Tải bản đầy đủ (.pdf) (116 trang)

Sinh kế bền vững trong bối cảnh biến đổi khí hậu tại xã phù long và trân châu, huyện cát hải, thành phố hải phòng

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.12 MB, 116 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ BÍCH NGỌC

SINH KẾ BỀN VỮNG TRONG BỐI CẢNH BIẾN ĐỔI
KHÍ HẬU TẠI XÃ PHÙ LONG VÀ TRÂN CHÂU,
HUYỆN CÁT HẢI, THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Ngành: Phát triển bền vững
Mã số

: Thí điểm

LUẬN VĂN THẠC SĨ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
GS.TSKH TRƢƠNG QUANG HỌC

HÀ NỘI, 2018


LỜI CẢM ƠN
Trước hết, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc nhất đến GS.TSKH Trương Quang
Học, người hướng dẫn khoa học cho tôi. Thầy không chỉ truyền đạt kiến thức cho
tôi mà còn truyền cho tôi lòng nhiệt huyết cũng như phương pháp nghiên cứu khoa
học trong suốt quá trình học tập vừa qua. Được làm việc và dưới sự hướng dẫn của
thầy,tôi thấy mình có được rất nhiều kiến thức bổ ích. Tôi xin cảm ơn ECODE –
Trung tâm phát triển cộng đồng sinh thái đã tạo điều kiện giúp đỡ tôi hoàn thành
luận văn của mình. Làm việc với ECODE cùng nhóm nghiên cứu của thầy Trương
Quang Học và cô Hoàng Thị Ngọc Hà đã cho tôi những phương pháp nghiên cứu


bổ ích cùng những trải nghiệm, sáng tạo qua những chuyến đi thực tế. Và, tôi xin
gửi lời cảm ơn đến các thầy, cô giảng viên thuộc Học viện Khoa học – Xã hội, nơi
tôi đã nghiên cứu và học tập trong thời gian vừa qua. Các thầy, cô không chỉ truyền
đạt kiến thức, phương pháp mà còn truyền cho tôi những kinh nghiệm và cách sống
cũng như tạo điều kiện tốt nhất để tôi hoàn thành chương trình học. Những bài học
mà các thầy, cô truyền đạt cho sẽ luôn là bài học kinh nghiệm cũng như tri thức của
bản thân tôi trong suốt quãng đời còn lại.
Tôi cũng xin được cảm ơn ban giám hiệu, các đồng nghiệp ở trường THCS
Trương Công Định, nơi tôi đang công tác. Không có sự động viên, hỗ trợ và sự giúp
đỡ từ cơ quan công tác, tôi sẽ không thể hoàn thành nhiệm vụ học tập suốt 2 năm
qua trong điều kiện vừa học vừa làm. Tôi cũng gửi lời cảm ơn sâu sắc đến các đơn
vị, các phòng ban có liên quan đến đề tài nghiên cứu khoa học của tôi: UBND
huyện Cát Hải, UBND các xã Phù Long và Trân Châu, sở TN- MT Hải Phòng, trạm
khí tượng thủy văn Phù Liễn. Có được sự trợ giúp của các phòng, ban là sự giúp đỡ
to lớn để tôi hoàn thành tốt đề tài nghiên cứu của mình.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn ý nghĩa nhất đến gia đình tôi, những
người đã hết lòng ủng hộ tôi về mọi mặt để tôi có thể hoàn thành chương trình học
này.
Đỗ Bích Ngọc


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu do cá nhân tôi thực
hiện dưới sự hướng dẫn khoa học của GS.TSKH. Trương Quang Học, không sao
chép các công trình nghiên cứu của người khác. Số liệu và kết quả của luận văn
chưa từng được công bố ở bất kì một công trình khoa học nào khác.
Các thông tin thứ cấp sử dụng trong luận văn là có nguồn gốc rõ ràng, được
trích dẫn đầy đủ, trung thực và đúng qui cách.
Tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm về tính xác thực và nguyên bản của luận văn.
Hà Nội, ngày 25/3/2018

Học viên

Đỗ Bích Ngọc


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ KINH NGHIỆM THỰC TIỄN VỀ SINH KẾ
BỀN VỮNG TRONG BỐI CẢNH BIẾN ĐỔI KHÍ HẬU...................................24
1.1 Một số khái niệm .............................................................................................24
1.2 Cách tiếp cận ...................................................................................................32
1.3 Tiêu chí đánh giá SKBV trong bối cảnh BĐKH .............................................36
1.4. Kinh nghiệm một số địa phương về sinh kế bền vững ...................................37
Chƣơng 2. THỰC TRẠNG SINH KẾ CỦA NGƢỜI DÂN XÃ PHÙ LONG VÀ
TRÂN CHÂU TRONG THỜI GIAN QUA ..........................................................41
2.1 Tổng quan về địa bàn nghiên cứu ....................................................................41
2.2. Tác động của BĐKH đến khu vực huyện Cát Hải .........................................56
2.3 Tác động từ sự thay đổi quy hoạch sử dụng đất trong Quy hoạch mới về phát
triển KT-XH đảo Cát Hải ......................................................................................64
2.4. Thực trạng phát triển sinh kế tại xã Phù Long và Trân Châu .........................66
2.5 Đánh giá SKBV trong bối cảnh BĐKH và những vấn đề đặt ra: ....................69
Chƣơng 3. CÁC GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN SINH KẾ BỀN VỮNG TRONG
BỐI CẢNH BĐKH Ở KHU VỰC HUYỆN ĐẢO CÁT HẢI ĐƢỢC ĐỀ XUẤT
...................................................................................................................................76
3.1 Dự báo diễn biến BĐKH ở khu vực huyện đảo Cát Hải .................................76
3.2 Cơ sở và nguyên tắc đề xuất giải pháp ............................................................78
3.3 Đề xuất cụ thể các giải pháp sinh kế thích ứng BĐKH ...................................78
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ .........................................................................83
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................86



DANH MỤC BẢNG, HÌNH
BẢNG
Bảng 1. Cơ cấu phiếu phân theo đợt khảo sát ..........................................................21
Bảng 2. Ma trận 5*5 phân tích 5 yếu tố của hệ thống thể hiện tính dễ tổn thương và
năng lực chống chịu, ứng phó BĐKH của cộng đồng ..............................................22
Bảng 2.1: Diện tích nuôi trồng thủy sản đảo Cát Bà ( 2016 ) ...................................47
Bảng 2.2. Các nguồn thu nhập chính của cá nhân và nhóm hộ điều tra ...................57
Bảng 2.3. Mực nước biển dâng theo kịch bản phát thải cao A2 (cm) ......................58
Bảng 2.4. Mực nước biển dâng theo kịch bản phát thải trung bình B2 (cm) ............59
Bảng 2.5. Đánh giá tình hình sinh kế tại Phù Long và Trân Châu ..........................67
Bảng 2.6. Xếp loại mức độ ưu tiên can thiệp, hỗ trợ cho các sinh kế trên địa bàn 2
xã(ưu tiên cao nhất là 1) ............................................................................................72
Bảng 3.1. Mức tăng nhiệt độ trung bình (oC) qua các thập kỷ của thế kỷ 21 so với
thời kỳ 1980 - 1999 của Hải Phòng ứng với kịch bản phát thải trung bình (B2) .....76
Bảng 3.2. Mức tăng nhiệt độ trung bình (oC) qua các thập kỷ của thế kỷ 21 so với
thời kỳ 1980 - 1999 của Hải Phòng ứng với kịch bản phát thải thấp (B1) ...............77

