Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Tác động của chính sách tài khóa đến tăng trưởng tại việt nam sử dụng mô hình sign restricted svar

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 69 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

CHẾ TRẦN THÙY TRANG

TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA ĐẾN
TĂNG TRƯỞNG TẠI VIỆT NAM: SỬ DỤNG MÔ
HÌNH SIGN - RESTRICTED SVAR

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

CHẾ TRẦN THÙY TRANG

TÁC ĐỘNG CỦA CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA ĐẾN
TĂNG TRƯỞNG TẠI VIỆT NAM: SỬ DỤNG MÔ
HÌNH SIGN - RESTRICTED SVAR

Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng.
Mã số

: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


PGS. TS NGUYỄN THỊ NGỌC TRANG

THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH, NĂM 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan luận án này do chính tác giả nghiên cứu và thực hiện. Các kế t quả nghiên cứu
chưa đươ ̣c công bố bấ t kỳ ở đâu. Các số liệu, các nguồ n trích dẫn trong luận án đươ ̣c chú
thích nguồ n gố c rõ ràng, trung thực. Tôi hoàn toàn chiụ trách nhiệm về lời cam đoan của
mình.
Học viên

CHẾ TRẦN THÙY TRANG


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG
DANH MỤC HÌNH
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TÓM TẮT ........................................................................................................ 1
CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI ............................................................. 2
1.1.

Lý do chọn đề tài .......................................................................................... 2

1.2.


Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu ............................................................. 5

1.3.

Phương pháp nghiên cứu ............................................................................ 5

1.4.

Ý nghĩa thực tiễn của đề tài nghiên cứu .................................................... 6

1.5.

Bố cục bài nghiên cứu ................................................................................. 6

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN
CỨU THỰC NGHIỆM VỀ CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VÀ TÁC ĐỘNG
CỦA NÓ LÊN CHU KỲ KINH TẾ ............................................................... 8
2.1. Cơ sở lý thuyết về chính sách tài khóa và tác động của nó lên chu kỳ kinh tế
....................................................................................................................... 8
2.2. Các bằng chứng thực nghiệm về tác động của chính sách tài khóa đến chu
kỳ kinh tế và các tranh luận về công cụ tài khóa nào có tác động lớn hơn đến
tổng sản lượng quốc gia: cắt giảm nguồn thu Chính phủ (thuế) hay gia tăng chi
tiêu Chính phủ? .......................................................................................................15
2.2.1. Các bằng chứng thực nghiệm trên thế giới ............................................................. 15


2.2.1.1. Các bằng chứng thực nghiệm tại các nước phát triển ............................................ 15
2.2.1.2. Các bằng chứng thực nghiệm tại các nước đang phát triển ................................... 19
2.2.2. Các bằng chứng thực nghiệm tại Việt Nam ............................................................ 21


2.3. Tổng kết về các nghiên cứu trước đây và động lực thực hiện nghiên cứu này
.....................................................................................................................23

CHƯƠNG 3: MÔ HÌNH VÀ DỮ LIỆU NGHIÊN CỨU .......................... 28
3.1. Mô hình Vec-tơ tự hồi quy cấu trúc (SVAR)................................................. 28
3.2. Dữ liệu nghiên cứu và thống kê mô tả ............................................................ 34
3.2.1 Dữ liệu nghiên cứu ......................................................................................... 34
3.2.2. Thống kê mô tả ............................................................................................... 36

CHƯƠNG 4: CÁC KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU .......................................... 39
4.1. Các kiểm định ban đầu .................................................................................... 39
4.1.1. Kiểm định tính dừng- Kiểm định nghiệm đơn vị (Unit Root Test) ......................... 39
4.1.2. Xác định độ trễ tối ưu ............................................................................................... 40
4.1.3 Kiểm định sự phù hợp của mô hình.......................................................................... 41
4.1.3.1. Kiểm định Portmantaeu .......................................................................................... 41
4.1.3.2. Kiểm định LM ......................................................................................................... 41
4.1.3.3 Kiểm định White....................................................................................................... 42

4.2. Kết quả hàm phản ứng đẩy ............................................................................. 43
4.3. Kết quả phân rã phương sai............................................................................ 48

CHƯƠNG 5. KẾT LUẬN VỀ CÁC VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ................ 53
5.1. Các kết luận chung từ bài nghiên cứu............................................................ 53
5.2. Hạn chế của đề tài nghiên cứu ........................................................................ 55
5.3. Hướng phát triển nghiên cứu .......................................................................... 56

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


DANH MỤC BẢNG

Bảng 3.1. Dấu hiệu hạn chế áp đặt cho từng cú sốc ................................................33
Bảng 3.2. Mô tả dữ liệu .............................................................................................35
Bảng 3.3. Thống kê mô tả biến .................................................................................36
Bảng 4.1. Kết quả kiểm định tính dừng của chuỗi dữ liệu .......................................39
Bảng 4.2. Kết quả xác định độ trễ tối ưu ..................................................................40
Bảng 4.3. Kết quả kiểm định Portmantaeu ...............................................................41
Bảng 4.4. Kết quả kiểm định LM..............................................................................42
Bảng 4.5. Kết quả kiểm định phương sai thay đổi ....................................................42
Bảng 4.6. Kết quả phân rã phương sai ......................................................................50


DANH MỤC HÌNH
Hình 2.1. Chính sách tài khóa mở rộng trong tình trạng nền kinh tế suy thoái ........10
Hình 2.2. Chính sách tài khóa thu hẹp trong tình trạng nền kinh tế phát triển nóng 11
Hình 3.1. Đồ thị mối quan hệ giữa thu – chi chính phủ và tăng trưởng GDP thực tại
Việt Nam giai đoạn 2000-2016 .................................................................................37
Hình 4.1. Phản ứng đẩy trước cú sốc chu kỳ kinh tế ................................................43
Hình 4.2. Phản ứng đẩy trước cú sốc tiền tệ .............................................................45
Hình 4.3. Phản ứng đẩy trước cú sốc thu chính phủ (cú sốc thuế) ...........................46
Hình 4.4. Phản ứng đẩy trước cú sốc chi tiêu của chính phủ ....................................48
Hình 4.5. Đồ thị kết quả phân rã phương sai cho biến sản lượng .............................51


