Tải bản đầy đủ (.pdf) (82 trang)

Tác động của bộ ba bất khả thi lên sự bất ổn định trong thâm hụt ngân sách

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 82 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LÊ THÔNG TIẾN

TÁC ĐỘNG CỦA BỘ BA BẤT KHẢ THI
LÊN SỰ BẤT ỔN ĐỊNH TRONG
THÂM HỤT NGÂN SÁCH

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Thành phố Hồ Chí Minh năm 2017


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LÊ THÔNG TIẾN

TÁC ĐỘNG CỦA BỘ BA BẤT KHẢ THI
LÊN SỰ BẤT ỔN ĐỊNH TRONG
THÂM HỤT NGÂN SÁCH
Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. Nguyễn Kim Quyến

Tp. Hồ Chí Minh năm 2017



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi và được sự
hướng dẫn của Ts.Nguyễn Kim Quyến.Các nội dung nghiên cứu, kết quả trong đề
tài này là trung thực và chưa công bố dưới bất kỳ hình thức nào trước đây.
Những số liệu phục vụ cho việc phân tích, định lượng và nhận xét được
chính tôi thu thập từ những nguồn khác nhau và có trích dẫn cụ thể.
Luận văn cũng có sử dụng một số đánh giá, nhận xét của các tác giả khác
đều có trích dẫn và chú thích nguồn gốc.
Nếu có bất kỳ sự gian lận nào, tôi xin hoàn toàn chịu trách nhiệm về luận văn
của mình.
Thành phố Hồ Chí Minh, Ngày 13 tháng 10 năm 2017


MỤC LỤC
TRANG PHỤ BÌA
LỜI CAM ĐOAN
MỤC LỤC
Mục lục hình và bảng
Danh mục từ viết tắt tiếng Anh
PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do lựa chọn đề tài:
Mục tiêu nghiên cứu:
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Phương pháp nghiên cứu:
Kết cấu đề tài:
PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1.

CÁC KHÁI NIỆM VÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT. ............................... 1


1.1.

Các khái niệm về thâm hụt ngân sách. ................................................... 1

1.2.

Lý thuyết về bộ ba bất khả thi. ............................................................... 2

1.2.1

Lý thuyết nền................................................................................... 2

1.2.2

Mô hình giải thích lý thuyết ............................................................ 6

CHƯƠNG 2.

TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY ...................... 8

2.1.

Xu hướng nghiên cứu về thâm hụt ngân sách. ....................................... 8

2.2.

Tổng quan các nghiên cứu trước đây ..................................................... 9

CHƯƠNG 3.


MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ ẢNH HƯỞNG CỦA CÁC NHÂN

TỐ TRONG MÔ HÌNH ............................................................................................ 13
3.1.

Giới thiệu về mô hình GMM trong dữ liệu bảng động. ....................... 13

3.1.1

Tại sao mô hình GMM được ứng dụng rộng rãi ........................... 13


3.1.2

Mô hình nghiên cứu thực nghiệm ..................................................14

3.1.3

Phương pháp đo lường ba chỉ tiêu trong bộ ba bất khả thi. ...........21

3.1.4

Các kiểm định ................................................................................23

3.1.5

Quy trình thực hiện ........................................................................24

3.2.


Kỳ vọng về dấu của các nhân tố đối với sự bất ổn định trong thâm hụt

ngân sách .........................................................................................................24
3.2.1

Các biến số chính sách. ..................................................................25

3.2.2

Các biến số thể chế, chính trị .........................................................26

3.2.3

Các biến số kinh tế. ........................................................................26

3.3.

Dữ liệu nghiên cứu................................................................................28

3.4.

Thống kê mô tả các biến trong mô hình ...............................................28

CHƯƠNG 4.

KẾT QUẢ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ PHÂN TÍCH CHÍNH

SÁCH.


........................................................................................................ 32

4.1.

Kết quả mô hình nghiên cứu trong ngắn hạn (3 năm) ..........................32

4.1.1

Kết quả hồi quy với chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá trong

ngắn hạn (3 năm). ........................................................................................32
4.1.2

Kết quả hồi quy với chính sách hội nhập tài chính và chính sách tỷ

giá trong ngắn hạn (3 năm). .........................................................................36
4.1.3

Kết quả hồi quy với chính sách hội nhập tài chính và chính sách

tiền tệ trong ngắn hạn (3 năm) .....................................................................40
4.2.

Kết quả nghiên cứu trong trung hạn (5 năm) ........................................44

4.2.1

Kết quả hồi quy với chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá trong

trung hạn (5 năm) ........................................................................................44

4.2.2

Kết quả hồi quy chính sách hội nhập tài chính và chính sách tỷ giá

trong trung hạn (5 năm) ...............................................................................48


4.2.3

Kết quả hồi quy với chính sách hội nhập tài chính và chính sách

tiền tệ trong trung hạn (5 năm) ................................................................... 52
4.3.

Tổng kết lại kết quả ước lượng ............................................................ 56

4.3.1

Tác động trong ngắn hạn (3 năm) ................................................. 57

4.3.2

Tác động trong trung hạn (5 năm)................................................. 58

4.4.

Phân tích chính sách............................................................................. 59

4.5.


Hạn chế của dữ liệu và mô hình phân tích. .......................................... 60

PHẦN KẾT LUẬN .................................................................................................. 61
Tài liệu tham khảo
Phụ lục


Mục lục hình và bảng
Hình 1.1: Đồ thị lý thuyết về bộ ba bất khả thi ...........................................................3
Bảng 3.1: Tổng hợp các biến trong mô hình và nguồn dữ liệu thu nhập ..................16
Bảng 3.3: Thống kê mô tả các biến số trong thời kỳ 3 năm .....................................28
Bảng 3.4: Thống kê mô tả các biến trong thời kỳ 5 năm .........................................29
Bảng 3.5: Biểu đồ tương quan giữa các biến thể chế trong thời kỳ 3 năm ...............30
Bảng 3.6: Biểu đồ tương quan giữa các biến thể chế trong thời kỳ 5 năm ...............31
Bảng 4.1: Kết quả hồi quy với lựa chọn chính sách tiền tệ và chính sách tỷ giá......32
(3 năm) - không xét thêm sự tham gia của dự trữ ngoại hối .....................................32
Bảng 4.2: Kết quả hồi quy với lựa chọn chính sách tiền tệ và ..................................33
chính sách tỷ giá (3 năm) - xét thêm sự tham gia của dự trữ ngoại hối ....................33
Bảng 4.3: Kết quả hồi quy với lựa chọn chính sách hội nhập và ..............................36
chính sách tỷ giá (3 năm) - không xét sự tham gia của dự trữ ngoại hối ..................36
Bảng 4.4: Kết quả hồi quy với lựa chọn chính sách hội nhập và ..............................37
chính sách tỷ giá (3 năm) - xét thêm sự tham gia của dự trữ ngoại hối ....................37
Bảng 4.5: Kết quả hồi quy với chính sách hội nhập tài chính và chính sách tiền tệ
độc lập trong ngắn hạn (3 năm) - không xét sự tham gia của dự trữ ngoại hối ........40
Bảng 4.6: Kết quả hồi quy với chính sách hội nhập và chính sách tiền tệ trong gnắn
hạn (3 năm) - xét thêm sự tham gia của dự trữ ngoại hối .........................................41
Bảng 4.7: Kết quả hôi quy với chính sách tiền tệ và chính sách ngoại hối trong trung
hạn (5 năm) - không xét đến dự trữ ngoại hối...........................................................44
Bảng 4.8: Kết quả hồi quy với chính sách tiền tệ và chính sách ..............................45
tỷ giá trong trung hạn (5 năm) - có xét sự tham gia của dự trữ ngoại hối ................45