HÌNH
Hình 1. Kịch bản biến đổi khí hậu và nước biển dâng 2016 .......................................2
Hình 2. (a): Nhiệt độ trung bình bề mặt của đất và đại dương toàn cầu giai đoạn từ
1850 đến 2012; và (b) Thay đổi mực nước biển trung bình toàn cầu giai đoạn 1901
– 2012 ..........................................................................................................................5
Hình 3: Khung sinh kế bền vững của DFID ...............................................................8
Hình 1.1 . Sơ đồ mối tương tác của BĐKH và các hợp phần của hệ sinh thái-nhân
văn (A) và Khung các vấn đề của BĐKH (B) (Nguồn IPCC ...................................33
Hình 1.2. Các hệ tự nhiên và các dịch vụ HST như một hợp phần quan trọng trong
chiến lược tổng thể để quản lý tổng hợp tài nguyên, giúp con người .......................34
Hình 1.3. Khung sinh kế bền vững DFID .................................................................35
Hình 2.1. Bản đồ hành chính Tp. Hải Phòng ............................................................41



Hình 2.2. Bản đồ huyện đảo Cát Hải ........................................................................42
Hình 2.3. Đặc trưng nhiệt độ khu vực Hải phòng .....................................................44
Hình 2.4. Bản đồ xã Trân Châu.................................................................................45
Hình 2.5. Cơ cấu kinh tế các xã năm 2016 ...............................................................50
Hình 2.6. Xu thế biến đổi của nhiệt độ qua các năm tại trạm Phù Liễn ...................52
Hình 2.7. Mực nước biển dương tại trạm Hòn Dáu – Đồ Sơn – Hải Phòng 2014 ...52
Hình 2.8 a. Xu thế biến đổi của lượng mưa trong mùa mưa tại trạm Phù Liễn (HP)
...................................................................................................................................53
Hình 2.8 b . Xu thế biến đổi của lượng mưa trong mùa khô tại trạm Phù Liễn (HP)
...................................................................................................................................53
Hình 2.9. Bản đồ nguy cơ ngập khu vực Hải Phòng ứng với mực NBD 1m. Màu đỏ
là khu vực bị ngập .....................................................................................................60
Hình 2.10: Lược đồ quy hoạch đảo Cát Bà ...............................................................65
Hình 2.11 Quy hoạch tổng dự án cáp treo của Sungroup ........................................66
Hình 3.1.a.Mức tăng nhiệt độ trung bình mùa đông vào giai đoạn 2050 Với thời kỳ
1980 - 1999 ở Tp. Hải Phòng ứng với kịch bản phát thải TB(B2) ...........................78


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU VÀ CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Tiếng Anh
BĐKH
Cimate change
BNN&
PTNT
CBA

Tiếng Việt
Biến đổi khí hậu


Ministry of Agriculture and
Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn
Rural Development (MARD)
Community Based Approach/ Ti ếp cận dựa vào cộng đồng
Adaptation

Thích ứng với BĐKH dựa vào cộng đồng

CCA

Climate change Adaptation

COP

Conference of the Parties

Thích ứng biến đổi khí hậu
Hội nghị cấp cao Liên Hợp Quốc về Biến đổi

ĐDSH
DFID
DTSQ
EbA
HVCA

khí hậu
Bio-diversity
Đa dạng sinh học
Department for International Cơ quan phát triển quốc tế Vương quốc Anh

Development
Biosphere Reserve

Dự trữ sinh quyển

Ecosystem-based Adaptation

Thích ứng dựa vào hệ sinh thái

Hazard – Vulnerability
Capacity Assessment

– Đánh giá hiểm họa, tính dễ bị tổn thương và
năng lực ứng phó

KHKT

Intergovernmental Panel on Ủy ban Liên chính phủ về Biến đổi khí hậu
Climate Change
International
Union
for
Tổ chức Bảo tồn Thiên nhi ên Quốc tế
Conservation of Nature
Khoa học kỹ thuật

KNK

Green house Gas


IPCC
IUCN

KT-XH
MAB
MONRE

MCD

Khí nhà kính
Kinh tế - xã hội

Vietnam Man and Biosphere
MAB Vietnam
Ministry of Natural Resources
Bộ Tài nguyên và Môi trường
and Environment
Center for Marinelife
Trung tâm B ảo tồn sinh vật biển và Phát tri
Conservation and Community
ển cộng đồng
Development


NGO

Non-Government
Organnization

Tổ chức phi chính phủ


NBD

Sea Level Rise

Nước biển dâng

NTTS

Aquaculture

Nuôi trồng thủy sản

PRA

Participatory Rural Appraisal

Phương pháp đánh giá nông thôn có sự tham
gia

RRTT

Disaster risk

Rủi ro thiên tai

SWOT

Strength – Weekness
Opportunity – Threats


UNDP

United Nations Development
Chương trình phát triển Liên Hợp Quốc
Programme

UNEP

UNESCO

UNFCCC

WCED

WMO



Điểm mạnh – Yếu – Cơ hội – Thách thức

United Nations Environment
Chương trình Môi trường Liên Hợp Quốc
Programme
United Nations Educational,
T ổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hóa c
Scientific
and
Cultural
ủa Liên Hợp Quốc

Oganization
United Nations Framework
Công ước khung của Liên Hợp Quốc về Bi
Convention on Climate Change ến đổi khí hậu
World Commision on
Environment and
Ủy ban thế giới về Môi trường và Phát tri ển
Development
World
Meteorological
Tổ chức Khí tượng Thế giới
Organization

WB

World Bank

Ngân hàng Thế giới

WW

World Vision

Tổ chức Tầm nhìn thế giới


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thế giới hiện nay đang đối mặt với rất nhiều cuộc khủng hoảng. Đó là: khủng
hoảng lương thực, khủng hoảng tài chính, khủng hoảng năng lượng, suy thoái tài

nguyên, và một trong những cuộc khủng hoảng nghiêm trọng nhất, diễn ra trên
phạm vi toàn cầu là cuộc khủng hoảng khí hậu – hay còn gọi là biến đổi khí hậu(
BĐKH). BĐKH với biểu hiện chính là sự nóng lên toàn cầu và mực nước biển
dâng… đang trở thành một trong những thách thức nghiêm trọng nhất của nhân loại
trong thế kỉ 21. BĐKH tác động đến mọi lĩnh vực trong đời sống của con người: sức
khỏe, kinh tế, xã hội, môi trường...Song tùy từng vị trí địa lý, tình hình phát triển,
mức độ thích ứng cụ thể của từng địa phương, từng quốc gia mà mức độ ảnh hưởng
của BĐKH sẽ ít hay nhiều.
Việt Nam là một quốc gia với đường bờ biển dài hơn 3260km, có 28 tỉnh,
thành nằm ven biển, nền kinh tế vẫn chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên thô để
xuất khẩu, đặc biệt là nguồn tài nguyên biển. Vì vậy nên đây là một trong 5 quốc
gia chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của tình trạng BĐKH đang diễn ra hiện nay( WB
2007). Một trong hai địa điểm chịu ảnh hưởng nặng nề nhất của BĐKH theo kịch
bản BĐKH mới nhất năm 2016 chính là đồng bằng sông Hồng (ĐBSH). Khu vực
này được dự báo theo kịch bản năm 2016 là mực nước biển dâng sẽ làm mất đi trên
10% diện tích. Trong đó phải kể đến dải ven biển ( DVB ) với chiều dài 3260km
đường bờ biển. WB năm 2007 đã dự đoán rằng khu vực DVB chính là nơi chịu
nhiều tác động nặng nề nhất của BĐKH mà trực tiếp chính là tình trạng mực nước
biển dâng, thiên tai, lũ lụt, những hậu quả về môi trường…Họ tính rằng, nếu mực
nước biển dâng thêm 1m thì Việt Nam sẽ đối mặt với mức thiệt hại lên tới 17 tỉ
USD/năm ( tương đương 10% GDP ), 1/5 dân số mất nhà cửa, 12,3% diện tích đất
trồng trọt biến mất, 40.000km2 diện tích đồng bằng( 39% ĐBSCL và 10%
ĐBSH)…Hải Phòng – một thành phố thuộc khu vực ĐBSH và nằm trên DVB của
nước ta.
Cũng như các khu vực ven biển khác, nơi đây cũng được đánh giá là khu vực
chịu tác động mạnh mẽ của hiện tượng BĐKH tiêu biểu như nhiệt độ tăng, nước
1


biển dâng, và sự gia tăng các hiện tượng thiên tai cực đoan. Và khu vực đang phải

hứng chịu nguy cơ ảnh hưởng mạnh mẽ nhất của thành phố chính là huyện đảo Cát
Hải, một trong 12 huyện đảo của Việt Nam.

