MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Giao dịch mua bán hàng hóa là giao dịch phổ biến trong đời sống kinh tế xã
hội. Đối tượng của giao dịch mua bán hàng hóa rất đa dạng và nhu cầu bảo hành đối
với chất lượng hàng hóa cũng tương ứng. Nghĩa vụ bảo hành hàng hóa trong hợp
đồng có thể gắn với bên bán, bên trung gian thương mại hoặc bên sản xuất. Phạm vi
nghĩa vụ của các chủ thể này cũng rất khác nhau về nội dung nghĩa vụ, về thời hạn
nghĩa vụ và thời gian và phương thức thực hiện nghĩa vụ.
Trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa, Bên Mua
rất quan tâm đến vấn đề bảo hành đối với hàng hóa của Bên Bán. Việc đảm bảo
nghĩa vụ bảo hành đối với hàng hóa trong hợp đồng mua bán hàng hóa sẽ tạo nên
hiệu quả trong các giao dịch mua bán, thúc đẩy thị trường cung cầu và nền kinh tế
phát triển. Bên cạnh đó, bảo đảm nghĩa vụ bảo hành chính là bảo đảm quyền lợi của
người tiêu dùng, của Bên Mua - bên thiếu thông tin trong giao dịch về chất lượng và
giá trị hàng hóa. Chính vì lẽ đó, nghĩa vụ bảo hành không chỉ do các bên thỏa thuận
mà còn do pháp luật quy định, tuy nhiên trong quá trình thực hiện có nhiều vấn đề
gặp vướng mắc.
Đó cũng là lý do mà người viết lựa chọn đề tài “Nghĩa vụ bảo hành của
Bên Bán đối với hàng hóa trong hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật
Thương mại Việt Nam hiện nay”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong lĩnh vực khoa học pháp lý đã có nhiều công trình, bài viết nghiên cứu
vấn đề về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa theo những khía cạnh khác nhau:
Lê Thị Tuyết Hà (2016), “Trách nhiệm pháp lý do vi phạm hợp đồng thương
mại ở Việt Nam hiện nay ”, Luận án tiến sĩ Luật học, Học viện Khoa học xã hội Việt
Nam. Tác giả đã Nghiên cứu thực trạng pháp luật, thực tiễn áp dụng pháp luật về
trách nhiệmpháp lý do vi phạm hợp đồng thương mại ở Việt Nam, cụ thể nghiên cứu
về mối quan hệ giữa Luật Thương mại năm 2005 và các văn bản pháp luật có liên
1
quan, những nội dung chồng chéo, mâu thuẫn, bất cập của quy định trách nhiệm
pháp lý do vi phạm hợp đồng thương mại, đánh giá thực trạng quy định về trách
nhiệm hợp đồng. Từ đó, tác giả đưa ra định hướng sửa đổi, bổ sung những quy định
của các văn bản pháp luật về trách nhiệm hợp đồng thương mại của ViệtNam. Hơn
nữa, tác giả cũng phân tích thực tiễn giải quyết tranh chấp về vi phạm hợp đồng
thương mại thông qua các bản án được cơ quan có thẩm quyền giải quyết tại Việt
Nam.Bên cạnh đó, tác giả còn đánh giá sự phù hợp giữa quy định trong các văn bản
quyphạm pháp luật và thực tiễn áp dụng pháp luật [10].
Mai Thị Thanh Tâm (2009), “Nghĩa vụ của người kinh doanh hàng hóa, dịch
vụ trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng”, Luận văn thạc sĩ Luật học, Khoa
Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận văn đã làm rõ một số vấn đề lý luận về nghĩa
vụ của người kinh doanh hàng hóa, dịch vụ trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng; Phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật Việt Nam về nghĩa vụ của người kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng; Đưa ra một số
định hướng và giải pháp cơ bản hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ của người kinh
doanh hàng hóa, dịch vụ trong việc bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng [26].
Khúc Thị Kiều Trang (2014), “Những quy định về miễn trách nhiệm bồi
thường thiệt hại do vi phạm hợp đồng theo pháp luật Việt Nam ”, Luận văn thạc sĩ
Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận văn tập trung nghiên cứu
những vấn đề lý luận chung về vấn đề miễn trách nhiệm bồi thường do vi phạm hợp
đồng, các quy định của pháp luật về miễn trách nhiệm bồi thương do vi phạm hợp
đồng, cũng như thực tiễn thực hiện trong những năm vừa qua. Luận văn nghiên cứu
tập trung chủ yếu trong phạm vi những quy định của Bộ luật dân sự Việt Nam 2005
và Luật Thương mại 2005. Đặc biệt, luận văn tập trung chủ yếu ở việc nghiên cứu
những quy định của pháp luật liên quan đến vấn đề hợp đồng nói chung và miễn
trách nhiệm bồi thường thiệt hại nói riêng về những vấn đề liên quan đến hợp đồng
thương mại được quy định trong Bộ luật dân sự và luật thương mại 2005 [30].
2
Đinh Ngọc Thương (2016), “Hợp đồng mua bán hàng hóa trong kinh doanh
thương mại vô hiệu theo pháp luật Việt Nam ”, Luận văn Thạc sĩ Luật học, Trường
Đại học Luật, Đại học Huế. Nghiên cứu các cơ sở lý luận, phân tích đánh giá các quy
định của pháp luật hiện hành và thực tế áp dụng pháp luật, từ đó đưa ra các giải pháp
hoàn thiện pháp luật và tổ chức thực hiện pháp luật về hợp đồng mua bán hàng hóa
vô hiệu [29].
Trần Tuyết Minh (2014), “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có
khuyết tật gây ra cho người tiêu dùng theo pháp luật Việt Nam ”, Luận văn thạc sĩ
Luật học, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội. Luận văn làm rõ cơ sở lý luận của
vấn đề về trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho
người tiêu dùng. Phân tích, đánh giá thực trạng các quy định của pháp luật về trách
nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa có khuyết tật gây ra cho người tiêu dùng. Đề
xuất một số giải pháp nhằm bảo đảm trách nhiệm bồi thường thiệt hại do hàng hóa
có khuyết tật gây ra cho người tiêu dùng [15].
Cao Thị Lê Thương (2016), “Bảo đảm dự thầu trong đấu thầu mua sắm hàng
hóa theo pháp luật Việt Nam hiện nay”, Luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa
học xã hội Việt Nam. Luận văn đã nghiên cứu làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về
bảo đảm dự thầu trong đấu thầu mua sắm hàng hóa; Nghiên cứu chuẩn mực pháp lý
quốc tế về đấu thầu mua sắm hàng hóa trong khuôn khổ của WTO và TPP; Phân
tích, đánh giá thực trạng pháp luật về bảo đảm dự thầu trong đấu thầu mua sắm hàng
hóa ở Việt Nam hiện nay; Phân tích, đánh giá thực tiễn thực hiện pháp luật về bảo
đảm dự thầu trong đấu thầu mua sắm hàng hóa ở Việt Nam hiện nay; Nghiên cứu, đề
xuất các phương hướng, giải pháp hoàn thiện pháp luật về bảo đảm dự thầu trong
đấu thầu mua sắm hàng hóa ở nước ta trong thời gian tới [28].