Bảng 4.9: Kết quả hồi quy với chính sách hội nhập tài chính và chính sách tỷ giá
trong trung hạn (5 năm) - không xét đến dự trữ ngoại hối. .......................................48


Bảng 4.10: Kết quả hồi quy với chính sách hội nhập tài chính và chính sách tỷ giá
trong trung hạn (5 năm) - không xét sự tham gia của dự trữ ngoại hối ................... 49
Bảng 4.11 Kết quả hồi quy với chính sách hội nhập tài chính và chính sách tìên tệ
trong trung hạn (5 năm) - không xét đến dự trữ ngoại hối ....................................... 52
Bảng 4.12: Kết quả hồi quy với chính sách hội nhập tài chính và chính sách tìên tệ
trong trung hạn (5 năm) - Có xét sự tham gia của dự trữ ngoại hối ......................... 53
Bảng 4.13: Chiều ảnh hưởng lên sự bất ổn định trong thâm hụt ngân sách ............ 56
đối với mô hình (3.7). ............................................................................................... 56


Danh mục từ viết tắt tiếng Anh
ASEAN

Association of South East AsianNations

ERS

Exchange Rate Stability

EU

European Union

FOI

Financial Openness/ Integration


GTNN

Giá trị nhỏ nhất

GTLN

Giá trị lớn nhất

GMM

General Method of Moment

IFS

International Financial Statistics

IMF

International Monetary Fund

MI

Monetary Independence

OLS

Ordinary Least Square

WO


World Bank

WEO

World Economic Outlook


PHẦN MỞ ĐẦU
Lý do lựa chọn đề tài:
Từ sau cuộc khủng hoảng tài chính năm 2009, bắt đầu từ sự sụp đổ của Ngân
hàng Đầu tư Lehman Brother, Chính phủ các nước không ngừng thực hiện các giải
pháp quyết liệt nhằm chống lại sự sụt giảm và mất ổn định nghiêm trọng của nền
kinh tế vĩ mô trong nước. Vai trò của các chính sách tài khoá mở rộng, bao gồm các
gói kích cầu, chính sách giảm tỷ lệ thu thuế và tăng trưởng chi tiêu công được quan
tâm nhiều hơn. Cũng chính vì vậy, sự tăng cao và bất ổn định của tỷ lệ bội chi ngân
sách trong giai đoạn này đặt ra nhiều mối quan tâm cho những nhà nghiên cứu và
phân tích chính sách. Nhu cầu nghiên cứu được đặt ra ngày nay là liệu rằng các yếu
tố nào sẽ đe dọa đến sự ổn định của các chỉ số cân bằng tài khoá, bao gồm các
nguyên nhân chính trị, kinh tế trong nước hay là hệ quả của các chính sách vĩ mô
trong bộ ba bất khả thi.
Attiya Y. Javid, Umaima Arif, và Asma Arif (2011) đã tổng hợp kết quả
nghiên cứu của nhóm tác giả trong công trình "Economic, Political and Institutional
Determinants of Budget Deficits Volatility in Selected Asian Countries".Theo đó,
sự bất ổn định trong thâm hụt ngân sách là một trong những thách thức lớn của cả
các quốc gia phát triển và đang phát triển vì những nguyên nhân sau đây. Thứ nhất,
sự biến động thâm hụt cao, gây nhiều khó khăn trong việc dự báo thời gian và
cường độ tác động của các chính sách tài khoá và do đó làm giảm đáng kể hiểu quả
của các quyết định kinh tế. Thứ hai, sự bất ổn định cao trong thâm hụt tài khoá hàm
ý một sự mất kiểm soát trong đo lường hiệu quả chi tiêu công, gây tác hại đến các

chế độ phúc lợi xã hội, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của thế hệ tương lai,
chất lượng của các dịch vụ Chính phủ như là: sức khoẻ và giáo dục có thể giảm
xuống đáng kể so với kế hoạch đã cam kết [Alesina và Perotti (1996); Alesina và
Rodrik (1994); Persson và Tabellini (1994)]. Thứ ba, sự bất ổn định trong cân đối
ngân sách nhà nước có thể gây ra hiện tượng chuyển dịch đầu tư sang các dự án
ngắn hạn hơn và do đó gây lãng phí vốn con người nhiều hơn. Cuối cùng, sự bất ổn
này có thể dẫn đến sự bất ổn trong lãi suất, tạo thêm áp lực cạnh tranh vốn cho đầu
tư tư nhân, gia tăng cả rủi ro và chi phí vốn cho nền kinh tế ở cả khu vực công và
khu vực tư. Các tác giả cũng khẳng định rằng những mô hình nghiên cứu về sự bất


ổn định trong cân đối ngân sách là một vấn đề tương đối mới và khá hiếm, bởi lẽ
những nghiên cứu trước đây tập trung nhiều hơn vào mức độ thâm hụt hay bội chi
ngân sách. Trong khi đó, công trình nghiên cứu "Determinants of fiscal budget
volatility in old versus new EU member states" của Eugenia-Ramona Mara (2012)
đề cao mục đích thú vị của việc nghiên cứu chủ đề về sự bất ổn định là nhằm đề ra
những chiến lược chấm dứt tình trạng thâm hụt tài khoá, lấy lại sự ổn định tài khóa
trong quản trị tài chính khu vực công.
Mặt khác, nghiên cứu chính của Attiya Y. Javid, Umaima Arif, và Asma Arif
(2011) chủ yếu ở các nước ASEAN và các nước Nam Á vào thời kỳ từ năm 1984
đến năm 2010, với đặc trưng về thâm hụt ngân sách lớn và không ổn định thường
xuyên. Nghiên cứu này có kiểm tra ảnh hưởng của các nhân tố chính trị, kinh tế và
thể chế để giải thích cho sự bất ổn định trong thâm hụt ngân sách nhà nước, đồng
thời có ghi nhận độ trễ của sự bất ổn định này như là một nhân tố đại diện cho sự trì
trệ trong thay đổi của chính nó. Kết quả của nghiên cứu nhấn mạnh nguyên nhân
gây ra sự bất ổn trong ngân sách nhà nước xuất phát từ sự hội nhập sâu rộng và lạm
phát cao; vai trò của các biến thể chế chính trị: dân chủ, tham nhũng, và pháp chế có
những mâu thuẫn nhất định. Trong khi đó, trong nghiên cứu "The Determinants of
Public Deficit Volatility", Luca Agnello và Ricardo M. Sousa (2009) sử dụng mô
hình system-GMM trên mẫu của 125 quốc gia phân tích ở thời kỳ từ 1980 đến 2006,