Hình 1: Kịch bản biến đổi khí hậu và nƣớc biển dâng 2016
( Nguồn: Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi khí hậu
Với diện tích khoảng hơn 300km2, địa hình nơi đây tương đối phức tạp, rừng
núi chiếm 2/3 diện tích của huyện đảo. Huyện có 2 đảo hợp thành là đảo Cát Hải và
quần đảo Cát Bà. Huyện có 336 hòn đảo trong đó đảo Cát Bà là đảo lớn nhất. Cát
Hải có 10 xã và 2 thị trấn. Huyện có gần 31 ngàn người dân sinh sống( 2012 ). Với
vị trí nằm tách biệt giữa biển, huyện đảo không chỉ gặp những khó khăn về sự
chênh lệch phát triển kinh tế - xã hội giữa đất liền và hải đảo, giữa miền đồng bằng
và miền biển mà còn phải đối mặt với các điều kiện thời tiết, thiên tai rất phức tạp
khiến cho cuộc sống của người dân càng gặp nhiều khó khăn hơn nữa. Không chỉ
dừng ở đây, hiện nay đảo Cát Bà đang đồng thời đối mặt với các rủi ro của BĐKH
và những thay đổi thực sự trong quy hoạch sử dụng đất của chính phủ, của thành
phố với dự kiến biến một vùng dân cư có sinh kế truyền thống là nông nghiệp và
2


thủy sản trở thành khu cảng công nghiệp – dịch vụ trong tương lai. Chính sự thay
đổi to lớn này đã làm tăng cường thêm sự khó khăn trong sinh kế của người dân
trên đảo Cát bà nói chung và 2 xã Phù Long và Trân Châu nói riêng. Hiện vẫn chưa
có các nghiên cứu đánh giá về tác động của BĐKH đến các hệ sinh thái tự nhiên, xã
hội và kinh tế của 2 xã trên cũng như vẫn thiếu các giải pháp cụ thể cho phát triển
sinh kế của người dân đảo trong giai đoạn có nhiều sự chuyển đổi mạnh mẽ này.
Trong khi đó, Hội nghị lần thứ 4 Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X đã thông
qua nghị quyết về Chiến lược biển Việt Nam đến năm 2020 với mục tiêu: “đưa
nước ta trở thành quốc gia mạnh về biển, làm giàu từ biển…” , trong đó nhấn mạnh
việc ưu tiên phát triển kinh tế cho người dân hải đảo trong bối cảnh BĐKH. Như
vậy, nếu có các nghiên cứu đánh giá tác động BĐKH và các đề xuất phù hợp cho

sinh kế, huyện đảo Cát Hải sẽ có thêm cơ hội và tranh thủ được nguồn lực từ các
chương trình, dự án quốc gia ưu tiên cho vùng biển đảo.
Trong bối cảnh như vậy, chúng tôi đã chọn đề tài cho luận văn tốt nghiệp
chương trình thạc sĩ phát triển bền vững là: “ Sinh kế bền vững trong bối cảnh
biến đổi khí hậu tại xã Phù Long và Trân Châu, huyện Cát Hải, thành phố Hải
Phòng”.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1 Nghiên cứu trên thế giới
Trong thế kỉ 21, BĐKH đã trở thành vấn đề toàn cầu và là mối quan tâm
không riêng gì quốc gia nào.Lần đầu tiên, vào năm 1896 vấn đề BĐKH đã được
Arrhenius, nhà khoa học người Thụy Điển đề cập đến. Cuối thập niên 1980, tổ chức
IPCC - Ủy ban Liên chính phủ về BĐKH ra đời cùng với Chương trình Môi trường
Liên Hợp Quốc (UNEP) đồng thành lập (năm 1988) nhằm đánh giá "các thông tin
khoa học, kỹ thuật và KT-XH cho phép tìm hiểu các nguy cơ của BĐKH do con
người gây ra” (IPCC, 2007). Kể từ đó đến nay, nhiều tổ chức quốc tế và các nhà
khoa học đã tập trung vào đánh giá tác động của BĐKH tại các khu vực, vùng lãnh
thổ và đặc biệt là tại các quốc gia được dự báo là sẽ hứng chịu nhiều rủi ro nhất do
BĐKH trong đó có Việt Nam.
Những nghiên cứu và triển khai về BĐKH trong thời gian qua đã được phân
tích và tổng kết trong 5 báo cáo của IPCC (Báo cáo lần 1, 1990; Báo cáo lần 2,
3


1999; Báo cáo lần 3, 2001; Báo cáo lần 4, 2007; và, báo cáo lần 5, 2013). Trong đó,
báo cáo lần thứ 4 (2007) đã được nhận giải thưởng Nobel Hòa Bình cùng với Al
Gore. Trong báo cáo đánh giá lần thứ 4 của IPCC (2007), các nhà khoa học đã kết
luận những biến đổi trong khí quyển, đại dương và các sông băng, núi băng chứng
tỏ thế giới đang nóng lên và các hoạt động của con người là nguyên nhân chủ yếu.
Cũng theo báo cáo này, việc tăng đáng kể nồng độ các khí nhà kính CO2, CH4 và
N2O kể từ năm 1750 đến nay chính là hậu quả từ các hoạt động của con người.

Nhiệt độ bề mặt trung bình của Trái Đất đã tăng khoảng 0,740C trong 100 năm qua
(1906 - 2005). Con số này cao hơn so với báo cáo năm 2001 với mức 0,60C do
những năm gần đây liên tục có những đợt nóng cực điểm. Cho đến năm 2014, IPCC
đã tổng hợp hàng loạt các nghiên cứu từ nguyên nhân đến hệ quả (sự tăng nhiệt độ
bề mặt trái đất, sự tăng lên của mực nước biển, cùng với những biến đổi về thời tiết,
thủy văn, hải dương...), từ tác động của nó đối với tự nhiên, môi trường, các đối
tượng KT-XH đến việc xây dựng giải pháp thích ứng và chiến lược ứng phó toàn
cầu. Các báo cáo của IPCC là cơ sở cho các hội nghị toàn cầu về BĐKH như Hội
nghị Thượng đỉnh của LHQ về Môi trường và Phát triển ở Rio de Janeiro,1992;
Hội nghị các bên nước tham gia UNFCCC (từ COP 1 đến COP 23). Qua các báo
cáo của IPCC, từ cuối thế kỷ XIX đến nay có thể nhận thấy được xu thế chung là
nhiệt độ trung bình toàn cầu đã tăng lên đáng kể. Nhiệt độ không khí trung bình
toàn cầu trong thế kỷ XX đã tăng lên 0,6oC (+/- 0,2oC); trên đất liền, nhiệt độ tăng
nhiều hơn trên biển; thập kỷ 90 là thập kỷ nóng nhất trong thiên niên kỷ vừa qua
(IPCC, 2007) [36]. Tháng 9 năm 2013, IPCC đã công bố tóm tắt Báo cáo đánh giá
lần thứ 5 (AR5-WG1) về hiện trạng BĐKH toàn cầu theo góc nhìn vật lý cơ bản, do
Nhóm công tác số 1 thuộc IPCC soạn thảo (Kỷ Quang Vinh, 2013) [73]. Theo tài
liệu này, trong ba thập kỷ vừa qua, cứ sau mỗi thập kỷ bề mặt trái đất đã liên tục
nóng lên hơn bất kỳ thập kỷ nào trước đó kể từ năm 1850 (xem hình 1.3 a,b). Ở Bắc
bán cầu, giai đoạn từ 1983 đến 2012 dường như là khoảng thời gian 30 năm ấm nhất
trong 1.400 năm qua.