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ADB: Asian Development Bank - Ngân hàng phát triển châu Á
ADF: Kiểm định Augmented Dickey–Fuller
ADRL: AutoRegressive Distributed Lag
AIC: Akaike Information Criterion
ARIC: Asia regional integration center
BIC: Bayesian Information criterion

ECB: European Central Bank - Ngân hàng trung ương châu Âu
G7: Group of seven - Nhóm 7 quốc gia
GDP: Tổng sản phẩm nội địa
GSO: General Statistics Office of Vietnam - Tổng cục thống kê Việt Nam
GMM: General Method of Moments
HQC: Hannan–Quinn information criterion
IMF: International Monetary Funds - Quỹ tiền tệ thế giới
KPSS: Kiểm định Kwiatkowski–Phillips–Schmidt–Shin
LM: Lagrange Multiplier
M2: Cung tiền rộng
OECD: Organization for Economic Co-operation and Development - Tổ chức Hợp
tác và Phát triển Kinh tế
OLS: Ordinary Least Square - Phương pháp bình phương nhỏ nhất
PP: Kiểm định Phillips-Perron
SVAR: Structure Vector Autoregression - Mô hình tự hổi quy vec-tơ cấu trúc


1

TÓM TẮT
Bài viết này xem xét vấn đề hiệu quả của chính sách tài khóa đến tăng trưởng kinh tế
tại Việt Nam trong bối cảnh trước và sau cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu, thời
điểm mà Việt Nam mạnh dạn áp dụng các biện pháp kích thích tài khóa để kích thích
nhu cầu nội địa trong cuộc khủng hoảng toàn cầu. Xem xét dữ liệu vĩ mô từ quý
1/2000 đến quý 4/2016 và sử dụng mô hình sign – restricted SVAR (mô hình SVAR
có áp đặt các ràng buộc về dấu) để xác định các cú sốc bằng cách hạn chế mối quan
hệ đồng thời giữa các biến số tài khóa và phi tài khóa. Kết quả thực nghiệm cho thấy
một cú sốc trong thu hoặc chi của chính phủ đều có tác động đến sản lượng nhưng
tác động này là không đáng kể. Ngoài ra, kết quả phân rã phương sai còn cho thấy,
tại Việt Nam, chi tiêu của chính phủ có tác động đến sản lượng nhiều hơn chính sách

thuế. Điều này đem đến các gợi ý quan trọng cho các nhà hoạch định chính sách trong
việc sử dụng hiệu quả ngân sách chính phủ nhất là trong điều kiện thâm hụt.
Từ khóa: Chính sách tài khóa, chi tiêu của chính phủ, thu chính phủ, sản lượng, Việt
Nam, sign-restricted SVAR


2

CHƯƠNG 1: GIỚI THIỆU ĐỀ TÀI
1.1.

Lý do chọn đề tài

Trong 2 thập kỷ qua, nền kinh tế Việt Nam được đánh giá là có những bước tăng
trưởng khá tốt. Nhanh chóng vượt qua ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính Châu Á
năm 1997, giai đoạn 2000-2007, nền kinh tế Việt Nam phục hồi và đạt mức tăng
trưởng trung bình gần 7%/năm. Đặc biệt, vào năm 2007, cùng với việc gia nhập vào
Tổ chức Thương mại thế giới (WTO), tốc độ tăng trưởng GDP đạt gần 8.5%. Năm
2008, do ảnh hưởng không thể tránh khỏi của cuộc khủng hoảng tài chính toàn cầu
bắt nguồn từ nước Mỹ, mức tăng trưởng GDP của Việt Nam chậm lại chỉ còn 5.6%,
thậm chí giảm xuống chỉ còn 5.4% vào năm 2009. Tuy nhiên sau thời kỳ khủng hoảng
trên, từ năm 2010 đến nay, mặc dù không đạt được mức tăng trưởng như trước đây,
nền kinh tế Việt Nam cũng đã dần phục hồi và duy trì mức tăng trưởng trung bình
khoảng 6%/năm.
Chính phủ Việt Nam, trong suốt giai đoạn trên, đã chủ động điều chỉnh chính sách tài
khóa trên cơ sở tình hình kinh tế trong từng giai đoạn. Cụ thể, ngay sau khủng hoảng
Châu Á, Chính phủ thực hiện các chính sách nới lỏng tài khóa nhằm kích thích phục
hồi nền kinh tế, tỷ lệ chi ngân sách tăng cao gây áp lực lên vấn đề bội chi ngân sách
dẫn đến việc vay mượn bù đắp thâm hụt ngân sách, lên đến 7,5% năm 2003. Đặc biệt,
năm 2008, bên cạnh sự sụt giảm trong tăng trưởng, nguy cơ lạm phát cũng rình rập

nền kinh tế Việt Nam. Chính phủ Việt Nam lúc đó ngay lập tức thực thi chính sách
thắt chặt tài khóa, đặc biệt là về mặt chi ngân sách: rà soát lại chi ngân sách, yêu cầu
các bộ, ngành, địa phương cắt giảm, tạm ngưng các dự án đầu tư chưa thực sự cấp
bách hay không có hiệu quả; không tăng chi ngoài dự án, dành nguồn kinh phí cho
đảm bảo an sinh xã hội. Tỷ lệ bội chi ngân sách năm 2007 từ mức 6,8% giảm xuống
còn 1,4% năm 2008. Thời kỳ hậu khủng hoảng, áp dụng lại chính sách tài khóa mở
rộng, chính phủ Việt Nam mạnh dạn tung ra các gói kích cầu, hỗ trợ lãi suất cho các
doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như hỗ trợ lãi suất trung và dài hạn nhằm kích thích