các tác giả cung cấp thêm bằng chứng về mối tương quan cùng chiều giữa sự bất ổn
trong thâm hụt ngân sách caovới mức bất ổn chính trị và nền dân chủ kém. Hơn
nữa, sự bất ổn này có xu hướng phóng đại ở các quốc gia nhỏ, do hệ quả từ những
thời kỳ lạm phát cao, và ở các quốc gia có mức độ hội nhập lớn. Tuy nhiên, Eugenia
và Ramona Mara (2012) cho rằng các nhân tố về thể chế và chính trị ít vai trò hơn
so với các nhân tố kinh tế trong việc giải thích sự bất ổn định của ngân sách nhà
nước. Tăng trưởng quốc gia, lạm phát, thất nghiệp và tăng trưởng số thuế thu được
mới là các nhân tố đáng quan tâm, mặc dù tăng trưởng quốc gia, lạm phát lại có hệ
số tương quan âm. Những tranh luận của các tác giả cũng là nguyên nhân mà chủ đề
về sự bất ổn định trong cân đối ngân sách tài khoá được phân tích sâu rộng hơn ở
luận văn này nhằm cung cấp thêm bằng chứng thực nghiệm về mối quan hệ này với
các biến số kinh tế và thể chế chính trị.


Thú vị là, trong bài nghiên cứu "Surfing the waves of globalization: Asia and
financial globalization in the context of the trilemma" của Joshua Aizenman,
Menzie D. Chinn và Hiro Ito (2011), các tác giả cho rằng những chỉ số của bộ ba
bất khả thi (Trilemma Indexes) có thể giải thích tốt cho sự bất ổn của nền kinh tế vĩ
mô, bao gồm sự bất ổn trong tăng trưởng sản lượng, tăng trưởng đầu tư, tỷ giá, và
lạm phát ở các quốc gia Châu Á. Về sau, Iulian Ihnatov và Bogdan Căpraru (2014)
đã soạn thảo một công trình tên là "The trilemma policies and macroeconomic
volatility in Central and Eastern Europe", mở rộng khái niệm độ bất ổn của nền kinh
tế vĩ mô, bổ sung thêm mối quan tâm về độ bất ổn lãi suất thực, lạm phát và thâm
hụt ngân sách nhà nước. Kết quả cho thấy rằng, ở các quốc gia Châu Á, chính sách
tiền tệ càng độc lập thì ảnh hưởng càng tích cực lên việc suy giảm sự bất ổn định
của tăng trưởng nhưng làm cho lạm phát cao hơn, trong khi chính sách ổn định tỷ
giá thì lại có tác động ngược lại. Khuyến nghị của Joshua Aizenman, Menzie D.
Chinn và Hiro Ito (2011) cho rằng trong một nền kinh tế mở, chính sách tỷ giá cố
định nên được khuyến khính nhiều hơn, đồng thời cần quản lý an toàn các khoản dự
trữ ngoại hối trên mức cần thiết. Ở các quốc gia Trung và Đông Âu, các tác giả cho

rằng cơ chế tỷ giá và theo đuổi chính sách tiền tệ độc lập không thực sự ảnh hưởng
đến sự bất ổn của nền kinh tế vĩ mô, mà chính sách tự do hoá dòng vốn đóng góp
nhiều hơn cho việc giải thích sự sụt giảm những bất ổn này. Mặc dù, kết quả của
Iulian Ihnatov và Bogdan Căpraru (2014) vẫn chưa cung cấp được bằng chứng về
tác động của các chỉ số trong bộ ba bất khả thi tác động như thế nào đến sự bất ổn
của thâm hụt ngân sách nhà nước, tuy nhiên chiều hướng tác động ngược chiều vẫn
được ghi nhận đối với chỉ số tự do hoá dòng vốn. Dựa trên ý tưởng của hai công
trình nghiên cứu, luận văn này phát triển thêm ý tưởng nghiên cứu về sự bất ổn của
các yếu tố vĩ mô, tập trung nghiên cứu sự bất ổn định của thâm hụt ngân sách nhà
nước, mở rộng với mối tương quan với các chỉ số trong bộ ba bất khả thi.
Tóm lại, dựa trên tổng quan tình hình nghiên cứu,luận văn thực hiện đề tài
nghiên cứu "Tác động của Bộ ba Bất khả thi lên sự bất ổn định trong thâm hụt ngân
sách" vì những lý do sau đây:


Thứ nhất, sự bất ổn định của thâm hụt ngân sáchkhông ngừng tăng cao trong
những năm gần đây, cản trở việc dự báo thời gian và cường độ tác động của các
chính sách tài khoá và do đó làm giảm đáng kể hiểu quả của các quyết định kinh tế.
Thứ hai, những mô hình nghiên cứu về sự bất ổn định trong cân đối ngân
sách là một vấn đề tương đối mới và khá hiếm, bởi lẽ những nghiên cứu trước đây
tập trung nhiều hơn vào mức độ thâm hụt hay bội chi ngân sách.
Cuối cùng, các chỉ số trong bộ ba bất khả thi tác động như thế nào đến sự bất
ổn của thâm hụt ngân sách nhà nướcbắt đầu được quan tâm, nhưng chưa có nhiều
bằng chứng được cung cấp.
Mục tiêu nghiên cứu:
Bài nghiên cứu được thực hiện nhằm mục tiêu kiểm tra vai trò của các chỉ số
chính sách trong bộ ba bất khả thi đối với sự biến động trong độ bất ổn của thâm
hụtngân sách Nhà nước, qua đó cung cấp thêm những bằng chứng mang tính thống
kê về ý nghĩa của các nhân tố này lên sự bất ổn trong thâm hụt ngân sách.
Để đạt được mục tiêu nghiên cứu trên, bài nghiên cứu tập trung trả lời cho