4


Hình 2(a): Nhiệt độ trung bình bề mặt của đất và đại dƣơng toàn cầu giai
đoạn từ 1850 đến 2012; và (b) Thay đổi mực nƣớc biển trung bình toàn cầu
giai đoạn 1901 – 2012
Nguồn: “Giới thiệu Báo cáo đánh giá lần thứ 5 của IPCC và Một số thông tin
liên quan” –Kỷ Quang Vinh, Văn phòng công tác BĐKH Cần Thơ.

BĐKH không chỉ đơn thuần tác động tới tự nhiên mà còn là thách thức về
kinh tế, xã hội của nhân loại. Xét về những tổn thất kinh tế, chi phí tiền bạc cho việc
khôi phục thiệt hại sau những thiên tai do BĐKH đã làm thâm hụt vào ngân sách
các quốc gia. Theo Báo cáo Stern (của chuyên gia kinh tế Nicolas Stern và cộng sự)
thì, trong vòng 10 năm tới, “chi phí thiệt hại do BĐKH gây ra cho toàn thế giới ước
tính khoảng 7.000 tỉ USD; nếu chúng ta không làm gì để ứng phó thì thiệt hại mỗi
năm sẽ chiếm khoảng 5 - 20% tổng sản phẩm nội địa (GDP), còn nếu chúng ta có
những ứng phó tích cực để ổn định KNK ở mức 550 ppm tới năm 2030 thì chi phí
chỉ còn khoảng 1% GDP” (Nicholas Stern, 2007) [92]. Được biết, tổng GDP toàn
thế giới năm 2013 là 8,5 ngàn tỷ đô la (Ngân hàng thế giới, 2013) [44]. Như vậy,
mỗi năm các công dân Trái đất phải chịu tổn thất kinh tế hàng tỷ đô cho việc khắc
phục thiệt hại do BĐKH.
Tại hội nghị về BĐKH do Liên Hợp Quốc tổ chức tại New York (Mỹ) vào
ngày 23/9/2014, các chuyên gia chỉ ra rằng, cần hành động nhanh chóng để tránh
các thảm họa trong tương lai như: những đợt nắng nóng, lũ lụt, hạn hán, nước biển
dâng. Ủy ban Toàn cầu về Kinh tế và Khí hậu cũng cho biết, trong vòng 15 năm tới,
thế giới cần đầu tư 90.000 tỷ USD, trong đó tập trung vào 3 lĩnh vực chủ chốt là
năng lượng xanh, xây dựng thành phố ít cacbon và sử dụng đất đai hợp lí. Điều
đáng mừng, các quốc gia đang dần tìm được tiếng nói chung trong các nỗ lực cùng
hành động ứng phó với BĐKH. Vừa qua, Hội nghị lần thứ 20 các Bên tham gia Công

5


ước khung của Liên Hợp Quốc về BĐKH (COP20) và Hội nghị lần thứ 10 các Bên
tham gia Nghị định thư Kyoto (CMP10) vào tháng 12 năm 2014 tại Lima (Peru) đã
diễn ra trong bối cảnh thuận lợi: Quỹ Khí hậu xanh đã nhận được cam kết đóng góp
khoảng 9,7 tỷ USD cho ứng phó BĐKH, Hoa Kỳ và Trung Quốc đã ra Tuyên bố chung
về ứng phó với BĐKH giai đoạn sau 2020, EU nêu cam kết cắt giảm phát thải khí nhà
kính giai đoạn 2020-2030 và, các nước ASEAN vừa ký tuyên bố chung ASEAN-Hoa

Kỳ về BĐKH (Báo điện tử của Chính phủ Việt Nam, 2014) [74]. Tại COP21, thỏa
thuận Paris - Thỏa thuận lịch sử toàn cầu chống biến đổi khí hậu Mục tiêu quan
trọng của Thỏa thuận này giữ nhiệt độ của trái đất đến năm 2100 là không quá 2° và
gắng tiến tới ngưỡng thấp hơn 1,5 độ C. Và đây cũng là lần đầu tiên, thế giới thống
nhất là đặt mục tiêu đạt sự cân bằng giữa lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính và
hấp thụ từ rừng hay biển vào giữa thế kỷ này. Để đạt được mục tiêu này, các chính
phủ cam kết ngăn chặn sự gia tăng của lượng khí thải gây hiệu ứng nhà kính một
cách “sớm nhất có thể”. Thỏa thuận đưa ra, đến sau năm 2050, lượng khí thải do
con người tạo ra phải được giảm xuống mức mà các khu rừng và đại dương có thể
hấp thụ hoàn toàn.
Tóm lại, trên phạm vi quốc tế, việc nghiên cứu, đánh giá BĐKH, tác động của
nó cũng như đề xuất các giải pháp, chiến lược và kế hoạch ứng phó với BĐKH hiện
nay đã trở thành vấn đề toàn cầu. BĐKH đang là một vấn đề được quan tâm hàng
đầu trên các diễn đàn khoa học quốc tế và thu hút rất nhiều các nhà nghiên cứu
tham gia. Các nghiên cứu và triển khai về các giải pháp thích ứng, đặc biệt là về
sinh kế cho cộng đồng vùng ven biển đang được quan tâm nhiều và đó là một trong
những hoạt động trọng tâm của nhiều nghiên cứu, dự án thuộc mảng thích ứng
BĐKH hiện nay. Tuy vậy, vẫn còn nhiều vấn đề cần được thảo luận để có được sự
đồng thuận như các nghiên cứu dựa vào cộng đồng đã không được chú trọng đúng
mức (Reidlinger and Berkes, 2001) và các sản phẩm của mô hình khí hậu toàn cầu
và các kịch bản là quá thiếu các thông tin chi tiết phục vụ quy hoạch có hiệu quả và
các biện pháp thích ứng ở quy mô địa phương (Dolan and Walker, 2004).
Ý tưởng về sinh kế được đề cập trong các tác phẩm nghiên cứu của Chambers
vào những năm 1980. Về sau, khái niệm này xuất hiện nhiều hơn trong các nghiên
cứu của Ellis, Barret và Reardon… Có rất nhiều định nghĩa về sinh kế như sau:

6


Chambers và Conway (1992) cho rằng sinh kế bao gồm năng lực, tài sản (dự

trữ, nguồn lực, yêu cầu và tiếp cận) và các hoạt động cần có để đảm bảo phương
tiện sinh sống.
Sinh kế có thể được diễn tả như là sự kết hợp của các nguồn tài nguyên được sử
dụng và các hoạt động được thực hiện để sống. Các tài nguyên đó có thể bao gồm cả
các khả năng và kỹ năng của con người (vốn con người), đất đai, tiền tiết kiệm và trang
thiết bị (vốn tự nhiên, vốn tài chính và vốn vật chất), và các dịch vụ hỗ trợ chính thức
hoặc không chính thức cho các hoạt động (vốn xã hội) (Farrington và cs, 1999).
Trong nhiều nghiên cứu của mình, Ellis (2010) cho rằng sinh kế bao gồm
những tài sản, những hoạt động và cơ hội được tiếp cận đến tài sản và hoạt động đó
(đạt được thông qua các thể chế và quan hệ xã hội), và theo đó các quyết định về
sinh kế đều thuộc về mỗi cá nhân hay nông hộ.
Có nhiều cách tiếp cận và định nghĩa khác nhau về sinh kế, tuy nhiên, có sự
nhất trí rằng khái niệm sinh kế bao hàm nhiều yếu tố có ảnh hưởng đến hoạt động
sống của mỗi cá nhân hay hộ gia đình.
Kể từ Hội nghị Thượng đỉnh Trái đất về Môi trường và Phát triển tại Rio de
Janeiro ở Brazil năm 1992, PTBV đã trở thành xu thế chung mà toàn nhân loại đang nỗ
lực hướng tới. Theo đó, trong phát triển nông thôn xuất hiện xu hướng phát triển sinh
kế bền vững bao gồm cả các mục tiêu giảm nghèo (Bộ TN & MT và CCWG, 2015).
Trước đây, hoạt động sinh kế được hiểu là những phương tiện kiếm sống
nhằm phục vụ nhu cầu cơ bản của cuộc sống (Ví dụ: thực phẩm, chỗ ở, quần áo,
thuốc men...). Khái niệm về sinh kế bền vững cũng được hiểu là những nỗ lực để
xoá đói giảm nghèo (Krantz, 2001). Tuy nhiên, các khái niệm đó chưa bao quát
được hết mọi khía cạnh của hoạt động sinh kế, đặc biệt là các nguồn lực làm hạn
chế hoặc tăng cường khả năng của con người.
Khái niệm về sinh kế bền vững được Chambers và Conway (1992) mở rộng
hơn. Sinh kế chỉ bền vững khi nó có thể đuong đầu và phục hồi sau các cú sốc, duy
trì hoạc cải thiẹn nang lực và tài sản, và cung cấp các co họi sinh kế bền vững cho
các thế hẹ kế tiếp; và đóng góp lợi ích ròng cho các sinh kế khác ở cấp đọ địa
phuong hoạc toàn cầu, trong ngắn hạn và dài hạn (Chambers


Conway, 1992)

Một số nghiên cứu của Barret và Reardon (2000) khẳng định các chính sách
để xác định sinh kế người dân theo hướng bền vững được xác định liên quan chặt
7


chẽ đến bối cảnh kinh tế vĩ mô và tác động của các yếu tố bên ngoài. Các nghiên
cứu này đã chỉ ra mối liên hệ giữa mức độ tăng trưởng kinh tế, cơ hội sinh kế và cải
thiện đói nghèo của người dân. Đồng thời nhấn mạnh vai trò của thể chế, chính sách
cũng như các mối liên hệ và hỗ trợ xã hội đối với cải thiện sinh kế, xóa đói giảm
nghèo. Sự bền vững trong các hoạt động sinh kế phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như
khả năng trang bị nguồn vốn, trình độ của lao động, các mối quan hệ trong cộng
đồng, các chính sách phát triển… Tuy vậy, sự bền vững của tài nguyên thiên nhiên
là yếu tố nền tảng trong quyết định một sinh kế có bền vững hay không.
Dựa trên nền tảng nghiên cứu điển hình của Chambers và Conway, đã có rất nhiều
lập luận được điều chỉnh cho khái niệm sinh kế bền vững. Đặc biệt quan trọng là
đóng góp của Scoones và các nhà nghiên cứu của Viện Nghiên cứu phát triển(IDS)
tại trường Đại học Sussex, Vương quốc Anh và Bộ phát triển Quốc tế Vương quốc
Anh (DFI
Hình 3: Khung sinh kế bền vững của DFID

KẾT QUẢ SINH
KẾ

CẤU TRÚC & QUÁ TRÌNH BIẾN
ĐỔI

BỐI CẢNH TỔN
THƢƠNG


- Tăng thu nhập
H

- Sốc

ảnh hƣởng &
tiếp cận

- Xu hƣớng

- Tăng mức sống

- Các cấp

N
S

- Mùa vụ

CHIẾN
LƢỢC
SINH
KẾ

chính quyền
- Khu vực
tƣ nhân

P


F

- Giảm tình trạng
dễ bị tổn thương
- Cải thiện an ninh
lương thực
- Tăng tính bền
vững khi sử dụng
nguồn tài nguyên
thiên nhiên

H: Nguồn vốn con ngƣời (Human Capital)

F: Nguồn vốn tài chính (Financial Capital)

N: Nguồn vốn tự nhiên (Natural Capital)

P: Nguồn vốn vật chất

(Physical Capital)

S: Nguồn vốn xã hội (Social Capital)

(Nguồn DFID, 2007)

8


Tổ chức DFID đã xây dựng khung sinh kế bền vững như là một công cụ nhằm

xem xét những yếu tố khác nhau ảnh hưởng đến sinh kế của con người. Đồng thời,
khung sinh kế cũng nhằm mục đích tìm hiểu xem những yếu tố này liên quan với
nhau như thế nào trong những bối cảnh cụ thể (Hình 1.2).
Cách tiếp cận sinh kế bền vững để giảm nghèo đã được Krantz khẳng định và
so sánh dựa trên ba khung phân tích sinh kế bền vững của UNDP, CARE và DFID.
Trong đó, sinh kế bền vững được coi là phương pháp hữu hiệu nhất để xóa bỏ đói
nghèo trong bối cảnh nhiều biến động như hiện nay.
Như vậy, sinh kế bền vững là sinh kế: 1) Có thể phục hồi và đối mặt với các cú
sốc và khủng hoàng; 2) Không quá phụ thuộc vào sự hỗ trợ bên ngoài; 3) Duy trì và
bảo tồn được tài nguyên; 4) Không bị suy yếu và suy giảm theo thời gian (Bộ TN &
MT và CCWG, 2015).
Nhiều tác giả (Scoones, 1998; DFID, 1999, 2001) đều thống nhất đưa ra
một số chỉ tiêu đánh giá tính bền vững của sinh kế trên 4 phương diện: kinh tế, xã
hội, môi trường và thể chế:
• Bền vững về kinh tế: được đánh giá chủ yếu bằng chỉ tiêu gia tăng thu nhập.
• Bền vững về xã hội: được đánh giá thông qua một số chỉ tiêu như: tạo thêm
việc làm, giảm nghèo đói, đảm bảo an ninh lương thực,cải thiện phúc lợi.
• Bền vững về môi trường: được đánh giá thông qua việc sử dụng bền vững
hơn các nguồn lực tự nhiên (đất, nước, rừng, tài nguyên thủy sản…), không gây hủy
hoại môi trường (như ô nhiễm môi trường, suy thoái môi trường) và có khả năng
thích ứng trước những tổn thương và cú sốc từ bên ngoài.
• Bền vững về thể chế: được đánh giá thông qua một số tiêu chí như: hệ thống
pháp luật được xây dựng đầy đủ và đồng bộ, qui trình hoạch định chính sách có sự
tham gia của người dân, các cơ quan/tổ chức ở khu vực công và khu vực tư hoạt
động có hiệu quả; từ đó tạo ra một môi trường thuận lợi về thể chế và chính sách để
giúp các sinh kế được cải thiện một cách liên tục theo thời gian (Nguyễn Văn Sửu,
2010; Nguyễn Thọ Đạt và Vũ Thị Hoài Thu, 2017. Kinh tế và chính sách BĐKH,
Nxb Đại học Kinh tế Quốc dân[53, 12].

