Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố phan rang tháp chàm, tỉnh ninh thuận

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 94 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Nguyễn Ngọc Quý

NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH CÁC
TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ PHAN RANG - THÁP CHÀM
TỈNH NINH THUẬN

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội - 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Nguyễn Ngọc Quý

NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA TÌNH HÌNH CÁC
TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ PHAN RANG - THÁP CHÀM
TỈNH NINH THUẬN
Chuyên ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm
Mã số: 8.38.01.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC


NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS NGUYỄN NGỌC ANH

Hà Nội - 2018


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU
KIỆN CỦA TÌNH HÌNH CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH
CHẤT CHIẾM ĐOẠT .................................................................................... 7
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của
tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt......................... 7
1.2. Phân loại nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt ........................................................................ 13
1.3. Cơ chế tác động của nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt.................................................. 20
1.4. Mối quan hệ nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội xâm phạm sở
hữu có tính chất chiếm đoạt với tình hình tội phạm, nhân thân người phạm
tội và phòng ngừa tội phạm......................................................................... 22
Chương 2: THỰC TRẠNG NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN CỦA
TÌNH

HÌNH CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT

CHIẾM ĐOẠT TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ PHAN RANG -THÁP
CHÀM, TỈNH NINH THUẬN ..................................................................... 27
2.1. Thực trạng các nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Phan Rang Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận giai đoạn 2013 – 2017 ............................... 27
2.2. Thực trạng các nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm

phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Phan Rang –
Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận thông qua các chủ thể phòng, chống tội phạm
..................................................................................................................... 44


Chương 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ PHÒNG NGỪA TÌNH
HÌNH CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM
ĐOẠT TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ PHAN RANG -THÁP CHÀM . 49
3.1. Dự báo tình hình tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
trên địa bàn thành phố Phan Rang – Tháp Chàm........................................ 49
3.2. Giải pháp phòng ngừa tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt trên địa bàn thành phố Phan Rang – Tháp Chàm ............................... 56
KẾT LUẬN .................................................................................................... 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

ANTQ

An ninh Tổ quốc

BLHS

Bộ luật hình sự

TAND

Tòa án nhân dân


UBND

Ủy ban nhân dân

VKSND

Viện kiểm sát nhân dân

XPSH CTCCĐ

Xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đọat


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: Tổng quan về tình hình tội phạm và tình hình các tội xâm phạm sở
hữu sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Phan Rang- Tháp
Chàm, tỉnh Ninh Thuận (2013 – 2017).
Bảng 2.2: Cơ số tội phạm và cơ số các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận
(2013 – 2017).
Bảng 2.3: Tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa
bàn thành phố Phan Rang- Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận giai đoạn 2013 –
2017 phân theo hành vi phạm tội.
Bảng 2.4: Diễn biến tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt trên địa bàn thành phố Phan Rang -Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận giai
đoạn 2013 – 2017 (so sánh định gốc).
Bảng 2.5: Cơ cấu của tình hình các tội XPSH CTCCĐ ở thành phố Phan
Rang -Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận giai đoạn 2013 – 2017 xét theo đơn vị
hành chính cấp phường trên cơ sở cơ số tội phạm và mật độ tội phạm.

Bảng 2.6: Cơ cấu xét theo các bước thực hiện hành vi phạm tội.
Bảng 2.7: Cơ cấu xét theo độ tuổi của bị cáo.
Bảng 2.8: Cơ cấu xét theo giới tính của bị cáo.
Bảng 2.9: Cơ cấu xét theo dân tộc của bị cáo.
Bảng 2.10: Cơ cấu xét theo thời gian gây án.
Bảng 2.11: Cơ cấu xét theo địa điểm thực hiện hành vi phạm tội.
Bảng 2.12: Cơ cấu xét theo phương tiện gây án
Bảng 2.13: Cơ cấu xét theo công cụ gây án.


Bảng 2.14: Cơ cấu xét theo trình độ học vấn của bị cáo
Bảng 2.15: Cơ cấu xét theo nghề nghiệp của bị cáo
Bảng 2.16: Cơ cấu xét theo hoàn cảnh gia đình của bị cáo
Bảng 2.17: Cơ cấu xét theo tình trạng hôn nhân của bị cáo
Bảng 2.18: Cơ cấu xét theo đặc điểm tiền án, tiền sự của bị cáo
Bảng 2.19: Cơ cấu xét theo đặc điểm tái phạm, tái phạm nguy hiểm


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phan Rang - Tháp Chàm là thành phố ven biển, trung tâm hành chính,
kinh tế, văn hóa, chính trị của tỉnh Ninh Thuận, nơi giao nhau của 3 trục giao
thông chiến lược là Quốc lộ 1A, đường sắt Bắc Nam và Quốc lộ 27 đi thành
phố Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng. Có các tuyến đường tỉnh khác như tỉnh lộ 702,
703 đều đạt tiêu chuẩn cấp IV, các tuyến đường huyện và liên xã được nâng
cấp và đảm bảo giao thông cơ giới thuận tiện quanh năm. Thành phố Phan
Rang - Tháp Chàm có 16 đơn vị hành chính trực thuộc, gồm 15 phường và 01
xã, với tổng diện tích khoảng 77,5 km2; dân số toàn thành phố khoảng trên
170 ngàn người với thành phần dân tộc chủ yếu là người Kinh chiếm đa số
(98%), người Chăm (1,03%), người Hoa (0,96%) và dân tộc khác.