Các công trình trên đã góp phần quan trọng vào việc hoàn thiện hệ thống
pháp luật Việt Nam về thực hiện hợp đồng thương mại nói chung, nghĩa vụ bảo hành
đối với hàng hóa trong họp đồng mua bán hàng hóa nói riêng. Tuy nhiên, cho đến
3
nay các công trình nghiên cứu trên đều chưa tập trung đánh giá thực tiễn việc thực
hiện nghĩa vụ bảo hành đối với hàng hóa trong hợp đồng mua bán hàng hóa theo
pháp luật thương mại Việt Nam. Đây là vấn đề cấp thiết đặt ra trong tiến trình hoàn
thiện hệ thống pháp luật nói chung, hệ thống pháp luật kinh tế nói riêng ở nước ta.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Luận văn tập trung phân tích và làm sáng tỏ những vấn đề pháp lý về nghĩa
vụ bảo hành của Bên Bán đối với hàng hóa trong hợp đồng mua bán hàng hóa. Đồng
thời, bình luận và đánh giá thực tiễn việc thực hiện nghĩa vụ bảo hành của Bên Bán
đối với hàng hóa, để từ đó có cơ sở xây dựng và hoàn thiện các quy định của pháp
luật thương mại hiện hành về nghĩa vụ bảo hành của Bên Bán trong thực hiện nghĩa
vụ bảo hành hàng hóa nói riêng thống nhất trong luật pháp quốc gia và phù hợp với
thông lệ quốc tế.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở mục đích nghiên cứu, đề tài có nhiệm vụ nghiên cứu sau:
Thứ nhất, tìm hiểu và phân tích khái niệm, đặc điểm của hợp đồng mua bán
hàng hóa, từ đó làm rõ các vấn đề lý luận và các nguyên tắc thực hiện hợp đồng mua
bán hàng hóa. Khái niệm nghĩa vụ bảo hành và nghĩa vụ của các bên trong thực hiện
hợp đồng mua bán hàng hóa.
Thứ hai, luận văn sẽ nêu và phân tích các nội dung cơ bản của về nghĩa vụ
bảo hành của Bên Bán đối với hàng hóa thông qua các văn bản luật, đồng thời
nghiên cứu các quy định riêng dành cho các hợp đồng có vốn của nhà nước. Phân
tích thực tiễn thực thi các quy định về nghĩa vụ bảo hành ở một số vụ án và đưa ra
các tồn tại hạn chế hiện nay trong việc thực hiện nghĩa vụ bảo hành của Bên Bán đối
với hàng hóa.
4
Cuối cùng, kiến nghị một vài giải pháp để xây dựng và hoàn thiện pháp luật
Việt Nam về thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa nói chung và nghĩa vụ bảo hành
của Bên Bán đối với hàng hóa trong hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định về nghĩa vụ bảo hành của
Bên Bán đối với hàng hóa trong hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật thương
mại Việt Nam hiện hành.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào các vấn đề lý luận và thực
tiễn việc thực hiện nghĩa vụ bảo hành của Bên Bán đối với hàng hóa trong hợp đồng
mua bán hàng hóa theo pháp luật thương mại Việt Nam hiện hành.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa triết học
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng,
Nhà nước ta về phát triển kinh tế xã hội, về xây dựng và hoàn thiện pháp luật trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong Luận văn là phương
pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp luận học so
sánh.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Hiện nay chưa có đề tài nào nghiên cứu một cách toàn diện về cả lý luận và
thực tiễn về nghĩa vụ bảo hành của Bên Bán đối với hàng hóa trong hợp đồng mua
bán hàng hóa theo pháp luật thương mại Việt Nam. Do đó, việc nghiên cứu đề tài
“Nghĩa vụ bảo hành của Bên Bán đối với hàng hóa trong hợp đồng mua bán hàng
hóa theo pháp luật thương mại Việt Nam hiện nay” tương đối là mới. Đề tài sẽ hệ
thống hóa, làm sáng tỏ thêm về mặt lý luận khái niệm, đặc điểm, nội dung, nguyên
5
tắc của việc thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa, nghĩa vụ bảo hành và nguyên tắc
giao dịch bảo hành, qua đó góp phần làm luận cứ khoa học cho quá trình hoàn thiện
pháp luật Việt Nam trong vấn đề này.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
Luận văn gồm 03 chương, cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận cơ bản về hợp đồng mua bán hàng hóa và
pháp luật về nghĩa vụ bảo hành của Bên Bán hàng hóa.
Chương 2: Thực trạng thực hiện nghĩa vụ bảo hành của Bên Bán đối với hàng
hóa trong hợp đồng mua bán hàng hóa theo pháp luật Thương mại Việt Nam hiện
nay
Chương 3: Phương hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về nghĩa vụ bảo
hành của bên bán đối với hàng hóa trong hợp đồng mua bán hàng hóa theo luật
Thương mại Việt Nam
6
Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN
HÀNG HÓA VÀ PHÁP LUẬT VỀ NGHĨA VỤ BẢO HÀNH CỦA BÊN
BÁN HÀNG HÓA
1.1.
Khái quát về hợp đồng mua bán hàng hóa
1.1.1.
Khái niệm, đặc điểm của hợp đồng mua bán hàng hóa
1.1.1.1.
Khái niệm
Mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại, theo đó Bên Bán có nghĩa vụ
giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho Bên Mua và nhận thanh toán; Bên
Mua có nghĩa vụ thanh toán cho Bên Bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo
thỏa thuận. Hợp đồng mua bán hàng hóa có bản chất chung của hợp đồng, nó là sự
thỏa thuận nhằm xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt các quyền và nghĩa vụ trong quan
hệ mua bán. Luật Thương mại không đưa ra định nghĩa về hợp đồng mua bán hàng
hóa trong thương mại, nhưng có thể dựa vào khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa
trong luật dân sự để xác định bản chất của hợp đồng mua bán hàng hóa.
Quan hệ mua bán hàng hoá được xác lập và thực hiện thông qua hình thức
pháp lý là hợp đồng mua bán hàng hoá. Hợp đồng mua bán hàng hoá có bản chất
chung của hợp đồng, là sự thoả thuận nhằm xác lập, thay đổi hay chấm dứt các
quyền và nghĩa vụ trong quan hệ mua bán. Bản chất của hợp đồng mua bán hàng hoá
trong thương mại dựa trên cơ sở quy định của Bộ luật dân sự về hợp đồng mua bán
tài sản (Điều 430). Từ đó cho thấy hợp đồng mua bán hàng hoá trong thương mại là
một dạng cụ thể của hợp đồng mua bán tài sản. Một hợp đồng mua bán có thể là thỏa
thuận về việc mua bán hàng hoá ở hiện tại hoặc mua bán hàng hoá sẽ có ở 1 thời
điểm nào đó trong tương lai. Bất cứ khi nào, một người mua hàng hoá bằng tiền
hoặc phương thức thanh toán khác và nhận quyền sở hữu hàng hoá thì khi đó hình
thành nên quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá [20].
Căn cứ vào các yếu tố chủ thể, đối tượng, nơi xác lập và thực hiện hợp đồng,
hợp đồng mua bán hàng hoá được chia thành hợp đồng mua bán hàng hoá trong
nước và hợp đồng mua bán hàng hoá có yếu tố nước ngoài (hợp đồng mua bán hàng
hoá quốc tế).
