấp, trung bình và cao. Phân
tích các nguyên nhân, WB cho rằng, tình trạng này diễn ra một phần do nhiều nước
thực hiện điều chỉnh cắt giảm đầu tư so với thời kỳ trước khủng hoảng kinh tế; bên
cạnh đó là do một số yếu tố tiêu cực tại thị trường mới nổi và các nước đang phát


3

triển như giá dầu thấp (đối với các nước xuất khẩu dầu), đầu tư nước ngoài chậm lại
(đối với các nước nhập hàng hoá, nguyên vật liệu), tình trạng nợ tư nhân và rủi ro
chính trị. Trước thực trạng này, cả WB và các chuyên gia nghiên cứu về triển vọng
phát triển thiên niên kỷ đều nhận định rằng đầu tư công có thể thúc đẩy đầu tư tư

nhân.
Từ các quan điểm về lý thuyết trước đây và những nhận định của các chuyên
gia về mối quan hệ giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân, chúng ta có thể thấy đầu tư
công đóng vai trò rất quan trọng trong việc tác động vào đầu tư tư nhân, từ đó giúp
phát triển nền kinh tế ở các quốc gia. Nhất là đối với các nước đang phát triển, với
cơ sở hạ tầng còn yếu kém thì đầu tư công thực sự là một vấn đề cần chú trọng. Vì
tại các nước này nhu cầu đầu tư công rất cao song nguồn vốn ngân sách là hạn chế,
bên cạnh đó tình trạng đầu tư tràn lan và thiếu hiệu quả thường xuyên xảy ra. Chính
vì vậy việc tăng cường đầu tư công có thực sự thúc đẩy nền kinh tế nói chung và
thúc đẩy đầu tư tư nhân nói riêng luôn là câu hỏi được các nhà hoạch định chính
sách và chính phủ các quốc gia đang phát triển quan tâm.
Hiện nay, Châu Á là châu lục lớn nhất thế giới về diện tích và dân số, đa dạng
về tôn giáo, văn hóa, sắc tộc và là một trong những nơi có tốc độ tăng trưởng kinh
tế lớn nhất trên thế giới. Năm 2010, GDP của khu vực Châu Á đứng thứ 3 trong 6
châu lục, sau châu Âu và Bắc Mỹ; đến năm 2016, GDP của Châu Á đã vươn lên
đứng đầu các châu lục. Bên cạnh đó Châu Á cũng là nơi tập hợp các quốc gia có sức
ảnh hưởng lớn như Singapore - nền kinh tế mở, năng động nhất thế giới; Ấn Độ nền kinh tế tăng trưởng nhanh thứ hai thế giới, là điểm đến quan trọng của các công
ty toàn cầu trong lĩnh vực công nghệ thông tin, sinh học, y dược và dịch vụ và
Trung Quốc - quốc gia có nền kinh tế lớn thứ hai thế giới, với nhiều thập niên tăng
trưởng ngoạn mục. Cùng với Nhật Bản, Trung Quốc đã trở thành một trong những
quốc gia phát triển kinh tế được nói đến nhiều nhất ở Châu Á. Đặc biệt, Châu Á
cũng là nơi có nhiều các quốc gia đang phát triển, thu nhập thấp và có nhu cầu đầu
tư cao. Mặc dù dòng vốn đầu tư thất thường, nhưng các thị trường tài chính Châu Á
tỏ ra khá bền vững, phản ánh những yếu tố nền tảng trên thế giới và trong khu vực.


4

Các nước Châu Á cũng trải qua đợt suy giảm dòng vốn sau sự kiện Brexit và sau
kết quả bầu cử tổng thống tại Mỹ. Các yếu tố bất định có thể gây tác động đáng kể

đến tăng trưởng kinh tế ngắn hạn, nếu tình hình tài chính toàn cầu khó khăn và nền
kinh tế trở nên bất ổn, dòng vốn tại khu vực Châu Á có thể biến động mạnh, tác
động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế. Ngoài ra, khả năng chuyển hướng sang chính
sách bảo hộ thương mại tại một số nước cũng gây rủi ro cho các nước trong khu
vực. Do các nước trong khu vực đã hội nhập sâu vào thị trường thế giới, do đó
thương mại toàn cầu suy giảm sẽ gây tổn thương cho các nước Châu Á (Hoàng Thế
Thỏa, 2017). Trong giai đoạn trung hạn, các nước Châu Á phải đối mặt với khó
khăn, đó là tình trạng già hóa dân số và xu hướng năng suất tăng chậm lại. Đây là
thách thức rất lớn, trong bối cảnh số người thu nhập thấp gia tăng nhanh chóng tại
nhiều nơi trong khu vực.
Đứng trước những thách thức trong vấn đề dòng vốn đầu tư nói riêng và
nhiệm vụ kích thích tăng trưởng kinh tế nói chung, Châu Á là lựa chọn hợp lý trong
việc xem xét ảnh hưởng của đầu tư công lên đầu tư tư nhân thông qua việc xem xét
liệu đầu tư công ở các nước đang phát triển tại khu vực Châu Á trong mẫu nghiên
cứu có thúc đẩy đầu tư tư nhân hay không? Đó cũng là lý do thúc đẩy tôi thực hiện
bài nghiên cứu “ẢNH HƯỞNG CỦA ĐẦU TƯ CÔNG LÊN ĐẦU TƯ TƯ
NHÂN: BẰNG CHỨNG THỰC NGHIỆM TẠI MỘT SỐ QUỐC GIA ĐANG
PHÁT TRIỂN KHU VỰC CHÂU Á”.
Trong khi các nghiên cứu trước đây xem xét tác động của đầu tư công lên đầu
tư tư nhân thường tiếp cận chủ yếu dựa trên các số liệu về tổng vốn đầu tư công và
tổng vốn đầu tư tư nhân của các quốc gia. Bài nghiên cứu xem xét ảnh hưởng của
đầu tư công lên đầu tư tư nhân thông qua việc sử dụng cách tiếp cận dữ liệu theo cả
hai hướng là tổng lượng vốn và khối lượng (stock) vốn có trong nền kinh tế các
quốc gia đang phát triển ở khu vực Châu Á, bằng cách đưa chênh lệch khỏi vị trí
cân bằng trong mối quan hệ dài hạn giữa khối lượng đầu tư công và khối lượng đầu
tư tư nhân vào xem xét trong phương trình hồi quy. Ngoài ra, việc sử dụng mô hình
PMG (Pooled Mean Group) – mô hình khắc phục được những hạn chế của phương