Trong những năm gần đây, thực hiện chủ trương kêu gọi đầu tư của
tỉnh, thành phố Phan Rang - Tháp Chàm trở thành trung tâm thu hút đầu tư
trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, xã hội, nhất là các ngành du lịch, công nghiệp,
dịch vụ có tốc độ tăng trưởng cao; tốc độ đô thị hóa diễn ra nhanh chóng, dân
cư ở các địa phương trong tỉnh cũng như ngoài tỉnh đến địa bàn làm ăn, sinh
sống, khách du lịch đến ngày càng nhiều.
Bên cạnh những thuận lợi cơ bản, việc phát triển nóng về kinh tế xã hội
cũng đã nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp về an ninh trật tự; tội phạm và tệ nạn
xã hội ngày càng gia tăng, trong đó tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính
chất chiếm đoạt diễn biến phức tạp và chiếm tỷ lệ lớn trong tổng số tội phạm
đã thực hiện trên địa bàn thành phố, làm mất an ninh trật tự, gây tâm lý hoang
mang, dư luận bức xúc trong quần chúng nhân dân, làm suy giảm lòng tin của
nhân dân vào tính nghiêm minh của pháp luật. Theo báo cáo thống kê của
Viện kiểm sát nhân dân thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, từ năm 2013 đến
năm 2017 đã phát hiện, xét xử 542 vụ án với 932 bị cáo phạm tội XPSH
1


CTCCĐ, chiếm 60,55% (542/985) tổng số vụ án và chiếm 61,76%
(932/1.509) tổng số bị cáo mà Tòa án đã xét xử; tội phạm diễn biến theo
chiều hướng tăng và tăng liên tục, năm 2017 tội phạm XPSH CTCCĐ tăng
38,9% về số vụ và tăng 39,6% về số bị cáo so với năm 2013.
Trước yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự, tạo tiền đề ổn định để
phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; đồng thời đấu tranh có hiệu quả
hơn với tình hình các tội XPSH CTCCĐ trên địa bàn thành phố, cần phải
nghiên cứu cơ bản, đầy đủ, toàn diện và chuyên sâu theo chuyên ngành tội
phạm học về nguyên nhân và điều kiện làm phát sinh tình hình các tội XPSH
CTCCĐ; từ đó xây dựng một hệ thống các biện pháp phòng ngừa tình hình tội
phạm nói trên trên địa bàn thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh
Thuận. Vì vậy, việc chọn vấn đề “Nguyên nhân và điều kiện của tình hình

các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố
Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh thuận” làm đề tài luận văn thạc sĩ mang
tính cấp thiết và phù hợp với tình hình hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
- “Hoàn thiện quy định của Bộ luật hình sự về các tội xâm phạm sở
hữu” của PGS, TS Nguyễn Ngọc Anh đăng trên Tạp chí Công an nhân dân,
số 5, năm 2009.
- “Tội phạm học Việt Nam - Một số vấn đề lý luận và thực tiễn” của
Viện Nhà nước và Pháp luật, Nxb Công an nhân dân, năm 2000;
- “Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở Việt Nam” của
PGS,TS Phạm Văn Tỉnh, Nxb Công an nhân dân, năm 2007;
- Giáo trình “Tội phạm học” của GS,TS Võ Khánh Vinh, Nxb Công an
nhân dân, tái bản năm 2011, 2013;
- Giáo trình “Tội phạm học” của trường đại học Luật Hà Nội, Nxb
Công an nhân dân, tái bản năm 2004, 2012;
2


- “Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở Việt Nam” của
Nguyễn Văn Cảnh và Phạm Văn Tỉnh, do Học viện Cảnh sát nhân dân, Bộ
Công an ấn hành năm 2013;
- “Luật hình sự Việt Nam (phần chung và phần các tội phạm), giáo
trình sau đại học” của GS, TS Võ Khánh Vinh, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội;
- Các bài viết về nguyên nhân và điều kiện của tội phạm, về nhân thân
người phạm tội, về phòng ngừa tội phạm… được đăng tải trên các tạp chí
như: Nhà nước và Pháp luật; Cảnh sát nhân dân; Kiểm sát; Tòa án nhân dân;
Công an nhân dân …
Ở mức độ cụ thể và liên quan trực tiếp đến đề tài luận văn, các công
trình khoa học sau đây cũng đã được tham khảo:
- Nguyễn Văn Phên (2016), Nguyên nhân và điều kiện của tình hình

các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn tỉnh Tiền
Giang”, luận văn Thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội;
- Nguyễn Kiến Thức (2015), Các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn
tỉnh Sóc Trăng: Thực trạng, nguyên nhân và giải pháp phòng ngừa”, luận
văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa học xã hội;
- Phạm Thị Triều Mến (2016), Nhân thân người phạm tội xâm phạm sở
hữu từ thực tiễn tỉnh Bình Dương, luận văn thạc sĩ luật học, Học viện Khoa
học xã hội.
Tình hình nghiên cứu nêu trên cho thấy, cho đến nay chưa có công
trình nào nghiên cứu chuyên sâu về nguyên nhân và điều kiện của tình hình
các tội XPSH CTCCĐ trên địa bàn thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh
Ninh Thuận.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực trạng nguyên nhân
và điều kiện của tình hình các tội XPSH CTCCĐ trên địa bàn thành phố Phan
3


Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận, luận văn đề xuất các biện pháp phòng
ngừa tình hình các tội này.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu, đề tài cần tập trung giải quyết những
nhiệm vụ sau:
- Phân tích những vấn đề lý luận về nguyên nhân và điều kiện của tình
hình tội phạm.
- Phân tích thực trạng nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội
XPSH CTCCĐ trên địa bàn thành phố Phan Rang -Tháp Chàm, tỉnh Ninh
Thuận từ năm 2013 đến năm 2017. Dự báo tình hình các tội này trên địa bàn
thành phố Phan Rang- Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận trong thời gian tới.