3

đầu tư, phát triển sản xuất; đồng thời miễn, giảm, giãn, hoãn thuế cho các tổ chức và
cá nhân. Những nỗ lực của chính phủ trong việc thực thi các chính sách tài khóa
nghịch chu kỳ như trên luôn nhằm mục đích quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế, ngăn
chặn ảnh hưởng sâu rộng của các cuộc khủng hoảng kinh tế và duy trì mức tăng
trưởng kinh tế của quốc gia.
Tuy nhiên, câu hỏi về vấn đề liệu chính sách tài khóa liệu thực sự có thúc đẩy hoạt
động kinh tế dài hạn hay không từ lâu đã được thảo luận trong các lý thuyết của các
nhà kinh tế. Trong số đó, hai quan điểm tương phản xuất phát từ lý thuyết cơ bản của
Keynes và Ricardo. Trong lý thuyết của Keynes, giá cả hàng hóa là cứng nhắc, do đó
tổng cầu sẽ xác định sản lượng. Trong thế giới này, tiêu dùng phản ứng với thu nhập
hiện tại, và sự mở rộng tài khóa có tác động số nhân đến sự tăng trưởng. Ngược lại,
theo lý thuyết của Ricardo, số nhân tài khóa bằng không theo sự tương đồng giữa
thuế và nợ trong một khuôn khổ năng động. Trong trường hợp này, người tiêu dùng
theo lý thuyết của Ricardo đang trông ngóng và hiểu rõ những hạn chế về ngân sách
của chính phủ. Vì họ biết rằng cắt giảm thuế ngày hôm nay sẽ phải tài trợ bằng một
mức thuế cao hơn trong tương lai, do đó tiêu dùng của họ không thay đổi vì thu nhập
thường xuyên của họ không bị ảnh hưởng. Tương tự, họ cũng ý thức được rằng việc
tăng chi tiêu của chính phủ bằng cách vay mượn hôm nay sẽ được bù đắp bởi sự cắt

giảm chi tiêu trong tương lai nên sản lượng sẽ không bị ảnh hưởng.
Ngoài ra, hiệu quả của chính sách tài khóa trong thực tế sẽ không chỉ phụ thuộc vào
quy mô mà còn phụ thuộc vào kết cấu của nó - tức tầm quan trọng tương quan giữa
cắt giảm thuế so với gia tăng chi tiêu của chính phủ. Theo trực giác, có thể tin rằng
chi tiêu chính phủ có ảnh hưởng lớn hơn đến sản lượng vì nó có tác động trực tiếp
hơn đến tổng cầu. Chi tiêu công liên quan đến việc mua hàng hoá và dịch vụ của
chính phủ bao gồm chi tiêu cho các công trình công cộng và cơ sở hạ tầng như đường
xá và nhà máy điện. Mặt khác, cắt giảm thuế ít ảnh hưởng trực tiếp hơn đến tổng cầu
vì hiệu quả của nó xét đến cùng phụ thuộc vào sự sẵn lòng chi tiêu khoản thu nhập
tăng thêm do cắt giảm thuế của các hộ gia đình và doanh nghiệp. Tuy nhiên, nền kinh


4

tế trong thực tế là hết sức phức tạp, năng động, không chắc chắn và không phải lúc
nào cũng theo các trực giác kinh tế. Nói cách khác, hiệu quả tương quan giữa cắt giảm
thuế và chi tiêu chính phủ trong việc thúc đẩy tổng cầu vẫn là một vấn đề thực nghiệm
không thể được giải quyết chỉ bằng trực giác kinh tế.
Có rất nhiều nghiên cứu thực nghiệm được đưa ra trong cả thời kỳ bùng nổ hoặc suy
thoái của nền kinh tế, bằng chứng cho thấy rằng sự mở rộng tài chính có thể kích
thích tổng cầu và sản lượng ở các nước đang phát triển trong ngắn hạn. Một số nghiên
cứu gần đây kết luận rằng chính sách tài khóa ở các nước đang phát triển có nhiều tác
động tích cực nhỏ nhưng có những tác động tiêu cực trong trung hạn, trong khi một
số nghiên cứu khác lại cho kết quả về những tác động tích cực trong trung hạn. Hầu
hết các nghiên cứu cũng cho thấy hiệu quả mở rộng của chính sách tài khóa có xu
hướng nhỏ hơn ở các nước đang phát triển nhiều hơn so với các nước phát triển. Theo
các bằng chứng thực nghiệm gần đây, chính sách tài khóa có xu hướng ít nghịch chu
kỳ hơn ở các nước đang phát triển so với ở các nước có thu nhập cao và do đó chính
sách tài khóa ở các nước đang phát triển sẽ làm trầm trọng hơn thay vì tiết chế chu
kỳ kinh doanh. Điều này có nghĩa là chính phủ ở các nước này gia tăng chi tiêu vào

thời điểm tốt và cắt giảm vào thời điểm xấu, do đó làm giảm sự bền vững tài khóa.
Hơn nữa, ở các quốc gia có thu nhập thấp, các nhân tố ổn định tự động mang tính
thuận chu kỳ do sự thất bại của thể chế và thiếu khả năng tiếp cận tài chính trong thời
kỳ suy thoái kinh tế. Áp lực chính trị cũng là một trong các nguyên nhân khiến chính
phủ này chi tiêu hơn mức cần thiết ở giai đoạn mà nền kinh tế đang phát triển tốt.
Từ những nền tảng phân tích đa chiều về cả lý thuyết và thực nghiệm cho thấy tác
động của chính sách tài khóa đến sự phát triển kinh tế là hết sức phức tạp, phụ thuộc
vào các yếu tố, đặc trưng của từng quốc gia, nhất là tại các nước đang phát triển. Việc
tiến hành nghiên cứu thực nghiệm nhằm hiểu rõ vai trò, đặc điểm, khả năng tác động
và mức độ tác động của chính sách tài khóa đến sự tăng trưởng gắn liền với đặc trưng
riêng biệt của từng quốc gia là cấp thiết, đặc biệt là trong bối cảnh hiện nay, khi mà
cuộc khủng hoảng kinh tế đã qua nhưng câu hỏi mới lại được đặt ra với các nhà tạo


5

lập chính sách là liệu chính sách tài khoá nghịch chu kỳ có thể giải quyết được vấn
đề tăng trưởng kinh tế trong một thế giới hậu khủng hoảng không chắc chắn và bất
ổn hay không? Các điều trên đã thôi thúc em lựa chọn đề tài “Tác động của chính
sách tài khóa đến tăng trưởng tại Việt Nam: Sử dụng mô hình Sign - restricted
SVAR”.

1.2.

Đối tượng và mục tiêu nghiên cứu

Sử dụng dữ liệu vĩ mô trong giai đoạn từ quý 1 năm 2000 đến quý 4 năm 2016, bài
nghiên cứu sẽ đưa ra các bằng chứng thực nghiệm cho hiệu quả của chính sách tài
khóa tại Việt Nam trong suốt khoảng thời gian trước, trong và sau khủng hoảng này.
Cụ thể, bài nghiên cứu trả lời 02 câu hỏi nghiên cứu chủ yếu sau:

(i)

Chính sách tài khóa tại Việt Nam giai đoạn 2000-2016 có thật sự tác động đến
sản lượng của nền kinh tế Việt Nam hay không?; và

(ii)

Giữa việc gia tăng chi tiêu Chính phủ và cắt giảm thuế thì chính sách tài khóa
nào có tác động lớn hơn đối với sản lượng quốc gia?