Theo Điều 385, Bộ luật dân sự năm 2015 về Khái niệm hợp đồng thi: Hợp
đồng là sự thỏa thuận giữa các bên về việc xác lập, thay đổi hoặc chấm dứt quyền,
nghĩa vụ dân sự [24].
Theo Điều 430 Bộ luật Dân sự 2015, trong hợp đồng mua bán, sự thỏa thuận
của các bên sẽ làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ dân sự của Bên Bán và Bên
Mua: Hợp đồng mua bán tài sản là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên bán
chuyển quyền sở hữu tài sản cho bên mua và bên mua trả tiền cho bên bán [25].
Do đó, đối với Bên Bán thì việc bán hàng hóa và nhận tiền vừa là quyền và
vừa là nghĩa vụ; đối với Bên Mua thì việc nhận hàng hóa và trả tiền cũng vừa là
quyền vừa là nghĩa vụ. Hợp đồng mua bán hàng hóa là một trong các loại hợp đồng
dân sự có tính thông dụng và phổ biến nhất. Hợp đồng là một căn cứ phát sinh một
quan hệ nghĩa vụ dân sự, nội dung của hợp đồng xác định rõ nghĩa vụ của các bên.
Trong hợp đồng mua bán hàng hóa, Bên Bán có nghĩa vụ cơ bản là chuyển giao hàng
hóa và quyền sở hữu hàng hóa cho Bên Mua và Bên Mua có nghĩa vụ trả tiền cho
Bên Bán. Dấu hiệu quan trọng của hợp đồng mua bán là chuyển quyền sở hữu hàng
hóa đồng thời hàng hóa được chuyển giao. Hợp đồng mua bán hàng hóa quy định
trong Bộ luật Dân sự này được áp dụng đối với mọi hàng hóa được phép mua bán
trong quan hệ dân sự, có thể là bất động sản hoặc động sản, hàng hóa hoặc quyền
hàng hóa... Những quy định về hợp đồng mua bán hàng hóa trong Bộ luật Dân sự
này mang tính nguyên tắc chung, luật chuyên ngành có thể dự trên nguyên tắc chung
này để xây dựng quy định riêng.
Việc có xác định dịch vụ là một loại hàng hóa hay phân tích ra khỏi hàng hóa
cần được quan tâm nhiều hơn, khi điều 513, Bộ luật dân sự năm 2015 đã quy định rõ
về khái niệm hợp đồng dịch vụ: Hợp đồng dịch vụ là sự thỏa thuận giữa các bên,
theo đó bên cung ứng dịch vụ thực hiện công việc cho bên sử dụng dịch vụ, bên sử
dụng dịch vụ phải trả tiền dịch vụ cho bên cung ứng dịch vụ [25].
Từ đó cho thấy, hợp đồng mua bán hàng hóa trong thương mại một dạng cụ
thể của hợp đồng mua bán hàng hóa. Điểm phân biệt giữa hợp đồng mua bán hàng
hóa trong thương mại và hợp đồng mua bán hàng hóa khác là: đối tượng hàng hóa và
mục đích sinh lời.
Căn cứ vào yếu tố chủ thể, đối tượng, nơi xác lập và thực hiện hợp đồng, hợp
đồng mua bán hàng hóa được chia thành hợp đồng mua bán hàng hóa trong nước và
hợp đồng mua bán hàng hóa có yếu tố nước ngoài (hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế). Về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, nó không được định nghĩa trong
Luật Thương mại 2005, nhưng qua quy định tại Điều 683 Bộ luật Dân sự 2015 về
quan hệ hợp đồng dân sự có yếu tố nước ngoài, có thể suy ra rằng một hợp đồng
được coi là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế khi có một trong các yếu tố sau:
- Căn cứ vào yếu tố chủ thể, hợp đồng được giao kết bởi các bên không cùng
quốc tịch.
- Căn cứ vào yếu tố đối tượng, hàng hóa là đối tượng của hợp đồng đang tồn
tại ở nước ngoài.
- Căn cứ vào nơi xác lập và thực hiện hợp đồng, hợp đồng được giao kết ở
nước ngoài (nước mà các bên chủ thể giao kết hợp đồng không mang quốc tịch) và
có thể được thực hiện ở nước mình hay nước thứ ba.
Điều cần chú ý ở hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế là các bên tham gia
giao kết hợp đồng sẽ rất dễ gặp phải các rủi ro đặc thù như xung đột pháp luật, do
quá trình vận chuyển, thanh toán, thực thi cam kết hợp đồng. Vì vậy, các bên cần
thỏa thuận và soạn thảo ra một bản hợp đồng chi tiết. Khoản 2 Điều 27 Luật Thương
mại quy định rằng hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải được lập thành văn bản
hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương [19] [24].
1.1.
L2. Đặc điểm hợp đồng mua bán hàng hóa
Có thể xem xét hợp đồng mua bán hàng hóa trong mối liên hệ với hợp đồng
mua bán hàng hóa trong dân sự theo nguyên lí của mối liên hệ giữa cái riêng và cái
chung. Nhiều vấn đề về hợp đồng mua bán hàng hóa được điểu chỉnh bởi pháp luật
không có sự khác biệt với các hợp đồng mua bán hàng hóa trong dân sự, như: giao
kết hợp đồng, hợp đồng vô hiệu và xử lý hợp đồng vô hiệu... Bên cạnh đó, để phù
hợp với bản chất thương mại của hợp đồng mua bán hàng hóa, một số vấn đề như
chủ thể, hình thức, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ mua bán hàng hóa,
chế tài và giải quyết tranh chấp hợp đồng mua bán hàng hóa. được quy định trong
pháp luật thương mại có tính chất là sự phát triển tiếp tục những quy định của dân
luậttruyền thống về hợp đồng mua bán hàng hóa. Với tư cách là hình thức pháp lí
của quan hệ mua bán hàng hóa, hợp đồng mua bán hàng hóa có những đặc điểm nhất
định, xuất phát từ bản chất thương mại của hành vi mua bán hàng hóa.
Thứ nhất, về chủ thể. Hợp đồng mua bán hàng hóa được thiết lập chủ yếu
giữa các thương nhân. Theo quy định của Luật Thương mạinăm 2005 thì “thương
nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương
mại một cách độc lập thường xuyên và có đăng ký kinh doanh” (Khoản 1 Điều 6
Luật Thương mại). Tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp nhằm mục đích hoạt
động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng kí kinh doanh sẽ được
coi là thương nhân. Thương nhân là chủ thể hợp đồng mua bán hàng hóa có thể
làthương nhân Việt Nam hoặc thương nhân nước ngoài (trong hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế) [19].
Ngoài chủ thể là thương nhân, các tổ chức, cá nhân không phải là
thươngnhân cũng có thể trở thành chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa. Khác với
bên là thương nhân, bên không phải là thương nhân có thể là mọi chủ thể có đủ năng
lực hành vi đểtham gia giao kết và thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa theo quy
định của pháp luật.
Thứ hai, về đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa. Đối tượng của hợp
đồng mua bán hàng hóa là hàng hóa. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 3 Luật Thương
mại năm 2005 thì hàng hóa bao gồm tất cả các động sản, kể cả động sảnhình thành
trong tương lai, và cả hàng hóa gắn liền với đất đai. Tuy nhiên khái niệm nàyvẫn còn
hạn chế, chúng ta dễ dàng nhận thấy hàng hóa chỉ bao gồm các loại hàng hóa hữu
hình, các loại hàng hóa vô hình khác như quyền sử dụng đất, quyền sở hữu trí tuệ...
chưa được thừa nhận là hàng hóa [19].