hai câu hỏi nghiên cứu sau đây:
- Chính sách tiền tệ độc lập, chính sách tự do hoá tài chính hay chính sách ổn
định tỷ giá tác động như thế nàolên sự bất ổn định trong thâm hụt ngân sách nhà
nước trong ngắn hạn và trung hạn?
- Vai trò của dự trữ ngoại hối đối với những tác động trên là gì?
Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là mối quan hệ giữa các yếu tố kinh tế vĩ
mô, thể chế chính trị, và các chỉ số chính sách trong bộ ba bất khả thi với sự bất ổn
trong cân đối ngân sách nhà nước trong thời kỳ từ năm 2000 đến năm 2015, bao
gồm 52 quốc gia tham gia vào mẫu quan sát.
Đối với phạm vi nghiên cứu, bài nghiên cứu giới hạn trong phạm vi những lý
thuyết khởi xướng về bộ ba bất khả thi mà Mundell – Fleming đã đóng gópvào nội
dung mở rộng trong mô hình IS – LM của trường phái Keynes tân cổ điển vào
những năm 1960.Qua đó, xem xét tác động của các chỉ tiêu đo lường ba chỉ số trong


bộ ba bất khả thi, được xây dựng bởi Aizenman và cộng sự (2008), lên sự bất ổn
định của thâm hụt ngân sách. Trong đó, thâm hụt ngân sách nhà nước được đo
lường bởi tỷ lệ thâm hụt ngân sách trên GDP. Sự bất ổn định trong cân đối ngân
sách được đo lường bởi độ lệch chuẩn trung bình trượt 3 năm và 5 năm.
Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn áp dụng phương pháp phân tích định lượng để có thể xem xét một
cách toàn diện và sâu sắc các mối quan hệ trong mô hình phân tích và tìm ra nguyên
nhân giải thích cho những kết quả nghiên cứu đạt được.
Trên cơ sở tổng quan những mô hình nghiên cứu trước đây, mô tả những
phương pháp đo lường sự bất ổn, các biến số kinh tế, thể chế chính trị và các biến
chính sách trong bộ ba bất khả thi, luận văn ước lượng các nhân tố tác động đến sự
bất ổn định trong thâm hụt ngân sách nhà nước bằng mô hình Difference - GMM,
phát triển từ nghiên cứu của Arellano and Bover (1995), trong phân tích các chuỗi
dữ liệu dạng bảng động (Dynamic Panel Data), để giải quyết vấn đề nội sinh trong

mô hình nghiên cứu bằng các điều kiện mô men thêm vào và có quan tâm đến độ trễ
của biến phụ thuộc đóng vai trò làm biến giải thích trong môhình.
Kết cấu đề tài:
Luận văn được thực hiện gồm bốn chương với nội dung các chương như sau:
 Chương 1: Giới thiệu các khái niệm và cơ sở lý thuyết
 Chương 2: Tổng quan các nghiên cứu trước đây
 Chương 3: Mô hình nghiên cứu và phương pháp đo lường các biến
 Chương 4: Kết quả mô hình nghiên cứu và hàm ý chính sách


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1.
1.1.

CÁC KHÁI NIỆMVÀ CƠ SỞ LÝ THUYẾT.

Các khái niệm về thâm hụt ngân sách.

Thuật ngữ thâm hụt ngân sách (budget deficit) hay còn gọi là cân bằng ngân
sách (budget balance) được nhắc đến rất nhiều trong các tạp chí nghiên cứu và
những tài liệu liên quan đến chính sách của chính phủ – thường đi kèm với những
cảnh báo rất không mong đợi.
Để biện hộ cho vấn đề thâm hụt ngân sách cao, Eisner (1989) cho rằng đa
phần báo cáo của những nhà cầm quyền đều đổ lỗi cho rất nhiều căn bệnh của kinh
tế, như là lạm phát cao và đầu tư tư nhân chưa được khuyến khích. Bằng chứng cụ
thể của việc chịu trách nhiệm về thâm hụt ngân sách ít khi được cung cấp và cũng ít
được tập trung đo lường và đánh giá thâm hụt ngân sách một cách khách quan
(Jacobs, 2000). Rõ ràng, có rất nhiều lý thuyết và thực tiễn liên quan đến việc đo
lường thâm hụt ngân sách ở các quốc gia, nó là một vấn đề khá phức tạp.
Thâm hụt ngân sách thông thường có thể được đo lường dựa trên cơ sở tiền

mặt hoặc cơ sở tích lũy các khoản thanh toán. Đối với trường hợp đầu tiên, thâm hụt
ngân sách được đo lường bằng sự chênh lệch giữa tổng dòng tiền chi tiêu và số thu
tài khóa. Đối với trường hợp thứ hai,thâm hụt ngân sách phản ánh theo dòng thu
nhập và chi tiêu tích lũy, kể cả dòng thành toán bằng tiền mặt và không mặt tiền
mặt. Cơ sở tích luỹ được cho là phản ánh tốt hơn sự thâm hụt so với cơ sở tiền mặt
do có thêm vào những khoản nợ phải trả và doanh thu ròng không phải bằng tiền
mặt (Agénor và Montiel, 1999).
Chính phủ các nước tự do định nghĩa cách đo lường thâm hụt ngân sách, hay
còn gọi là thâm hụt ngân sáchtheo tập quán của mỗi nước (conventional budget
balance). Nhưng nhìn chung, các khái niệm dù được đưa ra bởi nhiều quốc gia đều
đồng ý rằng thâm hụt ngân sách đo lường trong một năm tài khóa.
Theo như các tài liệu nghiên cứu và thực tiễn, World Bank và IMF cũng ghi
nhận rất nhiều cách khác nhau để đo lường thâm hụt ngân sách mà đang được sử
dụng. Ngân hàng Thế giới(World Bank, 1989)định nghĩa thâm hụt ngân sách nên

1


được hiểu làsự khác biệt giữa các khoản chi tiêu như là tiền lương, tiền công, chi
tiêu cho hàng hóa và dịch vụ, có bao gồm cả chi tiêu vốn, trả lãi nợ công, chuyển
nhượng và trợ cấp;và hạng mụcsố thu bao gồmthuế, phí, lệ phí, các khoản tài trợ,
lợi nhuận của công ty công phi tài chính và bán tài sản(Blejer và Cheasty,
1990).Quỹ tiền tệ quốc tế(IMF, 1986)phát hành ấn bảnnăm 1986 lên trang thống kê
tài chính các quốc gia(Government Finance Statistics)và thâm hụt ngân sách được
cho rằng nên hiểu theo công thức thâm hụt tài khóa:
Thâm hụt Tài khóa = (Chi tiêu hàng hóa và dịch vụ + các khoản chuyển
nhượng) + (Cho vay – Hoàn trả) - (Số thu + Trợ cấp).
1.2.

Lý thuyết về bộ ba bất khả thi.


