Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Nhân thân người phạm tội ma túy tại địa bàn quận 7, thành phố hồ chí minh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.07 MB, 94 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Mai Trần Cảnh

NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI MA TÚY
TẠI ĐỊA BÀN QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Mai Trần Cảnh

NHÂN THÂN NGƯỜI PHẠM TỘI MA TÚY
TẠI ĐỊA BÀN QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Chuyên ngành: Tội phạm học và phòng ngừa tội phạm
Mã số: 8.38.01.05

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS CAO THỊ OANH

HÀ NỘI - 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu thống kê, kết quả đề cập trong luận văn là trung thực, chính xác và có nguồn
gốc trích dẫn rõ ràng. Kết quả nghiên cứu trong luận văn chưa từng được công bố
tại bất kỳ công trình khoa học nào.
Tác giả luận văn

Mai Trần Cảnh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
Chương 1: NH NG VẤN ĐỀ L

LUẬN VỀ NH N TH N NGƯỜI PHẠM

TỘI MA TÚY ............................................................................................................9
1.1. Khái niệm nhân thân người phạm tội ma túy và ý nghĩa của việc nghiên cứu
nhân thân người phạm tội ma túy............................................................................9
1.2. Các đặc điểm của nhân thân người phạm tội ma túy .....................................16
1.3. Phân loại nhân thân người phạm tội ma túy ..................................................24
1.4. Những yếu tố tác động đến quá trình hình thành nhân thân người phạm tội
ma túy ....................................................................................................................28
Chương 2: NH N TH N NGƯỜI PHẠM TỘI MA TÚY TẠI ĐỊA BÀN
QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH .............................................................35
2.1. Khái quát về nhân thân người phạm tội ma túy tại địa bàn Quận 7, Thành phố
Hồ Chí Minh .........................................................................................................35
2.2. Nguyên nhân hình thành các đặc điểm nhân thân người phạm tội ma túy tại
địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh .............................................................41

Chương 3: CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG PHÒNG NGỪA TÌNH HÌNH
TỘI PHẠM MA TÚY TỪ GÓC ĐỘ NH N TH N NGƯỜI PHẠM TỘI TẠI
ĐỊA BÀN QUẬN 7, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRONG THỜI GIAN TỚI
...................................................................................................................................52
3.1. Dự báo tình hình tội phạm ma túy tại địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí
Minh trong thời gian tới từ khía cạnh nhân thân ...................................................52
3.2. Các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội phạm ma túy tại địa bàn
Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh..........................................................................57
KẾT LUẬN ..............................................................................................................73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC CH

VIẾT TẮT

ANTT

: An ninh trật tự

CAND

: Công an nhân dân

BLHS

: Bộ luật hình sự

HSST


: Hình sự sơ thẩm

MT

: Ma túy

TAND

: Tòa án nhân dân

VKSND

: Viện kiểm sát nhân dân


DANH MỤC BẢNG BIỂU
PHỤ LỤC 1: Các bảng biểu
Bảng 2.1: Mức độ tổng quan của tình hình tội phạm nói chung và tội phạm ma túy
đã xét xử tại địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh
Bảng 2.2: Diễn biến của tình hình phạm tội MT tại địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ
Chí Minh được làm rõ bằng phương pháp so sánh liên kế, so sánh định gốc với năm
2013 được sử dụng là gốc.
Bảng 2.3: Thống kê về nghề nghiệp và tiền án, tiền sự của các bị cáo phạm tội MT
tại địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh
Bảng 2.4: Thống kê về độ tuổi và giới tính của các bị cáo phạm tội MT tại địa bàn
Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.
Bảng 2.5: Thống kê trình độ học vấn của các bị cáo phạm tội MT tại địa bàn Quận
7, Thành phố Hồ Chí Minh
Bảng 2.6: Thống kê hoàn cảnh gia đình của các bị cáo phạm tội MT tại địa bàn

Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh
Bảng 2.7: Thống kê về động cơ phạm tội của các bị cáo phạm tội MT tại địa bàn
Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh
Bảng 2.8: Thống kê sở thích của các bị cáo phạm tội MT tại địa bàn Quận 7, Thành
phố Hồ Chí Minh
Biểu đồ 2.1: Diễn biến số vụ án nói chung và số vụ án phạm tội ma túy đã xét xử
tại địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh
Biểu đồ 2.2: Diễn biến số bị cáo nói chung và số bị cáo phạm tội ma túy đã xét xử
tại địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh
Biểu đồ 2.3: Cơ cấu về việc làm của bị cáo phạm tội MT trên địa bàn Quận 7,
Thành phố Hồ Chí Minh
Biểu đồ 2.4: Cơ cấu về độ tuổi của bị cáo phạm tội về MT trên địa bàn Quận 7,
Thành phố Hồ Chí Minh
Biểu đồ 2.5: Cơ cấu về giới tính của bị cáo phạm tội MT tại địa bàn Quận 7, Thành
phố Hồ Chí Minh
Biểu đồ 2.6: Cơ cấu về trình độ học vấn của bị cáo phạm tội về MT trên địa bàn
Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh
PHỤ LỤC 2: Phiếu điều tra xã hội học các phạm nhân phạm tội MT


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm qua tình hình tội phạm ma túy diễn biến phức tạp dưới sự
tác động trực tiếp của mặt trái nền kinh tế thị trường. Tội phạm ma túy được thực
hiện có tính tổ chức hơn, thủ đoạn thực hiện tội phạm tinh vi và táo bạo, đối tượng
thực hiện tội phạm ngày càng đa dạng. Vì vậy, việc nâng cao hiệu quả đấu tranh
phòng chống tội phạm ma túy là một yêu cầu khách quan. Trong đó, việc phòng
ngừa tội phạm nói chung và tội phạm ma túy nói riêng là một trong những vấn đề
luôn được Đảng và Nhà nước đặc biệt quan tâm. Để công tác phòng ngừa tội phạm
đạt hiệu quả cao thì đòi hỏi sự kết hợp của nhiều biện pháp, cách thức khác nhau.