Kết quả rút ra được từ nghiên cứu này có thể gợi ý cho các nhà hoạch định chính sách
trong việc cân nhắc đưa ra các chính sách điều hành vĩ mô trong tương lai phù hợp
với tình hình của chu kỳ kinh tế và đặc điểm đặc trưng của quốc gia.
1.3.

Phương pháp nghiên cứu

Bài nghiên cứu được thực hiên trên số liệu vĩ mô hàng quý của Việt Nam trong giai
đoạn từ quý 1 năm 2000 đến quý 4 năm 2016 thu thập từ nguồn dữ liệu International
financial statistic (IFS) của Quỹ tiền tệ thế giới (IMF), Asia regional integration
center (ARIC) của Ngân hàng phát triển Châu Á và Niên giám thống kê được xuất
bản bởi Tổng cục Thống kê Việt Nam. Sử dụng mô hình tự hồi quy vector cấu trúc
(SVAR) – một mô hình phổ biến và được đánh giá cao trong việc sử dụng để phân
tích các chính sách vĩ mô hiện nay kết hợp với kỹ thuật nhân diện các cú sốc bằng
cách áp đặt các ràng buộc về dấu - kỹ thuật được tác giả Uhlig (2005, 2009) xây dựng


6

nhằm xác định các cú sốc bằng cách hạn chế mối quan hệ đồng thời giữa các biến số

tài khóa và phi tài khóa.
Bằng cách tách chính sách tài khóa ra thành hai cú sốc là cú sốc thu chính phủ và cú
sốc chi tiêu của chính phủ, các kết quả thực nghiệm sẽ đưa đến kết luận về tác động
của những cú sốc bất ngờ từ hai phía, thu – chi ngân sách của chính phủ đến sản lượng
quốc gia.
1.4. Ý nghĩa thực tiễn của đề tài nghiên cứu
Bài nghiên cứu là sự đóng góp thêm bằng chứng thực nghiệm sử dụng mô hình kinh
tế lượng tiên tiến để xem xét hiệu quả của chính sách tài khóa tại Việt Nam, xét trên
góc độ quốc gia. Đồng thời, xét trên góc độ quốc tế, bài nghiên cứu cũng góp thêm
bằng chứng thực nghiệm về hiệu quả của chính sách tài khóa tại quốc gia đang phát
triển – nơi mà vấn đề hiệu quả của chính sách tài khóa có rất nhiều tranh cãi.
Bên cạnh đó, việc xem xét tác động trên cả hai công cụ của chính sách tài khóa là thu
và chi ngân sách của chính phủ là một điểm mới đáng chú ý của nghiên cứu này mà
các nghiên cứu trước đây tại Việt Nam chưa xem xét. Kết quả của điểm nghiên cứu
này sẽ gợi ý cho các nhà chính sách các cân nhắc khi sử dụng chính sách tài khóa khi
thực hiện các mục tiêu của mình nhằm điều chỉnh chu kỳ kinh tế mà vẫn duy trì được
sự bền vững về tài khóa cho quốc gia.

1.5 . Bố cục bài nghiên cứu
Bài nghiên cứu có trình tự như sau:
-

Chương 1 đưa ra sự giới thiệu một cách tổng quát về đề tài cụ thể bao gồm lý
do đề tài được lựa chọn, đối tượng và mục tiêu nghiên cứu, ý nghĩa thực tiễn
cũng như bố cục của bài nghiên cứu. Các vấn đề này đưa ra cái nhìn ban đầu
một cách ngắn gọn nhưng đầy đủ về bài nghiên cứu.

-

Chương 2 thảo luận về cơ sở lý thuyết về chính sách tài khóa, các công cụ của

chính sách tài khóa, chính sách tài khóa mở rộng – thu hẹp, chính sách tài khóa


7

chủ động – tự động, chính sách tài khóa thuận chu kỳ - phản chu kỳ và những
nghiên cứu trước đây, các tranh luận làm nền tảng và động lực cho việc thực
hiện đề tài này.
-

Chương 3 tập trung thảo luận về các phương pháp thực nghiệm – mô hình
SVAR áp đặt các ràng buộc về dấu và việc lựa chọn các biến nghiên cứu trong
bài. Bên cạnh đó, các trình bày về cách thu thập và xử lý số liệu cho từng biến
cụ thể của được bao gồm trong chương này.

-

Chương 5 trình bày các kiểm định ban đầu cho mô hình và các kết quả nghiên
cứu thực nghiệm từ hàm phản ứng đẩy và phân rã phương sai; và

-

Chương 6 đưa ra các kết luận về các vấn đề nghiên cứu và một số khuyến nghị
rút ra từ kết quả nghiên cứu. Bên cạnh đó, cũng nêu ra hạn chế của đề tài và
hướng phát triển của đề tài.