9



Cũng liên quan đến nghiên cứu về sinh kế và cộng đồng trong bối cảnh
BĐKH, Badjeck và cộng sự (2010) ở Bangladesh nghiên cứu về tác động của những
dao động và thay đổi khí hậu đến sinh kế dựa vào thủy sản cho biết, sự ấm lên toàn
cầu ảnh hưởng tiêu cực đến an ninh lương thực, đe dọa sinh kế của 36 triệu ngư dân
và ảnh hưởng đến gần 1,5 tỷ người tiêu dùng thủy sản trên thế giới. Và để ứng phó
với BĐKH thì cần chú ý: (i) cung cấp trước thông tin dự báo về BĐKH hỗ trợ cho
lập kế hoạch ứng phó; (ii) cần công nhận và tận dụng các cơ hội có lợi từ BĐKH
đối với ngành thủy sản, (iii) các chiến lược thích ứng với BĐKH cần được thiết kế
trên quan điểm đa ngành, liên ngành, và (iv) phải ghi nhận những đóng góp tiềm
năng của thủy sản trong các nỗ lực giảm nhẹ (Badjeck et al., 2010).
2.2. Nghiên cứu ở Việt Nam
Tại Việt Nam, nghiên cứu về BĐKH đã được tiến hành từ những thập niên
90 của thế kỷ 20. Tháng 6 năm 1992, để chuẩn bị tham gia Hội nghị Môi trường và
Phát triển bền vững của Liên Hợp Quốc tại Rio de Janeiro, Brazin, 1992, các nhà
khoa học Việt Nam đã thực hiện và công bố báo cáo “BĐKH và tác động của chúng
ở Việt Nam”. Năm 1994, các nhà khoa học như Nguyễn Đức Ngữ, Nguyễn Trọng
Hiệu… đã tham gia thực hiện dự án “BĐKH ở châu Á” do ADB tài trợ; Bộ Thủy
lợi chủ trì đã hoàn thành báo cáo về: 1) BĐKH ở Việt Nam trong 100 năm qua; 2)
Tác động của BĐKH đến NBD và một số ngành kinh tế quốc dân; 3) Kiểm kê quốc
gia KNK năm 1990 ở Việt Nam.
Từ những năm 1998 - 2003, Tổng Cục Khí tượng Thủy văn, nay là Bộ Tài
nguyên và Môi trường đã hoàn thành Thông báo đầu tiên của Việt Nam cho
UNFCCC, trong đó tổng kết BĐKH của Việt Nam trong 100 năm gần đây, kiểm kê
quốc gia KNK 1993 và ước tính KNK các năm 2020, 2050, đánh giá tác động của
nó đến các lĩnh vực KT-XH, xây dựng kịch bản BĐKH, kiến nghị các giải pháp
giảm nhẹ và thích ứng với BĐKH ở Việt Nam... (Bộ TN MT, 2003, 2008) [2].
Vào ngày 02/12/2008, Thủ tướng Chính phủ đã ký Quyết định số
158/2008/QĐ – TTg phê duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH

(NTP-RCC) với mục tiêu chiến lược của Chương trình là nhằm nâng cao khả năng
ứng phó với BĐKH của Việt Nam trong từng giai đoạn cụ thể; bảo đảm sự phát
10


triển bền vững của đất nước, ổn định cuộc sống của nhân dân (Bộ TN MT, 2008)
[2]. Kể từ đó, nhiều hoạt động nghiên cứu, ứng dụng đã được triển khai. Một số cơ
quan, ban, ngành chuyên phụ trách về vấn đề BĐKH cũng đã được thành lập nhằm
nâng cao nhận thức cho cộng đồng về BĐKH. Đặc biệt, trong khuôn khổ Chương
trình mục tiêu Quốc gia ứng phó với BĐKH, nhiều đề tài, dự án cũng đã và đang
được triển khai. Những hoạt động trên đã đem lại những hiệu quả nhất định trong
vấn đề nâng cao nhận thức của cộng đồng về BĐKH ở Việt Nam.
Trong chương trình khoa học và công nghệ trọng điểm cấp Nhà nước giai
đoạn 2011 – 2015 “Khoa học và công nghệ phục vụ Chương trình mục tiêu quốc gia
ứng phó với BĐKH” được ban hành theo quyết định số 2630/QĐ-BKHCN ngày 29
tháng 08 năm 2011. Chương trình có 3 mục tiêu và 5 nội dung chính: i) Nghiên cứu
cơ sở khoa học xây dựng cơ sở dữ liệu về BĐKH và tác động của BĐKH đối với
một số ngành , lĩnh vực dễ bị tổn thương; ii) Nghiên cứu bản chất khoa học của
BĐKH; đánh giá thực trạng và mức độ của BĐKHở Việt Nam; iii) Nghiên cứu cơ
sở khoa học cho việc đánh giá tác động của BĐKH, tính dễ tổn thương do BĐKHvà
các giải pháp thích ứng với BĐKH; iv) Nghiên cứu cơ chế chính sách, định hướng
công nghệ để giảm nhẹ BĐKH (cụ thể là làm giảm nhẹ phát thải khí nhà kính), tận
dụng các cơ hội để phát triển hướng tới nền kinh tế các-bon phù hợp với điều kiện
thực tế ở Việt Nam, và; v) Nghiên cứu cơ sở khoa học để tích hợp vấn đề
BĐKHvào các chiến lược, kế hoạch, quy hoạch, chương trình phát triển kinh tế - xã
hội, phát triển ngành và địa phương. Từ năm 2011 đến 2013 đã có 33 nhiệm vụ của
Chương trình được thực hiện (Trương Quang Học và nnk, 2014) [31].
Từ khi ký kết UNFCCC năm 1994 và KP năm 2002, Chính phủ Việt Nam
đã có rất nhiều nỗ lực, thông qua công tác xây dựng chính sách và luật pháp và đã
có một số sáng kiến thích ứng và giảm nhẹ để ứng phó với những mối đe dọa từ

BĐKH. Một đánh giá quan trọng về môi trường chính sách hiện hành liên quan đến
thích ứng với BĐKH bao gồm: Chương trình Mục tiêu Quốc gia ứng phó với
BĐKH (NTP-RCC) (2008), Định hướng Chiến lược Phát triển Bền vững ở Việt
Nam (Chương trình Nghị sự 21) (2008); Thông báo Quốc Gia lần thứ nhất cho
UNFCCC (2003) đưa ra đánh giá tính dễ bị tổn thương và thích ứng đối với những
11


tác động của BĐKH dựa trên những mô hình đang sử dụng tại thời điểm đó và đưa
ra những phương án giảm nhẹ KNK. Thông báo quốc gia thứ hai cho UNFCCC
được hoàn thành năm 2010, bao gồm các phát hiện của các đánh giá sâu hơn về tính
dễ bị tổn thương và thích ứng cũng như đưa ra một khung chính sách thực hiện
những ứng phó mang tính chiến lược (Bộ TN

MT, 2010) [5]; Chiến lược và Kế

hoạch hành động quốc gia về Tăng trưởng xanh trong đó chú trọng các giải pháp
kinh tế nhằm giảm phát thải KNK và nâng cao khả năng thích ứng với BĐKH (QĐ
của TTCP, 2014) [64].
Trong đánh giá tính dễ bị tổn thương, theo xu hướng của thế giới, từ đầu
những năm 2000, ở Việt Nam, cũng đã có những nhà nghiên cứu, ứng dụng các lý
thuyết và phương pháp đánh giá tính dễ bị tổn thương đối với các ngành khoa học
khác nhau. Mai Trọng Nhuận và cs. (2004, 2009) đã nghiên cứu đánh giá tính dễ bị
tổn thương về môi trường, vùng ven biển Việt Nam, đới duyên hải Nam Trung Bộ,
đới ven biển Phan Thiết–Hồ Tràm, tài nguyên địa chất tỉnh Bà Rịa – Vũng Tàu [47,
48]. Cũng theo hướng nghiên cứu này, Thái Thành Lượm và cs. (2008) đã đánh giá
mức độ tổn thương hệ thống tự nhiên KT-XH vùng biển Hà Tiên – vịnh Cây Dương
(Kiên Giang) [40]. Võ Hồng Tú và cs. (2012) đã đánh giá tổn thương sinh kế nông
hộ bị ảnh hưởng lũ tại tỉnh An Giang và các giải pháp ứng phó. Kết quả của nghiên
cứu này đã cho thấy được vốn sinh kế của người dân là dễ bị tổn thương cao khi có