1.2.1 Lý thuyết nền.
Lý thuyết về bộ ba bất khả thi là kết quả nghiên cứu của hai học giả Robert
Mundell (1962, 1963) và J.M.Fleming (1962). Lý thuyết này rút ra từ hàm ý của mô
hình nghiên cứu Mundell-Fleming và đưa tên tuổi của Robert Mundell (1960) vào
danh sách những nhà kinh tế học xuất sắc nhất trên thế giới đạt được giải Nobel
Kinh tế. Theo lý thuyết bộ ba bất khả thi, một quốc gia không thể đồng thời đạt
được cả ba mục tiêu: chính sách tiền tệ độc lập, tỷ giá cố định và tự do hoá dòng
vốn (hay còn gọi là hội nhập tài chính hoàn toàn).
Trong những thâp kỷ gần đây, cấu hình bộ ba bất khả thi vẫn liên tục được
tổng quan và thảo luận, phần lớn các vấn đề xoay quanh các nghiên cứu thực
nghiệm nhằm giải thích về sự phát triển của mô hình và những khó khăn về chính
sách mà các quốc gia đang đối mặt trong tiến trình toàn cầu hóa.
Những chính sách gia phải đối mặt với sự đánh đổi, gia tăng một biến số
trong bộ ba bất khả thi, sẽ giảm trọng số bình quân của một trong hai hoặc cả hai
biến số còn lại.
Hình 1.1 bên dưới mô tả tóm tắt lý thuyết về bộ ba bất khả thi.Giả thuyết của
bộ ba bất khả thi cho rằng một quốc gia chỉ có thể thực hiện đồng thời hai trong ba
mục tiêu chính sách tiền tệ độc lập, ổn định tỷ giá hối đoái và hội nhập tài

2


chính.Mỗi cạnh của tam giác đại diện cho mỗi mục tiêu tiềm năng được mong đợi,
tuy nhiên chúng không thể đạt được đồng thời.
Lịch sử đã cho thấy rằng, mỗi hệ thống tài chính khác nhau sẽ nỗ lực để đạt
được kết hợp hai trong ba chính sách mục tiêu, như là chế độ bản vị Vàng (Good
Hình 1.1:Đồ thị lý thuyết về bộ ba bất khả thi

Stardard System) - đảm bảo vốn luân chuyển tự do và ổn định tỷ giá hối đoái. Hệ

thống Bretton Woods đặc trưng cho chính sách tự chủ tiền tệ và ổn định tỷ giá. Khi
nền kinh tế thay đổi, các kết hợp này sẽ phản ứng lại với khủng hoảng và những sự
kiện kinh tế chính yếu hàm ý sau mỗi chính sách được lựa chọn, thậm chí mang lại
ảnh hưởng tích cực hay tiêu cực.
Nguồn: Joshua Aizenman, Menzie D. Chinn và Hiro Ito (2011)
Phân tích sâu hơn vào đồ thị, ta khái quát được lý thuyết của bộ ba bất khả
thi như sau:
Trên đỉnh cao nhất, ký hiệu với tên là điểm thị trường tài chính đóng (closed
financial markets), hàm ý một chính sách tự chủ tài chính, chính sách tiền tệ độc lập
và cơ chế tỷ giá cố định; lựa chọn này được hầu hết các quốc gia đang phát triển ưa
chuộng ở giữa cuối những năm 1980s.

3


Ở đỉnh trái, hay được ký hiệu là cơ chế tỷ giá thả nổi (floating exchange rate
regime), đạt được sự độc lập tiền tệ, và hội nhập tài chính cao nhất. Lựa chọn này
được biết đến nhiều nhất ở Mỹ và kéo dài cả ba thập kỷ.
Ở đỉnh phải, được ký hiệu là từ bỏ sự độc lập tiền tệ (giving up monetary
independence), liên quan đến cơ chế ổn định tỷ giá tốt (a pegged exchange rate
regime), và mức độ hội nhập tài chính cao – lựa chọn này nổi tiếng ở dạng mô hình
các quốc gia Châu Âu trong khối EU với đồng tiền chung.
Những nỗ lực không ngừng nghỉ của Mundell vào những năm 1960s đã đặt
tiền đề đầu tiên cho bộ ba bất khả thi, trong nội dung mở rộng về nền kinh tế mở
của mô hình IS - LM của trường phái Keynes Tân cổ điển (Neo-Keynesian).
Mô hình xem xét một quốc gia nhỏ lựa chọn cơ chế tỷ giá của nó và hội nhập
tài chính với thị trường tài chính thế giới.
Để hình dung một cơ chế đánh đổi, trước hết xem xét một hệ thống tỷ giá hối
đoái cố định với vốn luân chuyển tự do, thiết lập này thì tương ứng với vế phải của
tam giác trong bộ ba bất khả thi. Theo đó, trái phiếu chính phủ giữa các quốc gia có

thể thay thế hoàn hảo cho nhau, trong điều kiện ngang giá lãi suất không phòng
ngừa (Uncovered Interest Rate Parity), dưới chế độ tỷ giá cố định, lãi suất trong
nước sẽ bằng với lãi suất nước ngoài. Nếu ngân hàng Trung ương gia tăng cung
tiền, sẽ gây ra một áp lực giảm lãi suất nội địa, trái phiếu trong nước sẽ được bán ra
và tìm kiếm lợi nhuận cao hơn từ trái phiếu nước ngoài dưới điều kiện vốn luân
chuyển hoàn hảo. Do kết quả của kinh doanh chênh lệch giá (Arbitrage), ngân hàng
trung ương phải đối mặt với việc dư cầu ngoại tệ vì mục đích mua trái phiếu nước
ngoài (nhằm đáp ứng với dư cung của đồng nội tệ). Dưới cơ chế tỷ giá cố định,
ngân hàng Trung ương phải can thiệp vào thị trường ngoại hối để đáp ứng mức cầu
công chúng về ngoại tệ ở mức tỷ giá chính thức. Hệ quả là, ngân hàng trung ương
bán ngoại tệ ra công chúng.Theo tiến trình này, ngân hàng trung ương mua trở lại
lượng dư cung nội tệ mà được khởi xướng bởi chính mình nhằm gia tăng cung tiền.
Hiệu ứng ròng của quá trình này là ngân hàng trung ương sẽ mất đi việc
kiểm soát cung tiền, bởi vì hiệu ứng cố định tỷ giá trong nền kinh tế có vốn luân
chuyển cố định làm mất đi hiệu quả của công cụ tiền tệ điều tiết can thiệp chính
4