5


pháp GMM (General Method of Moments) cũng là một điểm mới về phương pháp
ước lượng tác động trong nghiên cứu về chủ đề này, áp dụng cho bộ dữ liệu bảng
gồm 10 quốc gia đang phát triển khu vực Châu Á để tìm ra những bằng chứng về
vai trò của đầu tư công đối với đầu tư tư nhân trong bối cảnh nền kinh tế Châu Á
đang ngày càng phát triển mạnh, nhưng phải đương đầu với những thách thức liên
quan đến vấn đề năng suất, mà đầu tư công đang là nhân tố được các chuyên gia
nhận định sẽ giữ vai trò quan trọng trong việc cải thiện vấn đề này. Kết quả bài
nghiên cứu có thể củng cố thêm những bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ
giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân tại các quốc gia đang phát triển. Đồng thời giúp
chúng ta có những nhận định đúng về hiệu quả của đầu tư công trong vai trò thúc
đẩy đầu tư tư nhân tại các quốc gia đang phát triển khu vực Châu Á. Từ đó đưa ra
những gợi ý về chính sách cho chính phủ của các nước đang phát triển khu vực
Châu Á về việc tăng cường hay cắt giảm đầu tư công trong giai đoạn sắp tới là thích
hợp.
Cấu trúc bài nghiên cứu như sau: Chương 1 Giới thiệu, Chương 2 Tổng quan
lý thuyết và các nghiên cứu trước đây, Chương 3 Thực trạng đầu tư tại một số quốc
gia đang phát triển khu vực Châu Á, Chương 4 Phương pháp nghiên cứu, Chương 5
Kết quả nghiên cứu và Chương 6 Kết luận.
Mối quan hệ giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân luôn là một trong những đề
tài nghiên cứu được quan tâm trong lĩnh vực kinh tế nói chung và tài chính công nói
riêng. Các lý thuyết cũng như các nghiên cứu thực nghiệm về vấn đề này thông qua
nhiều cách tiếp cận là vô cùng đa dạng; do đó trước khi đi vào chi tiết nghiên cứu,
bài nghiên cứu tiến hành tóm tắt sơ lược một số lý thuyết và các nghiên cứu trước
đây về ảnh hưởng của đầu tư công nói riêng và các nhân tố khác nói chung đến đầu
tư tư nhân.


6


CHƯƠNG 2:

TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VÀ CÁC NGHIÊN
CỨU TRƯỚC ĐÂY

2.1. Tổng quan lý thuyết:
2.1.1. Đầu tư công:
2.1.1.1. Khái niệm:
Đầu tư công là cụm từ được nhắc đến rất nhiều trong các nghiên cứu, phát
biểu trong lĩnh vực tài chính công. Tuy nhiên khái niệm về đầu tư công lại có rất
nhiều quan điểm khác nhau, trong đó có hai trường phái chính bao gồm:
“Quan điểm thứ nhất cho rằng, đầu tư công là toàn bộ nội dung liên quan đến
đầu tư sử dụng vốn nhà nước, bao gồm hoạt động đầu tư hoặc hỗ trợ đầu tư sử dụng
vốn nhà nước không nhằm mục đích thu lợi nhuận vào các chương trình, dự án phục
vụ phát triển kinh tế - xã hội (gọi tắt là nhóm 1); các hoạt động đầu tư, kinh doanh
sử dụng vốn nhà nước, đặc biệt là quản lý các hoạt động đầu tư của các doanh
nghiệp nhà nước (gọi tắt là nhóm 2).
Quan điểm thứ hai khẳng định, đầu tư công chỉ bao gồm các hoạt động đầu tư
bằng vốn nhà nước cho các dự án, chương trình không vì mục tiêu thu lợi nhuận,
tức là giới hạn trong phạm vi các hoạt động đầu tư thuộc nhóm 1.” (trích bài “Luật
Đầu tư công: Một khái niệm, hai quan điểm” của Luật gia Vũ Xuân Tiền).
Việc tồn tại hai quan điểm trên là do sự khác nhau tùy theo góc nhìn của từng
đối tượng. Chẳng hạn, nếu xét theo nguồn vốn đầu tư thì bất kỳ khoản đầu tư nào,
đầu tư vào đâu với mục đích gì đều là đầu tư công nếu nguồn vốn đầu tư là của nhà
nước, tức là của chung, không của riêng cá nhân hoặc pháp nhân nào. Tuy nhiên
nếu xét theo mục đích đầu tư thì đầu tư công lại được hiểu là chỉ bao gồm đầu tư
vào những chương trình, dự án phục vụ cộng đồng, không vì mục đích thu lợi
nhuận.
Dù cách hiểu khác nhau, song điểm chung nhất là hoạt động đầu tư công có sự
tham gia của nguồn vốn nhà nước (từ ngân sách nhà nước, do nhà nước vay, nhà



