Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Tư tưởng đất nước của nhân dân trong bài Đất Nước

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.14 MB, 27 trang )

Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

VĂN MẪU LỚP 12: ĐẤT NƯỚC - NGUYỄN KHOA ĐIỀM
TỔNG HỢP 6 BÀI “CẢM NHẬN VỀTƯ TƯỞNG “ ĐẤT NƯỚC CỦA NHÂN DÂN”
TRONG ĐOẠN TRÍCH ĐẤT NƯỚC NGUYỄN KHOA ĐIỀM”

BÀI MẪU SỐ 1:
Đề tài đất nước trong thơ thời kì kháng chiến chống Mĩ là một đề tài rộng lớn, ở mỗi nhà
thơ có cách cảm nhận riêng mang dấu ấn trải nghiệm riệng của bản thân, đặc biệt là các cây
bút trực tiếp cầm súng chiến đấu ở chiến trường như: Nguyễn Duy, Phạm Tiến Duật, Hữu
Thỉnh, Thanh Thảo,… Tiêu biểu trong đó là tư tưởng đất nước của nhân dân được thể hiện
một cách sâu sắc trong bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm.
Bài thơ mở đầu bằng chín câu thơ lý giải cội nguồn đất nước để trả lời cho câu hỏi đất nước
có từ bao giờ:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa…" mẹ thường hay kể
Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất Nước lớn lên khi dân mình biết tròng tre mà đánh giặc
Tóc mẹ thì bới sau đầu
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn
Cái kèo, cái cột thành tên
Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng
Đất Nước có từ ngày đó…
Đất nước ra đời trước khi con người có mặt trên trái đất này vì thế không ai biết được cụ thể
nó có từ bao giờ, chỉ biết rằng “khi ta lớn lên đất nước đã có rồi”. Nguyễn Khoa Điềm đã
mượn mô típ quen thuộc của truyện cổ tích “ngày xửa ngày xưa” để nói lên lịch sử hình
thành của đất nước đã từ lâu lắm rồi. Đồng thời nhà thơ còn gắn sự ra đời của đất nước với
văn hóa hình thành từ lâu đời, đó là những phong tục tập quán rất quen thuộc trong nếp sinh
hoạt truyền thống của dân tộc ta. Phong tục ăn trầu xuất hiện trong cuộc sống hằng ngày với
hình ảnh “miếng trầu là đầu câu chuyện”, trong các sự kiện quan trọng của đời người như


đám hỏi, đám cưới, đám tang. Bên cạnh đó còn có tục búi tóc sau đầu, hình ảnh cái kèo, cái
cột thành tên. Đất nước còn lớn lên cùng với hành trình lịch sử dựng nước, giữ nước và lao
động sản xuất để xây dựng đất nước. Hình ảnh nhân dân ta trồng tre để đánh giặc đã rất
quen thuộc trong sự tích Thánh Gióng. Công cuộc lao động sản xuất vất vả để làm ra hạt

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 1


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

gạo, phải trải qua một nắng hai sương, qua các công đoạn sản xuất: xay, giã, giần, sàng cũng
được nhắc đến trong đoạn thơ. Đất nước ra đời cũng gắn với đời sống sinh hoạt tình nghĩa
với hình ảnh gia đình, vợ chồng thủy chung. Đây là chính là yếu tố gợi lên sự gần gũi , gắn
bó nhất, thiêng liêng nhất trong các yếu tố hình thành nên một đất nước, một dân tộc. Câu
thơ kết “Đất Nước có từ ngày đó” như một hình thức quy nạp. Như vậy, cội nguồn đất nước
gắn với những hình ảnh bình dị, quen thuộc, bình thường nhất.
Đất nước trong quan niệm của Nguyễn Khoa Điềm được hình thành từ không gian địa lý:
“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đất Nước là nơi ta hò hẹn
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đất là nơi "con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc"
Nước là nơi "con cá ngư ông móng nước biển khơi"
Thời gian đằng đẵng
Không gian mệnh mông
Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về

Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
Đất nước được hình thành nên từ phương diện địa lý qua các hình ảnh giản dị. Đó là hình
ảnh sinh hoạt đời thường “anh đến trường”, “em tắm”. Đó là hình ảnh đi vào ca doa truyền
thống “con chím phượng hoàng bay về hòn núi bạc”, “con cá ngư ông móng nước biển
khơi”. Bài thơ còn mở ra không gian sinh tồn của người dân Việt Nam, đó là phạm vi mà
nhân dân ta đã sống qua các triều đại. Không gian tình yêu cũng được tái hiện khi tác giả
gắn hình ảnh đất nước với tình yêu đôi lứa qua hình ảnh “anh” và “em”. Đặc biệt, tác giả đã
đưa không gian lịch sử vào trong bài thơ. Không gian ấy bắt đầu từ những truyền thuyết
nhuốm màu sắc lịch sử, lí giải sự ra đời của các dân tộc anh em “con rồng cháu tiên” cùng
các triều đại vua Hùng đã có công dựng nước và giữ nước “nhớ ngày giỗ Tổ”. Đất nươc còn
được hình thành từ không gian văn hóa. Không gian ấy gắn với các sự tích: Chim về, Rồng