Trong khi đó, Điều 431 Bộ Luật dân sự 2015 quy định đối tượng của hợp đồng
mua bán hàng hóa có thể là hàng hóa, giấy tờ có giá hoặc các quyền hàng hóa. Tiền
cũng là một trong các loại hàng hóa được quy định tại Điều 105 của Bộ luật Dân sự
này nhưng không phải là đối tượng của hợp đồng mua bán, bởi vì nó là một loại
công cụ có chức năng định giá các loại hàng hóa khác, nên nó thường xuyên xuất
hiện trong các hợp đồng mua bán với vai trò là công cụ thanh toán [24].
Theo quy định tại Điều 431 Bộ luật Dân sự này và các quy định khác có liên
quan, hàng hóa là đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa phải thỏa mãn các điều
kiện sau:
Một là, phải là hàng hóa được phép giao dịch [20];
Hai là, phải được xác định cụ thể. Nếu là hàng hóa thì phải xác định rõ thông
qua số lượng, đặc điểm. Nếu là quyền hàng hóa thì phải có giấy tờ hoặc các bằng
chứng khác chứng minh thuộc quyền sở hữu của Bên Bán.
Ba là, không phải là hàng hóa đang bị tranh chấp về quyền sở hữu.
Bốn là, không phải là hàng hóa đang bị kê biên để thi hành án;
Năm là, không phải là hàng hóa đang được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa
vụ dân sự, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác hoặc các bên có thỏa thuận
khác.
Sáu là, nếu đối tượng của hợp đồng mua bán là hàng hóa hạn chế giao dịch thì
việc mua bán phải tuân theo quy định của pháp luật về trình tự, thủ tục chuyển giao
quyền sở hữu hàng hóa đó.
Bản chất của hợp đồng mua bán là chuyển quyền sở hữu hàng hóa, cho nên
hàng hóa bản phải thuộc quyền sở hữu của Bên Bán hoặc Bên Bán có quyền bán như
được ủy quyền bán hoặc cơ quan nhà nước có thẩm quyền bán đấu giá hàng hóa...
Trong Bộ luật Dân sự 2015, Luật đất đai năm 2003 quy định người có quyền
sử dụng đất có quyền chuyển nhượng, cho thuê, thế chấp. thậm chí thừa nhận trên
thực tế sàn giao dịch về quyền sử dụng đất. Và đối tượng là yếu tố đặc thù để phân
biệt hợp đồng mua bán hàng hóa với các hợp đồng thương mại khác [18].
Thứ ba, hình thức của hợp đồng mua bán hàng hóa. Hình thức của hợp đồng
mua bán hàng hóa là cách thức thể hiện ý chí thỏa thuận giữa các bêntham gia quan
hệ hợp đồng. Nó có thể được thể hiện dưới hình thức lời nói, bằngvăn bản hoặc bằng
hành vi cụ thể của các bên giao kết. Trong những trường hợpnhất định, pháp luật bắt
buộc các bên phải thiết lập hợp đồng mua bán hàng hóa dưới hình thức vănbản. Luật
Thương mại năm 2005 cũng quy định: “hợp đồng mua bán hàng hóa được thể hiện
bằng lời nói, bằngvăn bản hoặc được xác lập bằng hành vi cụ thể. Đối với các loại
hợp đồng mua bán hàng hóa màpháp luật quy định phải được lập thành văn bản thì
phải tuân theo các quy định đó” [19].
Riêng hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế phải được lập thành văn bản hoặc
hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương. Các hình thức có giá trị pháp lý
tương đương văn bản bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu (là thông tin
được tạo ra, gửi đi, nhận vàlưu giữ bằng phương tiện điện tử) và các hình thức khác
theo quy định của pháp luật.
Những quy định của Luật Thương mại Việt Nam 2005 phù hợp với pháp luật
quốc tế về mua bán hàng hóa, đã tạo điều kiện cho sự hội nhập khi các chủ thể có
quan hệ hợp đồngthương mại quốc tế. Có thể nói hình thức của hợp đồng mua bán
hàng hóa trong Luật Thương mại 2005 là phù hợp với Công ước Viên 1980 bởi Điều
11 Công ước Viên 1980 quy định. “Không yêu cầu hợp đồng mua bán phải được ký
hoặc phải được xác nhận bằng văn bản hoặc phải tuân thủ mọi yêu cầu nào đó về
mặt hình thức. Có thể dùng bất kỳ phương tiện nào, kể cả lời khai nhân chứng để
chứng minh sự tồn tại của hợp đồng đó” [34].
Như vậy, Luật Thương mại 2005 đã vượt ra và khắc phục được hạn chế về
hình thức hợpđồng do các văn bản pháp luật trước đó quy định như pháp luật Hợp
đồng kinh tế.
Hợp đồng mua bán hàng hóa là sự thỏa thuận giữa các bên với nhau, dưới
góc độ pháp lý việc tuân thủ hình thức của hợp đồng sẽ là bắt buộc một khi pháp luật
có sự ghi nhận về vấn đề đó với mục đích hạn chế các rủi ro cho các bên tham gia
vào quan hệ hợp đồng.
Thứ tư, mục đích của hợp đồng mua bán hàng hóa. Ở nước ta, quá trình
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường đã làm nảy sinh các quan hệ thương mại
nhằm mục đích lợi nhuận và do vậy một hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật
được ban hành nhằm điều chỉnh các hoạt động mang tính chất kinh doanh thương
mại đó. Nền kinh tế thị trường có những giao dịch thương mại giữa các thương nhân,
điều đó đòi hỏi cần phải có quy định pháp lý phù hợp. Chính từ những yêu cầu của
xã hội, Luật Thương mại 2005 ra đời để thỏa mãn quá trình công nghiệp hóa của đất
nước. Trong các hành vi thương mại được quy định trong Luật Thương mại thì hành
vi mua bán hàng hóa được xem là quan trọng hơn cả bởi nó có vai trò lớn trong đời
sống kinh tế xã hội và nó cũng chi phối những hành vi thương mại khác. Khi đó các
cá nhân, tổ chức, phải xác lập các mối quan hệ với nhau, các mối quan hệ được thể
hiện thông qua sự trao đổi, thỏa thuận làm phát sinh các quyền và nghĩa vụ của các
bên trong phạm vi các mối quan hệ về dân sự, kinh tế, lao động thì sự trao đổi, thỏa
thuận được coi là “Giao dịch”. Dưới góc độ pháp lý thì giao dịchnói trên luôn được
thể hiện bằng hình thức “Hợp đồng”. Hay nói một cách khác “hợp đồng” là một hình
thức pháp lý của “giao dịch”. Căn cứ vào mục đích của việc ký kết hợp đồng có hay
không có lợi nhuận mà có thể giúp phân biệt được hợp đồngdân sự và hợp đồng kinh
doanh - thương mại. Theo đó, mục đích giao dịch của hợpđồng kinh doanh - thương
mại nói chung, hợp đồng mua bán hàng hóa nói riêng thì yếu tố quantrọng chính là
mục đích lợi nhuận. Đối với hai bên chủ thể là thương nhân với nhauthì mục đích là
lợi nhuận. Ví dụ Công ty A mua nguyên liệu của cá nhân B kinh doanh nguyên liệu
về để sản xuất, vậy thì cả Công ty A, cá nhân B đều có mục đích lợi nhuận khi giao
dịch. Trong hợp đồng mua bán hàng hóa ngoài chủ thể là thương nhân thì còn có các
tổ chức, cá nhân không phải là thương nhân, trong trường hợp này mục đích củaviệc
thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa là dành cho mục đích sinh hoạt, tiêu dùng hay
phục vụ hoạt động của các cơ quan tổ chức.