7

nước bảo lãnh khoản vay...). Sau đây là một số những định nghĩa chính thống về
đầu tư công, mặc dù có khác nhau về cách diễn đạt nhưng nhìn chung đều xoay
quanh hai quan điểm nêu trên.
Theo giáo trình Kinh tế đầu tư, Đầu tư công là việc sử dụng vốn Nhà nước
(bao gồm cả vốn ngân sách nhà nước, vốn tín dụng nhà nước và vốn của các doanh
nghiệp nhà nước) để đầu tư vào các chương trình, dự án không vì mục tiêu lợi
nhuận và (hoặc) không có khả năng hoàn vốn trực tiếp.
Theo Điều 4 Luật đầu tư công: Đầu tư công là hoạt động đầu tư của Nhà nước
vào các chương trình, dự án xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội và đầu tư vào
các chương trình, dự án phục vụ phát triển kinh tế - xã hội.
2.1.1.2. Nguồn vốn đầu tư công:
Nguồn vốn đầu tư công bao gồm:
 Vốn ngân sách nhà nước: nguồn thu từ các khoản thuế, phí, lệ phí…
 Nguồn vốn tín dụng nhà nước: nhà nước vay vốn từ người dân trong nước
hoặc thị trường tín dụng quốc tế.
 Nguồn vốn của các doanh nghiệp nhà nước.
2.1.2. Đầu tư tư nhân:
2.1.2.1. Khái niệm:
Đầu tư tư nhân là hình thức cá nhân hay một doanh nghiệp sở hữu tư nhân sử
dụng phối hợp các nguồn lực trong một khoảng thời gian nhất định nhằm thu được
lợi ích về kinh tế.
Đầu tư tư nhân là hàng hóa cuối cùng mà các công ty kinh doanh giữ lại và
thêm vào tài sản tạo ra thu nhập của quốc gia. Thứ nhất là đầu tư hàng tồn kho bao
gồm tất cả các thay đổi trong kho nguyên vật liệu, phụ tùng, hàng thành phẩm kinh
doanh; và thứ hai là đầu tư cố định, bao gồm tất cả các mặt hàng cuối cùng được
mua bởi doanh nghiệp mà không nhằm bán lại (Mlambo và Oshikoya, 2001).



8

2.1.2.2. Nguồn vốn đầu tư tư nhân:
Các nguồn vốn của đầu tư tư nhân bao gồm:
 Vốn chủ sở hữu: gồm vốn tự có (vốn điều lệ ban đầu của doanh nghiệp) và
lợi nhuận giữ lại trong quá trình sản xuất kinh doanh.
 Vốn vay: có hai cách để tiếp cận nguồn vốn này
- Vay ngân hàng: là hình thức mà các doanh nghiệp thường sử dụng khi
thiếu vốn, thông qua việc thỏa thuận với các ngân hàng về hạn mức vay tương ứng
với các điều kiện ngân hàng đưa ra mà doanh nghiệp có thể đáp ứng.
- Vay từ đại chúng: qua phát hành chứng khoán.
2.1.3. Mối quan hệ giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân:
Từ quan điểm lý thuyết, tác động của đầu tư công lên đầu tư tư nhân có thể
diễn ra theo hai hướng: một là hiệu ứng thúc đẩy (crowding-in effect), hai là hiệu
ứng chèn lấn hay hiệu ứng lấn át (crowding-out effect).
Hiệu ứng thúc đẩy (crowding-in effect) xảy ra khi đầu tư công có thể tạo điều
kiện thuận lợi hoặc thúc đẩy đầu tư tư nhân. Trường phái tân cổ điển cho rằng đầu
tư công vào cơ sở hạ tầng, cải thiện chất lượng và nâng cao nguồn nhân lực có thể
cải thiện môi trường đầu tư, làm tăng năng suất cho khu vực tư nhân. Ví dụ đầu tư
công vào các lĩnh vực năng lượng, viễn thông và các ngành công nghiệp khác có thể
thúc đẩy các hoạt động đầu tư tư nhân (theo Pereira và Andraz, 2013)
Trái ngược với hiệu ứng thúc đẩy, hiệu ứng lấn át (crowding-out effect) cũng
có khả năng xảy ra khi mà đầu tư công gây cản trở hay lấn át đầu tư tư nhân. Nếu
khu vực công và khu vực tư nhân cạnh tranh với nhau thì chi phí cho đầu tư tư nhân
có thể tăng lên. Hay việc tăng đầu tư công được tài trợ có thể hàm ý rằng gánh nặng
thuế hoặc nhu cầu về vốn của chính phủ sẽ tăng cao dẫn đến làm tăng lãi suất, gây
khó khăn cho hoạt động đầu tư của khu vực tư nhân. Hiệu ứng lấn át cũng có thể
xảy ra trong thời kỳ chính phủ luôn dành những ưu đãi trong các dự án hay ngành