Một trong những yếu tố không thể thiếu trong công tác đấu tranh, phòng ngừa tội
phạm đó là nghiên cứu về nhân thân người phạm tội.
Bất kỳ một người phạm tội nào cũng có nhân thân, học thuyết Mác - Lênin
khẳng định “Bản chất con người là tổng hòa các mối quan hệ xã hội”, nhưng không
phủ nhận mặt tự nhiên, cái sinh học trong việc xác định bản chất con người. Đồng
thời bản chất con người không phải là cái duy nhất, cố định bất biến mà là cái chung
nhất, sâu sắc nhất và có tính lịch sử cụ thể. Trong khi nhấn mạnh bản chất xã hội
của con người phải nhận thấy cái xã hội không thể tách rời cái sinh học, mặc dù, cái
xã hội chiếm vị trí cơ bản trong bản chất con người”. Nguyên nhân dẫn tới việc
phạm tội của con người là kết quả của sự tác động qua lại giữa phẩm chất tâm lí tiêu
cực với môi trường xã hội tiêu cực. Nhân thân con người phạm tội hoàn toàn không
mang tính chất bẩm sinh, mà là đặc điểm được quy định về mặt xã hội, được thể
hiện việc đi ngược lại với các chuẩn mực và lợi ích xã hội. Nhân thân người phạm
tội không phải là yếu tố cấu thành nên tội phạm tuy nhiên lại có ý nghĩa vô cùng
quan trọng trong việc xác định trách nhiệm hình sự của người phạm tội, các nguyên
nhân, yếu tố môi trường, xã hội của nhân thân người phạm tội đã tác động đến họ
dẫn đến việc họ phạm tội. Thông qua đó ta nghiên cứu, tìm hiểu và đưa ra những
giải pháp làm giảm thiểu tội phạm đem lại môi trường trong lành, trật tự, xã hội văn
minh. Ngày nay, tội phạm về ma túy là một trong những tội phạm mà kéo theo đó là
1


rất nhiều các tệ nạn xã hội, ma túy là cầu nối dẫn đến các căn bệnh thế kỷ như
HIV/AIDS, các tệ nạn trộm cắp, xâm hại tình dục, quấy rối trật tự công cộng,…
phần lớn cũng từ tội phạm ma túy mà ra. Vì thế, nhân thân người phạm tội ma túy là
một vấn đề cấp bách cần nghiên cứu. Việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội nói
chung và người phạm tội về ma túy nói riêng sẽ làm sáng tỏ bản chất, đặc điểm đặc
trưng của người phạm tội, khuynh hướng chống đối xã hội của họ, làm sáng tỏ động
cơ, mục đích của người phạm tội. Qua nghiên cứu nhân thân người phạm tội không
chỉ đánh giá được khả năng giáo dục cải tạo của người phạm tội mà còn giúp đánh

giá được tính chất mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội để có hình phạt phù hợp.
Cùng một hành vi nhưng ở người này là biểu hiện ngẫu nhiên đột xuất nhưng ở
người khác là hành vi có tính toán, có ý thức sâu sắc biểu hiện bản chất của người
phạm tội,... Đây là những yếu tố quan trọng để xác định nguyên nhân và điều kiện
của tội phạm ma túy và là cơ sở để xây dựng các giải pháp đấu tranh với loại tội
phạm này, cũng như xây dựng các biện pháp giáo dục, cải tạo người phạm tội, dự
báo tình hình tội phạm và các giải pháp phòng ngừa tội phạm.
Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh là một trong năm quận mới được thành lập
vào năm 1997 của Thành phố Hồ Chí Minh từ phần đất phía Bắc của huyện Nhà
Bè, bao gồm thị trấn Nhà Bè và 5 xã lân cận. Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh có vị
trí chiến lược trong khai thác giao thông thuỷ và bộ, là cửa ngõ phía Nam của thành
phố, là cầu nối mở hướng phát triển của thành phố với biển Đông và thế giới. Với vị
trí đó, Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh có điều kiện thu hút đầu tư trong và ngoài
nước. Khu chế xuất Tân Thuận trên địa bàn quận là một trong những khu chế xuất
lớn và hiệu quả nhất của thành phố. Kinh tế phát triển là một dấu hiệu đáng mừng
cho đất nước, dấu hiệu này là động lực nội tại để thúc đẩy sự phát triển xã hội. Tuy
nhiên xã hội lại phát triển không đồng đều, sự chênh lệch về khoảng cách giàu
nghèo quá lớn và việc này đã mang đến hệ quả là sự gia tăng vượt mặt về tội phạm
trên địa phương Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh trong đó đáng kể đến là tội phạm
về ma túy, người nghiện ma túy trên địa bàn không ngừng tăng cao, đặc biệt là lứa
tuổi thanh thiếu niên, người nghiện ma túy đang có xu hướng trẻ hóa, tình hình này
2


đã tác động rất xấu đến an ninh xã hội, trật tự văn hóa trên toàn địa phương, là mối
nguy hiểm đối với dân tộc, làm suy giảm giống nòi.
Trong những năm qua công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy
tại địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh nói chung và Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh
nói riêng đã đạt được những kết quả tích cực. Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả
tích cực đã đạt được thì thực tiễn đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy cũng

còn nhiều hạn chế. Một trong những nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trong
công tác đấu tranh phòng chống tội phạm về ma túy tại địa bàn Quận 7, Thành phố
Hồ Chí Minh đó là chưa có sự nghiên cứu chuyên sâu về nhân thân người phạm tội,
cũng như vai trò của nó trong nguyên nhân và điều kiện của loại tội phạm này. Việc
nghiên cứu nhân thân người phạm tội về ma túy phải gắn với các đặc điểm về
không gian, điều kiện kinh tế - xã hội, truyền thống đạo đức, tập quán, thói quen,
văn hóa tại địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh. Qua việc nghiên cứu nhân
thân người phạm tội ma túy tại địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh sẽ rút ra
được những đặc điểm nhân thân tiêu cực của người phạm tội, từ đó xây dựng các
biện pháp tối ưu trong hoạt động phòng ngừa tội phạm về ma túy tại địa bàn Quận
7, Thành phố Hồ Chí Minh.
Với tính cấp bách của vấn đề và các lý do vừa nêu ở trên, tác giả chọn đề tài
“Nhân thân người phạm tội ma túy tại địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh”
làm đề tài nghiên cứu luận văn Thạc sĩ Luật học nhằm nghiên cứu chuyên sâu để
làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn tình hình tội phạm về ma túy tại địa bàn
Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra các giải pháp phòng
ngừa tội phạm ma túy tại địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh nói riêng và
Thành Phố Hồ Chí Minh nói chung từ khía cạnh nhân thân người phạm tội.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong những năm gần đây, đã có một số công trình nghiên cứu được thực
hiện liên quan đến đề tài nhân thân người phạm tội.
Về lý luận nhân thân người phạm tội có những công trình nghiên cứu sau:
- Giáo trình tội phạm học, của GS.TS Võ Khánh Vinh chủ biên, Đại học
Huế, năm 2011;
3


- Tội phạm học Việt Nam một số vấn đề lý luận và thực tiễn, Tập thể tác giả
Viện Nhà nước và Pháp luật, năm 2009;
- Tội phạm học hiện đại và phòng ngừa tội phạm, của GS.TS Nguyễn Xuân