1.1.2.
Nội dung hợp đồng mua bán hàng hóa
Hợp đồng mua bán hàng hóa là sự thỏa thuận của các bên về việc xác lập
quyền và nghĩa vụ của họ trong việc mua bán. Do đó, nội dung của hợp đồng mua
bán hàng hóa trước hết là những điều khoản do các bên thỏa thuận. Các bên có
quyền quyết định nội dung của hợp đồng. Bởi vì quyền và nghĩa vụ của các bên
trong quan hệ hợp đồng phát sinh chủ yếu từ những điều khoản mà các bên thỏa
thuận đó. Vì vậy mà các bên thỏa thuận các điều khoản trong hợp đồng càng rõ ràng
bao nhiêu thì càng thuận lợi trong việc thực hiện hợp đồng bấy nhiêu.
Xuất phát từ nguyên tắc tự do hợp đồng, pháp luật không giới hạn các điều
khoản mà các bên thỏa thuận với nhau. Pháp luật chỉ quy định nội dung chủ yếu của
hợp đồng hoặc các điều khoản mang tính khuyến nghị để định hướng cho các bên
trong việc thỏa thuận.
Nội dung của hợp đồng trước hết là những điều khoản mà các bên phải thỏa
thuận được với nhau. Điều 398, Bộ luật Dân sự năm 2015 cũng chỉ quy định các bên
“có thể thỏa thuận” mà không đòi hỏi phải thỏa thuận những nội dung chủ yếu nào.
Mặc dù nội dung chủ yếu của hợp đồng mua bán hàng hóa có thể xác định được dựa
trên những quy định mang tính “khuyến nghị”, “định hướng” của pháp luật, thói
quen và tập quán thương mại, nhưng trong điều kiện nhận thức của nhà kinh doanh
còn nhiều hạn chế, thì điều này tiềm ẩn những nguy cơ pháp lý, những tranh chấp
trong hoạt động mua bán hàng hóa. Đặc biệt là trong điều kiện nước ta hiện nay.
Trên cơ sở các quy định của Bộ luật Dân sự và Luật Thương mại, xuất phát từ tính
chất của quan hệ mua bán hàng hóa trong thương mại, có thể thấy những điều khoản
quan trọng của hợp đồng mua bán hàng hóa bao gồm: đối tượng, chất lượng, giá cả,
phương thức thanh toán, thời hạn và địa điểm giao nhận hàng [24].
Mặc dù nội dung của hợp đồng do các bên thỏa thuận, nhưng trong mọi quan
hệ hợp đồng nói chung và trong quan hệ mua bán hàng hóa nói riêng, các bên không
chỉ chịu sự ràng buộc bởi các điều khoản mà các bên thỏa thuận mà còn chịu sự ràng
buộc bởi những quy định của pháp luật. Ví dụ, các bên không thỏa thuận trong hợp
đồng về điều khoản bồi thường thiệt hại cho nhau khi một bên vi phạm hợp đồng,
nhưng bên vi phạm hợp đồng vẫn phải có nghĩa vụ bồi thường nếu việc vi phạm đó
gây thiệt hại cho bên đối tác (quy định tại Điều 299 và 302 Luật Thương mại 2005).
Như vậy, cấu trúc của hợp đồng mua bán hàng hóa không chỉ là các điều khoản do
các bên thỏa thuận mà còn có thể bao gồm cả những điều khoản do các bên không
thỏa thuận nhưng theo quy định của pháp luật các bên có nghĩa vụ phải thực hiện
[19].
1.2.
Khái quát pháp luật về nghĩa vụ bảo hành của Bên Bán hàng hóa
trong hợp đồng mua bán hàng hóa
1.2.1.
Khái niệm và căn cứ phát sinh nghĩa vụ bảo hành
Khái niệm
Theo Điều 274, Bộ Luật dân sự năm 2015 về Nghĩa vụ thì: Nghĩa vụ là việc
mà theo đó, một hoặc nhiều chủ thể (sau đây gọi chung là bên có nghĩa vụ) phải
chuyển giao hàng hóa, chuyển giao quyền, trả tiền hoặc giấy tờ có giá, thực hiện
công việc hoặc không được thực hiện công việc nhất định vì lợi ích của một hoặc
nhiều chủ thể khác (sau đây gọi chung là bên có quyền) [24].
Trong luật La-tinh, nghĩa vụ được hình dung như một mối liên hệ pháp lý mà
theo đó, một người, người có quyền, có thể đòi hỏi ở một người khác, người có
nghĩa vụ, chuyển giao một quyền, làm một việc hoặc không làm một việc. Dựa vào
quan niệm đó mà luật phân biệt hai nhóm nghĩa vụ: làm hoặc không làm một việc;
và chuyển giao một quyền. Cũng dựa vào quan niệm đó mà luật phân biệt nghĩa vụ,
như là một quyền đối nhân, với quyền đối hàng hóa: quyền đối nhân được thực hiện
chống lại một người; trong khi quyền đối hàng hóa (ví dụ: quyền sở hữu) được thực
hiện trực tiếp trên một hàng hóa mà không cần thông qua vai trò của một người
khác. Quan hệ nghĩa vụ gồm ba yếu tố: chủ thể có (người có quyền), chủ thể nợ
(người có nghĩa vụ) và đối tượng của nghĩa vụ (nội dung sự đáp ứng của chủ thể nợ
đối với chủ thể có).
Luật Việt Nam cũng thừa nhận rằng quan hệ nghĩa vụ gồm có ba yếu tố như
trên. Nhưng đối tượng của nghĩa vụ trong luật Việt Nam, không như trong luật
phương Tây, chỉ có thể là làm hoặc không làm một việc. Với cách quan niệm đó, thì
nghĩa vụ chuyển giao một quyền trong luật Việt Nam được coi như nghĩa vụ làm một
việc. Thực ra, nghĩa vụ làm hoặc không làm một việc, trong quan niệm phương Tây,
là loại nghĩa vụ mà trong trường hợp người có nghĩa vụ không tự giác thực hiện, chỉ
có thể được cưỡng chế thực hiện bằng cách phạt vạ; nếu đã phạt vạ mà người có
nghĩa vụ vẫn không thực hiện, thì mọi nghĩa vụ làm hoặc không làm một việc đều
được quy về nghĩa vụ trả một số tiền; và nếu nghĩa vụ làm một việc không phải là
nghĩa vụ trả tiền, thì nghĩa vụ trả tiền được áp đặt gọi là nghĩa vụ bồi thường thiệt
hại hoặc nghĩa vụ thay thế. Trong khi đó, nghĩa vụ chuyển một quyền, nếu không
được tự giác thực hiện, thì có thể được cưỡng chế thực hiện đến cùng nhờ có vai trò
của các cơ quan bảo vệ pháp luật. Trong điều kiện ấy, sự phân biệt giữa nghĩa vụ làm
một việc với nghĩa vụ chuyển một quyền tỏ ra hợp lý.
