Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

bài thảo luận thứ 5

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.59 KB, 15 trang )

PHÁP LUẬT VỀ HỢP ĐỒNG
VÀ BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI NGOÀI HỢP ĐỒNG
∗∗∗∗∗∗∗∗∗∗∗∗
Buổi thảo luận thứ năm:
TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ, VI PHẠM HỢP ĐỒNG


VẤN ĐỀ 1: BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI DO KHÔNG THỰC HIỆN ĐÚNG HỢP
ĐỒNG GÂY RA.
Câu hỏi 1:Căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng theo
pháp luật Việt Nam? Nêu rõ những thay đổi trong BLDS 2015 so với BLDS 2005 về
căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường thiệt hại trong hợp đồng.
Trả lời: Theo Điều 303 Luật Thương mại:
Trách nhiệm bồi thường thiệt hại phát sinh khi có đủ các yếu tố:
1. Có hành vi vi phạm hợp đồng.
2. Có thiệt hại thực tế.
3. Hành vi vi phạm hợp đồng là nguyên nhân trực tiếp gây ra thiệt hại.

BỘ LUẬT DÂN SỰ 2005

BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015

Điều 302. Trách nhiệm dân sự do vi Điều 360. Trách nhiệm bồi thường thiệt
phạm nghĩa vụ dân sự.
hại do vi phạm nghĩa vụ
1. Bên có nghĩa vụ mà không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ thì
phải chịu trách nhiệm dân sự đối với bên có
quyền.
2. Trong trường hợp bên có nghĩa vụ không
thể thực hiện được nghĩa vụ dân sự do sự


kiện bất khả kháng thì không phải chịu
trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thoả
thuận khác hoặc pháp luật có quy định
khác.
3. Bên có nghĩa vụ không phải chịu trách
nhiệm dân sự nếu chứng minh được nghĩa
vụ không thực hiện được là hoàn toàn do
lỗi của bên có quyền.
Điều 307. Trách nhiệm bồi thường thiệt
hại.
1. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao
gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về
vật chất, trách nhiệm bồi thường bù đắp tổn

Trường hợp có thiệt hại do vi phạm nghĩa
vụ gây ra thì bên có nghĩa vụ phải bồi
thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường hợp có
thỏa thuận khác hoặc luật có quy định
khác.


thất về tinh thần.
2. Trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật
chất là trách nhiệm bù đắp tổn thất vật chất
thực tế, tính được thành tiền do bên vi
phạm gây ra, bao gồm tổn thất về tài sản,
chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn chế, khắc
phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị mất hoặc
bị giảm sút.


Điều 361. Thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ
1. Thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ bao gồm
thiệt hại về vật chất và thiệt hại về tinh
thần.

2. Thiệt hại về vật chất là tổn thất vật chất
thực tế xác định được, bao gồm tổn thất về
3. Người gây thiệt hại về tinh thần cho tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, hạn
người khác do xâm phạm đến tính mạng, chế, khắc phục thiệt hại, thu nhập thực tế bị
sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín của mất hoặc bị giảm sút.
người đó thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi
phạm, xin lỗi, cải chính công khai còn phải 3. Thiệt hại về tinh thần là tổn thất về tinh
bồi thường một khoản tiền để bù đắp tổn thần do bị xâm phạm đến tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín và các lợi
thất về tinh thần cho người bị thiệt hại.
ích nhân thân khác của một chủ thể

Những điểm mới của BLDS 2015 so với BLDS 2005 về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi
thường thiệt hại trong hợp đồng là:
Điều 307 BLDS 2005 có tiêu đề là “trách nhiệm bồi thường thiệt hại” nhưng nội
dung của điều luật này chỉ đề cập đến thiệt hại mà không cho biết để có trách nhiệm bồi
thường thiệt hại thì phải hội đủ những điều nào. Tuy nhiên qua Điều 302 và 307 BLDS
2005, có thể suy luận ra rằng để phát sinh trách nhiệm bồi thường thì phải có thiệt hại.
BLDS 2015 đã rõ hơn với Điều 360 với nội dung “trường hợp có thiệt hại do vi
phạm nghĩa vụ gây ra thì bên có nghĩa vụ phải bồi thường toàn bộ thiệt hại, trừ trường
hợp có thỏa thuận khác hoặc luật đã có quy định khác”. Ở quy định này, yếu tố thiệt hại
đã rất rõ và được nhắc đến với cụm từ “có thiệt hại”.
Trong BLDS 2005 yếu tố nhân quả không được minh thị rõ. BLDS 2015 đã rõ hơn
với cụm từ “có thiệt hại do vi phạm nghĩa vụ gây ra” tại Điều 360.