- Đề xuất một số giải pháp góp phần hoàn thiện pháp luật và các biện
pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình hình các tội nói trên ở địa bàn thành
phố Phan Rang – Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu những vấn đề lý luận và thực trạng nguyên nhân
và điều kiện của tình hình các tội XPSH CTCCĐ trên địa bàn thành phố Phan
Rang Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận. Trên cơ sở các quan điểm khoa học được
nêu trong tội phạm học, luận văn nghiên cứu sự tương tác giữa những hiện
tượng, những yếu tố tiêu cực thuộc môi trường sống ở thành phố Phan Rang Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận và những đặc điểm tiêu cực của các chủ thể
(nhân thân người phạm tội) mà trong những điều điện, hoàn cảnh, tình huống
nhất định đã thực hiện những hành vi tạo thành tình hình các tội XPSH
CTCCĐ trên địa bàn thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về chuyên ngành, đề tài luận văn được nghiên cứu dưới góc độ
chuyên ngành tội phạm học và phòng ngừa tội phạm.
4


- Về tội danh, đề tài đề cập đến tình hình của các tội được quy định từ
Điều 133 đến Điều 140 của BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009),
gồm: tội cướp tài sản (Điều 133), tội bắt cóc nhằm chiếm đọat tài sản (Điều
134), tội cưỡng đọat tài sản (Điều 135), tội cướp giật tài sản (Điều 136), tội
công nhiên chiếm đọat tài sản (Điều 137), tội trộm cắp tài sản (Điều 138), tội
lừa đảo chiếm đọat tài sản (Điều 139), tội lạm dụng tín nhiệm chiếm đọat tài
sản (Điều 140); đồng thời có đề cập đến các tội xâm phạm sở hữu có tính chất
chiếm đọat được quy định trong BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017), từ Điều 168 đến Điều 175.
- Về không gian, đề tài sử dụng số liệu thực tế trên địa bàn thành phố
Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận, bao gồm các số liệu thống kê của

các cơ quan tiến hành tố tụng, đặc biệt là củaTòa án nhân dân, Viện kiểm sát
nhân dân và 100 bản án hình sự sơ thẩm xét xử các tội phạm XPSH CTCCĐ.
- Về thời gian, đề tài nghiên cứu giới hạn trong khoảng thời gian 5
năm, từ năm 2013 đến năm 2017.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận nghiên cứu
Luận văn được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng, Nhà nước
về phòng ngừa tội phạm.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình nghiên cứu đề tài, tác giả sử dụng các phương pháp
nghiên cứu của chuyên ngành tội phạm học và phòng ngừa tội phạm, cùng các
phương pháp nghiên cứu cụ thể sau: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh;
tổng kết thực tiễn; nghiên cứu hồ sơ.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
5


Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần làm rõ hơn, phong phú hơn
lý luận về nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm XPSH CTCCĐ,
về sự áp dụng lý luận vào thực tiễn phòng ngừa tình hình các tội XPSH
CTCCĐ trên địa bàn thành phố Phan Rang - Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể tham khảo, vận dụng vào công
tác tuyên truyền, giáo dục, nâng cao nhận thức cho quần chúng nhân dân về
nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội XPSH CTCCĐ nói riêng và
tình hình tội phạm nói chung trên địa bàn thành phố Phan Rang - Tháp Chàm,
tỉnh Ninh Thuận, cũng như có giá trị tham khảo cho các địa bàn tương tự
khác.

7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn được cơ cấu thành ba chương, cụ thể như sau:
Chương 1. Những vấn đề lý luận về nguyên nhân và điều kiện của tình
hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt.
Chương 2. Thực trạng các nguyên nhân và điều kiện của tình hình các
tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Phan
Rang Tháp- Chàm, tỉnh Ninh Thuận.
Chương 3. Giải pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tình hình các tội
xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn thành phố Phan RangTháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận.

6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ NGUYÊN NHÂN VÀ ĐIỀU KIỆN
CỦA TÌNH HÌNH CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU
CÓ TÍNH CHẤT CHIẾM ĐOẠT
1.1. Khái niệm, ý nghĩa của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều
kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
1.1.1. Khái niệm về tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm
đoạt
Tội phạm là một khái niệm được đề cập đến trong BLHS, theo đó: “Tội
phạm là hành vi nguy hiểm cho xã hội được quy định trong Bộ luật hình sự,
do người có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý,
xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc, xâm
phạm chế độ chính trị, chế độ kinh tế, nền văn hóa, quốc phòng, an ninh, trật
tự, an toàn xã hội, quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, xâm phạm tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tự do, tài sản, các quyền, lợi ích hợp pháp
khác của công dân, xâm phạm những lĩnh vực khác của trật tự pháp luật xã