8

CHƯƠNG 2: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ TỔNG QUAN CÁC

NGHIÊN CỨU THỰC NGHIỆM VỀ CHÍNH SÁCH TÀI KHÓA VÀ
TÁC ĐỘNG CỦA NÓ LÊN CHU KỲ KINH TẾ
2.1. Cơ sở lý thuyết về chính sách tài khóa và tác động của nó lên
chu kỳ kinh tế
Trước cuộc Đại khủng hoảng (kéo dài từ ngày 4 tháng 9 năm 1929 đến cuối những
năm 1930 - đầu những năm 1940), cách tiếp cận của Chính phủ đối với nền kinh tế
là tự do kinh tế. Tuy nhiên, sau chiến tranh thế giới lần II, Chính phủ được xác định
phải nắm giữ vai trò tiên phong trong nền kinh tế để kiểm soát vấn đề thất nghiệp,
chu kỳ kinh doanh, lạm phát và chi phí sử dụng tiền. Bằng cách sử dụng kết hợp chính
sách tiền tệ và tài khóa (tùy vào định hướng chính trị và triết lý của những người cầm
quyền ở một thời điểm nhất định mà một chính sách có thể chiếm ưu thế hơn chính
sách kia), Chính phủ có thể kiểm soát hệ thống kinh tế.
Chính sách tài khóa là biện pháp giúp Chính phủ giám sát và tác động đến nền kinh
tế của quốc gia thông qua việc điều chỉnh mức chi tiêu công và hệ thống thuế khóa.
Bằng chính sách tài khóa, Chính phủ cố gắng đạt được các mục tiêu kinh tế vĩ mô
như giúp nền kinh tế tăng trưởng, cải thiện tỷ lệ thất nghiệp, kiểm soát lạm phát, ổn
định chu kỳ kinh doanh và tác động đến lãi suất.
Chính sách tài khóa dựa trên lý thuyết của nhà kinh tế học người Anh John Maynard
Keynes (1883–1946). Lý thuyết này về cơ bản cho rằng Chính phủ có thể tác động
đến mức năng suất kinh tế vĩ mô bằng cách tăng hoặc giảm mức thuế và chi tiêu công.
Do đó, tác động này sẽ kiềm chế lạm phát, tạo việc làm và duy trì giá trị tiền tệ ở mức
lành mạnh.
Trong lý thuyết của Keynes, thu nhập của một quốc gia được xác định như sau:
𝑌𝑌 = 𝐶𝐶 + 𝐼𝐼 + 𝐺𝐺 + 𝑁𝑁𝑁𝑁

(1)


9


Trong đó,
C: chi tiêu cuối cùng của hộ gia đình
I: tổng đầu tư của nền kinh tế
G: tiêu dùng cuối cùng của chính phủ
NX: xuất khẩu thuần (Xuất khẩu – Nhập khẩu)
Y: Tổng sản phẩm quốc nội
Phương trình trên cho thấy chính phủ có thể tác động đến nền kinh tế thông qua tác
động đến Y trực tiếp thông qua chính sách tài khóa (𝐺𝐺) và gián tiếp thông qua tác
động đến 𝐶𝐶, 𝐼𝐼 và 𝑁𝑁𝑁𝑁.

Chi tiêu chính phủ có thể tác động đến tiêu dùng của hộ gia đình và đầu tư tư nhân
một cách gián tiếp thông qua hành vi tiết kiệm của hộ gia đình. Ví dụ, khi chính phủ
thuê nhân công cho các công trình xây dựng cơ sở hạ tầng (trường học, sân bay, cầu
v.v.), các hộ gia đình có nhiều thu nhập hơn và họ sử dụng một phần thu nhập tăng
thêm này để mua sắm (tiêu dùng) và tiết kiệm số còn lại. Tiết kiệm tăng sẽ làm tăng
thêm đầu tư.
Chính sách tài khóa cũng có thể ảnh hưởng đến xuất nhập khẩu gián tiếp thông qua
thuế và trợ cấp. Ví dụ, khi chính phủ tăng thuế trên hàng nhập khẩu và sử dụng một
phần vốn cho trợ cấp xuất khẩu, chính sách tài khóa này sẽ đẩy cán cân thanh toán
lên trạng thái thặng dư. Ngược lại, một sự giảm thuế nhập khẩu làm tăng cầu hàng
hóa, dịch vụ từ nước ngoài, đẩy cán cân thanh toán về trạng thái thâm hụt.
Hiện nay có hai quan điểm về chính sách tài khóa, đó là chính sách tài khóa tự động

và chính sách tài khóa chủ động.


10

Chính sách tài khóa chủ động
Theo quan điểm của nhà kinh tế học Keynes, Chính phủ phải xem xét đến tình trạng

thực tế nền kinh tế quốc gia, từ đó có thể chủ động sử dụng chính sách tài khóa nhằm
điều tiết nền kinh tế về mức sản lượng tiềm năng. Từ đó, có hai loại chính sách tài
khóa: chính sách tài khóa mở rộng và chính sách tài khóa thu hẹp.
Chính sách tài khóa mở rộng: Trong tình trạng nền kinh tế suy thoái, hay nói cách
khác là lúc này, tổng sản lượng quốc gia (Y N ) đang thấp hơn tổng sản lượng tiềm
năng (Y P ), Chính phủ cần tăng chi tiêu hoặc giảm thuế ròng, hoặc thực hiện cả hai.
Mục tiêu là để kích thích tổng cầu (AD) tăng lên (dịch chuyển qua phải) làm tăng sản
lượng quốc gia bằng với sản lượng tiềm năng.

Hình 2.1. Chính sách tài khóa mở rộng trong tình trạng nền kinh tế suy thoái
Chính sách tài khóa thu hẹp: Khi nền kinh tế lạm phát hay tổng sản lượng quốc gia
(Y N ) cao hơn tổng sản lượng tiềm năng (Y p ), Chính phủ cần phải điều tiết sản lượng
quốc gia giảm đến khi cân bằng với sản lượng tiềm năng. Để thực hiện điều này,
Chính phủ cũng cần phải thông qua hai công cụ thuế và chi tiêu Chính phủ: tăng thuế
ròng hoặc giảm chi tiêu hoặc vừa tăng thuế ròng vừa giảm chi tiêu. Từ đó, tổng cầu
(AD) giảm (di chuyển sang trái) dẫn đến tổng sản lượng quốc gia giảm xuống.


11

Hình 2 2. Chính sách tài khóa thu hẹp trong tình trạng nền kinh tế phát triển nóng
Chính sách tài khóa chủ động có thể là nghịch chu kỳ hoặc cùng chu kỳ với chu kỳ
kinh doanh. Một chính sách tài khóa nghịch chu kỳ là một chính sách mở rộng trong
thời kỳ suy thoái và thu hẹp trong thời kỳ sự bùng nổ. Trái lại, chính sách tài khóa
đồng chu kỳ xảy ra khi chính sách tài khóa chủ động thu hẹp trong thời kỳ suy thoái,
và mở rộng trong suốt thời kỳ tăng trưởng, làm gia tăng sự biến động của sản lượng.
Chính sách tài khóa chủ động có thể được thiết kế nghịch chu kỳ để ổn định chu kỳ
kinh doanh, hoặc là đồng chu kỳ để thúc đẩy tăng trưởng hoặc kiềm chế lạm phát.
Như vậy, để thực hiện mục tiêu ổn định kinh tế vĩ mô, chính sách tài khóa nên là một
biến số nghịch chu kỳ.