Khoản 1 Điều 308 BLDS 2005, để phát sinh trách nhiệm dân sự, người không thực
hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự phải có lỗi. Đối với BLDS 2015 thì
không còn yếu tố lỗi nữa, trừ trường hợp luật có quy định khác.
Câu hỏi 2: Tòa án đã buộc Bitexco bồi thường cho bà Bình những khoản thiệt hại
nào? Nêu rõ đoạn của bản án liên quan đến từng khoản thiệt hại được bồi thường.
Trả lời:
Tòa án đã buộc Bitexco bồi thường cho bà Bình khoản thiệt hại là tiền thuê nhà số
tiền 418.000.000 đồng. Đoạn liên quan đến khoản thiệt hại trên nằm ở phần Quyết định:
Công ty trách nhiệm hữu hạn sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu Bình Minh phải
trả cho bà Nguyễn Thị Bình giá trị căn hộ AE305 khu căn hộ cao cấp Bitexco số 91
Nguyễn Hữu Cảnh, Phường 22, Quận Bình Thạnh số tiền 4.609.094.601 đồng và bồi
thường tiền thuê nhà số tiền 418.000.000 đồng. Tổng cộng Công ty trách hiệm hữu hạn
sản xuất kinh doanh xuất nhập khẩu Bình Minh (Bitexco) phải trả cho bà Bình số tiền
5.027.094.601 đồng (Năm tỷ, không trăm hai mươi bảy triệu, không trăm chín mươi tư
ngàn sáu trăm lẻ một đồng).
Câu hỏi 3: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án?
Trả lời: Căn cứ Điều 360 BLDS 2015
Về hợp đồng thuê nhà ở của bà Bình tuy không được công chứng, chứng thực của
cơ quan có thẩm quyền, với lý do nhà cho thuê chưa có giấy chứng nhận quyền sỡ hữu,
nhưng việc bà Bình đi thuê nhà ở là có thực và đây là thiệt hại thực tế, bà Bình cũng
không vi phạm nghĩa vụ thanh toán nên yêu cầu của bà buộc công ty Bitexco bồi thường
khoản tiền thuê nhà là có căn cứ.
Câu hỏi 4? Đoạn nào cho thấy bà Bình có yêu cầu đòi bồi thường tổn thất về tinh
thần?
Trả lời:
Tại đoạn thứ 2 mục thứ 4 trong phần Xét thấy của Quyết định về những vấn đề khác
trong vụ kiện: “Theo đơn yêu cầu phản tố của bà Bình ngày 18/01/2008 thì ngoài những
yêu cầu đã xem xét ở trên bà Bình còn yêu cầu bồi thường thiệt hại về vật chất trong căn
hộ AE 305: do nước trào ngược dơ bẩn làm hư hỏng một số tài sản vời trị giá là

5.000.000 đồng và bồi thường thiệt hại tinh thần do chất lượng căn hộ không bảo đảm
gây ảnh hưởng về tâm lý là 16.000.000 đồng. Tại phiên tòa bà xin rút lại yêu cầu này nên
cần phải đình chỉ.”


Câu hỏi 5: Tổn thất về tinh thần có tồn tại trong lĩnh vực hợp đồng hay không? Vì
sao?
Trả lời:
Tại khoản 1 Điều 307 BLDS 2005 quy định “trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao
gồm trách nhiệm bồi thường thiệt hại về vật chất, trách nhiệm bồi thường bù đắp tổn thất
về tinh thần”. Như vậy, tổn thất về tinh thần được bồi thường và quy định này áp dụng
cho nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng nhưng khi đi vào chi tiết thì khoản 3 Điều 307 nêu
trên lại khoanh vùng phạm vi áp dụng với nội dung “Người gây thiệt hại về tinh thần cho
người khác do xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người
đó thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm, xin lỗi, cải chính công khai còn phải bồi
thường một khoản tiền bù đắp tổn thất về tinh thần cho người bị thiệt hại.” Quy định này
vẫn được giữ lại trong BLDS 2015 với một số thay đổi tại Điều 361.
Đối với Luật thương mại 2005, theo Điều 303 về căn cứ phát sinh trách nhiệm bồi thường
thiệt hại, tại khoản 2 “ có thiệt hại thực tế”, ở đây các nhà làm luật chỉ nêu “thiệt hại thực
tế” chứ không nói “thiệt hại vật chất” trong khi thiệt hại thực tế không chỉ là thiệt hại vật
chất mà có thể bao gồm cả tổn thất về tinh thần. Với suy luận như vậy, ta có thể và nên
suy luận tổn thất về tinh thần vẫn được bồi thường nếu nó thực tế tồn tại.
Chính vì vậy mà BLDS 2015 đã có quy định mới về tổn thất về tinh thần khi có vi phạm
hợp đồng là khoản 3 Điều 419.
Câu hỏi 6: BLDS có cho phép yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần phát sinh do
không thực hiện đúng hợp đồng không? Nêu rõ cơ sở pháp lý khi trả lời.
Trả lời:
BLDS 2015 có cho phép yêu cầu bồi thường tổn thất về tinh thần phát sinh do
không thực hiện đúng hợp đồng tại khoản 3 Điều 419 theo đó “theo yêu cầu của người có
quyền, Tòa án có thể buộc người có nghĩa vụ bồi thường thiệt hại về tinh thần cho người