Yêm, Nxb. Công an nhân dân, 2007;
- Một số vấn đề lý luận về tình hình tội phạm ở Việt Nam, của PGS.TS Phạm
Văn Tỉnh, Nxb, Công an nhân dân, 2007;
- Bài viết: “Nhân thân người phạm tội: Một số vấn đề lý luận cơ bản” của tác
giả GS.TS Lê Cảm, Tạp chí Tòa án, số 10/2001, tr. 7-11 và số 11/2001, tr. 5-8;
- Bài viết: “Một số vấn đề về nhân thân người phạm tội” của tác giả Nguyễn
Quang Hạnh, Tạp chí Nghề luật, số 1/2013, tr. 52-57.
Trong các công trình nghiên cứu trên, các tác giả đã nghiên cứu và làm rõ
nhiều vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội như: Khái niệm nhân thân người
phạm tội, phân biệt khái niệm nhân thân người phạm tội với một số khái niệm có
liên quan, ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội… Tác giả sẽ kế
thừa những quan điểm khoa học trên làm nền tảng căn cứ trong luận văn của mình.
Bên cạnh đó có những công trình nghiên cứu, phân tích về nhân thân người
phạm tội trên một địa bàn nhất định và đặc điểm người phạm tội gắn với một loại
tội phạm cụ thể, tiêu biểu như:
Luận văn Thạc sĩ luật học: “Nhân thân người phạm tội trên địa bàn Quận 7,
Thành phố Hồ Chí Minh” của Phạm Uyên Thy (2015), Học viện khoa học xã hội;
Luận văn Thạc sĩ luật học: “Nhân thân người phạm tội hiếp dâm trẻ em trên
địa bàn tỉnh Bình Phước” của Nguyễn Thanh Tuấn (2017), Học viện khoa học xã
hội;
Luận văn Thạc sĩ luật học: “Nhân thân người phạm tội cướp giật tài sản trên
địa bàn quận Bình Tân, Thành phố Hồ Chí Minh” của Phạm Thị Phương Thảo
(2017), Học viện khoa học xã hội;
Luận văn Thạc sĩ luật học: “Đặc điểm nhân thân người phạm tội hiếp dâm
trẻ em trên địa bàn tỉnh Đồng Nai dưới góc độ tội phạm học” của Phạm Thế Hùng
(2012), Đại học Luật Thành phố Hồ Chí Minh;
4


Các công trình nghiên cứu này đều nghiên cứu về thực tiễn nhân thân người

phạm tội nói chung hoặc nhân thân người phạm một tội hoặc nhóm tội nhất định và
đi đến đề xuất các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội phạm từ góc độ
nhân thân người phạm tội. Những kết quả của các công trình nghiên cứu này cũng
là những tri thức, hiểu biết quan trọng mà tác giả có thể kế thừa trong quá trình
nghiên cứu làm đề tài của mình.
Tuy nhiên, chưa có một công trình nghiên cứu nào nghiên cứu chuyên sâu về
nhân thân người phạm tội ma túy tại địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh. Vì
vậy, trên cơ sở kế thừa những tri thức lý luận nền tảng về nhân thân người phạm tội
cũng như những tri thức nghiên cứu về nhân thân người phạm tội trong các loại tội,
nhóm tội ở các địa phương nhất định trong các công trình của các tác giả kể trên, tác
giả sẽ vận dụng đi sâu nghiên cứu về nhân thân người phạm tội ma túy tại địa bàn
Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh. Từ thực tiễn tình hình tội ma túy tại địa bàn Quận
7, Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn năm 2013 - 2017, tác giả sẽ đi sâu phân tích
làm rõ lý luận về nhân thân người phạm tội gắn với đặc điểm tình hình kinh tế, văn
hoá, đạo đức, truyền thống... của người dân Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh. Từ
đó, kiến nghị các giải pháp phòng ngừa tình hình tội ma túy tại địa bàn Quận 7,
Thành phố Hồ Chí Minh từ khía cạnh nhân thân người phạm tội. Đây chính là
hướng nghiên cứu của luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu “Nhân thân người phạm tội ma túy tại địa bàn Quận 7,
Thành phố Hồ Chí Minh” mục đích là đề ra đầy đủ và hợp lý các giải pháp phòng
ngừa, ngăn chặn các tội phạm về ma túy tại địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí
Minh thông qua nghiên cứu những vấn đề lý luận liên quan đến nhân thân người
phạm tội về ma túy dưới góc độ nghiên cứu riêng biệt của Tội phạm học. Trên cơ sở
đó để hiểu rõ hơn về các nguyên nhân hình thành các đặc điểm nhân thân xấu của
những người phạm tội - là những yếu tố giữ vai trò quan trọng trong việc làm phát
sinh hành vi phạm tội và đề ra các giải pháp loại trừ các nguyên nhân trên.
5



3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nêu trên, đề tài cần giải quyết các nhiệm vụ cơ bản
sau:
- Nghiên cứu làm rõ những vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội ma
túy;
- Phân tích làm rõ thực tiễn nhân thân người phạm tội ma túy và các yếu tố
tác động đến sự hình thành nhân thân người phạm tội ma túy trên địa bàn Quận 7,
Thành phố Hồ Chí Minh giai đoạn năm 2013 - 2017;
- Đề xuất kiến nghị các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội phạm
ma túy từ góc độ nhân thân người phạm tội.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là nhân thân người phạm tội ma túy trên địa
bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh. Để nghiên cứu, tác giả dựa trên cơ sở các số
liệu thống kê và nghiên cứu 287 bản án HSST của TAND Quận 7, Thành phố Hồ
Chí Minh trong 05 năm từ năm 2013 đến năm 2017 và kết quả điều tra xã hội học.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Phạm vi về không gian: Đề tài nghiên cứu nhân thân người phạm tội ma túy
dưới góc độ tội phạm học và phòng ngừa tội phạm tại địa bàn Quận 7, Thành phố
Hồ Chí Minh.
- Phạm vi về thời gian: Từ năm 2013 đến năm 2017.
- Phạm vi về tội danh: Đề tài chỉ tập trung nghiên cứu nhân thân người phạm
tội ma túy.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phép duy vật biện chứng và duy vật lịch sử
của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng, pháp
luật của Nhà nước về đấu tranh phòng, chống tội phạm, bảo vệ an ninh quốc gia và
giữ gìn trật tự an toàn xã hội; các tri thức khoa học pháp lý của tội phạm học, pháp