nghề mà tư nhân có khả năng tham gia cho các doanh nghiệp nhà nước, dẫn đến khu


9

vực tư nhân không thể tham gia hay không có năng lực cạnh tranh. Tất cả những
điều này đều khiến cho hoạt động đầu tư tư nhân bị hạn chế hay bị lấn át do các
hoạt động đầu tư công.
Mối quan hệ giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân còn có thể giải thích dựa theo
sự cân bằng dài hạn giữa vốn tư nhân và vốn công. Xét hàm sản xuất CobbDouglas:
𝜷

𝜸

𝒀𝒕 = 𝑨𝒕 𝑳𝜶𝒕 𝑲𝒕 𝑮𝒕

(2.1)

Trong đó:
Y là sản lượng đầu ra; A là tiến bộ khoa học kỹ thuật; L là tổng lao động; K là
vốn tư nhân; G là vốn công; t là thời gian. Các tham số 𝛼, 𝛽, 𝛾 là các tham số thể
hiện độ co dãn theo hàm sản xuất. Trong khi đó 𝛾𝑌/𝐺 là sản lượng đầu ra biên của
vốn đầu tư công và 𝛽𝑌/𝐾 là sản lượng đầu ra biên của vốn đầu tư tư nhân. Trong
thị trường vốn hoàn hảo, sản lượng biên bằng với lãi suất thực trong khu vực tư
nhân (đặt là rp) và lãi suất thực khu vực công (rg).
𝜷𝒀𝒕
= 𝒓𝒑𝒕
𝑲𝒕

,


𝜸𝒀𝒕
= 𝒓𝒈𝒕
𝑮𝒕

(2.2)

Do lãi suất của hai khu vực có sự chênh lệch nên chúng sẽ biến động song
song, mặc dù có sự chênh lệch do chi phí bù đắp rủi ro (theo Hatano, 2010). Giả sử
mức chênh lệch giữa lãi suất thực của hai khu vực công và khu vực tư duy trì một tỷ
lệ cố định, 𝑟𝑝 = 𝜆𝑟𝑔 ta có:
𝑲𝒕 =

𝜷
𝑮
𝝀𝜸 𝒕

(2.3)

Phương trình (2.3) cho thấy mối quan hệ dài hạn (hay tồn tại đồng liên kết)
giữa vốn đầu tư công và vốn đầu tư tư nhân. Nếu sản lượng biên của hai khu vực
bằng nhau thì tham số đồng liên kết sẽ phản ánh tỷ lệ độ co dãn của hàm sản xuất.
Tuy nhiên nếu đầu tư công là biến ngoại sinh do nó thường được quyết định bởi
ngân sách của chính phủ thì đầu tư tư nhân sẽ phản ứng với sự chênh lệch trong


10

khối lượng vốn giữa hai khu vực trong dài hạn. Chính vì vậy mà sự cân bằng dài
hạn giữa khối lượng vốn hai khu vực có khả năng giải thích dòng đầu tư tư nhân,

ngoài các yếu tố như hoạt động của nền kinh tế và chi phí sử dụng vốn.
Bên cạnh những lập luận về mặt lý thuyết, các nghiên cứu thực nghiệm về ảnh
hưởng của đầu tư công lên đầu tư tư nhân cũng là một chủ đề được rất nhiều các
nhà nghiên cứu kinh tế và các nhà hoạch định chính sách của các quốc gia quan
tâm. Sau đây là một số tóm tắt về các nghiên cứu thực nghiệm của chủ đề này.
2.2. Các nghiên cứu trước đây:
2.2.1. Các nghiên cứu thực nghiệm trước đây về ảnh hưởng của đầu tư công
lên đầu tư tư nhân:
Về mặt lý thuyết, ảnh hưởng của đầu tư công lên đầu tư tư nhân xoay quanh
hai lập luận về hiệu ứng thúc đẩy (crowding-in effect) và hiệu ứng lấn át (crowdingout effect). Trong nhiều năm qua, những nghiên cứu thực nghiệm liên quan đến hai
hiệu ứng này trong mối quan hệ giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân đã được nhiều
nhà nghiên cứu kinh tế thực hiện bằng nhiều phương pháp và mẫu dữ liệu khác
nhau, các kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy nhiều bằng chứng ủng hộ sự tồn
tại của cả hai hiệu ứng trên.
2.2.1.1 Các bằng chứng thực nghiệm về hiệu ứng thúc đẩy (crowding-in effect)
Aschauer (1989) đã thực hiện bài nghiên cứu “Does Public capital crowd out
Private capital?” nghiên cứu tác động của chi tiêu vốn công lên đầu tư tư nhân và tỷ
suất sinh lợi của khu vực tư nhân bằng cách sử dụng mô hình tân cổ điển, thu thập
dữ liệu của Hoa Kỳ trong khoảng thời gian từ năm 1953 đến năm 1986. Aschauer
lập luận khi xem xét một cách sơ bộ việc tích lũy vốn công cao hơn sẽ làm tăng tỷ
lệ đầu tư của quốc gia vượt quá mức và gây ra một sự chèn ép lên đầu tư tư nhân.
Tuy nhiên, ở một mức độ sâu hơn, vốn công đầu tư vào cơ sở hạ tầng có thể bổ
sung cho vốn tư nhân vào lĩnh vực sản xuất, phân phối hàng hoá và dịch vụ tư nhân.
Do đó, đầu tư công có thể được coi là tăng đầu tư tư nhân vì trước hết nó làm tăng
khả năng sinh lợi của khối lượng vốn tư nhân, dẫn đến sự tích tụ vốn tư nhân cao