có quyền. Mức bồi thường do Tòa án quyết định căn cứ vào nội dung vụ việc.”

VẤN ĐỀ 2: PHẠT VI PHẠM HỢP ĐỒNG
Câu hỏi 1: Điểm mới của BLDS năm 2015 so với BLDS 2005 về phạt vi phạm hợp
đồng.


Trả lời:
BỘ LUẬT DÂN SỰ 2005

BỘ LUẬT DÂN SỰ 2015

Điều 422. Thực hiện hợp đồng có thoả Điều 418. Thỏa thuận phạt vi phạm.
thuận phạt vi phạm.
1. Phạt vi phạm là sự thoả thuận giữa các
bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm 1. Phạt vi phạm là sự thỏa thuận giữa các
nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên bên trong hợp đồng, theo đó bên vi phạm
nghĩa vụ phải nộp một khoản tiền cho bên
bị vi phạm.
bị vi phạm.
2. Mức phạt vi phạm do các bên thoả thuận.
2. Mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận,
trừ trường hợp luật liên quan có quy định
khác.
3. Các bên có thể thoả thuận về việc bên vi
phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi 3. Các bên có thể thỏa thuận về việc bên vi
phạm mà không phải bồi thường thiệt hại phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm
hoặc vừa phải nộp phạt vi phạm và vừa mà không phải bồi thường thiệt hại hoặc
phải bồi thường thiệt hại; nếu không có vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi
thoả thuận trước về mức bồi thường thiệt thường thiệt hại.

hại thì phải bồi thường toàn bộ thiệt hại.
Trường hợp các bên có thỏa thuận về phạt
Trong trường hợp các bên không có thoả vi phạm nhưng không thỏa thuận về việc
thuận về bồi thường thiệt hại thì bên vi vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi
phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ
phạm.
chỉ phải chịu phạt vi phạm.

Có thể thấy:
Thứ nhất, về mức phạt, BLDS 2005 quy định “Mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận”
(khoản 2 Điều 422), còn BLDS 2015 theo hướng “Mức phạt vi phạm do các bên thỏa
thuận, trừ trường hợp luật liên quan có quy định khác” (khoản 2 Điều 418). Luật liên
quan ở đây cụ thể là Luật xây dựng, Luật thương mại có quy định về mức phạt tối đa.
Thứ hai, khoản 3 Điều 422 BLDS 2005 theo hướng “các bên có thể thỏa thuận về việc
bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại
hoặc vừa phải nộp phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại; nếu không có thỏa
thuận trước về mức bồi thường bồi thường thiệt hại thì phải bồi thường toàn bộ thiệt hại.


Trong trường hợp các bên không có thỏa thuận về bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm
nghĩa vụ chỉ phải nộp tiền phạt vi phạm. Tại khoản 3 Điều 418 BLDS 2015, thì đoạn
“ nếu không có thỏa thuận trước về mức bồi thường bồi thường thiệt hại thì phải bồi
thường toàn bộ thiệt hại” đã được bỏ đi vì đây là vấn đề bồi thường thiệt hại và đã có quy
định khác điều chỉnh (Điều 13 và Điều 360 BLDS 2015).
∗ Đối với vụ việc thứ nhất:
Câu hỏi 2: Điểm giống nhau giữa đặt cọc và phạt vi phạm hợp đồng?
Trả lời:
Về đối tượng thực hiện: là khoản tiền buộc phải nộp cho một bên.
Về hình thức: đều lập thành văn bản.
Về hậu quả pháp lý: bên vi phạm bị mất một khoản tiền (mức phạt vi phạm hoặc phạt