6


luật hình sự, khoa học điều tra hình sự; thực tiễn phòng, chống tội phạm ma túy tại
địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu đặc thù của tội phạm học, cụ
thể:
- Phương pháp nghiên cứu tài liệu (bình luận, phân tích...) được sử dụng để
làm rõ những vấn đề lý luận chung về nhân thân người phạm tội ma túy;
- Phương pháp nghiên cứu thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh, quy nạp,
hệ thống, biểu đồ, diễn dịch, đối chiếu, suy luận, phương pháp lịch sử logic, phương
pháp nghiên cứu, tổng hợp bản án... được sử dụng để làm rõ các đặc điểm nhân thân
người phạm tội ma túy và các yếu tố tác động đến sự hình thành nhân thân người
phạm tội ma túy tại địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2013 đến năm
2017;
- Phương pháp tổng kết kinh nghiệm, được sử dụng để nhằm đưa ra kiến
nghị việc hoàn thiện các giải pháp phòng ngừa tình hình tội ma túy từ góc độ nhân
thân người phạm tội;
Ngoài ra, tác giả cũng đã sử dụng phương pháp điều tra xã hội học nhằm
khảo sát, tìm hiểu về quan điểm của người chưa thành niên với phương pháp giáo
dục của gia đình và nhà trường; những yếu tố chủ quan thuộc về người phạm tội mà
bản án của Tòa án không thể hiện. Kết quả của 50 phiếu khảo sát được tác giả sử
dụng trong nội dung của luận văn sẽ làm rõ thêm những yếu tố tác động đến sự hình
thành nhân thân người phạm tội ma túy tại địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh
trong giai đoạn từ năm 2013 đến năm 2017.
6.

nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn


Về lý luận: Trên cơ sở nghiên cứu lý luận chung về nhân thân người phạm
tội, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần bổ sung lý luận về nhân thân người
phạm tội ma túy, nhân thân người phạm tội cũng như lý luận về Tội phạm học.
Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng là tài liệu
nghiên cứu, sử dụng trong thực tiễn phòng, chống tội MT tại địa bàn Quận 7, Thành
7


phố Hồ Chí Minh, đề ra các biện pháp nâng cao hiệu quả phòng ngừa tội phạm MT,
dưới góc độ nhân thân người phạm tội. Kết quả nghiên cứu của luận văn cũng là
những tài liệu tham khảo hữu ích cho các cán bộ, giảng viên, sinh viên trong các cơ
sở đào tạo luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phần phụ lục
thì nội dung của luận văn có kết cấu gồm 3 chương. Cụ thể như sau:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về nhân thân người phạm tội ma túy.
Chương 2: Nhân thân người phạm tội ma túy tại địa bàn Quận 7, Thành phố
Hồ Chí Minh.
Chương 3: Các giải pháp tăng cường phòng ngừa tình hình tội phạm ma túy
từ góc độ nhân thân người phạm tội tại địa bàn Quận 7, Thành phố Hồ Chí Minh
trong thời gian tới.

8


Chương 1
NH NG VẤN ĐỀ L LUẬN VỀ NHÂN THÂN
NGƯỜI PHẠM TỘI MA TÚY
1.1. Khái niệm nhân thân người phạm tội ma túy và ý nghĩa của việc
nghiên cứu nhân thân người phạm tội ma túy

1.1.1. Khái niệm nhân thân người phạm tội ma túy
Dưới góc độ của Tội phạm học, khái niệm nhân thân người phạm tội được
hình thành từ tập hợp hai khái niệm: “nhân thân” và “người phạm tội” [41, tr.147].
Theo đó, nhân thân người phạm tội được hiểu là nhân thân người có lỗi trong việc
thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị pháp luật hình sự cấm đoán và trừng
phạt. Nói cụ thể hơn nhân thân người phạm tội là tổng hợp các đặc điểm dấu hiệu
riêng biệt mang tính cá nhân của con người như tên, tuổi, giới tính, các đặc điểm về
xã hội học, đạo đức, tâm lý, tôn giáo, tín ngưỡng,... mà người phạm tội tham gia vào
các mối quan hệ xã hội.
Theo quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lênin thì nhân thân con người chính
là một phạm trù xã hội lịch sử, nó là sản phẩm của một thời đại nhất định, được quy
định bởi các điều kiện lịch sử cụ thể của hiện thực xã hội. Mỗi một thời đại khác
nhau sản sinh ra những người không giống nhau, song dù thời đại nào thì bản chất
của con người luôn luôn là tổng hòa những mối quan hệ xã hội [17, tr. 101]. Mỗi
con người tồn tại trong xã hội với đặc điểm riêng có của mình và có một cuộc sống
khác nhau, nhưng không phải con người sinh ra đã có thể trở thành người phạm tội
mà quá trình sinh sống với những đặc điểm nhân thân của con người hình thành và
phát triển trong xã hội theo hướng tốt hoặc xấu. Chính quá trình hình thành này mà
có người trở thành người phạm tội, có người không trở thành người phạm tội.
“Những đặc điểm thuộc về nhân thân con người - sinh học, tâm lý, xã hội - nếu gặp
những điều kiện, hoàn cảnh không thuận lợi của quá trình hình thành nhân cách sẽ
trở thành những đặc điểm nhân thân xấu, những đặc điểm nhân thân xấu này khi
gặp những tình huống bên ngoài thuận lợi sẽ dễ làm phát sinh hành vi phạm tội”
[38, tr. 10] .
9


Nghiên cứu nhân thân người phạm tội có ý nghĩa quan trọng trong việc đưa
ra những kiến nghị góp phần giải quyết đúng đắn vụ án hình sự, cũng như phòng
ngừa tội phạm và giáo dục, cải tạo người phạm tội. Do vậy, vấn đề nhân thân người