Theo các lý thuyết, cơ chế đằng sau chính sách tài khóa chủ động có vẻ dễ dàng. Tuy
nhiên, việc áp dụng chính sách tài khóa trong thực tiễn là một vấn đề vì nhiều lý do.
Thứ nhất, sự không chắc chắn về độ trễ và thời điểm là những mối quan tâm lớn khi
thực hiện chính sách tài khóa chủ động. Chính phủ nên điều chỉnh chính sách tài khóa
bao lâu một lần để điều chỉnh nền kinh tế về mức tăng trưởng tiềm năng?. “Có ba độ
trễ làm cho chính sách tài khóa trở khó thực hiện. Thứ nhất, là khoảng thời gian giữa
thời điểm cần thay đổi chính sách và thời gian mà chính phủ công nhận điều này. Thứ
hai, là khoảng thời gian khi chính phủ công nhận rằng cần thay đổi chính sách và khi
cần hành động. Độ trễ thứ ba xảy ra giữa thời điểm chính sách được thay đổi và khi


12

những thay đổi ảnh hưởng đến nền kinh tế" (Blinder, 2008). Do những chậm trễ này,
xác định thời điểm thực hiện chính sách tài khóa chủ động để điều chỉnh nền kinh tế
là một nhiệm vụ rất khó khăn. Vào thời điểm chính sách có hiệu lực, tình trạng của
nền kinh tế có thể đã thay đổi. Một chính sách tài khóa có tính nghịch chu kỳ có thể
trở thành đồng chu kỳ nếu một nhà kinh tế đưa ra một đánh giá không chính xác về
tình trạng hiện tại và tương lai của nền kinh tế.
Thứ hai, việc áp dụng chính sách tài khóa chủ động cũng có thể là vấn đề trong trường
hợp ngân sách của chính phủ không bền vững về tài chính. Tính bền vững về tài chính
đề cập đến "khả năng của chính phủ để duy trì các chính sách hiện tại và đáp ứng
được ràng buộc về ngân sách mà không dẫn đến nghĩa vụ nợ" (Burnside, 2005). Về
mặt hoạt động, nợ công không phải là mối quan tâm cho vấn đề bền vững tài chính
nếu quốc gia đó là một quốc gia có chủ quyền về tiền tệ và không nợ quá nhiều ngoại
tệ trong phạm vi mà nó không thể trả lại. Tuy nhiên, trong trường hợp các chính phủ
dựa nhiều vào các nguồn tài trợ từ bên ngoài, cho dù đó là IMF hay ECB, thì sẽ đặt
ra câu hỏi về khả năng của chính phủ để chi tiêu một cách khôn ngoan trên khoản
thanh khoản mà họ không thể tạo ra. Có một nguyên tắc tài trợ thâm hụt là chính phủ
không nên đi vay để chi tiêu mà phải dùng cho đầu tư phát triển. Người ta gọi đó là

nguyên tắc tài khóa vàng (golden rule). Ngụ ý ở đây là việc đi vay để chi tiêu sẽ không
thể tạo ra nguồn tiền cho việc trả nợ trong tương lai, ảnh hưởng đến tính an toàn của
nợ công. Thay vào đó, việc đi vay chỉ được dùng để tài trợ cho các dự án đầu tư có
khả năng thu hồi vốn hoặc ít nhất là cũng tạo ra năng lực sản xuất cho nền kinh tế.
Khi chính phủ đi vay để tài trợ thâm hụt sẽ làm tăng nhu cầu vay vốn trên thị trường
tài chính. Xét tình huống một nền kinh tế đóng, trong điều kiện giả định nguồn cung
quỹ cho vay là giới hạn, việc chính phủ tăng nhu cầu vay mượn sẽ làm tăng lãi suất
của nền kinh tế. Lãi suất tăng lên sẽ ảnh hưởng đến nhu cầu vay vốn đầu tư của khu
vực doanh nghiệp cũng như nhu cầu vay mượn cho tiêu dùng của khu vực hộ gia
đình. Người ta gọi đây là tác động chèn lấn một phần của tài trợ thâm hụt. Trong một
nền kinh tế mở thì việc tăng chi tiêu chính phủ và tài trợ thâm hụt còn dẫn đến hiện


13

tượng chèn lấn hoàn toàn thông qua các thay đổi về tỷ giá và cơ chế dịch chuyển của
dòng vốn quốc tế.
Nhiều người cũng hoài nghi rằng, ngoài tác động chèn lấn, việc chính phủ tăng chi
tiêu và tài trợ thâm hụt cũng chưa hẳn giúp gia tăng tổng cầu của nền kinh tế. Họ lập
luận rằng, khi chính phủ tăng cường vay mượn trong hiện tại thì sẽ phải tìm cách tăng
thuế trong tương lai để trả nợ. Việc tăng thuế trong tương lai chắc chắn sẽ ảnh hưởng
đến thu nhập khả dụng của họ trong tương lai và như vậy cũng sẽ ảnh hưởng đến khả
năng chi tiêu của họ trong tương lai. Tuy nhiên, khi người dân nghĩ như vậy thì ngay
hiện tại họ đã bắt đầu giảm chi tiêu và tăng tiết kiệm nhằm có tiền nộp thuế trong
tương lai và bù lại phần chi tiêu có thể sẽ giảm đi trong tương lai đó. Nếu điều này
xảy ra thì cầu tiêu dùng của khu vực hộ gia đình và kể cả cầu đầu tư của khu vực
doanh nghiệp đã giảm ngay trong năm hiện tại. Như vậy, khoản chi tiêu tăng thêm
của chính phủ sẽ được bù đắp bởi khoản sụt giảm trong chi tiêu của hộ gia đình và
đầu tư của tư nhân. Người ta gọi đây là tương đương Ricardo.
Ngoài ra, hiệu quả của chính sách tài khóa trong thực tế sẽ không chỉ phụ thuộc vào