hội chủ nghĩa”. Các hành vi xâm phạm sở hữu đến mức bị coi là tội phạm
được quy định trong BLHS.
Đối với nhóm tội phạm xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt được
quy định từ Điều 133 đến Điều 140 BLHS năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm
2009) và từ Điều 168 đến Điều 175 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017). Mặc dù có nhiều tội danh khác nhau, nhưng chúng đều có một đặc
điểm chung, đó là luôn luôn có hành vi chiếm đoạt.
Chiếm đoạt (tài sản) là hành vi cố ý dịch chuyển một cách trái pháp luật
tài sản đang thuộc sở hữu hoặc đang thuộc sự quản lý của chủ thể khác thành
tài sản của mình. Hành vi chiếm đoạt xâm phạm đến quyền sở hữu tài sản.
Chiếm đoạt là quá trình vừa làm cho chủ tài sản, người quản lý hợp pháp mất
7


tài sản (mất khả năng thực tế thực hiện quyền sở hữu của mình) vừa tạo cho
người chiếm đoạt có tài sản đó (có khả năng thực tế thực hiện việc chiếm hữu,
việc sử dụng và việc định đoạt tài sản). Đối tượng của hành vi này chỉ có thể
là tài sản còn trong sự chiếm hữu, sự quản lý của chủ tài sản hoặc người quản
lý hợp pháp tài sản.
Theo đó, về phương diện khách quan, hành vi chiếm đoạt được coi là
bắt đầu khi người chiếm đoạt bắt đầu thực hiện việc làm mất khả năng chiếm
hữu của chủ tài sản để tạo ra khả năng đó cho mình. Hành vi chiếm đoạt dù
thực hiện bằng hình thức nào đều gây ra thiệt hại vật chất cho chủ sở hữu,
thiệt hại đó biểu hiện dưới dạng mất mát, hao mòn, hao hụt, làm giảm bớt giá
trị … Vì vậy, gây thiệt hại vật chất là dấu hiệu đặc trưng của hành vi chiếm
đoạt. Hành vi chiếm đoạt hoàn thành khi người chiếm đoạt đã làm chủ được
tài sản chiếm đoạt (đã chiếm đoạt được), tức là đã gây ra thiệt hại vật chất.
Tuy nhiên, trong một số trường hợp chiếm đoạt tuy chưa gây ra thiệt hại vật
chất nhưng cũng được coi là hoàn thành (như tội cướp, bắt cóc nhằm chiếm
đoạt tài sản …). Hành vi chiếm đoạt có thể thực hiện bằng những thủ đoạn

khác nhau như: dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực, lén lút bí mật, lừa đảo … tùy
thuộc vào thủ đoạn chiếm đoạt mà hành vi chiếm đoạt cấu thành các tội khác
nhau trong các tội xâm phạm sở hữu được BLHS quy định.
Hành vi chiếm đoạt bao giờ cũng được thực hiện do lỗi cố ý trực tiếp,
tức là kẻ phạm tội nhận thức được hành vi của mình là trái pháp luật, nhưng
vì động cơ vụ lợi mà lấy tài sản của người khác, ở đây có thể thấy động cơ và
mục đích vụ lợi là dấu hiệu đặc trưng của hành vi chiếm đoạt.
Từ những phân tích trên, có thể đưa ra khái niệm sau: Tội phạm xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt là hành vi nguy hiểm cho xã hội được
quy định trong mặt khách quan của các Điều từ 133 đến 140 BLHS năm 1999
(sửa đổi, bổ sung năm 2009) và các Điều từ 168 đến Điều 175 BLHS năm
8


2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017), do người có năng lực trách nhiệm hình sự
thực hiện một cách cố ý, xâm phạm vào quyền sở hữu được pháp luật bảo vệ.
1.1.2. Khái niệm nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
Khi tìm hiểu nguyên nhân và điều kiện của tội phạm nói chung, của
từng nhóm tội phạm và tội phạm cụ thể nói riêng, Tội phạm học đã nghiên
cứu nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tội phạm. Muốn ngăn chặn, loại trừ
tội phạm xảy ra thì trước hết phải làm sáng tỏ được lý do vì đâu mà tội phạm
phát sinh, tồn tại, vận động trong đời sống xã hội. Do đó các nhà tội phạm học
đã nghiên cứu nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm để tìm ra những
nguyên nhân, điều kiện làm phát sinh tình hình tội phạm nói chung và các tội
XPSH CTCCĐ nói riêng.
Theo từ điển tiếng Việt, thuật ngữ “nguyên nhân” được định nghĩa là:
“Điều gây ra một kết quả hoặc làm xảy ra một việc, một hiện tượng” [49, tr.
12-17].
Triết học Mác – xít quan niệm cho rằng, nguyên nhân là phạm trù chỉ

sự tác động qua lại giữa các mặt trong một sự vật, một hiện tượng hoặc giữa
các sự vật, các hiện tượng với nhau gây ra sự biến đổi nhất định gọi là kết
quả. Không có sự tác động qua lại thì không có nguyên nhân.Và để nguyên
nhân sinh ra kết quả nhất định nào đó như tình hình tội phạm chẳng hạn, thì
quá trình tương tác phải diễn ra thông qua ý thức của con người và trong điều
kiện nhất định. Như vậy kết quả do nguyên nhân gây ra phụ thuộc vào những
điều kiện nhất định. Điều kiện, tuy không sản sinh ra kết quả, song tạo thuận
lợi, hỗ trợ, thúc đẩy sự tương tác sinh ra kết quả. Về bản chất điều kiện là
những sự kiện, hiện tượng, tình huống, hoàn cảnh nhất định.
Theo GS,TS Võ Khánh Vinh: “Nguyên nhân của tình hình tội phạm là
những hiện tượng xã hội tiêu cực ở trong mối liên hệ tương tác hai mức độ
9