phạm tội là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học pháp lý như tội phạm
học, luật hình sự, khoa học điều tra hình sự,… Trong khoa học pháp lý có một số
quan điểm về nhân thân người phạm tội như sau:
- Theo GS.TS Võ Khánh Vinh: “Nhân thân người phạm tội tức là người có
lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm cho xã hội bị luật hình sự quy định là tội
phạm được hiểu là tổng thể các dấu hiệu, đặc điểm có ý nghĩa về mặt xã hội, trong
sự kết hợp với các điều kiện và hoàn cảnh bên ngoài ảnh hưởng đến hành vi phạm
tội của người đó” [52, tr. 130].
- Theo PGS.TS Đỗ Ngọc Quang: “Nhân thân người phạm tội là tổng hợp
những đặc điểm, những dấu hiệu, mối quan hệ xã hội về một con người chứa đựng
phẩm chất cá nhân tiêu cực trong nhân cách dẫn đến hành vi phạm tội” [20].
- Theo PGS.TS Nguyễn Ngọc Hòa: “Nhân thân người phạm tội trong luật
hình sự được hiểu là tổng hợp những đặc điểm riêng biệt của người phạm tội có ý
nghĩa trong việc giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự của họ” [15].
Nhìn chung các quan điểm trên đều có điểm chung khi khẳng định nhân thân
người phạm tội là tổng hợp các đặc điểm, dấu hiệu thể hiện bản chất của con người
khi tham gia vào các quan hệ xã hội. Đó là các đặc điểm dấu hiệu sinh học, nhân
khẩu học và các đặc điểm về xã hội học và đạo đức. Nhân thân người phạm tội vừa
thỏa mãn những dấu hiện cơ bản của nhân thân con người, vừa mang dấu hiệu đặc
trưng riêng có ở người phạm tội. Dấu hiệu đặc trưng trong nhân thân người phạm
tội khác với nhân thân con người trước hết ở chỗ họ đã thực hiện hành vi phạm tội
và là chủ thể của tội phạm theo quy định của BLHS. Nhân thân người phạm tội
chứa đựng phẩm chất tiêu cực trong nhân cách. Những phẩm chất tiêu cực này được
thể hiện trong hệ thống những đặc điểm, thế giới quan, thái độ, hành vi ứng xử xã
hội, tình cảm, ý chí, sở trường năng khiếu cá nhân hoặc những sai lệch về chuẩn
mực đạo đức dẫn đến việc họ thực hiện hành vi phạm tội. Những đặc điểm nhân
10


thân này không phải sinh ra đã có mà chúng được hình thành trong suốt quá trình

sống dưới tác động của môi trường sống xung quanh. Đồng thời, chúng được chọn
lọc và tiếp nhận bởi chính yếu tố cá nhân của người phạm tội. Vì vậy, tiền đề của
việc thực hiện tội phạm chính là sự kết hợp phẩm chất cá nhân tiêu cực với điều
kiện hoàn cảnh khách quan bên ngoài.
Bên cạnh điểm chung như phân tích ở trên thì các quan điểm này cũng có sự
khác nhau về nhân thân người phạm tội. Sự khác nhau này xuất phát từ mục đích,
nhiệm vụ nghiên cứu riêng dựa trên những tiêu chí khác nhau. Trong đó có những
quan điểm tiếp cận nhân thân người phạm tội dưới góc nhìn của luật hình sự còn có
quan điểm tiếp cận dưới góc độ tội phạm học. Dưới góc độ luật hình sự, nhân thân
người phạm tội là tổng hợp những đặc điểm riêng biệt của người phạm tội có ý
nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự. Vì vậy, nhân
thân người phạm tội dưới góc độ nghiên cứu của luật hình sự không bao gồm tất cả
các đặc điểm xã hội, tâm lý và sinh học của người phạm tội mà chỉ là những đặc
điểm có ý nghĩa đối với việc giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự. Việc
nghiên cứu nhân thân người phạm tội trong luật hình sự nhằm làm rõ sự ảnh hưởng
của các đặc điểm nhân thân người phạm tội đối với tính chất mức độ nguy hiểm cho
xã hội của hành vi phạm tội và có ý nghĩa trong việc định tội, định khung và quyết
định hình phạt. Trong khi đó, nghiên cứu nhân thân người phạm tội từ góc độ tội
phạm học không nhằm mục đích giải quyết đúng đắn vấn đề trách nhiệm hình sự
của họ mà nhằm mục đích làm sáng tỏ nguyên nhân, điều kiện phạm tội thuộc về
nhân thân người phạm tội. Cụ thể nghiên cứu và làm sáng tỏ đặc điểm, tính chất và
mức độ tác động của đặc điểm nhân thân trong cơ chế hành vi phạm tội, mối quan
hệ giữa các đặc điểm sinh học và các đặc điểm xã hội của người phạm tội. Đây là
những đặc điểm nhân thân có ý nghĩa đối với việc thực hiện tội phạm, phòng ngừa
tội phạm và giáo dục cải tạo người phạm tội.
Trong khuôn khổ tội phạm học, nhân thân người phạm tội được nghiên cứu
trên một số khía cạnh như:
Nhóm đặc điểm sinh học của người phạm tội như giới tính, độ tuổi,…
11



Nhóm đặc điểm xã hội như trình độ học vấn, nghề nghiệp, hoàn cảnh gia
đình,…
Nhóm đặc điểm tâm lý phản ánh nhận thức xã hội của người phạm tội như
nhu cầu, sở thích, hứng thú, ý thức pháp luật, định hướng giá trị,…
Nhóm đặc điểm nhân thân phản ánh tính nguy hiểm của người phạm tội được
quy định trong BLHS.
Trên cơ sở nghiên cứu nhân thân người phạm tội, ta có thể rút ra khái niệm
nhân thân người phạm tội MT như sau:
Nhân thân người phạm tội MT là sự thể hiện các đặc điểm cá nhân phản ánh
quá trình sinh sống cá thể của người phạm tội đó, sự tồn tại cá nhân của họ được thể
hiện bởi một số nội dung cụ thể của các mối quan hệ gia đình, trường học, xã hội…
Đó là môi trường vi mô mà trong đó người phạm tội MT sống hoạt động và hình
thành các đặc điểm nhân thân. Điều đó có nghĩa khi xem xét xử lý người phạm tội
MT, một yếu tố quan trọng không thể bỏ qua đó là nhân thân của họ, xem xét nhiều
khía cạnh về nhân thân như độ tuổi, nơi cư trú, dân tộc, giới tính, trình độ học vấn,
tôn giáo,… Như vậy, nhân thân người phạm tội MT là tổng hợp các đặc điểm, dấu
hiệu đặc trưng thể hiện bản chất của một người khi đã thực hiện hành vi bị coi là tội
phạm MT. Đó là các đặc điểm về pháp lý hình sự, các dấu hiệu sinh học, nhân khẩu
học, các đặc điểm về xã hội học, đạo đức, tâm lý.
1.1.2. Ý nghĩa của việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội ma túy
Việc nghiên cứu nhân thân người phạm tội MT mang ý nghĩa rất lớn cho
công cuộc phòng ngừa tội phạm trong xã hội với các ý nghĩa sau:
Thứ nhất, nghiên cứu nhân thân người phạm tội MT tạo cơ sở cho việc xác
định nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm MT.
Nguyên nhân, điều kiện của tình hình tội phạm MT được hiểu là mối quan hệ
tương tác giữa những nhân tố chủ quan của con người (đặc điểm tâm, sinh lý, thói
quen, tính cách,...) với các yếu tố thuộc môi trường bên ngoài làm phát sinh tội
phạm MT.
Những yếu tố thuộc mặt chủ quan có thể làm phát sinh tội phạm MT là

những sai lệch về nhu cầu, nhất là cách thức để thỏa mãn nhu cầu sẽ là động cơ thúc
12