cọc).
Câu hỏi 3: Khoản tiền trả trước 30% được Tòa án xác định là tiền đặt cọc hay là nội
dung của phạt vi phạm hợp đồng?
Trả lời:
Theo khoản 3 Điều 4 Hợp đồng kinh tế số 01-10/TL-TV ngày 01/10/2010 các bên đã thỏa
thuận: Ngay sau khi ký hợp đồng, bên mua (Công ty Tân Việt) phải thanh toán trước cho
bên bán (Công ty Tường Long) 30% giá trị đơn hàng gọi là tiền cọc, 40% giá trị đơn hàng
thanh toán ngay sau khi bên Công ty Tường Long giao hàng hoàn tất, 30% còn lại sẽ
thanh toán trong vòng 30 ngày kể từ ngày thanh toán cuối cùng. Do vậy, khoản tiền trả
trước 30% được Tòa án xác định là tiền đặt cọc.
Câu hỏi 4: Suy nghĩ của anh/chị về hướng giải quyết trên của Tòa án liên quan đến
khoản tiền trả trước 30%?
Trả lời:
Căn cứ vào khoản 2 Điều 358 BLDS 2005 (có hiệu lực tạo thời điểm xét xử) quy định:
“Trong trường hợp hợp đồng dân sự được giao kết, thực hiện thì tài sản đặt cọc được trả
lại cho bên đặt cọc hoặc được trừ để thực hiện nghĩa vụ trả tiền; nếu bên nhận đặt cọc từ
chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng dân sự thì tài sản đặt cọc thuộc về bên nhận đặt
cọc; nếu bên nhận đặt cọc từ chối việc giao kết, thực hiện hợp đồng dân sự thì phải trả


cho bên đặt cọc tài sản đặt cọc và một khoản tiền tương đương giá trị tài sản đặt cọc, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác.”
Trong trường hợp này, rõ ràng Công ty Tường Long (bị đơn) thông qua việc giao hàng
cho Công ty Tân Việt (nguyên đơn) đã thể hiện rằng bị đơn không hề từ chối việc thực
hiện hợp đồng nên tranh chấp được phát sinh khi các bên thực hiện hợp đồng. Từ đó việc
nguyên đơn buộc bị đơn phải thanh toán tiền phạt cọc là không có căn cứ. Do đó hướng
giải quyết của Tòa án là hợp lý.
∗ Đối với vụ việc thứ hai:
Câu hỏi 5: Trong Quyết định của Trọng tài, mức phạt vi phạm hợp đồng được giới
hạn như thế nào?

Trả lời:
Trong Quyết định của Trọng tài:
Mức phạt Hợp đồng 30% giá trị của Hợp đồng là cao so với quy định của pháp luật Việt
Nam, cụ thể là Luật Thương mại quy định mức phạt hợp đồng không qua 8% giá trị của
hợp đồng, do vậy Bị đơn sẽ chi phải thanh toán cho Nguyên đơn khoản tiền phạt theo luật
là 8% giá trị hợp đồng.
Điều 301 Luật Thương mại Việt Nam năm 2005 quy định về mức phạt trong hợp đồng
như sau:
Mức phạt tối đa được áp dụng cho Hợp đồng Thương mại là không quá 8% giá trị hợp
đồng. Trong trường hợp các bên thỏa thuận một mức phạt cao hơn thì mức phạt được áp
dụng trong giải quyết tranh chấp giữa các bên là 8% giá trị hợp đồng.
Câu hỏi 6: So với văn bản, mức giới hạn mức phạt vi phạm trong Quyết định có
thuyết phục không? Vì sao?
Trả lời:
Theo BLDS 2015 Điều 418 khoản 2: “Mức phạt vi phạm do các bên thỏa thuận, trừ
trường hợp luật liên quan có qui định khác.”
Theo Luật Thương mại 2005 Điều 301: “Mức phạt đối vời vi phạm nghĩa vụ hợp đồng
hoặc tổng mức phạt đối với nhiều vi phạm do các bên thỏa thuận trong hợp đồng, nhưng
không quá 8% giá trị phần nghĩa vụ hợp đồng bị vi phạm, trừ trường hợp quy định tại
Điều 266 của luật này.


Xét theo hợp đồng này là hợp đồng mua bán hàng hóa giữa hai bên chủ thể là thương
nhân nên việc ưu tiên áp dụng Luật Thương mại về mức giới hạn phạt vi phạm là hợp lý.
Câu hỏi 7: Trong pháp luật dân sự và pháp luật thương mại, phạt vi phạm hợp đồng
có được kết hợp với bồi thường thiệt hại không nếu các bên không có thỏa thuận về
vấn đề này? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời?
Trả lời:
Trong pháp luật dân sự và pháp luật thương mại, phạt vi phạm hợp đồng được kết hợp
với bồi thường thiệt hại nếu các bên không có thỏa thuận về vấn đề này.