Trên cơ sở đó, đề tài đề xuất khái niệm nghĩa vụ bảo hành như sau: Nghĩa vụ
bảo hành là nghĩa vụ của Bên Bán hàng hóa thể hiện trách nhiệm bảo đảm đối với
hàng hóa bán cho Bên Mua trong một thời hạn (gọi là thời hạn bảo hành) theo thỏa
thuận hoặc theo quy định của pháp luật. Tùy thuộc sự thỏa thuận của các bên, trong
thời hạn bảo hành, nếu Bên Mua phát hiện khuyết tật của hàng hóa mua bán, thì có
quyền yêu cầu Bên Bán sửa chữa không phải trả tiền, giảm giá, đổi hàng hóa có
khuyết tật lấy hàng hóa khác hoặc trả lại hàng hóa là lấy lại tiền.
Trên thực tế, không phải lúc nào hàng hóa mà người tiêu dùng mua cũng có
chất lượng như các bên đã giao kết mà có thể phát sinh những khiếm khuyết ảnh
hưởng đến tính năng, công dụng, mục đích sử dụng của người tiêu dùng. Do đó đặt
ra vấn đề trách nhiệm trong việc bảo hành hàng hóa, linh kiện, phụ kiện của tổ chức,
cá nhân kinh doanh để quyền lợi của người tiêu dùng được đảm bảo.
Trách nhiệm bảo hành hàng hóa, linh kiện, phụ kiện là trách nhiệm của tổ
chức, cá nhân kinh doanh trong việc sửa chữa, thay thế hoặc hoàn trả hàng hóa, linh
kiện, phụ kiện đối với người tiêu dùng trong trường hợp hàng hóa, linh kiện, phụ
kiện đó được các bên thỏa thuận bảo hành hoặc bắt buộc bảo hành theo quy định của
pháp luật. Đặc điểm của loại trách nhiệm này đó là:
- Cơ sở phát sinh trách nhiệm bảo hành là do thỏa thuận của các bên hoặc do
pháp luật quy định bắt buộc bảo hành trong những trường hợp nhất định.
- Trách nhiệm bảo hành thông thường chỉ áp dụng đối với hàng hóa, linh
kiện, phụ kiện (hàng hóa hữu hình).
- Trách nhiệm bảo hành được xác lập trong một thời hạn nhất định.
1.2.1.2.
Căn cứ phát sinh nghĩa vụ bảo hành
Theo Điều 275, Bộ luật dân sự năm 2015 quy định về căn cứ phát sinh nghĩa
vụ bao gồm các trường hợp: Từ hợp đồng; Từ hành vi pháp lý đơn phương; Từ việc
thực hiện công việc không có ủy quyền; Từ việc chiếm hữu, sử dụng hàng hóa hoặc
được lợi về hàng hóa không có căn cứ pháp luật; Từ việc gây thiệt hại do hành vi trái
pháp luật; Từ các căn cứ khác do pháp luật quy định [24].
Hợp đồng mua bán hàng hóa là căn cứ phổ biến làm phát sinh quan hệ nghĩa
vụ dân sự. Tuy nghiên, nghĩa vụ dân sự phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hóa còn
tuỳ thuộc vào tính chất của mỗi hợp đồng, theo đó nghĩa vụ dân sự được xác định là
nghĩa vụ liên đới, nghĩa vụ chính hay nghĩa vụ phụ, nghĩa vụ bổ sung. Căn cứ thoả
thuận của các bên chủ thể trong quan hệ hợp đồng là căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ
của các bên.
Hành vi pháp lý đơn phương là hành vi của cá nhân thể hiện ý chí tự do, tự
nguyện, tự định đoạt của bản thân nhằm làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt
quyền và nghĩa vụ dân sự. Khi một người thực hiện một hành vi pháp ký đơn
phương thì có thể làm phát sinh nghĩa vụ của người đó với người khác hoặc phát
sinh nghĩa vụ của người khác với người thứ ba. Ở phiếu bảo hành, chính sách bảo
hành, điểu kiện bảo hành của Bên Bán.
Nghĩa vụ dân sự không những phát sinh trên cơ sở hợp đồng mua bán hàng
hóa và hành vi pháp lý đơn phương (căn cứ phát sinh theo ý chí), nó còn phát sinh từ
những căn cứ khác do pháp luật quy định (căn cứ phát sinh ngoài ý chí). Đó là
những căn cứ pháp lý do pháp luật quy định điều chỉnh các quan hệ nghĩa vụ về
hàng hóa giữa các chủ thể trông quan hệ xã hội thuộc lĩnh vực dân sự. Những căn cứ
làm phát sinh nghĩa vụ do pháp luật quy định cũng được xem là những căn cứ phổ
biến thường phổ biến trong đời sống xã hội.
1.2.2.
Quan hệ pháp luật về nghĩa vụ bảo hành hàng hóa trong hợp đồng
mua
bán hàng hóa và nguyên tắc của giao dịch có bảo hành
1.2.2.1. Chủ thể của quan hệ pháp luật về nghĩa vụ bảo hành hàng hóa
Chủ thể của quan hệ pháp luật là cá nhân, tổ chức đáp ứng được những điều
kiện do Nhà nước quy định đối với mỗi loại quan hệ pháp luật và tham gia vào quan
hệ pháp luật đó. Mỗi ngành luật có một phạm vi chủ thể khác nhau nên phạm vi chủ
thể của các quan hệ pháp luật cũng khác nhau.
Theo quy định pháp luật về thương mại và hợp đồng mua bán hàng hóa hiện
hành, chủ thể quan hệ pháp luật về nghĩa vụ bảo hành gồm có: bên bán, bên trung
gian thương mại hoặc bên sản xuất.
Phạm vi nghĩa vụ của các chủ thể này cũng rất khác nhau về nội dung nghĩa
vụ, về thời hạn nghĩa vụ và thời gian và phương thức thực hiện nghĩa vụ.
I.2.2.2. Khách thể của quan hệ pháp luật về nghĩa vụ bảo hành hàng hóa
Khách thể của quan hệ pháp luật là những lợi ích hàng hóa chất, tinh thần và những
lợi ích xã hội khác có thể thỏa mãn những nhu cầu, đòi hỏi của các tổ chức hoặc cá
nhân mà vì chúng các chủ thể tham gia vào quan hệ pháp luật, nghĩa là vì chúng mà
họ thực hiện các quyền và nghĩa vụ chủ thể của mình.
Khách thể quan hệ pháp luật về nghĩa vụ bảo hành hàng hóa là những lợi ích
hàng hóa vật chất, tinh thần và những lợi ích xã hội khác có thể thỏa mãn những nhu
cầu, đòi hỏi của các tổ chức, cá nhân tham gia vào quan hệ pháp luật về bảo hành
hàng hóa khi thực hiện các giao dịch mua bán hàng hóa có bảo hành, từ đó họ thực
hiện các quyền và nghĩa vụ chủ thể trong quan hệ pháp luật về nghĩa vụ bảo hành
hàng hóa.
1.2.2.3.