đẩy việc thực hiện tội phạm, hoặc cũng có thể là do ý thức pháp luật hạn chế, không
tôn trọng pháp luật, không thừa nhận giá trị xã hội đích thực của pháp luật, từ đó
dẫn đến việc thực hiện tội phạm.
Mặt khách quan bên ngoài có thể làm phát sinh tội phạm MT là những tình
huống, hoàn cảnh bên ngoài thuận lợi cho việc thực hiện tội phạm, có thể là hoàn
cảnh kéo dài, hay một sự kiện có tính nhất thời, hoặc sự rủ rê, lôi kéo của người
khác gây ra.
Nguyên nhân sinh ra hậu quả, còn điều kiện không thể sinh ra hậu quả mà
tạo điều kiện, bảo đảm cho hậu quả xảy ra [49, tr. 84]. Các nguyên nhân và điều
kiện trong sự tác động lẫn nhau đã tham gia vào quá trình hình thành đặc điểm tâm
lý, đạo đức của cá nhân, quyết định động cơ và sự quyết tâm thực hiện tội phạm.
Tất cả những điều đó được phản ánh trong nhân thân người phạm tội. Chính vì vậy,
nghiên cứu nhân thân người phạm tội MT sẽ cho thấy rõ những điều kiện, hoàn
cảnh tiêu cực từ môi trường tác động thế nào đến sự hình thành nhân cách, đạo đức,
đến quá trình động cơ hóa hành vi phạm tội, giúp cơ quan chức năng xác định được
nguyên nhân làm phát sinh tội phạm MT.
Thứ hai: Nghiên cứu nhân thân người phạm tội MT giúp cho việc định tội,
định khung và quyết định hình phạt một cách chính xác, thuyết phục.
Nhân thân người phạm tội không phải là yếu tố bắt buộc của cấu thành tội
phạm nhưng trong quá trình đánh giá tính chất nguy hiểm của hành vi phạm tội và
xác định trách nhiệm pháp lý của người phạm tội đó thì cần phải xem xét những đặc
điểm, dấu hiệu về nhân thân của người phạm tội được cân nhắc để giải quyết những
vấn đề của trách nhiệm hình sự [51, tr. 194]. Trong quá trình điều tra, truy tố và xét
xử vụ án hình sự, bắt buộc Cơ quan điều tra, VKSND và TAND thu thập, phản ánh
những đặc điểm nhân thân bị can, bị cáo trong hồ sơ điều tra, trong bản kết luận
điều tra của Cơ quan điều tra, trong cáo trạng của VKSND và bản án của Toà án

hoặc trong các giấy tờ khác kèm theo hồ sơ vụ án và đây là một trong những căn cứ
quyết định hình phạt, thiếu nó việc quyết định hình phạt sẽ không chính xác, không
bảo đảm sự nghiêm minh của pháp luật, không thể hiện sự khoan hồng của pháp
luật.
13


Hành vi và con người luôn luôn có quan hệ với nhau cho nên tính chất và
mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội cũng phụ thuộc phần nào vào tính chất của
con người. Điều 50 của BLHS quy định “Khi quyết định hình phạt, Tòa án căn cứ
vào quy định của Bộ luật này, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng
trách nhiệm hình sự”, như vậy nhân thân người phạm tội là một trong những căn cứ
quyết định hình phạt. Ngoài ra, Điều 51 và Điều 52 của BLHS cũng coi những tình
tiết thuộc về nhân thân của người phạm tội là những tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng
nặng trách nhiệm hình sự.
Ở giai đoạn điều tra các vụ án MT, những hiểu biết về nhân thân người phạm
tội cho phép cơ quan điều tra có cơ sở để xác định phương pháp, phương hướng và
chiến thuật điều tra từ đó đề xuất và kiểm tra các giả thuyết điều tra của mình thông
qua việc kiểm tra danh chỉ bản, trích lục tiền án, tiền sự của bị can, nhất là những vụ
án mà đối tượng có hành vi thủ đoạn tinh vi, xảo quyệt. Những việc làm đó không
chỉ có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo điều kiện cho Tòa án có cơ sở cân nhắc,
đánh giá nhân thân bị cáo khi quyết định hình phạt mà còn có ý nghĩa đối với việc
thi hành hình phạt.
Ở giai đoạn xét xử, ngoài việc phải xem xét các yếu tố cấu thành tội phạm,
Tòa án còn cần phải xem xét đặc điểm nhân thân người phạm tội, các tài liệu về
nhân thân người phạm tội là một trong các cơ sở quan trọng của việc truy cứu trách
nhiệm hình sự, quyết định hình phạt một cách đúng đắn, khoa học, khách quan. Cân
nhắc nhân thân người phạm tội đầy đủ, chi tiết tức là làm rõ các đặc điểm cụ thể,
đặc trưng cho mặt tốt, mặt tích cực lẫn mặt xấu, mặt tiêu cực của người phạm tội có

liên quan đến hành vi phạm tội. Do đó, cùng một tội phạm MT, nhưng mỗi bị cáo
có độ tuổi, trình độ học vấn, nghề nghiệp,… khác nhau, Tòa án cũng không thể áp
dụng hình phạt giống nhau, vì chính các đặc điểm, dấu hiệu của người phạm tội
khác nhau sẽ có ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội
cũng như phản ánh rất rõ đến khả năng cải tạo, giáo dục người đó.
14


Thứ ba: Nghiên cứu nhân thân người phạm tội tạo cơ sở cho việc xây dựng
hình thức, biện pháp giáo dục, cải tạo, quản lý người phạm tội một cách phù hợp và
hiệu quả.
Giáo dục và cải tạo người phạm tội là việc làm rất nhân văn tạo điều kiện
cho họ sửa chữa lỗi lầm, tái hoà nhập cộng đồng ổn định cuộc sống. Mỗi người
phạm tội có các đặc điểm, dấu hiệu cá biệt nên cần có chế độ giam giữ, cải tạo giáo
dục người phạm tội khác nhau. Để có biện pháp cải tạo, giáo dục đúng đắn, có hiệu
quả cao cần phải nắm bắt được các đặc điểm trong nhân thân người phạm tội, để
tìm ra biện pháp cải tạo tốt nhất. Mục đích của hình phạt chính là giáo dục, cải tạo
người phạm tội làm cho họ trở thành người tốt, không tái phạm. Để đạt được mục
đích này, các biện pháp giáo dục cải tạo cần phải phù hợp với từng người phạm tội
nhằm cải thiện dần dần các đặc điểm nhân thân xấu có vai trò quan trọng đối với
việc phát sinh tội phạm. Nghiên cứu các đặc điểm nhân thân giúp cho việc phân loại
người phạm tội theo các đặc điểm nhân thân, từ đó áp dụng các biện pháp giáo dục
phù hợp nhằm loại bỏ các đặc điểm nhân thân xấu, hình thành các đặc điểm nhân
thân tốt.
Thứ tư: Nghiên cứu nhân thân người phạm tội có ý nghĩa quan trọng trong
dự báo và phòng ngừa tội phạm MT.
Những kết quả nghiên cứu về nhân thân người phạm tội MT làm cơ sở để áp
dụng các biện pháp phòng ngừa thích hợp đối với tội phạm MT. Kết quả nghiên cứu
nhân thân người phạm tội MT giúp chúng ta hiểu rõ mức độ phổ biến của các loại
nhân thân người phạm tội MT khác nhau, các đặc điểm nhân thân của nhiều tầng,