Theo Điều 307 về quan hệ giữa chế tài phạt vi phạm và chế tài bồi thường thiệt hại:
1. Trường hợp các bên không có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm chỉ có

quyền yêu cầu bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có quy định khác.
2. Trường hợp các bên có thỏa thuận phạt vi phạm thì bên vi phạm có quyền áp dụng
cả chế tài phạt vi phạm và buộc bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật này có
quy định khác.
Theo Điều 418, khoản 3 về thỏa thuận phạt vi phạm: “Các bên có thể thỏa thuận về việc
bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm mà không phải bồi thường thiệt hại
hoặc vừa phải chịu phạt vi phạm và vừa phải bồi thường thiệt hại. Trường hợp các bên có
thỏa thuận về phạt vi phạm nhưng không thỏa thuận về việc vừa phải chịu phạt vi phạm
vừa phải bồi thường thiệt hại thì bên vi phạm nghĩa vụ chỉ phải chịu phạt vi phạm.”
Câu hỏi 8: Trong Quyết định của Trọng tài, phạt vi phạm có được kết hợp với bồi
thường thiệt hại không? Đoạn nào của Quyết định cho câu trả lời?
Trả lời:
Trong Quyết định của Trọng tài, phạt vi phạm được kết hợp với bồi thường thiệt hại.
Đoạn cho thấy câu trả lời là:
Mức phạt Hợp đồng trong trường hợp này được xác định căn cứ theo quy định của Luật
Thương mại Việt Nam năm 2005 là 8% giá trị của Hợp đồng. Do vậy, Bị đơn phải thanh
toán cho nguyên đơn khoản tiền phạt là 2.780 USD, tương đương với 8% giá trị của Hợp
đồng. Tuy nhiên, Điều 301 Luật Thương mại cũng quy định ngoài mức phạt như trên, bên
bị thiệt hại có quyền đòi bồi thường thiệt hại thực tế. Do các bên đã có thỏa thuận về mức
bồi thường thiệt hại tối đa là 30% tổng giá trị Hợp đồng, nên việc cho phép bồi thường
mức cao hơn sẽ tạo bất ngờ cho Bị đơn. Hội đồng Trọng tài cho rằng có thể xét bồi


thường thiệt hại thực tế cho Nguyên đơn, song tổng mức bồi thường thiệt hại và khoản
phạt vi phạm sẽ không được cao quá 30% giá trị Hợp đồng.
Câu hỏi 9: Điểm giống và khác nhau giữa phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường
thiệt hại do không thực hiện đúng hợp đồng?

Trả lời:
Điểm giống nhau:
* Phạt vi phạm hợp đồng và bồi thường thiệt hại đều được coi là biện pháp chế tài mà
luật dân sự quy định để áp dụng cho các trường hợp vi phạm hợp đồng.
* Cơ sở để áp dụng 2 biện pháp này là phải có hành vi vi phạm hợp đồng trên thực tế và
phải có lỗi của bên vi phạm.
* Các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm: Điều 294 Luật thương mại
2005 quy định như sau:
" 1. Bên vi phạm hợp đồng được miễn trách nhiệm trong các trường hợp sau đây:
a) Xảy ra trường hợp miễn trách nhiệm mà các bên đã thoả thuận.
b)
Xảy
ra
sự
kiện
bất
khả
kháng.
c) Hành vi vi phạm của một bên hoàn toàn do lỗi của bên kia.
d) Hành vi vi phạm của một bên do thực hiện quyết định của cơ quan quản lý nhà nước
có thẩm quyền mà các bên không thể biết được vào thời điểm giao kết hợp đồng.
2. Bên vi phạm hợp đồng có nghĩa vụ chứng minh các trường hợp miễn trách nhiệm."

PHẠT VI PHẠM
Căn cứ để áp Phải có sự thỏa thuận của các chủ
dụng
thể về việc áp dụng biện pháp phạt
hợp đồng. Không cần có thiệt hại
do hành vi vi phạm cũng có thể áp
dụng. (Điều 300, Luật thương mại

2005)
Trong trường hợp hành vi vi phạm
hợp đồng không làm phát sinh
thiệt hại thực tế thì phạt vi phạm
vẫn được áp dụng và khoản tiền
phạt không phụ thuộc vào thiệt hại

BỒI THƯỜNG THIỆT HẠI
Trường hợp có thiệt hại do vi
phạm nghĩa vụ gây ra thì bên có
nghĩa vụ phải bồi thường toàn
bộ thiệt hại, trừ trường hợp có
thỏa thuận khác hoặc luật này
có quy định khác. (Điều 360
BLDS 2015)
Áp dụng ngay cả khi không có
thỏa thuận.
Cần có thiệt hại thực tế và sẽ
không có bồi thường nếu không


thực tế.
Ngăn ngừa vi phạm.