11

hơn và tăng trưởng GDP. Kết quả thực nghiệm cho thấy mặc dù cả hai hiệu ứng này

đều có thể xuất hiện nhưng hiệu quả thuần của việc tăng chi đầu tư công có thể sẽ
tăng đầu tư tư nhân, tức hiệu ứng thúc đẩy (crowding-in effect) chiếm ưu thế.
Argimón và cộng sự (1997) trong bài nghiên cứu “Evidence of Public
spending crowding-out from a panel of OECD countries” sử dụng bộ dữ liệu 14
quốc gia khu vực OECD đã báo cáo những ảnh hưởng đáng kể của hiệu ứng thúc
đẩy của đầu tư công lên đầu tư tư nhân đối với các nước OECD do ảnh hưởng tích
cực của cơ sở hạ tầng đến năng suất. Ngoài ra, chi tiêu chính phủ chèn lấn đầu tư tư
nhân. Do đó, việc giảm thiểu thâm hụt thông qua cắt giảm đầu tư công có thể gây
ảnh hưởng nghiêm trọng đến đầu tư tư nhân và triển vọng tăng trưởng.
Christophe Kamps (2004) thực hiện bài nghiên cứu “The Dynamic Effects of
Public Capital: VAR Evidence for 22 OECD Countries” ước lượng các ảnh hưởng
động của vốn công bằng cách sử dụng phương pháp vector tự hồi quy (VAR) cho
một mẫu gồm 22 quốc gia OECD, trong khoảng thời gian từ năm 1960 đến năm
2001. Trong bài nghiên cứu, tất cả các biến được coi là biến nội sinh, và cho phép
xem xét tác động phản hồi của biến đầu ra đối với ba biến đầu vào. Kết quả nghiên
cứu cho thấy đối với phần lớn các quốc gia trong mẫu, vốn công và vốn tư nhân là
những khoản bổ sung trong dài hạn.
Lutfi Erden và Randall G. Holcombe (2005) thực hiện nghiên cứu “The effects
of Public investment on Private investment in Developing economies”, sử dụng mô
hình đầu tư gia tốc linh hoạt (flexible accelerator investment model) cho bộ dữ liệu
19 quốc gia đang phát triển trong khoảng thời gian từ năm 1980 đến năm 1997. Kết
quả nghiên cứu cho thấy đầu tư công bổ sung cho đầu tư tư nhân, và trung bình việc
tăng 10% trong đầu tư công có liên quan đến sự gia tăng 2% trong đầu tư tư nhân.
Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng đầu tư tư nhân bị hạn chế bởi sự sẵn có của tín dụng
ngân hàng ở các nền kinh tế đang phát triển.
Mối quan hệ giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân cũng được rất quan tâm ở
Việt Nam, điển hình là bài nghiên cứu của Sử Đình Thành (2011) với chủ đề “Đầu


12


tư công chèn lấn hay thúc đẩy đầu tư khu vực tư nhân ở Việt Nam?”, sử dụng mô
hình tự hồi quy vector cấu trúc SVAR cho bộ dữ liệu thu thập từ năm 1990 đến năm
2010 tìm thấy bằng chứng cho thấy đầu tư công thúc đẩy đầu tư tư nhân trong giai
đoạn nghiên cứu tại Việt Nam.
Bài nghiên cứu “Does public capital crowd-out or crowd-in Private capital in
India?” của Tarlok Singh (2012) xem xét ảnh hưởng dài hạn của vốn công lên
nguồn vốn tư nhân và kiểm định sự tồn tại của mối quan hệ nhân quả Granger giữa
vốn công và vốn tư nhân ở Ấn Độ. Cả hai phương trình và hệ số ước lượng của mô
hình đều nhất quán cho thấy tác động thúc đẩy trong dài hạn của vốn công. Mô hình
hiệu chỉnh sai số và mô hình over-parameterized level-VAR được sử dụng đều nhất
quán cho thấy tính nhân quả của Granger theo hướng hợp nhất giữa vốn công và
vốn tư nhân. Sự tồn tại của hiệu ứng thúc đẩy của vốn công có ý nghĩa thống kê
đóng vai trò quan trọng đối với việc xây dựng các chiến lược tăng trưởng và phát
triển dài hạn tại Ấn Độ.
Afonso và Aubyn (2008) thực hiện bài nghiên cứu “Macroeconomic rates of
return of Public and Private investment: crowding-in and crowding-out effects”
đánh giá hiệu quả kinh tế vĩ mô của đầu tư nhà nước và tư nhân thông qua phân tích
VAR cho bộ dữ liệu bảng bao gồm 14 quốc gia thuộc Liên minh Châu Âu, cùng với
Canada, Nhật Bản và Hoa Kỳ trong khoảng thời gian từ năm 1960 đến năm 2005.
Kết quả nghiên cứu cho thấy đầu tư công có thể vừa thúc đẩy vừa lấn át đầu tư tư
nhân; cụ thể hiệu ứng lấn át xuất hiện trong 5 trường hợp; hiệu ứng thúc đẩy chiếm
ưu thế trong 8 trường hợp (Áo, Đức, Đan Mạch, Phần Lan, Hy Lạp, Bồ Đào Nha,
Tây Ban Nha và Thụy Điển). Sự thay đổi nhân quả dường như là hướng tổng quát
hơn. Trên thực tế sự gia tăng đầu tư tư nhân làm tăng GDP và tăng doanh thu thuế
phục vụ cho đầu tư công.
2.2.1.2. Các bằng chứng thực nghiệm về hiệu ứng lấn át (crowding-out effect)
Trong bài nghiên cứu chủ đề “Interactions between Public and Private
investment: Evidence from Developing countries” của Erdal Atukeren (2004)