quy mô mà còn phụ thuộc vào kết cấu của nó - tức tầm quan trọng tương quan giữa
cắt giảm thuế so với gia tăng chi tiêu của chính phủ. Theo trực giác, thật hấp dẫn khi
tin rằng chi tiêu chính phủ có ảnh hưởng lớn hơn đến sản lượng vì nó có tác động trực
tiếp hơn đến tổng cầu. Chi tiêu công liên quan đến việc mua hàng hoá và dịch vụ của
chính phủ bao gồm chi tiêu cho các công trình công cộng và cơ sở hạ tầng như đường
xá và nhà máy điện. Mặt khác, cắt giảm thuế ít ảnh hưởng trực tiếp hơn đến tổng cầu
vì hiệu quả của nó xét đến cùng phụ thuộc vào sự sẵn lòng chi tiêu khoản thu nhập
tăng thêm do cắt giảm thuế của các hộ gia đình và doanh nghiệp. Tuy nhiên, hiệu quả
tương quan giữa cắt giảm thuế và chi tiêu chính phủ trong việc thúc đẩy tổng cầu vẫn
là một vấn đề thực nghiệm không thể được giải quyết chỉ bằng trực giác kinh tế.
Chính sách tài khóa tự động
Các nhà kinh tế học theo đuổi quan điểm này cho rằng để điều tiết kinh tế vĩ mô,
Chính phủ cần sử dụng các nhân tố ổn định tự động trong nền kinh tế, khi đó chính


14

sách tài khóa tự nó được thực hiện. Các nhân tố tự động bao gồm thuế thu nhập có
lũy tiến và trợ cấp thất nghiệp. Trong trường hợp nền kinh tế bị suy thoái, thu nhập
giảm, thuế thu nhập sẽ được giảm đi, đồng thời trợ cấp thất nghiệp phải chi sẽ tự động
tăng do tỷ lệ thất nghiệp tăng. Từ đó, thuế ròng sẽ giảm, tác động làm tăng tổng cầu
và giúp làm tăng tổng sản lượng quốc gia. Và ngược lại, khi nền kinh tế tăng trưởng,
các công cụ tự động này sẽ giúp cho sản lượng quốc gia giảm xuống cân bằng với
sản lượng tiềm năng.
Các công cụ ổn định tự động không có độ trễ, do đó tạo ra hàng phòng ngự đầu tiên
trong thời kỳ suy thoái kinh tế và tăng trưởng, không đòi hỏi phải thay đổi luật pháp
và luật pháp hiện hành. Các công cụ ổn định tự động luôn đáp ứng một cách "kịp thời,
có thể lường trước và đối xứng" trong suốt chu kỳ kinh doanh, làm giảm sự nóng lên
trong thời kỳ bùng nổ và hỗ trợ hoạt động kinh tế trong thời kỳ suy thoái (Debrun &
Kapoor, 2010). Cấu trúc và thiết kế của công cụ ổn định tự động càng tốt, việc sử

dụng các chính sách tài khóa chủ động càng không cần thiết.
Tuy nhiên, việc sử dụng các công cụ ổn định tự động trong việc hoạch định kinh tế
vĩ mô có thể bị hạn chế vì những lý do sau: Thứ nhất, những điều chỉnh mang lại từ
các công cụ ổn định tự động thường không đủ để chống lại các cú sốc lớn về cầu. Lý
do cho điều này có thể là các loại chi tiêu hoặc thuế dùng như công cụ ổn định tự
động không được thiết kế hoàn toàn cho chức năng ổn định. Thay vào đó, chúng được
thiết kế ưu tiên để mang lại sự công bằng hoặc hiệu quả kinh tế, ổn định kinh tế chỉ
là mục tiêu sau đó. Điều chỉnh các biến số tài chính cho mục đích ổn định ở mức lớn
sẽ làm gián đoạn các phân bổ và phân phối trong chính sách của chính phủ.
Thứ hai, Alesina (2000) thấy rằng trong trường hợp các khoản thu của nhà nước là
nội sinh với chu kỳ giá tài sản, ổn định tự động không gắn với chu kỳ kinh doanh. Ví
dụ, trong trường hợp các quốc gia chủ yếu dựa vào thu nhập từ dầu mỏ, sự bùng nổ
giá dầu quốc tế khi nền kinh tế trong nước đang chậm lại có thể bóp méo ảnh hưởng
của công cụ ổn định tự động.


15

Cuối cùng, khi thiết kế các quy tắc thuế và chi tiêu cho mục đích ổn định tự động, các
nhà hoạch định chính sách cũng nên xem xét tác động trong tương lai của nợ không
hoàn lại (tức là trợ cấp nghỉ hưu) vì nó có thể gây áp lực đáng kể cho tài chính công.
Auerbach (2012) lập luận rằng "ngay cả khi các chương trình hiện tại có thể được sửa
đổi, phần tăng ngân sách của chính phủ có thể sẽ rơi vào các chương trình quyền lợi
tuổi già, và cả kinh tế lẫn chính trị đều cho thấy điều này sẽ làm giảm tính linh hoạt
trong việc quyết định ngân sách". Chính sách thuế nên tính đến sự phát triển năng
động của nhân khẩu học và di cư để đảm bảo chức năng ổn định tự động sẽ hoạt động
tốt trong dài hạn.

2.2. Các bằng chứng thực nghiệm về tác động của chính sách tài khóa đến
chu kỳ kinh tế và các tranh luận về công cụ tài khóa nào có tác động lớn

hơn đến tổng sản lượng quốc gia: cắt giảm nguồn thu Chính phủ (thuế)
hay gia tăng chi tiêu Chính phủ?
2.2.1. Các bằng chứng thực nghiệm trên thế giới
2.2.1.1. Các bằng chứng thực nghiệm tại các nước phát triển
Các nước phát triển có một lịch sử dài áp dụng các chính sách tài khóa để điều hành
vĩ mô, vì vậy có rất nhiều các nghiên cứu thực nghiệm tập trung nhiều ở các khối
nước OECD, G7 và các nền kinh tế phát triển khác.
Không chỉ dừng lại ở việc xem xét tác động của chính sách tài khóa nói chung đến
chu kỳ kinh tế, các nghiên cứu còn hướng đến tìm kiếm kết quả thực nghiệm về hiệu
quả của các công cụ tài khóa. Cụ thể là công cụ tài khóa nào có tác động lớn hơn đến
tổng sản lượng quốc gia: Cắt giảm nguồn thu Chính phủ (thuế) hay gia tăng chi tiêu
Chính phủ?
Dưới đây là một số nghiên cứu thực nghiệm tiêu biểu trong thời gian gần đây:
Nghiên cứu của Blanchard và Perotti (2002) xem xét ảnh hưởng của những cú sốc
trong chi tiêu của chính phủ và thuế trên dữ liệu của Mỹ trong thời kỳ hậu chiến, từ
quý I/1960 đến quý IV/1997. Bằng cách sử dụng đồng thời mô hình SVAR và nghiên