có thiệt hại.
Mục đích
Khắc phục hậu quả thiệt hại do
vi phạm
Mức độ thiệt hại Do thỏa thuận của các bên. Tối Phụ thuộc vào mức độ thiệt hại
về vật chất của đa không quá 8% giá trị phần mà bên vi phạm gây ra.

người bị áp dụng hợp đồng bị vi phạm. (Điều 301,
Luật thương mại 2005)
Nghĩa vụ của các Chỉ cần có thỏa thuận thì khi có Có nghĩa vụ:
bên
hành vi vi phạm hợp đồng sẽ
− Chứng minh tổn thất.
được áp dụng.
− Hạn chế tổn thất.

Câu hỏi 10: Trong văn bản, khoản tiền do kết hợp phạt vi phạm và bồi thường thiệt
hại có bị giới hạn không? Vì sao?
Trả lời:
Căn cứ vào khoản 2 Điều 307 Luật Thương mại 2005: “ Trường hợp các bên có thỏa
thuận phạt vi phạm thì bên bị vi phạm có quyền áp dụng cả chế tài phạt vi phạm và buộc
bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp Luật có quy định khác.” Theo đó, khoản tiền kết hợp
phạt vi phạm và bồi thường thiệt hại là không bị giới hạn mà hoàn toàn do các bên thỏa
thuận.
Câu hỏi 11: Trong Quyết định của Trọng tài, khoản tiền do kết hợp phạt vi phạm và
bồi thường thiệt hại có bị giới hạn không? Suy nghĩ của anh/chị về giải pháp trong
Quyết định về vấn đề này?
Trả lời:
Trong Quyết định của Trọng tài, khoản tiền do kết hợp phạt vi phạm và bồi thường thiệt
hại bị giới hạn ở mức không quá 30% giá trị hợp đồng, thể hiện ở đoạn: “Tuy nhiên, Điều
301 Luật Thương mại cũng quy định ngoài mức phạt như trên, bên bị thiệt hại có quyền
đòi bồi thường thiệt hại thực tế. Do các bên đã có thỏa thuận về mức bồi thường thiệt hại
tối đa là 30% tổng giá trị Hợp đồng, nên việc cho phép bồi thường mức cao hơn sẽ tạo
bất ngờ cho Bị đơn. HĐTT cho rằng có thể xét bồi thường thiệt hại thực tế cho Nguyên
đơn, song tổng mức bồi thường thiệt hại và khoản phạt vi phạm sẽ không được cao quá
30% giá trị hợp đồng.”
Theo em, giải pháp của Trọng tài là phù hợp vì vẫn đảm bảo được quyền lợi của Nguyên

đơn mà vẫn đảm bảo cho Bị đơn không bị bất ngờ.


Câu hỏi 12: Suy nghĩ của anh/chị về khả năng Tòa án được quyền giảm mức phạt vi
phạm hợp đồng trong pháp luật Việt Nam?
Trả lời:
Trong thực tế, mức phạt các bên thỏa thuận có thể thấp hơn hay cao hơn nhiều so với
thiệt hại thực tế nên cách giải quyết của BLDS hiện nay là không phù hợp. Đối với các
hợp đồng thương mại hay các hợp đồng khác được các luật liên quan điều chỉnh mức giới
hạn phạt vi phạm thì Tòa án có thể ra áp dụng ngay luật có liên quan đó để giải quyết.
Riêng đối với phạt vi phạm thuộc phạm vi điều chỉnh của BLDS thì Tòa án có thể tìm
giải pháp tình thế để giải quyết như dựa vào các quy tắc mà chúng ta đã có để làm cơ sở
pháp lý, chẳng hạn như nguyên tắc thiện chí, hợp tác, tôn trọng đạo đức xã hội, lẽ công
bằng để giảm bớt sự bất công bằng.

VẤN ĐỀ 3: SỰ KIỆN BẤT KHẢ KHÁNG
Câu hỏi 1: Những điều kiện để một sự kiện được coi là bất khả kháng? Và cho biết
các bên có thể thỏa thuận với nhau về trường hợp có sự kiện bất khả kháng không?
Nêu rõ cơ sở khi trả lời?
Trả lời: Căn cứ khoản 1 Điều 156 BLDS 2015 thì sự kiện bất khả kháng :


Là sự kiện khách quan xảy ra sau khi ký hợp đồng;



Là sự kiện không lường trước được;




Là sự kiện không thể khắc phục được mặc dù đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết
và khả năng cho phép.