13

nghiên cứu về mối quan hệ giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân ở các nước đang
phát triển bằng cách sử dụng phân tích đồng liên kết và kiểm định nhân quả
Granger đối với mẫu 25 quốc gia đang phát triển bao gồm 12 nước Mỹ Latinh, 8
nước Châu Á và 5 nước Châu Phi. Các dữ liệu đầu tư được thể hiện ở dạng phần
trăm GDP và được thu thập trong khoảng thời gian từ năm 1970 đến năm 2000. Kết
quả nghiên cứu xác định 11 quốc gia có đầu tư công lấn át đầu tư tư nhân, 8 quốc
gia có đầu tư công thúc đẩy đầu tư tư nhân và 6 quốc gia không tìm thấy các bằng
chứng về sự tồn tại của cả hiệu ứng thúc đẩy và chèn lấn. Bên cạnh đó bài nghiên
cứu còn sử dụng phương pháp phân tích probit và các chỉ số thành phần của “chỉ số
tự do kinh tế” (“Economic Freedom Index”) để tìm ra những đặc điểm chung của
các quốc gia có các khoản đầu tư công được tìm thấy là chèn lấn đầu tư tư nhân. Mô
hình cho thấy 10 trong số 11 trường hợp có tác động chèn lấn và 13 trong số 14
trường hợp không có tác động này.
Bên cạnh những bằng chứng về hiệu ứng thúc đầy trong bài nghiên cứu của
Christophe Kamps (2004), nghiên cứu cũng tìm ra mối quan hệ ngắn hạn giữa vốn
công và vốn tư nhân trong mẫu các nước được phân biệt thành hai nhóm: (i) nhóm
thứ nhất bao gồm các quốc gia có vốn công và vốn tư nhân là những tài sản thay thế
trong ngắn hạn và (ii) nhóm thứ hai có vốn công và vốn tư nhân là những khoản bổ
sung trong ngắn hạn.
Lutfi Erden và Randall G. Holcombe (2005) thực hiện nghiên cứu trên bộ dữ
liệu bảng 19 quốc gia đang phát triển và 12 nước phát triển. Trái ngược với các nền
kinh tế đang phát triển, các kết quả cho thấy đầu tư công lấn át đầu tư tư nhân ở các
nền kinh tế phát triển. Các bằng chứng thực nghiệm cho thấy đầu tư tư nhân ở các
nền kinh tế phát triển bị ảnh hưởng bởi các yếu tố khác với đầu tư tư nhân ở các nền
kinh tế đang phát triển.
Afonso và Aubyn (2008) thực hiện bài nghiên cứu “Macroeconomic rates of
return of Public and Private investment: crowding-in and crowding-out effects” đã