lũ. Thiên về hướng rủi ro kinh tế (Võ Hồng Tú và cs., 2012) [66].
Những nghiên cứu về vấn đề BĐKH đối với khu vực ven biển, hải đảo hoặc
tác động của BĐKH đến nông nghiệp, cách tiếp cận hệ sinh thái trong ứng phó với
BĐKH… những năm gần đây có nhiều đóng góp quan trọng trong đó có thể kể đến
một số tác giả: Đinh Vũ Thanh và Nguyễn Văn Viết, 2013 với “Tác động của
BĐKH đến các lĩnh vực Nông nghiệp và giải pháp ứng phó” [56]; Nguyễn Thị Kim
Cúc, (2011) với nghiên cứu “Thích ứng của hệ sinh thái rừng ngập mặn vùng ven
biển dưới tác động của nước biển dâng – Nghiên cứu ở ĐB Sông Hồng” [9];
Trương Quang Học trong báo cáo “Tác động của BĐKH lên đất ngập nước” [28];
Trần Thọ Đạt và Vũ Thị Hoài Thu, (2012) với “BĐKH và sinh kế ven biển” [12];
Nguyễn Hoàng Trí (2012) với báo cáo “Nghiên cứu và đề xuất phương pháp đánh
12


giá nhanh tính kết nối sinh thái của các Khu Dự trữ sinh quyển thế giới tại Việt
Nam”; Kim Thị Thúy Ngọc, (2013) với “Lồng ghép cách tiếp cận thích ứng dựa
vào HST trong các chính sách và chiến lược BĐKH”; Bùi Xuân Thông (2010) trong
báo cáo “Xác định cơ sở khoa học và các giải pháp công trình bảo vệ bờ biển, đảo
Việt Nam thích ứng BĐKH và giảm nhẹ thiên tai”; Nguyễn Văn Quân và Chu Thế
Cường (2013) với “Đánh giá hiện trạng và tính dễ bị tổn thương của các hệ sinh
thái biển tiêu biểu trước tác động của BĐKH tại Khu DTSQ quần đảo Cát Bà”; Bùi
Đại Dũng (2013) với “Một số phương pháp lượng giá tổn thất kinh tế do tai biến
thiên nhiên và sự cố môi trường”; Dư Văn Toán (2013) với báo cáo “Một số vấn đề
về san hô thế giới trong bối cảnh BĐKH và đề xuất cho vùng biển Việt Nam”.
Và đáng chú ý trong thời gian này phải kể đến những nghiên cứu của Trương
Quang Học theo hướng tiếp cận liên ngành, xuyên ngành trong ứng phó với BĐKH
và PTBV – một vấn đề mang tính liên ngành trong bối cảnh hội nhập và toàn cầu
hóa hiện nay (Trương Quang Học, 2008b, 2012, 2013).
Đến năm 2011, Tổng cục Môi trường đã hoàn thành báo cáo “Điều tra, đánh
giá và cảnh báo biến động của các yếu tố khí tượng thuỷ văn và sự dâng cao mực

nước biển do BĐKH có nguy cơ gây tổn thương TN - MT vùng biển và dải ven biển
Việt Nam, đề xuất các giải pháp phòng tránh và ứng phó”. Trong báo cáo đã phân
tích, đánh giá biến động, xu thế và quy luật hoạt động của các yếu tố khí tượng,
thủy văn gây tổn thất trong mối liên hệ với sự BĐKH, trong đó khẳng định bão,
ATNĐ, gió mùa, thủy triều là các nhân tố chính tạo ra sự dâng, rút của mực nước
biển [59].
Thực hiện Chương trình NTP-RCC, Bộ TN

MT đã hoàn thành việc cập nhật

Kịch bản BĐKH, NBD cho Việt Nam và chính thức công bố vào tháng 06 năm
2012. Năm 2014, Nhóm nghiên cứu của Viện Khoa học Khí tượng, Thủy văn và
BĐKH gồm Mai Văn Khiêm và cs đã công bố đề tài "Nghiên cứu xây dựng Atlas
khí hậu và BĐKH Việt Nam" thuộc Chương trình Khoa học và Công nghệ phục vụ
Chương trình mục tiêu quốc gia ứng phó với BĐKH. Đây là một đóng góp quan
trọng do đã đúc kết và minh họa được những quy luật, đặc điểm phân bố của khí
hậu và BĐKH ở Việt Nam trong thế kỷ 20 và thập kỷ đầu của thế kỷ 21, đồng thời
13


cung cấp những thông tin cơ bản nhất về khí hậu và BĐKH phục vụ các hoạt động
phát triển KTXH và ứng phó BĐKH [39].
Đặc biệt, cập nhật nghiên cứu về mảng cộng đồng và BĐKH có đóng góp của
một số tác giả như: nhóm nghiên cứu Vũ Thị Diệu Hương và cs, (2013) có báo cáo
“Đánh giá tác động của cơ chế chi trả cho hấp thụ cacbon đến ra quyết định và tính
dễ bị tổn thương của hộ gia đình với BĐKH ở Việt Nam”; Lưu Thị Hương Giang,
(2013) với “Thích ứng với BĐKH dựa vào cộng đồng và vấn đề sử dụng thông tin khí
hậu”; Dư Văn Toán, (2013) có báo cáo “Tác động và giải pháp phòng chống thiên tai
trước BĐKH dựa vào cộng đồng tại các xã bãi ngang vùng ven biển Việt Nam”;
Phạm Thị Bích Ngọc và Trương Quang Học, (2013) có báo cáo “Nâng cao nhận thức

và đào tạo nguồn nhân lực ứng phó với BĐKH cho các tổ chức phi chính phủ”.
Qua kết quả nghiên cứu tổng hợp ở trên cho thấy, Việt Nam bước đầu đã có
những nghiên cứu về BĐKH, gồm cả nghiên cứu đánh giá tác động và tìm kiếm các
giải pháp ứng phó, trong đó đã chú ý nhiều đến vấn đề BĐKH tác động đến hệ sinh
thái và cộng đồng, đặc biệt là cộng đồng ven biển. Đáng lưu ý là các nghiên cứu đã
xây dựng được hệ thống thể chế, xây dựng được kịch bản BĐKH và NBD của quốc
gia và có những nghiên cứu, đánh giá tác động, khả năng ứng phó và các giải pháp
thích ứng, giảm nhẹ BĐKH tại các địa phương. Tuy nhiên, nhìn chung hiện nay, ở
các địa phương vùng ven biển Việt Nam, các nghiên cứu về BĐKH và tác động của
BĐKH đến sinh kế cộng đồng vẫn còn thiếu chiều sâu và chưa đồng bộ. Nhiều địa
phương còn thiếu những nghiên cứu chuyên sâu nhằm đánh giá toàn diện tác động
của BĐKH đến tất cả các lĩnh vực tự nhiên, KT-XH và cộng đồng. Các nghiên cứu
đánh giá nguy cơ tổn thương và năng lực ứng phó với BĐKH của cộng đồng các
vùng biển, hải đảo ở Việt Nam cũng chưa được thực hiện đầy đủ, toàn diện trong
khi các nguy cơ rủi ro về BĐKH – NBD và sự thay đổi các quy hoạch phát triển
kinh tế vẫn gia tăng. Vì vậy, hướng nghiên cứu này trong thời gian tới cần được tiếp
tục đẩy mạnh, đặc biệt là cần có thêm nhiều nghiên cứu về sức chống chịu và giải
pháp tăng cường sức chống chịu của hệ sinh thái - xã hội của các vùng hải đảo trước
tác động của BĐKH.