Theo khoản 2 Điều 351 BLDS 2015: “Trường hợp bên có nghĩa cụ không thực hiện
đúng nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ
trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có quy định khác.” Do đó, các bên
hoàn toàn có thể thỏa thuận với nhau về trường hợp có sự kiện bất khả kháng.
Câu hỏi 2: Những hệ quả pháp lý trong trường hợp hợp đồng không thể thực hiện
được do sự kiện bất khả kháng trong BLDS và Luật thương mại sửa đổi?
Trả lời:
Những hệ quả pháp lý trong trường hợp hợp đồng không thể thực hiện được do sự kiện
bất khả kháng trong BLDS và Luật thương mại sửa đổi là:


∗ Trong BLDS 2015:
Khoản 2 Điều 351: “Trường hợp nêm có nghĩa vụ không thực hiện đúng nghĩa vụ do sự
kiên bất khả kháng tì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp có thỏa thuận
khác hoặc pháp luật có quy định khác.”
Khoản 3 Điều 541: “Trường hợp bất khả kháng dẫn đến tài sản vận chuyển bị mất, hư
hỏng hoặc bị hủy hoại trong quá trình vận chuyển thì bên vận chuyển không phải chịu
trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc pháp luật có qy
định khác.”
∗ Trong Luật Thương mại 2005:
Điểm b khoản 1 Điều 294 về các trường hợp miễn trách nhiệm đối với hành vi vi phạm:
“Xảy ra sự kiện bất khả kháng.”
Câu hỏi 3: Số hàng trên có bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng không? Phân tích
các điều kiện hình thành sự kiện bất khả kháng với tình huống trên?
Trả lời:
Thứ nhất, gió là hiện tượng tự nhiên, là sự kiện khách quan.
Thứ hai, tàu bị gió nhấn chìm là sự kiện khách quan nhưng có lường trước được hay

không thì tình huống không nói rõ vì có thể sự kiện này được dự báo trước như bão.
Thứ ba, hàng bị hư hỏng toàn bộ. Ở đây, tình huống cũng không nói rõ là hàng hóa có thể
khắc phục được không, nếu có thể khắc phục mà bên vận chuyển không có biện pháp
khắc phục mà để mặc cho hàng hóa bị hư hỏng nặng thì cũng không thỏa điều kiện.
Như vậy, chưa đủ căn cứ để xác định hàng bị hư hỏng là do sự kiện bất khả kháng.
Câu hỏi 4: Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng, anh Văn có phải bồi
thường cho anh Bình về việc hàng bị hư hỏng không? Nêu cơ sở pháp lý khi trả lời?
Trả lời:
Theo khoản 2 Điều 351 BLDS 2015: “Trường hợp bên có nghĩa vụ không thực hiện đúng
nghĩa vụ do sự kiện bất khả kháng thì không phải chịu trách nhiệm dân sự, trừ trường hợp
có thỏa thuận khác hoặc luật này có quy định khác.”


Theo đó, trong trường hợp anh Văn có thỏa thuận với anh Bình sẽ chịu trách nhiệm ngay
cả trong trường hợp có sự kiện bất khả kháng thì anh Văn sẽ chịu trách nhiệm bồi thường
cho anh Bình về việc hàng bị hư hỏng. Nếu giữa anh Văn và anh Bình không có thỏa
thuận thì anh Văn sẽ không phải chịu trách nhiệm bồi thường.
Câu hỏi 5: Nếu hàng bị hư hỏng do sự kiện bất khả kháng và anh Văn có thỏa thuận
bồi thường cho anh Bình giá trị hàng bị hư hỏng thì anh Văn có được yêu cầu Công
ty bảo hiểm thanh toán khoản tiền này không? Tìm câu trả lời nhìn từ góc độ văn
bản và thực tiễn xét xử?
Trả lời:
Theo cơ sở TẠP CHÍ KHPL SỐ 05(42)/2007- BÌNH LUẬN BẢN ÁN (Đỗ Văn Đại) về
sự kiện bất khả kháng: Bản án số 110/2006/DSPT ngày 05 tháng 5 năm 2006 Tòa án
nhân dân tỉnh Trà Vinh.
“Sau khi nghiên cứu các tài liệu, chứng từ có trong hồ sơ vụ án được thẩm tra tại Tòa,
căn cứ vào kết quả tranh luận tại phiên tòa; Hội đồng xét xử nhận định:
Anh Lê Văn Khen kiện công ty Bảo Hiểm Trà Vinh yêu cầu bồi thường thiệt hại khi tàu
TV-2047-H bị gió lốc nhấn chìm làm hư hại tài sản của người thứ ba theo hợp đồng bảo
hiểm số 00009786/BHTS-02 ngày 14/04/2005. Còn công ty Bảo hiểm thì cho rằng vào