tìm ra sự chiếm ưu thế của các bằng chứng về hiệu ứng thúc đẩy, tuy nhiên nghiên


14

cứu cũng tìm thấy bằng chứng của hiệu ứng lấn át xuất hiện trong 5 trường hợp bao
gồm: Bỉ, Ailen, Canada, Anh và Hà Lan.
Gần đây, Christian Dreger, Hans-Eggert Reimers (2016) thực hiện nghiên cứu
đề tài “Does Public investment stimulate Private investment? Evidence for the Euro
area” xem xét mối quan hệ dài hạn giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân trong khu
vực đồng Euro sử dụng mô hình hiệu chỉnh sai số dạng bảng (panel error –
correction model) cho bộ dữ liệu bảng các nước khu vực đồng Euro bao gồm Đức,
Pháp, Ý, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Hy Lạp, Ireland, Áo, Phần Lan, Hà Lan, Bỉ và
Luxembourg trong khoảng thời gian từ năm 1991 đến năm 2012. Kết quả nghiên
cứu cho thấy tồn tại bằng chứng về việc dòng đầu tư tư nhân sẽ được thúc đẩy bởi
GDP trong dài hạn, ngược lại sự gia tăng trong lãi suất thực sẽ gây ra sự suy giảm
trong hoạt động đầu tư tư nhân. Bên cạnh đó việc khối lượng vốn tư nhân tăng so
với vốn công sẽ làm cho đầu tư tư nhân giảm sau đó.
Từ các nghiên cứu trên, có thể thấy bằng chứng về hiệu ứng thúc đẩy
(crowding-in effect) giữa đầu tư công và đầu tư tư nhân chiếm ưu thế trong nhiều
nghiên cứu thực nghiệm và được tìm thấy chủ yếu trong dài hạn ở các quốc gia
đang phát triển, đặc biệt là ở các quốc gia thuộc khu vực OECD (Argimón và cộng
sự (1997); Christophe Kamps (2004)). Các kết quả nghiên cứu cho thấy sự tồn tại
của hiệu ứng thúc đẩy ở các quốc gia phần lớn đến từ đầu tư công theo hướng phát
triển cơ sở hạ tầng, từ đó giúp tăng năng suất và hỗ trợ đầu tư tư nhân.
Bên cạnh các bằng chứng của hiệu ứng thúc đẩy, hiệu ứng lấn át (crowdingout effect) cũng được tìm thấy trong các nghiên cứu thực nghiệm, đặc biệt là ở các
quốc gia phát triển (Lutfi Erden và Randall G. Holcombe (2005); Afonso và Aubyn
(2008)) và cả các quốc gia đang phát triển (Erdal Atukeren (2004)). Các kết quả
nghiên cứu cho thấy tỷ lệ tham gia của chính phủ vào nền kinh tế càng cao, sự mở
cửa thương mại càng thấp, càng có nhiều hạn chế đối với việc sử dụng ngoại tệ, môi

trường vĩ mô và môi trường tiền tệ càng ổn định thì càng có nhiều khả năng các
khoản đầu tư công sẽ có tác động chèn lấn đầu tư tư nhân.


15

Ảnh hưởng của đầu tư công lên đầu tư tư nhân luôn là chủ đề được quan tâm
của các nhà nghiên cứu kinh tế về cả phương diện lý thuyết và thực nghiệm từ xưa
đến nay. Có rất nhiều nghiên cứu về chủ đề này được thực hiện bằng nhiều phương
pháp, áp dụng cho cả dữ liệu của một nước hay cho một nhóm nước, tuy nhiên các
kết quả thu được là không giống nhau giữa các quốc gia riêng biệt hay các nhóm
quốc gia. Nhìn chung, các bằng chứng thực nghiệm đều chỉ ra sự tồn tại của cả hai
hiệu ứng chèn lấn và thúc đẩy của đầu tư công lên đầu tư tư nhân.
Tuy nhiên, ngoài đầu tư công, đầu tư tư nhân còn chịu tác động của nhiều
nhân tố vĩ mô khác đã được chứng thực qua các lý thuyết và nghiên cứu thực
nghiệm. Sau đây là một số kết quả nghiên cứu thực nghiệm về mối quan hệ giữa
đầu tư tư nhân và một số yếu tố vĩ mô khác.
2.2.2. Mối quan hệ giữa đầu tư tư nhân và một số yếu tố vĩ mô khác:
Bên cạnh những thảo luận và nghiên cứu thực nghiệm sôi nổi về tác động của
đầu tư công lên đầu tư tư nhân, đề tài về các nhân tố tác động lên đầu tư tư nhân
cũng rất được quan tâm.
Có rất nhiều nghiên cứu về đầu tư tư nhân cho các trường hợp của cả hai nền
kinh tế phát triển và đang phát triển. Blejer và Khan (1984) nghiên cứu hàm đầu tư
ở các nước đang phát triển sử dụng dữ liệu tổng hợp của 24 quốc gia trong giai đoạn
năm 1971-1979. Họ nhận thấy tình trạng sẵn có về tín dụng và các khoản đầu tư
công cơ sở hạ tầng có liên quan tích cực đến đầu tư tư nhân. Ngoài ra, các hiện
tượng chèn lấn đang diễn ra trong trường hợp đầu tư phi cơ sở hạ tầng.
Sark (1993) thực hiện nghiên cứu “Determinants of Private Investment in
Pakistan”, sử dụng bộ dữ liệu Pakistan từ năm 1974 đến năm 1992 để điều tra
những nhân tố quyết định tác động vào đầu tư tư nhân tại Pakistan. Kết quả nghiên

cứu cho thấy mối quan hệ tích cực giữa đầu tư tư nhân và tăng trưởng GDP. Báo
cáo của họ phân chia đầu tư công thành đầu tư cơ sở hạ tầng và không thuộc cơ sở
hạ tầng và nhận thấy rằng đầu tư phi cơ sở hạ tầng tương quan âm với đầu tư tư
nhân.