sinh ra và tái xuất ra tình hình tội phạm như là hậu quả tất yếu của mình.
Điều kiện của tình hình tội phạm là những hiện tượng xã hội tiêu cực, tự mình
không sinh ra tình hình tội phạm và các tội phạm, mà là hỗ trợ, làm dễ dàng
và tăng cường cho sự hình thành và hoạt động của các nguyên nhân”. [50, tr .
87].
Với tính cách là những hiện tượng xã hội tiêu cực, nguyên nhân và điều
kiện xuất hiện trong xã hội, tồn tại trong xã hội, có nguồn gốc và bản chất
mang tính xã hội; chúng bao giờ cũng nằm trong hệ thống các mâu thuẫn xã
hội trong tất cả mọi mặt, lĩnh vực của đời sống xã hội. Các hiện tượng tiêu
cực này luôn tương tác qua lại với nhau sinh ra tình hình tội phạm. Đến lượt
mình tình hình tội phạm cũng là một hiện tượng xã hội tiêu cực tham gia vào
quá trình tương tác qua lại đó nên tái xuất ra tình hình tội phạm như là một kết
quả tất yếu. Điều kiện của tình hình tội phạm cũng giống như nguyên nhân đó
là hiện tượng xã hội tiêu cực, tuy nhiên điều kiện của tình hình tội phạm
không sinh ra tình hình mà nó chỉ là chất xúc tác có tác dụng hỗ trợ, thúc đẩy
tình hình tội phạm. Ví dụ, đó là những khiếm khuyết, thiếu sót trong hoạt

động kinh tế, cơ chế quản lý …
Từ những khái quát nêu trên, có thể hiểu nguyên nhân và điều kiện của
tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt là sự tác động qua
lại giữa các hiện tượng, qúa trình xã hội tiêu cực của môi trường sống với
các yếu tố tâm – sinh lý tiêu cực thuộc cá nhân con người, trong những tình
huống, hoàn cảnh nhất định làm phát sinh tình hình các tội xâm phạm sở hữu
có tính chất chiếm đoạt.
Giữa nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội XPSH CTCCĐ có
những phạm vi ảnh hưởng khác nhau. Trong thực tế, việc phân định rõ đâu là
nguyên nhân đâu là điều kiện của tình hình các tội XPSH CTCCĐ là việc khó
khăn và phức tạp. Điều kiện đưa đến tình hình các tội XPSH CTCCĐ cũng là
10


các hiện tượng xã hội tiêu cực, nhưng khác với nguyên nhân ở chỗ nó không
làm phát sinh ra tội phạm mà nó chỉ tạo ra hoàn cảnh thuận lợi cho sự hình
thành, tồn tại và phát triển của tình hình các tội XPSH CTCCĐ. Trong thực
tiễn cũng như trong lý luận giữa nguyên nhân và điều kiện của tình trạng tội
phạm trong một số trường hợp đối với hiện tượng tội phạm này là nguyên
nhân nhưng đối với hiện tượng tội phạm khác nó lại là điều kiện.
Tóm lại, từ những phân tích khái quát trên đây có thể kết luận rằng:
Nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội XPSH CTCCĐ là hai phạm
trù khác nhau, giữ vai trò khác nhau trong việc sinh ra kết quả là tình hình các
tội XPSH CTCCĐ, sự phân biệt đâu là nguyên nhân, đâu là điều kiện chỉ
mang tính chất tương đối. Thực tiễn đấu tranh phòng, chống tội phạm lại luôn
đòi hỏi phải loại trừ cả hai, tức là loại trừ cả những yếu tố thuộc về nguyên
nhân và loại trừ cả những yếu tố thuộc về điều kiện phát sinh tình hình các tội
XPSH CTCCĐ.
1.1.3. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của
tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt trên địa bàn

thành phố Phan Rang-Tháp Chàm, tỉnh Ninh Thuận
Trong các đối tượng nghiên cứu của tội phạm học thì nguyên nhân và
điều kiện của tình hình tội phạm là đối tượng đóng vai trò quan trọng, tạo
thuận lợi cho việc nghiên cứu, nhận thức các đối tượng khác của tội phạm
học. Cho nên, việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội
XPSH CTCCĐ một cách sâu sắc, toàn diện sẽ mang lại nhiều ý nghĩa quan
trọng cả về lý luận và thực tiễn.
1.1.3.1. Ý nghĩa lý luận của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện
của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đọat
Thứ nhất, nghiên cứu làm rõ nguyên nhân và điều kiện của tình hình
các tội XPSH CTCCĐ góp phần hoàn thiện hệ thống lý luận của chính
11


nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm. Thông qua việc nghiên cứu
tổng quan, giúp nhận thức sâu sắc hơn, rõ nét hơn về bức tranh tình hình các
tội XPSH CTCCĐ trên địa bàn thành phố Phan Rang -Tháp Chàm, tỉnh Ninh
Thuận, nhất là việc làm rõ thực trạng, cơ cấu, diễn biến của tình hình các tội
XPSH CTCCĐ và dự báo xu hướng của nó trong thời gian tới góp phần làm
rõ, minh họa phong phú cho các lý luận về nguyên nhân và điều kiện của tình
hình tội phạm.
Thứ hai, nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội
XPSH CTCCĐ góp phần cung cấp những thông tin hữu ích cho các ngành
khoa học pháp lý khác sử dụng làm tài liệu để tiếp tục đi sâu nghiên cứu, xem
xét đối tượng của mình, đồng thời là cơ sở áp dụng các phương pháp, biện
pháp trong thực tế phòng, chống tội phạm.
1.1.3.2. Ý nghĩa thực tiễn của việc nghiên cứu nguyên nhân và điều
kiện của tình hình các tội xâm phạm sở hữu có tính chất chiếm đọat
Thứ nhất, trên cơ sở nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình
các tội XPSH CTCCĐ giúp cho các chủ thể thực hiện hoạt động phòng ngừa