lớp dân cư khác nhau trong sự tác động qua lại với hệ thống các quan hệ xã hội
phức tạp, từ đó có thể phân loại tội phạm, người phạm tội MT theo từng nhóm, từng
loại có những đặc điểm giống nhau và xác định nguyên nhân, điều kiện của từng
nhóm, loại tội phạm và người phạm tội MT, phục vụ cho việc áp dụng phương pháp
phòng ngừa phù hợp nhằm làm giảm thiểu tình trạng phạm tội MT trong xã hội.
Nhiệm vụ của phòng ngừa là loại trừ các điều kiện thuận lợi cho việc phát
sinh tội phạm, hạn chế các nhân tố tội phạm, hoặc nhân tố có ảnh hưởng đến sự
15


hình thành các phẩm chất cá nhân tiêu cực của con người. Nghiên cứu làm rõ các
đặc điểm trong nhân thân của mỗi người, như giới tính, tuổi, nghề nghiệp, trình độ
học vấn, quan điểm,… đặc biệt là làm rõ các nguyên nhân dẫn đến sự hình thành
các đặc điểm nhân thân xấu, sai lệch của người phạm tội sẽ giúp cho việc đề ra các
biện pháp phù hợp nhằm tác động loại bỏ dần các đặc điểm nhân thân xấu, góp
phần hình thành các đặc điểm nhân thân tốt, qua đó làm biến chuyển người phạm
tội thành người có ích cho xã hội.
1.2. Các đặc điểm của nhân thân người phạm tội ma túy
Nhân thân người phạm tội là tổng thể các yếu tố, các đặc điểm riêng biệt thể
hiện bản chất xã hội của người vi phạm pháp luật hình sự. Trong đó, nhân thân
người phạm tội MT lại có những đặc điểm riêng so với người không phạm tội và
người phạm các tội khác trong BLHS. Các đặc điểm này được chia thành 04 nhóm:
- Nhóm đặc điểm sinh học (nhân chủng học);
- Nhóm đặc điểm xã hội;
- Nhóm đặc điểm đạo đức – tâm lý;
- Nhóm đặc điểm pháp lý hình sự;
1.2.1. Các đặc điểm sinh học (nhân chủng học)
Các đặc điểm sinh học của nhân thân người phạm tội MT bao gồm giới tính,
độ tuổi,... Đây là các yếu tố cơ bản hình thành nên những đặc điểm sinh học ảnh
hưởng đến thói quen, tính cách, sở thích, năng khiếu,… của từng đối tượng hay

nhóm đối tượng mà chúng ta nghiên cứu.
Các đặc điểm này được hình thành trong suốt quá trình sinh sống, làm việc
và sinh hoạt hàng ngày của con người, chịu sự tác động và ảnh hưởng lâu dài của
môi trường sống xung quanh, đồng thời nó cũng được chọn lọc, tiếp nhận bởi chính
cá nhân của người phạm tội.
1.2.1.1. Giới tính
Khi nghiên cứu nhân thân người phạm tội MT thì đặc điểm giới tính là đặc
điểm tiếp cận đầu tiên qua việc thống kê tỷ lệ nam giới và nữ giới phạm tội.
Thực tế cho thấy nam giới thường phạm tội nhiều hơn so với nữ giới dù nam
giới và nữ giới có khả năng nhận được sự giáo dục như nhau trong các môi trường.
16


Nguyên nhân nam giới thường phạm tội rất nhiều hơn so với nữ giới là do những
điều kiện hình thành phẩm chất cá nhân và sự tiếp nhận giáo dục của nam giới có
những đặc điểm khác với nữ giới như nam giới thường mạnh mẽ, có tính độc lập
cao, dám nghĩ, dám làm để thử thách mình, thậm chí cả những việc làm trái pháp
luật. Nam giới thường ít bị sự “phán xét” của xã hội, nhận được sự cảm thông nhiều
hơn nữ giới, nhưng cũng đi đôi với khả năng kìm chế kém, dễ bị ảnh hưởng bởi các
thói hư tật xấu, dễ bị tiêm nhiễm tệ nạn xã hội và dễ hình thành phẩm chất cá nhân,
trạng thái tâm lý tiêu cực hơn so với nữ giới. Trong khi đó nữ giới có tính ôn hòa,
khả năng kìm chế và chịu đựng cao, chịu nhiều ràng buộc về dư luận của xã hội nên
phạm tội ít hơn nhiều so với nam giới. Điều này cũng có nghĩa là, tổ chức phòng
ngừa tội phạm trong xã hội cần tập trung nhiều vào nam giới là điều cần thiết.
1.2.1.2. Độ tuổi
Độ tuổi có quan hệ, ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình phát triển và hình
thành nhân cách trong đặc điểm nhân thân người phạm tội MT. Ở mỗi độ tuổi khác
nhau thì hiểu biết, suy nghĩ, cách ứng xử, kinh nghiệm sống, mục tiêu sống,… của
con người có sự thay đổi theo thời gian. Và, tội phạm MT cũng thế, với mỗi độ tuổi
khác nhau, người phạm tội MT cũng có những khác biệt nhất định về nhận thức

hành vi phạm tội, cách thức thực hiện hành vi phạm tội, cách tổ chức, che giấu hành
vi phạm tội,… Theo đó, với từng nhóm độ tuổi khác nhau mức độ tâm lý và nhận
thức hành vi sẽ khác nhau, việc nghiên cứu đặc điểm độ tuổi cho phép xác định
“mức độ tích cực phạm tội” và đặc điểm về hành vi chống đối xã hội của những
người thuộc những lứa tuổi khác nhau [50, tr.144]. Những người từ đủ 14 tuổi đến
dưới 18 tuổi nhận thức tâm lý chưa đầy đủ, khả năng điều khiển hành vi chưa cao,
không có nhiều kinh nghiệm sống nên họ chưa nhận thức được như thế nào là môi
trường không lành mạnh nên họ rất dễ bị tác động bởi môi trường bên ngoài. Những
người từ đủ 18 tuổi đến 30 tuổi là những người đã hoàn thiện về tâm sinh lý, tuy
nhiên họ đang trong giai đoạn định hướng nghề nghiệp, tự tạo lập cuộc sống riêng
nên diễn biến tâm lý khá phức tạp và dễ bị tác động bởi môi trường sống. Từ 30 tuổi
đến 45 tuổi là độ tuổi trưởng thành hoàn chỉnh nhất, ở giai đoạn này họ đã ổn định
17