sách tiền tệ. Hay nói cách rộng hơn, thiết lập chính sách tỷ giá cố định với vốn luân
chuyển hoàn hảo hàm ý phải từ bỏ đi chính sách tiền tệ độc lập.Hoạt động can thiệp
của thị trường mở chỉ nhằm thay đổi thành phần cân bằng trong giữa tài sản trong
nước và nước ngoài, mà không thực sự ảnh hưởng đến cơ sở tiền hay lãi suất nội
địa. Hơn nữa, để duy trì sự ổn định tỷ giá, đòi hỏi ngân hàng trung ương phải duy trì
một lượng dự trữ ngoại hối đủ lớn, và dù vậy, về lâu dài, áp lực lên khối dự trữ
ngoại hối là không nhỏ.
Lựa chọn cặp chính sách gần bên phải của đồ thị hàm ý rằng trong nền kinh
tế nhỏ, mở, việc xác định mức lãi suất nội địa như là một công cụ của chính sách
tiền tệ thì khó đạt được đối với những quốc gia mà tỷ giá hối đoái được giữ cố định.
Một nền kinh tế mở, nhỏ mà mong muốn duy trì mức độ hội nhập tài chính
mà vẫn giữ được sự độc lập về tiền tệ thì buộc phải từ bỏ cơ chế tỷ giá cố định. Hay

nói cách khác, dưới cơ chế tỷ giá thả nổi, việc mở rộng cung tiền nội địa tạo ra một
sự sụt giảm lãi suất trong nước, hệ quả là dòng vốn sẽ chảy ra ngoài thị trường quốc
tế để tìm kiếm lợi nhuận cao hơn trong điều kiện vốn luân chuyển hoàn hảo.Đến
lượt lãi suất, sự sụt giảm này sẽ kéo theo một sự gia tăng trong đầu tư, làm yếu đi
đồng nội tệ, và thông qua đó thúc đẩy tăng trưởng kinh tế qua cả kênh đầu tư và
xuất khẩu ròng. Lựa chọn này dịch chuyển phương án tư đỉnh phải của đồ thị bộ ba
bất khả thi sang đỉnh trái của tam giác ba đỉnh. Do đó, trong cơ chế tỷ giá thả nổi,
với dòng vốn luân chuyển hoàn hảo, chính sách tiền tệ phát huy tác dụng một cách
mạnh mẽ.
Một giải pháp thay thế khác để một nền kinh tế mở, nhỏ có thể lấy lại sự độc
lập về tiền tệ là từ bỏ hội nhập về tài chính trong khi vẫn giữ được sự ổn định của tỷ
giá. Từ bỏ hội nhập tài chính sẽ ngăn kinh doanh chênh lệch giá (arbitrage) giữa trái
phiếu trong nước và nước ngoài, phá vỡ mối liên kết giữa lãi suất nội địa và lãi suất
nước ngoài. Chính sách tiền tệ lúc này hoạt động tương tự như trong nền kinh tế
đóng, khi đó trong ngắn hạn, Ngân hàng Trung ương kiểm soát cung tiền, và việc
mở rộng tiền tệ sẽ làm giảm lãi suất nội địa, thúc đẩy đầu tư phát triển. Trong
trường hợp này, chính sách tiền tệ độc lập được thay thế bởi chính sách hội nhập tài
chính.

5


Bộ ba bất khả thi đã trở thành một lý thuyết hiển nhiên đối với hầu hết các
nhà kinh tế học về mặt học thuật. Ngày nay, hàm ý chính sách của nó cũng được
chia sẻ rộng rãi đến những nhà thực thi chính sách thực tiễn.
Tuy nhiên trên thực tế, ít nhất là vào những năm gần đây, hầu hết các quốc
gia ít khi đối mặt đến vận đề phải lựa chọn hai trong số ba chính sách. Thay vào đó,
các quốc gia đã chọn hội nhập tài chính và linh hoạt tỷ giá hối đoái. Thâm chí ngay
cả khi, tỷ giá hối đoái được giữ cho ổn định thì đến một mức độ nào đó nó sẽ điều
chỉnh cho phù hợp bởi vì những bài học kinh nghiệm thực tế đã trải qua trước đây

dưới cơ chế tỷ giá hối đoái cố định.
Thông thường, những quốc gia theo đuổi cơ chế tỷ giá hối đoái linh hoạt
ngày nay sẽ tích cực can thiệp vào thị trường ngoại hối, và tạo ra rất nhiều phiên
bản khác nhau của hệ thống thả nổi có quản lý.
Hơn nữa, hầu hết các quốc gia đều hoạt động trong phạm vi hẹp của hội nhập
tài chính một phần, vẫn có những ràng buộc về dòng vốn, các điều khoản chính trị,
rào cản kỹ thuật và thương mại. Mặc dù hội nhập tài chính toàn cầu vẫn đang được
xúc tiến một cách mạnh mẽ, nhưng những cách thức không chính thức mà chính
phủ các nước đang thực hiện vẫn còn rất phức tạp và mang lại nhiều thách thức để
hiểu những cơ chế hỗn hợp này một cách sâu sắc.
Do đó, việc kiểm tra tính ứng dụng của mô hình Trilemma vẫn còn là một
công việc dang dở, bởi vì rất khó để có một giải pháp thống nhất để định nghĩa và
đo lường mức độ ổn định của tỷ giá, tự chủ tiền tệ và hội nhập tài chính.
Tuy nhiên, mặc dù vẫn còn rất nhiều vẫn đề cần giải quyết, ý tưởng về bộ ba
bất khả thi vẫn là một mô hình đầy tiềm năng.
1.2.2 Mô hình giải thích lý thuyết
Mặc dù những nhà nghiên cứu kinh tế về mặt học thuật vẫn cho rằng trong lý
thuyết của bộ ba bất khả thi, sự tăng lên một trong ba chính sách sẽ kéo theo sự sụt
giảm về trọng số của một trong hai hoặc cả hai chính sách còn lại. Tuy nhiên, những
nhà thực thi chính sách vẫn mong rằng có thể đạt được cùng lúc cả ba mục tiêu của

6


bộ ba bất khả thi (MI, ERS and KO) nhiều nhất có thể; khó có thể khả thi để tối đa
hóa đồng thời cả ba chỉ tiêu này.
Hay nói cách khác, nếu xét theo một mô hình tuyến tính, tổng trọng số của
ba chỉ tiêu này sẽ là một hằng số. Aizenman và cộng sự (2010) đã ước lượng một
mô hình hồi quy hằng số (c) theo ba chỉ số chính sách, công thức này trở nên rất
phổ biến và được các nhà nghiên cứu sử dụng rộng rãi:

𝑐 = 𝛽1𝑀𝐼𝑡 + 𝛽2𝐸𝑅𝑆𝑡 + 𝛽3DOI𝑡 + 𝜀𝑡

(1.1)