tội phạm đề ra các kế hoạch, các giải pháp, phương pháp nhằm tác động làm
hạn chế, hướng tới xóa bỏ nguyên nhân, điều kiện của tội phạm XPSH
CTCCĐ.
Thứ hai, nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội
XPSH CTCCĐ góp phần cung cấp những thông tin hữu ích cho khoa học
quản lý, giáo dục người phạm tội và những phương pháp phân loại người
phạm tội để nghiên cứu những hình thức, phương pháp quản lý, giáo dục và
tái hòa nhập cộng đồng đối người đã thực hiện hành vi phạm tội nhằm tác
động đến hoạt động loại trừ nguyên nhân, điều kiện của tình hình các tội
XPSH CTCCĐ ra khỏi đời sống xã hội.
Thứ ba, nghiên cứu làm rõ nguyên nhân và điều kiện của tình hình các
tội XPSH CTCCĐ còn nhằm phát hiện, làm rõ các sơ hở, thiếu sót trên các
12


lĩnh vực quản lý Nhà nước để kịp thời đề ra phương hướng, biện pháp khắc
phục góp phần phòng ngừa tình hình các tội XPSH CTCCĐ một cách khoa
học và hiệu quả.
Thứ tư, nghiên cứu nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội
XPSH CTCCĐ có ý nghĩa quan trọng đối với việc hoạch định các chính sách
kinh tế, xã hội trước mắt và lâu dài, nhất là việc hoạch định các chính sách
pháp luật nói chung và chính sách hình sự nói riêng.
1.2. Phân loại nguyên nhân và điều kiện của tình hình các tội xâm
phạm sở hữu có tính chất chiếm đoạt
Hiện nay có nhiều cách tiếp cận khác nhau để xây dựng hệ thống
nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm, vì đây là vấn đề hết sức đa
dạng và luôn biến động theo sự vận động của thực tiễn. Các tội XPSH
CTCCĐ phát sinh không phải do một nguyên nhân và điều kiện gây ra mà là
kết quả tác động của nhiều nguyên nhân và điều kiện khác nhau. Do đó, để
nhận thức chúng về mặt khoa học và về mặt thực tiễn cần phải phân loại

chúng. Tội phạm học có các cách phân loại sau:
1.2.1. Nguyên nhân và điều kiện khách quan
Nguyên nhân và điều kiện khách quan tồn tại trước khi đối tượng có
động cơ, tư tưởng phạm tội, nó tác động lên đối tượng trong một thời gian dẫn
đến việc hình thành những nhu cầu, lợi ích không phù hợp với các chuẩn mực
xã hội; để thỏa mãn nhu cầu, lợi ích đó thì đối tượng lựa chọn con đường đó
là thực hiện hành vi phạm tội khi có điều kiện thích hợp. Tuy nhiên, cần phải
lưu ý rằng các yếu tố tác động từ bên ngoài không được xem là nguyên nhân
của các tội XPSH CTCCĐ mà chỉ là điều kiện bởi vì không phải ai rơi vào
môi trường không thuận lợi cũng đều có ý định phạm tội. Vì vậy, nguyên
nhân và điều kiện khách quan thể hiện qua các nội dung sau đây:
13


1.2.1.1. Những yếu tố tiêu cực thuộc môi trường gia đình
Nhân cách con người được hình thành qua một quá trình giáo dục từ
gia đình đến nhà trường và xã hội. Trong đó, gia đình được xem như là cái nôi
văn hóa, là môi trường giáo dục đầu tiên của trẻ em. Tại gia đình, nhân cách
các em bắt đầu được hình thành và phát triển hoàn thiện dần cùng với sự tác
động của nhà trường và xã hội. Do vậy, mọi đứa trẻ lớn lên đều mang dấu ấn
nhất định của gia đình. Môi trường gia đình thuận lợi sẽ hình thành các đặc
điểm nhân thân tích cực đối với mỗi cá nhân. Ngược lại, môi trường gia đình
không thuận lợi như: môi trường gia đình thiếu hoàn thiện; cha, mẹ thiếu sự
quan tâm, giáo dục con cái; phương pháp giáo dục không hợp lý như quá
nuông chiều hay quá nghiêm khắc; cha, mẹ không gương mẫu, vi phạm pháp
luật, sử dụng bạo lực; các thành viên thiếu sự quan tâm lẫn nhau… sẽ hình
thành các đặc điểm nhân thân tiêu cực, nhất là đối với lứa tuổi thanh thiếu
niên. Do đó, việc xem xét các yếu tố tiêu cực từ môi trường gia đình có vai trò
rất quan trọng góp phần phòng ngừa và đấu tranh có hiệu quả với tình hình tội
phạm XPSH CTCCĐ.