Nội dung pháp luật về nghĩa vụ bảo hành của bên bán đối với hàng
hóa Bên cạnh nghĩa vụ quan trọng nhất là bàn giao hàng hóa, bên bán còn có
một nghĩa vụ khác, đó là bảo hành hàng hóa, tức là trong một thời hạn nhất
định, bên bán phải chịu trách nhiệm về hàng hóa sau khi đã giao hàng hóa cho
bên mua. Pháp luật quy định trong trường hợp hàng hóa có bảo hành thì bên
bán phải chịu trách nhiệm bảo hành hàng hóa đó theo nội dung và thời hạn đã
thỏa thuận. Thời hạn bảo hành có thể do các bên tự xác định, cũng có thể
được pháp luật quy định. Trong trường hợp pháp luật đã quy định thì thời hạn
đó mang tính bắt buộc và các bên chỉ được phép thỏa thuận để thay đổi tăng
thêm thời hạn đó mà thôi. Trong thời hạn bảo hành nếu bên mua phát hiện có
khuyết tật của hàng hóa thì có quyền yêu cầu bên bán sửa chữa, mọi phí tổn
về việc sửa chữa do bên bán chịu, trừ trường hợp có thỏa thuận khác. Nếu bên
bán không sửa chữa được hoặc không sửa chữa xong trong thời hạn hai bên
thỏa thuận thì bên mua có quyền yêu cầu đổi hàng khác, giảm giá, hoặc trả lại
hàng và lấy lại tiền. Luật Thương mại năm 2005 không quy định cụ thể
những vấn đề về bảo hành hàng hóa, nếu các bên không có thỏa thuận thì áp
dụng quy định của Bộ luật dân sự năm 2015 từ Điều 446 đến 449.
I.2.2.4.
Nguyên tắc giao dịch bảo hành hàng hóa
Bảo hành là việc khắc phục những lỗi hỏng hóc, sự cố kỹ thuật xảy ra do lỗi
của nhà sản xuất trong thời hạn bảo hành thiết bị hoặc phần mềm. Nguyên tắc giao
dịch bảo hành dựa vào Nguyên tắc cơ bản của giao dịch dân sự:
Theo Điều 3, Bộ luật Dân sự 2015 về Các nguyên tắc cơ bản của pháp luật
dân sự thì: Mọi cá nhân, pháp nhân đều bình đẳng, không được lấy bất kỳ lý do nào
để phân biệt đối xử; được pháp luật bảo hộ như nhau về các quyền nhân thân và
hàng hóa; Cá nhân, pháp nhân xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự
của mình trên cơ sở tự do, tự nguyện cam kết, thỏa thuận. Mọi cam kết, thỏa thuận
không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội có hiệu lực thực hiện
đối với các bên và phải được chủ thể khác tôn trọng; Cá nhân, pháp nhân phải xác
lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự của mình một cách thiện chí, trung
thực; Việc xác lập, thực hiện, chấm dứt quyền, nghĩa vụ dân sự không được xâm
phạm đến lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của
người khác; Cá nhân, pháp nhân phải tự chịu trách nhiệm về việc không thực hiện
hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ dân sự [24].
Có thể thấy rằng nguyên tắc giao dịch dân sự nói chung và giao dịch bảo
hành nói riêng tập trung vào 2 nội dung:
Thứ nhất, nguyên tắc tự do giao kết hợp đồng nhưng không được trái pháp
luật, đạo đức xã hội.
Thứ hai, nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng, thiện chí, hợp tác, trung thực và
ngay thẳng. Nguyên tắc này được quy định nhằm bảo đảm trong việc giao kết hợp
đồng không ai bị cưỡng ép hoặc bị những cản trở trái với ý chí của mình; đồng thời
thể hiện bản chất của quan hệ pháp luật dân sự.
Thứ ba, trong giao dịch hàng hóa có bảo hành, Bên Bán phải thực hiện đầy
đủ nghĩa vụ bảo hành hàng hóa trong hợp đồng mua bán hàng hóa và cung cấp cho
người mua giấy tiếp nhận bảo hành, trong đó ghi rõ thời gian thực hiện nghĩa vụ bảo
hành. Thời gian thực hiện bảo hành không tính vào thời hạn bảo hành hàng hóa.
Trường người mua hàng hóa thay thế linh kiện, phụ kiện hoặc đổi hàng hóa mới thì
thời hạn bảo hành hàng hóa đó được tính từ thời điểm thay thế hoặc đổi hàng hóa
mới;
Thứ tư, thực hiện đúng đối tượng của hợp đồng trong giao dịch hàng hóa có
bảo hành. Nguyên tắc này đòi hỏi các bên thực hiện đúng điều khoản đối tượng là
hànghóa của hợp đồng. Không được thay đổi hàng hóa mà các bên đã thỏa thuận
trong hợp đồng bằng một hàng hóa khác nếu không được sự đồng ý của bên kia. Có
thực hiện đúng điều khoản này, các bên mới đạt được mục đích của hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế. Nếuhàng hóa không được giao đúng như đã thỏa thuận, thì có
thể làm đảo lộn kế hoạchkinh doanh buôn bán của cả hai bên.
Thứ năm, nguyên tắc thực hiện giao dịch bảo hành không vi phạm pháp luật,
không xâm phạm đến quyền và lợi ích hợp pháp của người khác. Đây là nguyên tắc
rất quan trọng khi tham gia vào hợp đồng nói chung vàhợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế nói riêng. Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế góp phần vào việc lưu thông
hàng hóa quốctế, phát triển sản xuất... và đi xa hơn làm ổn định các chính sách kinh
tế xã hội ở cácquốc gia. Vì vậy, trật tự kỷ cương trong các quan hê hợp đồng là yếu
tố cần thiết.Trong khuôn khổ quy định của pháp luật ở các nước, các doanh nghiệp
có quyền tham gia ký kết và thực hiện các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế; điều
này một mặt nói lên sự thừa nhận của các quốc gia về quyền tự do kinh doanh,
quyền bình đẳng trước pháp luật, mặt khác pháp luật đòi hỏi các doanh nghiệp tham
gia hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế không được vi phạm những điều cấm của
pháp luật, đồng thời cũng không được xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của người
khác.
Kết luận Chương 1
Chương 1 của luận văn tập trung nghiên cứu khái niệm, đặc điểm, nội dung
và nguyên tắc thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa. Trên cơ sở đó, nội dung
chương phân tích trách nhiệm và nghĩa vụ của các bên trong thực hiện hợp đồng
mua bán hàng hóa. Đây là nội dung quan trọng, giúp tác giả nghiên cứu lý luận về
nghĩa vụ bảo hành của Bên Bán đối với hàng hóa trong hợp đồng mua bán hàng hóa
trong mối tương quan với các nghĩa vụ khác của Bên Bán nhằm có cái nhìn thống
nhất, tổng thể về các quy định liên quan đến nghĩa vụ bảo hành. Bên cạnh đó, tác giả
cũng nghiên cứu những quy định về giao dịch bảo hành.
Chương 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN NGHĨA VỤ BẢO HÀNH CỦA BÊN BÁN ĐỐI
VỚI HÀNG HÓA TRONG HỢP ĐỒNG MUA BÁN HÀNG HÓA
HIỆN NAY
2.1.