14


Ở Việt Nam đã có rất nhiều những nghiên cứu về sinh kế bền vững, tiêu biểu
như Đinh Đức Thuận (2005) đã chỉ ra mối liên hệ giữa lâm nghiệp, giảm nghèo và
sinh kế nông thôn.
Dựa trên tiếp cận sinh kế bền vững, Trần Tiến Khai và Nguyễn Ngọc Danh
(2012) đã thử sử dụng bộ số liệu điều tra Mức sống Hộ gia đình Việt Nam (VHLSS)
năm 2008 và đã xác định mười chiều đo đại diện cho bốn nhóm tài sản sinh kế là
vốn con người, vốn tự nhiên, vốn vật chất, và vốn tài chính của hộ gia đình nông

thôn Việt Nam dựa trên các phương pháp thống kê đa biến. Sau đó, nghiên cứu này
tiếp tục dựa vào khung phân tích sinh kế bền vững (DFID, 1999) để xác định các
chỉ báo đo lường nghèo đa chiều cho hộ gia đình nông thôn Việt Nam và sử dụng
bộ dữ liệu VHLSS 2010 để kiểm tra lại tính nhất quán của các chiều đo và các chỉ
báo nghèo đa chiều.
Trong khuôn khổ Chương trình nghiên cứu Việt Nam – Hà Lan giai đoạn II
(1997 - 2002) đã có nhiều nghiên cứu phát triển nông thôn bền vững, trong đó một
số những nghiên cứu giải pháp xây dựng mô hình kinh tế nông lâm ngư kết hợp ở
Vườn Quốc gia Bạch Mã (Nguyễn Thị Nguyệt, 2005); Giải pháp phát triển kinh tế
nông lâm nghiệp bền vững vùng đồi nghèo khó xã Viên Thành, Yên Thành, Nghệ
An (Ngô Trực Nhà, 2005)… Những nghiên cứu này bước đầu xác lập cơ sở khoa
học cho những giải pháp nhằm nâng cao tính bền vững của sinh kế nông thôn.
Các tổ chức phi chính phủ tại Việt Nam đã thực hiện một số dự án nâng cao
sinh kế theo hướng bến vững như “Dự án sinh kế bền vững cho phụ nữ nghèo các
tỉnh miền núi phía Bắc” do Liên minh Hợp tác xã Canada (CCA) tài trợ năm 2012;
Dự án “Các tổ chức phi chính phủ Viêt Nam hướng tới sinh kế của các cộng đồng
dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc” của Trung tâm SRD. Hay trong khuôn khổ Dự
án Giảm nghèo khu vực Tây Nguyên, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối với với Ngân
hàng Thế giới (2014) phát hành Sổ tay hướng dẫn thực hiện dự án: Phát triển sinh
kế bền vững nhằm hướng dẫn các tổ chức thực hiện dự án thúc đẩy sinh kế bền
vững hiệu quả.
Một số những nghiên cứu trong khuôn khổ luận án tiến sĩ hay luận văn cao
học của Nguyễn Văn Cường (2005), Phùng Văn Thạch (2012), Nguyễn Hoàng Hoa
15


(2012), Vũ Thị Ngọc (2012), Hoàng Thị Ngọc Hà (2014)… đã bước đầu nghiên cứu
giải pháp cải thiện sinh kế trên nhiều địa bàn khác nhau của cả nước.
Mai Văn Xuân (2009) và Bùi Thị Minh Hà (2013) đã sử dụng khung sinh kế
bền vững của DIFD phân tích sinh kế của cộng đồng người dân ở Quảng Trị và

Thái Nguyên.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục tiêu nghiên cứu:
Trên cơ sở hệ thống hóa những vấn đề lý luận về sinh kế bền vững, luận văn
làm rõ thực trạng phát triển sinh kế tại địa bàn nghiên cứu hiện nay, từ đó đề xuất
được các giải pháp sinh kế bền vững tại đây.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Đánh giá được hoạt động sinh kế của người dân và tổng quan các tác động
của BĐKH đối với sinh kế.
- Đề xuất được các giải pháp tăng cường tính bền vững cho hoạt động sinh kế
của người dân tại địa bàn nghiên cứu nhằm thích ứng được với thực trạng BĐKH.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
- Sinh kế bền vững trong bối cảnh BĐKH
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Nghiên cứu được tiến hành tại 2 xã Phù Long và Trân Châu
huyện Cát Hải thành phố Hải Phòng.
-

Về thời gian: Nghiên cứu thực trạng sinh kế từ năm 2016- 2018, các số
liệu được hồi cứu trong khoảng 30 năm trở lại đây.

-

Về chuyên môn: được giới hạn trong các vấn đề sau:

BĐKH: BĐKH được phân tích dựa trên các biểu hiện chính: nhiệt độ trung
bình và tính bất thường của thời tiết tăng; các hiện tượng thiên tai, khí hậu cực đoan
gia tăng về tần suất cũng như cường độ nước biển dâng và gia tăng xâm nhập mặn.
BĐKH được phân tích theo diễn biến: quá khứ(30 năm trở lại đây) , hiện tại và

trong tương lai( theo kịch bản BĐKH cho Hải Phòng).

16


Sinh kế bền vững: Nghiên cứu các loại sinh kế của người dân tại 2 xã trên và
đề xuất giải pháp nhằm tăng cường tính bền vững cho các sinh kế đó trong bối cảnh
BĐKH.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Nếu áp dụng Khung sinh kế bền vững của DFID kết hợp với cách tiếp cận
thích ứng dựa vào cộng đồng sẽ tìm ra được giải pháp nhằm tăng cường tính bền
vững cho sinh kế của người dân tại địa bàn nghiên cứu nhằm ứng phó với BĐKH.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Để đánh giá tác động của BĐKH đến đảo Cát Bà và năng lực ứng phó của địa
phương cũng như đánh giá tình hình sinh kế cộng đồng thì cần được thực hiện với sự
kết hợp đồng thời các phương pháp: thu thập thông tin thứ cấp và lược khảo tài liệu;
khảo sát, điều tra địa bàn và hộ gia đình; phỏng vấn sâu có định hướng; phương pháp
PRA (các công cụ); phương pháp đo CDRI với công cụ ma trận 5*5; và phương pháp
tham vấn chuyên gia. Hai phương pháp quan trọng nhất được sử dụng là: Đánh giá
nông thôn có sự tham gia và xác định các chỉ số chống chịu khí hậu và thiên tai –
CDRI. Hai phương pháp này thì người dân và cán bộ địa phương được trực tiếp và
chủ động tham gia suốt quá trình đánh giá và đưa ra các phân tích, nhận định, đề
xuất một cách thẳng thắn, khách quan, đúng với tình hình của địa phương.
Đặc điểm chung về các mẫu điều tra thu thập thông tin
Những đối tượng tham gia cuộc điều tra khảo sát và cung cấp thông tin (trả
lời phỏng vấn sâu, thảo luận nhóm…):
o Lãnh đạo UBND huyện Cát Hải: lãnh đạo huyện, lãnh đạo phòng Nông nghiệp,
phòng Tài Nguyên và Môi trường.
o Lãnh đạo UBND xã Trân Châu và xã Phù Long.

o Cán bộ các xã, thị trấn thuộc các lĩnh vực kinh tế, nông nghiệp, thủy sản, cán bộ
Khuyến nông, khuyến ngư và lao động, đào tạo nghề.
o Đại diện các chi hội, đoàn thể: Hội phụ nữ, Hội nông dân, Đoàn thanh niên, Hội
Người cao tuổi.
o Chuyên gia trong lĩnh vực môi trường và sinh kế.

17


×