16

Serven và Solimano (1993) cho rằng có rất nhiều yếu tố ảnh hưởng đến đầu tư
tư nhân ở các nước đang phát triển. Trong số đó có tăng trưởng GDP, tỷ giá hối
đoái thực, đầu tư công, lãi suất thực, nợ công và sự không chắc chắn là những yếu
tố chính ảnh hưởng đến đầu tư tư nhân. Họ cho rằng các chính sách tiền tệ và tín
dụng nghiêm ngặt được thông qua trong các gói bình ổn ảnh hưởng đến đầu tư tư
nhân bằng cách tăng chi phí thực tế của tín dụng cũng như lãi suất. Các gói này làm
tăng chi phí cơ hội của thu nhập được giữ lại và tăng chi phí sử dụng vốn do đó
giảm đầu tư.
Trong bài nghiên cứu “Macroeconomic Determinants of Domestic Private
Investment in Africa: An Empirical Analysis", Oshikoya (1994) sử dụng mô hình
hàm đầu tư tư nhân cho các quốc gia châu Phi có thu nhập trung bình và thu nhập
thấp trong giai đoạn năm 1971 đến năm 1988. Ông nhận thấy rằng tăng trưởng sản
lượng thực, tỷ giá hối đoái thực, tín dụng sẵn có và đầu tư cơ sở hạ tầng của chính
phủ có liên quan tích cực đến đầu tư tư nhân trong nước ở các nước Châu Phi. Lạm
phát và nợ nước ngoài làm tăng tính không chắc chắn về kinh tế, do đó có ý nghĩa
tiêu cực đến đầu tư tư nhân.
Ronge và Kimuyu (1997) đã tiến hành nghiên cứu về Kenya trong bài nghiên
cứu “Private Investments in Kenya: Trends, Composition and Determinants”, sử
dụng dữ liệu giai đoạn năm 1986 - 1996. Các tác giả sử dụng mô hình gia tốc linh
hoạt (Flexible accelerator model), sửa đổi nó để xem xét những khó khăn tài nguyên
mà các nhà đầu tư tư nhân phải đối mặt ở các nền kinh tế đang phát triển. Những
phát hiện của họ cho thấy sự sẵn có của tín dụng, dự trữ ngoại hối và đầu tư công có

tác động tích cực đến đầu tư tư nhân ở Kenya. Nợ công và tỷ giá hối đoái có ảnh
hưởng đến đầu tư tư nhân. Nghiên cứu của họ cũng phát hiện ra rằng lãi suất thực
ảnh hưởng không đáng kể đến đầu tư tư nhân ở Kenya do sự hiện diện của áp chế
tài chính trong thời gian được xem xét.
Nghiên cứu “Impact of Fiscal Policy on Private Investment in Kenya” của
Kiptui (2005) cho thấy tăng trưởng kinh tế là yếu tố quyết định quan trọng nhất cho


17

đầu tư tư nhân. Bài nghiên cứu cũng chỉ ra sự cởi mở của nền kinh tế như là yếu tố
quyết định cho hoạt động đầu tư mà các công ty phải tự thực hiện để đối phó với sự
cạnh tranh ngày càng tăng của các công ty nước ngoài. Kiptui đã giới thiệu một biến
giả để đại diện cho sự tự do hóa trong những năm 1990 và cho thấy những ảnh
hưởng tiêu cực của sự tự do hoá đối với đầu tư tư nhân. Nghiên cứu cho thấy rằng
tăng nhập khẩu ảnh hưởng tiêu cực đến đầu tư cũng như sự mất giá của đồng nội tệ,
đồng thời lưu ý về mối quan hệ tiêu cực tồn tại giữa đầu tư tư nhân và lạm phát.
Cũng với bộ dữ liệu này, Muraga (2006) thực hiện nghiên cứu “Determinants
of Demand for Private Investment in Kenya, 1970-2003” sử dụng một biến thể của
mô hình gia tốc linh hoạt tân cổ điển (the neoclassical flexible accelerator model).
Đầu tư tư nhân được xác định theo hàm của lãi suất, tỷ giá hối đoái, thu nhập từ
vốn, thu nhập bình quân, chỉ số giá tiêu dùng, tổng chiều dài đường nhựa và các
biến giả biểu hiện sự tự do hóa. Các yếu tố dường như thúc đẩy đầu tư tư nhân theo
nghiên cứu này là lãi suất, thu nhập bình quân đầu người và lạm phát. Đặc biệt
nghiên cứu cho thấy cơ sở hạ tầng và tỷ giá làm suy yếu đầu tư tư nhân, tuy nhiên
các hệ số hồi quy của các biến này không có ý nghĩa thống kê.
Trong bài nghiên cứu “The Determinants of Private Investment In Ghana: An
ARDL Approach”, Frimpog và Marbuah (2010) đã tiến hành xem xét tình hình đầu
tư ở Ghana bằng cách sử dụng các kỹ thuật kinh tế lượng chuỗi thời gian trong mô
hình ARDL. Các yếu tố tiềm ẩn ảnh hưởng đến đầu tư tư nhân là đầu tư công, lạm

phát, lãi suất thực, độ mở nền kinh tế, tỷ giá hối đoái thực và luật hiến pháp. Trong
đó sản lượng và nợ nước ngoài dài hạn là yếu tố bổ sung quan trọng, trong khi đầu
tư công không có vai trò đáng kể. Trong số tất cả các yếu tố tác động đến đầu tư tư
nhân có ý nghĩa thống kê, chỉ có nợ nước ngoài và độ mở có tác động tiêu cực.
Al Khatib, Altaleb và Alokar (2012) thực hiện nghiên cứu “Economical
Determinants of Domestic Investment” phân tích các yếu tố quyết định về kinh tế
trong đầu tư trong nước giai đoạn năm 1980 - 2010 tại Jordan, xem xét cả biến
động ngắn hạn và dài hạn của quá trình đầu tư. Theo kết quả, việc mở rộng xuất


×