về gia đình, nghề nghiệp. Từ sau 45 tuổi là độ tuổi bắt đầu an nhàn, họ thường chấp
nhận cuộc sống hiện tại và khó bị tác động bởi môi trường xung quanh. Từ đó thấy
rõ được ở mỗi độ tuổi khác nhau sẽ có các phương thức thực hiện và hành vi phạm
tội khác nhau do sự chi phối của mức độ trưởng thành trong tâm sinh lý người phạm
tội, điều này góp phần cụ thể hóa, nâng cao hiệu quả của công tác phòng ngừa tội
phạm ở từng nhóm người thuộc các nhóm độ tuổi khác nhau.
Ngoài các đặc điểm nêu trên thì các đặc điểm khác như: nơi sinh, dân tộc,
quốc tịch cũng có mối liên hệ mật thiết với vị trí, vai trò, quá trình hình thành nên
những đặc điểm sinh học của người phạm tội MT.
1.2.2. Các đặc điểm xã hội
Trình độ học vấn, hoàn cảnh gia đình, nghề nghiệp, nơi cư trú là các vấn đề
cần phải nghiên cứu khi tìm hiểu về đặc điểm xã hội trong nhân thân người phạm
tội.
1.2.2.1. Dấu hiệu về trình độ học vấn
Sự hiểu biết và nhận thức về thế giới quan bên ngoài của mỗi cá nhân phần

lớn được tác động bởi học vấn. Học vấn ảnh hưởng sâu sắc đến sự hiểu biết, cách
nhìn nhận sự việc, khả năng ứng xử của mỗi con người đối với các mối quan hệ xã
hội. Đặc điểm về trình độ học vấn sẽ được tác giả chia ra thành 05 nhóm như sau:
nhóm không biết chữ; nhóm có trình độ học vấn đến tiểu học; nhóm có trình độ học
vấn đến trung học cơ sở; nhóm có trình độ học vấn đến trung học phổ thông; nhóm
có trình độ học vấn trung cấp, cao đẳng, đại học trở lên. Trình độ học vấn giữ vai
trò quan trọng trong nhận thức con người, có liên quan chặt chẽ, có ảnh hưởng đến
việc hình thành những nhu cầu, lợi ích sở thích, định hướng giá trị, quan điểm sống
của cá nhân, tác động đến việc sử dụng thời gian, đến cách xử sự của con người nói
chung và các hành vi phạm tội nói riêng.
Những người có học vấn thấp thường chiếm tỷ trọng cao hơn trong cơ cấu
tình hình tội phạm; ở những loại tội phạm khác nhau thì trình độ học vấn của người
phạm tội cũng có sự khác nhau. Bên cạnh đó những người có trình độ học vấn cao
khi đã có chủ đích phạm tội thì hành vi vi phạm pháp luật mà họ thực hiện là vô
cùng tinh vi, khó phát hiện và hậu quả nguy hiểm cho xã hội là cực kỳ cao.
18


1.2.2.2. Dấu hiệu về nghề nghiệp
“Các đặc điểm về địa vị xã hội và nghề nghiệp của những người thực hiện tội
phạm (công nhân, viên chức nhà nước, nông dân, học sinh, người về hưu,…) cho
chúng ta biết được ở những điều kiện và nhóm xã hội nào, ở những lĩnh vực nào của
hoạt động sống loại tội phạm này hay loại tội phạm khác được thực hiện; biết được
những nhân tố phạm tội đặc trưng cho những nhóm người phạm tội khác nhau,
những ngành khác nhau của nền kinh tế…” [49, tr. 144]. Nghề nghiệp có vị trí quan
trọng khi phân tích đặc điểm nhân thân của người phạm tội MT. Nghề nghiệp phụ
thuộc vào trình độ văn hóa của người phạm tội chẳng hạn người có trình độ văn hóa
thấp thì không có nghề nghiệp hoặc là có nghề nghiệp nhưng không thành thạo công
việc, trình độ tay nghề yếu kém và kéo theo sẽ khó tìm việc làm, mức thu nhập
không cao, còn khi con người có trình độ cao sẽ có việc làm, có địa vị xã hội cao,

điều kiện kinh tế ổn định sẽ ít bị tác động bởi các các yếu tố tiêu cực hơn so với các
cá nhân trong tình trạng thất nghiệp, nghề nghiệp không có thu nhập cao hoặc điều
kiện làm việc vất vả, vượt qua khả năng thích nghi riêng của cá nhân. Đồng thời,
những người có nghề nghiệp quá tự do, quy trình quản lý lỏng lẻo cũng dễ bị tác
động bởi các yếu tố bên ngoài hơn so với những người có nghề nghiệp trong môi
trường quản lý chặt chẽ, kiểm tra nghiêm ngặt. Thực tế nghiên cứu tội phạm MT
cho thấy: đa số những người phạm tội là những người không có nghề nghiệp ổn
định, trình độ học vấn thấp, mong muốn kiếm ra tiền nhanh nhất mà không cần phải
lao động. Địa vị xã hội cao và nghề nghiệp ổn định sẽ tạo môi trường thuận lợi cho
việc phát triển nhân cách con người, đồng thời bảo đảm cuộc sống, tạo điều kiện
thuận lợi để giải quyết các mâu thuẫn xã hội mà trực tiếp là kinh tế khi cần thiết.
Thông thường khi trình độ văn hóa thấp thì sẽ khó kiếm được một công việc ổn
định và có thu nhập cao. Không có tay nghề, chuyên môn nào đó thì rất khó tìm
được việc, nhất là trong cơ chế thị trường hiện nay, khi đã không có nghề nghiệp thì
không có vị trí trong xã hội và họ sẽ rơi vào thành phần lười lao động, lười học tập,
chỉ muốn sống dựa dẫm vào người khác, ăn bám vào người khác, mong muốn giàu
có nhưng không có thực lực, họ chỉ mong và bằng mọi cách kiếm ra tiền nhanh nhất
mà không cần phải lao động dẫn đến hình thành nên các tệ nạn xã hội, gây nguy hại
19


×