Các nghĩa vụ của Bên Bán giai đoạn sau khi bán hàng hóa
Trong hợp đồng mua bán hàng hóa có sự thỏa thuận làm phát sinh các nghĩa
vụ của Bên Bán và Bên Mua. Các nghĩa vụ của Bên Bán được xếp thành hai nhóm
tương ứng với hai giai đoạn thực hiện hợp đồng:
- Giai đoạn bán: Bên Bán có nghĩa vụ chuyển quyền sở hữu, nghĩa vụ sở
hữu, nghĩa vụ giao hàng hóa và nghĩa vụ cung cấp thông tin và hướng dẫn cách sử
dụng.
- Giai đoạn sau khi bán: Bên Bán có nghĩa vụ đảm bảo sự an toàn của Bên
Mua trong việc sử dụng hàng hóa, nghĩa vụ bảo đảm quyền sở hữu của Bên Mua đối
với hàng hóa mua, nghĩa vụ đảm bảo chất lượng của hàng hóa mua bán và nghĩa vụ
bảo hành.
Đối với các nghĩa vụ của Bên Bán với Bên Mua giai đoạn sau khi bán, dưới
đây ta đi sâu phân tích, bình luận nghĩa vụ đảm bảo chất lượng của hàng hóa để tìm
hiểu rõ về nghĩa vụ bảo hành của Bên Bán.
2.1.1.
Nghĩa vụ bảo đảm chất lượng của hàng hóa bán
Theo Điều 432 của Bộ Luật Dân sự năm 2015, thì trong hợp đồng mua bán
hàng hóa, điều khoản về chất lượng của hàng hóa mua bán không phải là điều khoản
cơ bản của hợp đồng. Trên thực tế, pháp luật cho phép các bên có thể thỏa thuận về
điều khoản chất lượng [24].
Nếu chất lượng đã được công bố hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền
quy định thì phải theo các tiêu chuẩn đã được công bố hoặc theo quy định của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền. Tuy nhiên, các tiêu chuẩn chất lượng đã được công
bố hoặc quy định cơ quan nhà nước có thẩm quyền về chất lượng của hàng hóa mua
bán chỉ xác định chất lượng tối thiểu phải đạt được. Nghĩa là, các bên vẫn có thể thỏa
thuận chất lượng của hàng hóa mua bán ở một giới hạn cao hơn các tiêu chuẩn hoặc
quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền đã công bố.
Trường hợp các bên không có thỏa thuận hoặc thỏa thuận không rõ về chất
lượng hàng hóa mua bán thì chất lượng hàng hóa mua bán được xác định theo tiêu
chuẩn về chất lượng của hàng hóa đã công bố (đăng ký với cơ quan nhà nước có
thẩm quyền, thể hiện trên bao bì sản phẩm...) hoặc được xác định theo quyết định
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền (Nhà nước quy định tiêu chuẩn chất lượng
hàng hóa) hoặc chất lượng hàng hóa mua bán không thấp hơn tiêu chuẩn ngành nghề
đặt ra (mỗi hiệp hội ngành nghề có tiêu chuẩn riêng về hàng hóa, sản phẩm, dịch
vụ ... yêu cầu các thành viên phải tuân theo).
Trường hợp không có tiêu chuẩn về chất lượng của hàng hóa đã được công
bố, quy định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền và tiêu chuẩn ngành nghề thì chất
lượng hàng hóa mua bán được xác định theo tiêu chuẩn thông thường hoặc theo tiêu
chuẩn riêng phù hợp với mục đích giao kết hợp đồng.
Điều khoản về chất lượng của hàng hóa trong hợp đồng các bên có thể thỏa
thuận hoặc không thỏa thuận trong nội dung của hợp đồng. Trường hợp không thỏa
thuận thì chất lượng của hàng hóa trong hợp đồng mua bán được xác định theo tiêu
chuẩn đã công bố, theo quyết định của cơ quan nhà nước có thẩm quyền hoặc theo
tiêu chuẩn ngành nghề. Tuy nhiên, trên thực tế có những hàng hóa không có quy
định về tiêu chuẩn hoặc không có phương thức xác định chất lượng thì sẽ căn cứ vào
chất lượng thông thường của hàng hóa, mục đích giao kết hợp đồng.
Nghĩa vụ bảo đảm chất lượng của hàng hóa bán, trong chừng mực nào đó, có
thể được coi là sự kéo dài của nghĩa vụ giao hàng hóa; Bên Bán không những phải
giao đúng chất lượng như đã thỏa thuận mà còn phải đảm bảo việc duy trì chất lượng
đó. Trong không ít trường hợp, hàng hóa mua bán ở trong tình trạng tuyệt hảo ở thời
điểm giao và trong thời kỳ đầu sau khi mua bán; thế nhưng rồi một vài khuyết tật của
hàng hóa, không bộc lộ lúc mua bán, xuất hiện trong quá trình hàng hóa được sử
dụng khiến cho hàng hóa không còn giá trị sử dụng hoặc bị giảm sút giá trị sử dụng.
Các tranh chấp liên quan đến chất lượng của hàng hóa mua bán càng lúc càng
phổ biến theo sự phát triển của nền kinh tế hàng hóa. Một mặt, sự gia tăng mức độ
phức tạp của công nghệ chế tạo khiến cho việc kiểm tra chất lượng của hàng hóa lúc
mua bán chỉ có tác dụng rất hạn chế trong việc phát hiện các khuyết tật của hàng hóa
liên quan; mặt khác, sự nâng cao trình độ chuyên nghiệp của Bên Bán hàng khiến
cho sự chênh lệch về trình độ hiểu biết về hàng hóa mua bán, giữa Bên Bán và Bên
Mua càng lúc càng rộng và do vậy, Bên Mua càng lệ thuộc vào Bên Bán trong quá
trình tìm hiểu các đặc điểm của hàng hóa mua bán.
Các quy định về nghĩa vụ bảo đảm chất lượng của hàng hóa mua bán còn
tương đối đơn giản trong pháp luật hiện hành. Bộ Luật dân sự chỉ dành Điều 445 để
nói về nghĩa vụ này như sau: Chất lượng của hàng hóa mua bán thể hiện thông qua
các giá trị sử dụng của hàng hóa và các đặc tính của hàng hóa (hàng hóa đã sử dụng
hay chưa, mới hay cũ, còn hoàn chỉnh hay bị khuyết tật, ...). Chất lượng của hàng
hóa do các bên thỏa thuận khi giao kết hợp đồng. Nếu các bên không có thỏa thuận
thì chất lượng của hàng hóa được xác định theo chất lượng của hàng hóa cùng loại
trên thị trường tại thời điểm và địa điểm giao kết hợp đồng. Khi chuyển giao hàng
hóa, Bên Bán phải đảm bảo chất lượng của hàng hóa theo đúng thỏa thuận.
Nếu sau khi mua mà Bên Mua phát hiện hàng hóa có khuyết tật, làm mất
hoặc giảm sút giá trị của hàng hóa thì Bên Mua có nghĩa vụ thông báo cho Bên Bán
ngay khi phát hiện. Khi nhận được thông báo, Bên Bán phải ngay lập tức khắc phục
những khuyết tật của hàng hóa, nếu không khắc phục được thì phải đổi hàng hóa
khác cho Bên Mua, giảm giá bán và bồi thường thiệt hại nếu có, trừ trường hợp các
bên có thỏa thuận khác.
Thông thường chất lượng, trọng lượng... hàng hóa được mô tả trong nhãn
hiệu hàng hóa, trên bao bì sản phẩm. Trường hợp hàng hóa không có nhãn hoặc