Theo nhiều tài liệu nghiên cứu cho tới hiện tại, giá trị c thường được thiết lập
bằng 2. Mô hình hồi quy được ước lượng bằng phương pháp bình phương bé nhất
thông thường (OLS) và để bỏ qua sự tự tương quan và phương sai thay đổi trong
hạng nhiễu (𝜀𝑡), phương pháp chuẩn hóa sai số (Robust) của Whitney K.
Newey và Kenneth D. West đưa ra vào năm 1987 được thêm vào.
Nhiều kết quả ban đầu cũng cho thấy mô hình hồi quy ở trên có mức độ phù
hợp cao (high goodness of fit), sự đánh đổi giữa các chính sách có thể được giải
thích tốt bởi mô hình này.
Tuy nhiên, các kết quả dự báo về sau lại không xoay quanh giá trị c mà
thường thấp hơn và có sai số âm, đôi khi lại cao hơn và có sai số dương.Từ đó, ý
tưởng về một mô hình bộ tứ bất khả thi (The quadrilemma configuration) được đề
xuất thêm vào bởi Aizenman (2013) và Mansour (2014). Mô hình này là một dạng
mở rộng đơn giản của mô hình bộ ba bất khả thi dạng tuyến tính, bằng cách thêm
vào một nhân tố chính sách khác, đó chính là dự trữ bắt buộc Reserves. Therefore,
the constraint can be examined by the following regression:
𝑐 = 𝛽1𝑀𝐼𝑡 + 𝛽2𝐸𝑅𝑆𝑡 + 𝛽3DOI𝑡 + 𝛽4Reserves𝑡 + 𝜀

(1.2)

Giống như mô hình chỉ gồm ba nhân tố chính sách trong bộ ba bất khả thi, sự
phù hợp của mô hình được xem xét dựa trên các chỉ tiêu thống kê tương tự.

7


CHƯƠNG 2.

2.1.

TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU TRƯỚC ĐÂY

Xu hướng nghiên cứu vềthâm hụt ngân sách.

Theo như những nghiên cứu trước về chủ đề này, chúng ta có thể nhấn mạnh
một vài hướng nghiên cứu chính, bao gồm:
- Nghiên cứu tập trung vào những nguyên nhân và các yếu tố ảnh hưởng đến
thâm hụt và thặng dư công. Tiêu biểu cho hướng nghiên cứu này là Roubini và
Sachs (1989), Bayar (2001), Bayar và Smeets (2009), Castro (2007).
- Nghiên cứu sau đó tập trung nhiều hơn vào sự bất ổn định trong số thu và
chi tiêu công, cũng như tác động của sự bất định này đến tăng trưởng kinh tế.
(Afonso và Furceri, 2010; Afonso và Jalles, 2012).
- Cuối cùng, hiếm hoi và mới mẻ nhất, là nghiên cứu về những yếu tố ảnh
hưởng đến sự bất ổn định trong thâm hụt ngân sách. (Davide and Marcos Poplawski
Ribeiro, 2008; Agnello và Sousa, 2009; Iulian Ihnatov và cộng sự, 2014).
Hầu hết các nghiên cứu về chủ đề này đề ưa chuộng sử dụng ước lượng
GMM cho các mô hình dữ liệu dạng bảng động tuyến tính, với bộ dữ liệu được thu
thập theo năm.
Kết quả nghiên cứu của Agnello và Sousa (2009) tập trung vào những yếu tố
quan trọng nhất ảnh hưởng đến sự bất ổn định trong thâm hụt công ở 125 quốc gia,
bao gồm 15 nước EU trong khoảng thời gian từ năm 1980 cho đến năm 2006,chỉ ra
rằng sự mất ổn định cao về thể chế và chính trị là nguyên nhân quan trọng góp phần
vào sự gia tăng biến động ngân sách. Các tác giả cũng nỗ lực hơn khi nghiên cứu
sâu hơn sự khác biệt giữa các quốc gia EU và các quốc gia khác, tuy nhiên, chưa
ghi nhận được bằng chứng thống kê nào một cách hệ thống. Các nhân tố kinh tế như
GDP và lạm phát cũng lần lượt đóng góp 3% và 50% vào độ nhạy của việc gia tăng
sự bất ổn trong ngân sách.
Bởi vì sự bất ổn định trong thâm hụt ngân sách là một chủ đề mới và thiếu

hụt các tài liệu có liên quan về mặt lý thuyết và kiểm định thực nghiệm, chúng tôi
cũng xem xét mở rộng thêm một vài tài liệu tập trung vào những nguyên nhân và

8


yếu tố ảnh hưởng đến thâm hụt ngân sách, để làm cơ sở nhận xét về các mối quan
hệ ảnh hưởng đến sự bất ổn định này.
Bayar và Smeets (2009) đã xác định những nhân tố chính tác động đến sự
thay đổi trong thâm hụt ngân sách của 15 quốc gia EU. Nghiên cứu này quan tâm
nhiều hơn về các nhân tố chính trị và thể chế hơn là vai trò của tăng trưởng kinh tế,
tỷ lệ thất nghiệp và chi phí nợ thực.Đồng tình trước đó về vai trò của các nhân tố
kinh tế và chính trị ảnh hưởng đến thâm hụt ngân sách, Roubini và Sachs (1989) đã
giới thiệu về sự phát triển của thâm hụt ngân sách ở các quốc giá OECD bắt đầu từ
năm 1960 cho đến năm 1985, nhấn mạnh sự gia tăng cao độ thâm hụt sau năm 1979
bởi vì sự gia tăng trong lãi suất.
Rõ ràng , rất nhiều những nhà nghiên cứu đã ủng hộ hết mình cho những nỗ
lực lớn nhằm hiểu rõ hơn về các yếu tố sẽ ảnh hưởng đến thâm hụt công, nhưng
ngạc nhiên là những nghiên cứu về sự bất ổn định trong thâm hụt ngân sách thì khá
hiếm. Mục tiêu chính của nghiên cứu này là nhằm tiếp cận về mặt học thuật những
nguyên nhân chính gây ra sự bất ổn định trong thâm hụt công, cụ thể hơn, bằng
cách tập trung vào việc phân tích các yếu tố chính sách trong bộ ba bất khả thi.
2.2.

Tổng quan các nghiên cứu trước đây

Mặc dù rất nhiều nghiên cứu ủng hộ cho việc nghiên cứu và gia tăng sự hiểu
biết về những nguyên nhân gây ra thâm hụt nợ công lớn, nhưng các bằng chứng về
sự bất định trong thâm hụt còn rất mờ nhạt và vẫn chưa kết nối được với các chính
sách trong thị trường mở.

Các quốc gia OEGD cho dù có sự tương quan về kinh tế, các yếu tố trong hệ
thống thể chế (như cơ chế và quy trình ngân sách, cách thức tổ chức Ngân hàng
Trung ương và Hệ thống bầu cử, mức độ tập trung dân chủ, sự ổn định về chính trị
và phân cấp xã hội...) rất khác nhau.
North (1990), Persson và Tabellini (1992), Keefer và Knack (1995), Wagner
(1997), và Persson (2001) đều ghi nhận rằng, các kết quả kinh tế bị ảnh hưởng bởi
các cơ chế thể chế, cái cách thức mà quyết định tài khóa được đề ra và thực thi.