1.2.1.2. Những yếu tố tiêu cực thuộc môi trường nhà trường
Nhà trường không chỉ là nơi truyền thụ kiến thức cho người học mà nó
còn là môi trường để rèn luyện đạo đức, kiến thức pháp luật, kỹ năng sống và
giáo dục thế hệ trẻ trở thành những con người sống có hoài bão, lý tưởng tốt
đẹp… Nhà trường khi làm tốt nhiệm vụ của mình thì sẽ đào tạo được những
thế hệ trẻ tương lai có đủ tài, đức để giúp ích cho xã hội, cho đất nước. Ngược
lại, nếu trong môi trường nhà trường tồn tại nhiều nhân tố không lành mạnh
thì cũng có thể ảnh hưởng đến quá trình hình thành và phát triển nhân cách
lệch lạc của cá nhân, hình thành những đặc điểm nhân thân xấu, từ đó khi gặp
tình huống tiêu cực họ dễ nảy sinh động cơ vi phạm pháp luật. Những nhân tố
không lành mạnh trong môi trường nhà trường có thể kể đến như: Kỷ luật, kỷ
14


cương trong nhà trường không nghiêm, việc quản lý học sinh lỏng kẻo, nhất
là quản lý học sinh cá biệt, để các hiện tượng tiêu cực bên ngòai xâm nhập
vào nhà trường; một số thầy cô giáo chưa thực sự nêu gương sáng cho học
sinh noi theo, có lối sống, thái độ nghề nghiệp, quan niệm giá trị sai lệch,
chạy theo thành tích; coi nhẹ việc giáo dục đạo đức, pháp luật, kỹ năng sống
cho học sinh, chưa chú trọng việc giáo dục ý thức tôn trọng tài sản, tính mạng,
danh dự, nhân phẩm của người khác; sự phối hợp giữa nhà trường và gia đình
chưa thường xuyên, lỏng lẻo … đây cũng chính là những nhân tố thúc đẩy
tình hình tội phạm XPSH CTCCĐ.
1.2.1.3. Những yếu tố tiêu cực thuộc môi trường nhóm (bạn bè, nơi làm
việc)
Môi trường bạn bè, nơi làm việc, cũng có ảnh hưởng vô cùng quan
trọng trong việc hình thành nhân cách, quan điểm, phương pháp nhận thức thế
giới của cá nhân. Đặc biệt là ở lứa tuổi thanh thiếu niên và đối với ban bè thân
thiết thường có những đặc điểm về tâm sinh lý lứa tuổi và sở thích giống
nhau. Vì vậy nhóm bạn bè có ảnh hưởng rất lớn đến các quan điểm, nhận

thức, quan niệm sống, lối sống, thói quen, cách cư xử của một người. Nếu
giao lưu, kết bạn, tiếp xúc nhiều với nhóm bạn tốt thì sẽ dễ hình thành những
đặc điểm nhân thân tích cực như chăm chỉ học tập, biết quan tâm chăm sóc
người khác, lễ phép, có nhiều kỹ năng sống… Ngược lại, nếu thường xuyên
giao lưu, kết bạn, tiếp xúc với nhóm bạn xấu thì rất dễ nhiễm những thói hư,
tật xấu của bạn bè như lười học, đua đòi, chơi bời, nghiện thuốc lá… thậm chí
nhiện rượu, bia, sử dụng ma túy… và để có tiền thỏa mãn sở thích lệch lạc đó
họ sẵn sàng tìm mọi cách để đáp ứng nhu cầu cá nhân, kể cả việc phạm tội
XPSH CTCCĐ, nhất là trộm cắp, cướp, cướp giật tài sản…
1.2.1.4. Những yếu tố tiêu cực thuộc môi trường xã hội với Nhà nước là
chủ thể quản lý
15


Chúng ta biết rằng, Nhà nước thực hiện chức năng quản lý mọi mặt của
đời sống xã hội và Nhà nước cũng là một chủ thể trong mối quan hệ pháp luật
hình sự. Vì vậy, Nhà nước phải chịu trách nhiệm đối với vấn đề tội phạm
trong xã hội. Hay nói cách khác, nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội
phạm phải bao gồm các yếu tố tiêu cực thuộc môi trường xã hội mà Nhà nước
là chủ thể quản lý, cụ thể:
Do tồn tại xã hội:
Thứ nhất, do ảnh hưởng của chiến tranh và hậu quả nặng nề của chiến
tranh để lại trong nhiều năm đã kìm hãm sự phát triển của xã hội nước ta, phá
hoại cơ sở vật chất, tác động tiêu cực đến đời sống, lối sống của một bộ phận
nhân dân… Bên cạnh đó, sự bao vây, cấm vận kinh tế kéo dài của các nước
phương tây làm nền kinh tế nước ta gặp rất nhiều khó khăn, chậm phát triển,
đời sống nhân dân cùng cực… Đây là những yếu tố làm nảy sinh tình hình tội
phạm XPSH CTCCĐ.
Thứ hai, do ảnh hưởng của mặt trái nền kinh tế thị trường làm nảy sinh
và phát triển những yếu tố tiêu cực trong xã hội. Những tác động tiêu cực từ

mặt trái của kinh tế thị trường được xem là một trong những nguyên nhân làm
tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội phạm XPSH CTCCĐ nói riêng
diễn biến phức tạp.
Thứ ba, do hội nhập kinh tế quốc tế làm xuất hiện những hành vi mới
có tính chiếm đoạt như sử dụng tần số viễn thông nhằm chiếm đoạt tài sản,
làm thẻ tín dụng giả để rút tiền hay lừa đảo nhằm chiếm đoạt tài sản …
Thứ tư, những rủi ro mà con người chưa kiểm soát được như thiên tai,
dịch bệnh… làm ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống kinh tế của người dân, dễ
dẫn đến những hành vi trộm cắp, công nhiên chiếm đoạt tài sản, chiếm giữ tài
sản trái phép…
Do hạn chế của Nhà nước trong các khâu quản lý trên các lĩnh vực:
16