năm 2005 anh Lê Văn Khen có hợp đồng mua hai bảo hiểm một là bảo hiểm thân tàu,
hai là bảo hiểm trách nhiệm dân sự chủ tàu theo quy tắc, khi tai nạn xảy ra công ty căn
cứ vào hợp đồng thứ nhất đã bồi thường tiền cho anh Khen xong, riêng hợp đồng thứ hai
thì không bồi thường thiệt hại về trách nhiệm dân sự cho người thứ ba vì lý do “Bất khả
kháng bị gió lốc nhấn chìm tàu”. Tòa án nhân dân thị xã Trà Vinh xét xử bác đơn yêu
cầu của anh Lê Văn Khen, anh Khen không đồng ý nên kháng cáo.
Xét đơn kháng cáo của anh Lê Văn Khen yêu cầu Công ty Bảo Việt Trà Vinh phải bồi
hoàn lại cho anh số tiền 40.950.000 đồng mà anh thay công ty Bảo Việt bồi thường cho
các chủ hàng anh chở thuê là không có cơ sở để thỏa mãn. Mặc dù tàu TV-2047-H có
hợp đồng mua bảo hiểm với 2 loại trách nhiệm: Bảo hiểm thân tàu và bảo hiểm trách
nhiệm dân sự cho người thứ ba. Việc tai nạn xảy ra có thiệt hại đến tài sản hàng hóa mà
anh Khen hợp đồng chở thuê, nhưng trong việc tai nạn của hợp đồng vận chuyển hàng
hóa nêu trên giữa anh Khen với 2 chủ hàng, tàu TV-2047- H của anh Khen bị tai nạn làm
thiệt hại hàng hóa chở thuê không phải do lỗi cố ý hoặc vô ý của anh Khen gây ra. Tai
nạn xảy ra là do thiên tai gió lốc nhấn chìm tàu, đây là trường hợp bất khả kháng. Tại
khoản 3 điều 549 Bộ luật dân sự quy định: Trong trường hợp bất khả kháng dẫn đến tài
sản bị mất mát, hư hỏng hoặc bị hủy hoại trong quá trình vận chuyển, thì bên vận chuyển


không phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại, trừ trường hợp có thỏa thuận khác
hoặc pháp luật có quy định khác. Trong trường hợp này anh Khen không có lỗi nên anh
không có trách nhiệm phải bồi thường thiệt hại cho các chủ hàng. Tại điều 15 về quy tắc
bảo hiểm của Tổng Công ty Bảo hiểm Việt Nam quy định: Trường hợp tàu, thuyền được
bảo hiểm gây ra tổn thất cho người thứ ba mà có liên quan đến trách nhiệm bồi thường
của Bảo Việt thì người được bảo hiểm phải thông báo ngay cho Bảo Việt và cung cấp đầy
đủ các tài liệu chứng từ thông tin cần thiết và các tình tiết liên quan đến việc khiếu nại
của họ, đồng thời phải làm theo sự chỉ dẫn của Bảo Việt hoặc đại diện Bảo Việt chỉ định.
Trong vụ tai nạn trên, sau khi sự việc xảy ra anh Khen có thông báo cho Công ty Bảo
Việt biết và cung cấp thông tin cần thiết cho việc khiếu nại của người thứ ba Bảo Việt
không có trách nhiệm bồi thường. Mặc dù nhận được thông tin từ phía công ty Bảo hiểm

nhưng anh Khen tự thỏa thuận, tự nguyện bồi thường thiệt là trái với quy định của pháp
luật và quy tắc bảo hiểm do đó bản thân anh Khen tự chịu trách nhiệm.
Từ cơ sở phân tích trên nghĩ nên bác yêu cầu kháng cáo của anh Lê Văn Khen. Giữ
nguyên bản án dân sự sơ thẩm của Tòa án nhân dân thị xã Trà Vinh.
Các quyết định khác của án sơ thẩm không có kháng cáo, kháng nghị nên có hiệu lực
pháp luật.”
Dựa vào bản án trên, áp dụng tương tự thì nếu hàng bị hỏng do sự kiện bất khả kháng và
anh Văn có thỏa thuận bồi thường cho anh Bình giá trị hàng bị hư hỏng thì anh Văn
không được yêu cầu Công ty bảo hiểm thanh toán khoản tiền này.

VẤN ĐỀ 4: TÌM KIẾM BẢN ÁN LIÊN QUAN ĐẾN CHẬM THỰC HIỆN NGHĨA
VỤ THANH TOÁN



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×