9


Trong thực tế, các yếu tố kinh tế và chính trị có sự tác động đan xen hết sức
phức tạp và không thể gộp chung hay tách riêng. Nhìn chung, các nhân tố chính trị
và thể chế cũng nên có một vai trò trong việc giải thích sự biến động trong thâm hụt
ngân sách nói riêng và chính sách tài khóa nói chung.
Luca Agnello và Ricardo M. Sousa (2009) cho rằng một sự mất ổn định
chính trị cao hơn có thể làm gia tăng sự bất ổn định trong thâm hụt ngân sách. Khi
gia tăng mức độ dân chủ lên một điểm, sự bất định trong thâm hụt ngân sách sẽ
giảm 3%; và các quốc gia nhỏ hơn có sự biến động thâm hụt ngân sách cao hơn vì
hệ quả của sự bất định trong sản lượng lớn hơn cũng như khả năng lây lan diện rộng
các cú sốc bất ngờ.Cuối cùng, ông cũng thấy rằng lạm phát cao hơn sẽ dẫn đến sự
gia tăng trong bất định thâm hụt ngân sách cao hơn, mặc dù độ lớn của hiệu ứng là
nhỏ. Các quốc gia có thâm hụt lớn (theo tỷ lệ phần trăm so với GDP) cũng có sự bất
ổn định trong thâm hụt lớn hơn. Hay nói cách khác, các quốc gia giàu với GDP đầu
người lớn hơn thì dễ có mức ổn định ngân sách cao hơn.
Attiya Y. Javid, Umaima Arif, và Asma Arif (2011) đã tổng hợp kết quả
nghiên cứu của nhóm tác giả trong công trình "Economic, Political and Institutional
Determinants of Budget Deficits Volatility in Selected Asian Countries". Theo đó,
sự bất ổn định trong thâm hụt ngân sách là một trong những thách thức lớn của cả
các quốc gia phát triển và đang phát triển vì những nguyên nhân sau đây.Thứ nhất,

sự biến động thâm hụt cao, gây nhiều khó khăn trong việc dự báo thời gian và
cường độ tác động của các chính sách tài khoá và do đó làm giảm đáng kể hiểu quả
của các quyết định kinh tế. Thứ hai, sự bất ổn định cao trong thâm hụt tài khoá hàm
ý một sự mất kiểm soát trong đo lường hiệu quả chi tiêu công, gây tác hại đến các
chế độ phúc lợi xã hội, ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống của thế hệ tương lai,
chất lượng của các dịch vụ Chính phủ như là: sức khoẻ và giáo dục có thể giảm
xuống đáng kể so với kế hoạch đã cam kết [Alesina và Perotti (1996); Alesina và
Rodrik (1994); Persson và Tabellini (1994)]. Thứ ba, sự bất ổn định trong thâm hụt
ngân sách nhà nước có thể gây ra hiện tượng chuyển dịch đầu tư sang các dự án
ngắn hạn hơn và do đó gây lãng phí vốn con người nhiều hơn. Cuối cùng, sự bất ổn
này có thể dẫn đến sự bất ổn trong lãi suất, tạo thêm áp lực cạnh tranh vốn cho đầu
tư tư nhân, gia tăng cả rủi ro và chi phí vốn cho nền kinh tế ở cả khu vực công và
10


khu vực tư.Các tác giả cũng khẳng định rằng những mô hình nghiên cứu về sự bất
ổn định trong thâm hụt ngân sách là một vấn đề tương đối mới và khá hiếm, bởi lẽ
những nghiên cứu trước đây tập trung nhiều hơn vào mức độ thâm hụt hay bội chi
ngân sách. Trong khi đó, công trình nghiên cứu "Determinants of fiscal budget
volatility in old versus new EU member states" của Eugenia-Ramona Mara (2012)
đề cao mục đích thú vị của việc nghiên cứu chủ đề về sự bất ổn định là nhằm đề ra
những chiến lược chấm dứt tình trạng thâm hụt tài khoá, lấy lại sự ổn định tài khóa
trong quản trị tài chính khu vực công.
Mặt khác, nghiên cứu chính của Attiya Y. Javid, Umaima Arif, và Asma Arif
(2011) chủ yếu ở các nước ASEAN và các nước Nam Á vào thời kỳ từ năm 1984
đến năm 2010, với đặc trưng về thâm hụt ngân sách lớn và không ổn định thường
xuyên. Nghiên cứu này có kiểm tra ảnh hưởng của các nhân tố chính trị, kinh tế và
thể chế để giải thích cho sự bất ổn định trong thâm hụt ngân sách nhà nước, đồng
thời có ghi nhận độ trễ của sự bất ổn định này như là một nhân tố đại diện cho sự trì
trệ trong thay đổi của chính nó. Kết quả của nghiên cứu nhấn mạnh nguyên nhân

gây ra sự bất ổn trong ngân sách nhà nước xuất phát từ sự hội nhập sâu rộng và lạm
phát cao; vai trò của các biến thể chế chính trị: dân chủ, tham nhũng, và pháp chế có
những mâu thuẫn nhất định. Trong khi đó, trong nghiên cứu "The Determinants of
Public Deficit Volatility", Luca Agnello và Ricardo M. Sousa (2009) sử dụng mô
hình system-GMM trên mẫu của 125 quốc gia phân tích ở thời kỳ từ 1980 đến 2006,
các tác giả cung cấp thêm bằng chứng về mối tương quan cùng chiều giữa sự bất ổn
trong thâm hụt ngân sách caovới mức bất ổn chính trị và nền dân chủ kém. Hơn
nữa, sự bất ổn này có xu hướng phóng đại ở các quốc gia nhỏ, do hệ quả từ những
thời kỳ lạm phát cao, và ở các quốc gia có mức độ hội nhập lớn. Tuy nhiên, Eugenia
và Ramona Mara (2012) cho rằng các nhân tố về thể chế và chính trị ít vai trò hơn
so với các nhân tố kinh tế trong việc giải thích sự bất ổn định của ngân sách nhà
nước. Tăng trưởng quốc gia, lạm phát, thất nghiệp và tăng trưởng số thuế thu được
mới là các nhân tố đáng quan tâm, mặc dù tăng trưởng quốc gia, lạm phát lại có hệ
số tương quan âm. Những tranh luận của các tác giả cũng là nguyên nhân mà chủ đề
về sự bất ổn định trong thâm hụt ngân sách tài khoá được phân tích sâu rộng hơn ở

11


×