Những yếu tố tiêu cực trong việc quản lý của Nhà nước trên các lĩnh
vực kinh tế, văn hóa, xã hội… là những nguyên nhân và điều kiện làm phát
sinh tội phạm. Đó là những yếu kém, khiếm khuyết trong quá trình quản lý xã
hội của Nhà nước, bao gồm:
Chủ trương, đường lối, chính sách, pháp luật còn tồn tại những bất cập.
Việc thực thi pháp luật chưa nghiêm đã tác động đến tâm lý nhiều đối
tượng khiến cho họ mạnh dạn hình thành ý định thực hiện hành vi phạm tội
khi bản thân chưa phát sinh nhu cầu bất chính.
Quản lý văn hóa chưa đáp ứng với yêu cầu, tình hình đặt ra. Quá trình
hội nhập quốc tế đã đem lại cho nhân dân ta đời sống văn hóa phong phú,
nhiều chuẩn mực văn hóa, đạo đức mới được hình thành. Tuy nhiên, cùng với
đó là tình trạng phổ biến, tiếp thu thiếu chọn lọc những sản phẩm văn hóa
không phù hợp với thuần phong mỹ tục, truyền thống dân tộc; suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong xã hội có chiều hướng gia tăng; các
giá trị văn hóa truyền thống bị xói mòn… Những yếu tố này đã góp phần hình
thành một bộ phận không nhỏ người dân có tư tưởng hám lợi, tham lam, ích

kỷ, coi trọng vật chất, lười lao động, thích hưởng thụ, coi thường tài sản, tính
mạng của người khác, tham gia vào các tệ nạn xã hội… và để có tiền tiêu sài,
thỏa mãn sở thích lệch lạc, một số đối tượng đã chọn đi vào con đường phạm
tội XPSH CTCCĐ.
Hiệu quả công tác tuyên truyền, phổ biến pháp luật, nâng cao ý thức
chấp hành pháp luật cho người dân còn hạn chế. Công tác thông tin, phổ biến
pháp luật, về cách thức phát hiện và đối phó với các phương thức, thủ đoạn
của các đối tượng phạm tội XPSH CTCCĐ ở các cấp, các ngành cho Nhân
dân chưa có chiều sâu, nội dung và phương pháp chưa phù hợp… nên phần
lớn người dân chưa nắm bắt được các quy định của pháp luật, chưa nhận thức
được trách nhiệm của mình trong việc phát hiện, tố giác hành vi phạm tội.
Công tác quản lý xã hội còn kém hiệu quả, trong đó có công tác quản lý
cư trú.
17


1.2.1.5. Nguyên nhân và điều kiện thuộc về yếu tố nạn nhân
Theo tiến sĩ Trần Hữu Tráng: “Nạn nhân của tội phạm là những cá
nhân, tổ chức phải chịu những hậu quả thiệt hại về tính mạng, sức khỏe, tinh
thần, tình cảm hoặc các quyền và lợi ích hợp pháp khác mà những hậu quả
thiệt hại này do hành động phạm tội trực tiếp gây ra”. [37, tr.55-63].
Nguyên nhân phổ biến từ phía người bị hại thúc đẩy nguy cơ trở thành
nạn nhân của các tội XPSH CTCCĐ xuất phát từ việc nạn nhân đã quá tin
tưởng vào người khác ngay từ đầu nên dễ dàng chấp nhận trước những thông
tin giả dối từ phía người phạm tội gây ra. Từ đó bị người phạm tội chiếm đoạt
tài sản mà nạn nhân không biết. Ngoài ra còn xuất phát từ nguyên nhân tính
hám lợi của nạn nhân mà dễ bị người phạm tội lợi dụng để tạo sự tin tưởng
trong thời gian dài, sau đó chiếm đoạt tài sản một cách dễ dàng mà nạn nhân
không thể ngăn chặn hoặc không biết để ngăn chặn như chơi hụi, cho vay lãi
xuất cao…

Tâm lý tự tin, dễ dãi đối với sự an toàn của bản thân, tâm lý thích phô
trương tài sản… điều này sẽ kích thích gia tăng hành vi phạm tội cướp, cướp
giật tài sản. Tâm lý mất cảnh giác, thiếu cẩn trọng, hớ hênh trong quá trình cất
giữ tài sản cũng làm một trong những nguyên nhân để trở thành nạn nhân của
tội phạm cướp, cướp giật, trộm cắp tài sản. Hoặc nạn nhân có những thói
quen về hành vi, thời gian lặp đi lặp lại nhiều lần thành quy luật khiến cho
người phạm tội chú ý, nảy sinh ý định phạm tội. Ngoài ra, một số người thuộc
nhóm yếu thế như phụ nữ, trẻ em, người già, người khuyết tật… cũng dễ trở
thành nạn nhân của tội phạm XPSH CTCCĐ.
1.2.1.6. Những nguyên nhân và điều kiện khách quan khác
Nhà nước chưa có cơ chế để khuyến khích nhân dân đấu tranh, tố giác
tội phạm, sợ phiền hà, mất thời gian khi ra làm chứng… dẫn đến thái độ thờ
ơ, thiếu quan tâm, sợ va chạm… tạo điều kiện cho cái xấu, tội phạm có cơ hội
thực hiện hành vi phạm tội.
18


×