16

cứu sự kiện, kết quả cho thấy những cú sốc tăng chi tiêu của chính phủ có ảnh hưởng
tích cực đến sản lượng và các cú sốc tăng thuế có ảnh hưởng tiêu cực lên sản lượng.
Trong hầu hết các trường hợp, số nhân tài khóa là nhỏ, xấp xỉ 1. Nghiên cứu cũng
nhận thấy rằng việc tăng thêm thuế và chi tiêu chính phủ có tác động tiêu cực mạnh
mẽ lên đầu tư tư nhân. Các số nhân tài khóa cho những cú sốc chi tiêu và thuế thường
là nhỏ, cụ thể trong một quý, độ lớn số nhân chi tiêu là 0.8, trong khi đó độ lớn số
nhân thuế là 0.7. Khi xét về ảnh hưởng của thuế và chi tiêu vào các thành phần của
GDP, một trong những kết quả nổi bật là cả hai cú sốc tăng thuế và tăng chi tiêu của
Chính phủ có tác động tiêu cực mạnh mẽ đến chi tiêu đầu tư.
Caldara và Kamps (2008) đã sử dụng mô hình VAR dựa trên phân tích so sánh, sử

dụng bốn phương pháp tiếp cận khác nhau: đệ quy, Blanchard-Perotti, áp đặt ràng
buộc dấu và nghiên cứu sự kiện. Bài nghiên cứu đưa ra những bằng chứng cho nền
kinh tế Mỹ trong giai đoạn 1955 – 2006 và kết luận rằng các cú sốc chi tiêu chính
phủ mang lại kết quả rất giống nhau cả về chất và lượng, cụ thể là GDP thực, tiêu
dùng cá nhân thực và tiền lương thực tăng lên đáng kể. Ngược lại, các cú sốc về thu
Chính phủ mà cụ thể là thu thuế lại cho kết quả không thống nhất tại mỗi cách tiếp
cận khác nhau.
Spilimbergo và các cộng sự (2009), nhóm tác giả này đã xác định rằng các số nhân
tài khóa là tỷ số của một sự thay đổi về sản lượng quốc gia bởi một thay đổi ngoại
sinh trong thâm hụt ngân sách, chẳng hạn như chi tiêu Chính phủ, thuế, tiêu dùng tư
nhân, đầu tư tư nhân và xuất nhập khẩu ròng. Số nhân tài khóa có thể âm hoặc dương
phụ thuộc vào lòng tin của người tiêu dùng và các nhà đầu tư. Đồng thời, độ lớn của
số nhân tài khóa còn phụ thuộc vào hoàn cảnh cụ thể của từng quốc gia và từng thời
điểm cụ thể. Nhóm tác giả đã đưa ra những quy tắc ngón tay cái (Rule of Thumb) cho
chi tiêu của Chính phủ: một số nhân trong khoảng 1-1.5 ở các nước lớn, 0.5-1 ở các
nước có quy mô trung bình và 0.5 hoặc nhỏ hơn ở các nền kinh tế nhỏ mở. Cùng một
quy tắc của ngón tay cái mặc nhiên công nhận số nhân tài khóa cho việc cắt giảm


17

thuế và các khoản thanh toán chuyển giao và nhân rộng hơn một chút đối với đầu tư
của chính phủ chỉ bằng khoảng một nửa các giá trị trên.
Romer và Bernstein (2009) lại không ủng hộ quan điểm sử dụng quy tắc ngón tay cái
để xác định các số nhân tài khóa. Họ phân tích rằng việc sử dụng quy tắc ngón tay
cái và kiểu số nhân Keynes từ các mô hình kinh tế đã được ước tính sử dụng dữ liệu
lịch sử để dự báo sản lượng và việc ảnh hưởng của các cú sốc trong môi trường hiện
tại, trong khi môi trường hiện tại lại khác xa với những môi trường mà từ đó những
dữ liệu đã được tạo ra. Hai tác giả đã sử dụng hai mô hình kinh tế vĩ mô - một từ các
nhân viên của Cục dự trữ liên bang và một từ một công ty dự báo tin giấu tên. Trung

bình hóa các tác động thu được từ hai mô hình này, họ ước tính rằng việc tăng chi
tiêu chính phủ Mỹ vĩnh viễn bởi một số tiền bằng 1% GDP sẽ gây ra sự gia tăng GDP
1.57% so với 0.99% đối với việc cắt giảm thuế.
Không giống với những gì mà các nhà nghiên cứu trên thực hiện, nhóm tác giả
Baldacci và những cộng sự (2009) đã có một hướng đi khác. Nhóm tác giả này không
cố gắng tính toán các số nhân tài chính mà họ sử dụng các cú sốc tài chính trong việc
làm giảm độ dài của cuộc khủng hoảng tại hệ thống ngân hàng. Bài nghiên cứu này
tập trung nghiên cứu sự ảnh hưởng của các phản ứng chính sách tài khóa cuộc khủng
hoảng ngân hàng có hệ thống tại thị trường các nước tiên tiến và mới nổi trong thời
gian 1980-2008. Và các tác giả đã phát hiện ra rằng các biện pháp tài khóa phản chu
kỳ kịp thời góp phần rút ngắn chiều dài của đoạn khủng hoảng bằng cách kích thích
lên tổng cầu. Mở rộng tài khóa mà dựa chủ yếu vào các biện pháp hỗ trợ cho chi tiêu
của Chính phủ có hiệu quả hơn trong việc rút ngắn thời gian khủng hoảng hơn so với
việc dựa trên đầu tư công hay cắt giảm thuế thu nhập. Nhưng những kết quả này
không áp dụng cho các quốc gia có không gian tài chính hạn chế, nơi sự mở rộng tài
chính bị giới hạn bởi những hạn chế tài chính. Thành phần của chính sách tài khóa
nghịch chu kỳ cũng tác động đến vấn đề khôi phục sản lượng sau cuộc khủng hoảng,
với đầu tư công có ảnh hưởng mạnh nhất đến tăng trưởng. Những kết quả này cho
thấy một sự cân bằng giữa hỗ trợ tổng cầu trong ngắn hạn và các mục tiêu tăng trưởng


×