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 2


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

ở, Lạc Long Quân, Âu Cơ cùng truyền thống uống nước nhớ nguồn. Trong tất cả các không
gian ấy không thể thiếu bóng dáng và vai trò của con người:
“Những ai đã khuất
Những ai bây giờ
Yêu nhau và sinh con đẻ cái
Gánh vác phần người đi trước để lại
Dặn dò con cháu chuyện mai sau
Hàng năm ăn đâu làm đâu

Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ “
Con người Việt Nam đã lao động xây dựng đất nước, chiến đấu chống thù trong giặc ngoài
đầy gian khổ. Bên cạnh đó, nhưng người dân còn phải gánh vác nhiệm vụ duy trì nòi giống,
giáo dục con cháu về trách nhiệm của bản thân, tiếp nối truyền thống của cha ông. Như vậy
mỗi một thế hệ con người Việt Nam đều mang trong mình nhiệm vụ giữ gìn phát huy những
gì thế hệ đi trước để lại và đồng thời có cả trách nhiệm với thế hệ tương lai.
Đất nước Việt Nam không những được hình thành từ không gian địa lý, lịch sử mà còn
được xây dựng từ sự hòa hợp của con người, giữa cái riêng và cái chung:
“Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Khi hai đứa cầm tay
Đất Nước trong chúng mình hài hòa nồng thắm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn tròn, to lớn”
Hình ảnh đất nước có trong mỗi con người chúng ta. Mỗi con người chúng ta hôm nay đều
được thừa hưởng những thành quả về vật chất và tinh thần của các thế hệ trước đê lại. Tác
giả đã gắn kết hiện tại với quá khứ và nó là cả một hành trình để những thành quả quá khứ
được phát huy ở hiện tại với những con người đương thời. Tác giả đã thức tỉnh cho chúng ta
một nhận thức sâu sắc: để có được một đất nước như ngày hôm nay là kết quả của cả một
quá trình gian lao vất vả của các thế hệ cha anh. Đồng thời tác giả cũng sử dụng những hình
ảnh, từ ngữ nói về tình yêu đôi lứa để nói rằng đất nước được tạo ra từ chính tình yêu. Từ

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 3


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai


tình yêu đôi lứa dần phát triển lên thành những tình yêu cao cả hơn, đó là tình yêu quê
hương, đất nước, là sự hài hòa giữa cái riêng và cái chung.
Đất nước còn gắn với trách nhiệm của mỗi con người:
“Mai này con ta lớn lên
Con sẽ mang đất nước đi xa
Đến những tháng ngày mơ mộng
Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình
Phải biết gắn bó san sẻ
Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở
Làm nên Đất Nước muôn đời…”
Những danh lam thắng cảnh cũng g óp phần tạo dựng nên một đất nước hoàn chỉnh:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng Đất tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo giúp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên.
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…”

“Em ơi em

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 4



Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

Hãy nhìn rất xa
Vào bốn ngàn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta
Cần cù làm lụng
Khi có giặc người con trai ra trận
Người con gái trở về nuôi cái cùng con
Ngày giặc đến nhà thì đàn bà cũng đánh
Nhiều người đã trở thành anh hùng
Nhiều anh hùng cả anh và em đều nhớ
Những em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn ngàn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ truyền lửa cho mỗi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trông cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân


Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 5


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Dạy anh biết "yêu em từ thuở trong nôi"
Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội
Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu
Ôi những dòng sông bắt nước từ lâu
Mà khi về Đất Nước mình thì bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò, kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xuôi”
Đất nước được dựng lệ từ những con người vo danh. Đó là những người con trai ra trận
đánh giặc. Đó là những người con gái ở nhà làm lụng vất vả. Những con người giản dị, bình
thường nhưng không tầm thường ấy đã làm nên lịch sử hơn bốn nghìn năm đất nước. Họ giữ
lửa, dạy trồng lúa, truyền giọng nói, mở mang bờ cõi, làm nên văn hóa, truyền thống của
dân tộc, không có họ thì sẽ không có đất nước của ngày hôm nay. Vì vậy, Nguyễn Khoa
Điềm đã khẳng định “Đất nước này là đất nước của nhân dân”. Đây chính là tư tưởng của
toàn bộ bài thơ. Đất nước không phải của bất kì một vị vua hay một triều đại nào cả mà
ngay từ khi mới được hình thành, đất nước đã là của nhân dân bởi nó sinh ra từ nhân dân, vì
nhân dân mà tồn tại.
Với cái nhìn mới mẻ về đất nước qua các phương diện lịch sử, địa lý, văn hóa, tình yêu,..
Nguyễn Khoa Điềm đã xây dựng lên một hình ảnh đất nước toàn vẹn – đất nước của nhân
dân. Tư tưởng ấy đã khẳng định vai trò của những con người vô danh, bình thường mà
không tầm thường.


Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 6


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

BÀI MẪU SỐ 2:
I- Giới thiệu vài nét về tác giả, tác phẩm
1. Vài nét về tác giả
Nguyễn Khoa Điềm sinh năm 1943 ở Huế trong một gia đình trí thức cách mạng.
Ông là một trong những nhà thơ tiêu biểu cho thế hệ trẻ những năm chiến tranh chống Mĩ.
Thơ Nguyễn Khoa Điềm giàu chất suy tư, thể hiện một chiều sâu văn hóa, đặc trưng của thế
hệ nhà thơ đã có một hành trang văn hóa chuẩn bị khá chu đáo trước khi bước vào chiến
trường. Các tác phẩm chính của ông: “Đất ngoại ô” (1972), “Mặt đường khát vọng” (1974).
2. Giới thiệu vài nét về tác phẩm
Bài “Đất nước” trích từ chương V trường ca “Mặt đường khát vọng”, bản trường ca
gồm chín chương viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ sống nơi thành thị vùng tạm chiếm miền
Nam, nhận rõ bộ mặt mặt xâm lược của đế quốc Mĩ, đã có ý thức được sứ mệnh của thế hệ
mình trước tình thế hiềm nghèo của đất nước, đã đứng dậy xuống đường đấu tranh hòa nhịp
với cuộc chiến đấu của toàn dân tộc.
II- Phân tích tư tưởng “Đất nước của nhân dân” thể hiện trong đoạn trích
1. Tư tưởng “Đất nước của nhân dân” đã trở thành sợi chỉ đỏ xuyên suốt cả
chương thơ về “Đất nước” và xâu chuỗi mọi cảm xúc hình ảnh thơ.
a. Điều này được biểu hiện trước tiên là tác giả đã sử dụng rộng rãi các chất liệu văn hóa
dân gian từ ca dao, tục ngữ, truyền thuyết, cổ tích; từ phong tục tập quán đến cuộc sống dân
dã hàng ngày: miếng trầu, hạt gạo, hòn than, cái kèo, cái cột. Chúng tạo nên một thế giới
nghệ thuật hết sức quen thuộc gần gũi mà sâu xa, bay bổng của văn hóa dân gian Việt Nam

bền vững, độc đáo.
b. Từ đó, nhà thơ đi sâu thể hiện những cảm xúc, suy tưởng của mình về đất nước. Cảm
hứng có vẻ phóng túng, tự do như một thứ tuỳ bút bằng thơ nhưng vẫn có một hệ thống lập
luận khá chặt chẽ, rõ ràng. Tác giả đã tập trung thể hiện đất nước trên ba bình diện cơ bản
gắn bó thống nhất: trong chiều dài thời gian lịch sử, trong chiều rộng không gian lãnh thổ,
địa lí và cuối cùng là trong bề dày văn hoá, tâm hồn, tính cách Việt Nam.
c. Chính nhờ đứng trên quan điểm “Đất nước của nhân dân”, thông qua chất liệu văn hóa
dân gian giàu chất thơ, kết hợp với lối tư duy bình luận hiện đại mà tác giả đã có những phát
hiện mới mẻ, có chiều sâu ở chính những hình ảnh, chất liệu quen thuộc.
2. “Đất nước của nhân dân” được thể hiện trong chiều dài thời gian lịch sử
a. Nói về lịch sử mấy ngàn năm của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm không dùng những sử
liệu như nhiều nhà thơ khác. Ông dùng lối kể đậm đà màu sắc dân gian:

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 7


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

“Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn
Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre đánh giặc”
Hình ảnh thơ phải chăng gợi nhắc về sự tích trầu cau từ thời Hùng Vương dựng nước xa
xưa, về truyền thuyết Thánh Gióng nhổ tre đánh đuổi giặc Ân. Lịch sử đất nước được đọng
lại trong từng câu chuyện, hiện hình trong “miếng trầu bà ăn”, trong “cây tre đánh giặc”.
Điều đó muốn nói lên rằng đất nước đã nằm sâu trong tiềm thức mỗi người dân, trường tồn
trong đời sống tâm hồn nhân dân trải qua bao thế hệ.
b. Vì vậy khi nghĩ về lịch sử mấy nghìn năm của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm không
điểm lại các triều đại hay các tên tuổi những anh hùng, những danh nhân như: Bà Trưng, Bà

Triệu, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, Nguyễn Trãi, Nguyễn Du… mà nhấn mạnh
đến muôn ngàn những con người bình dị vô danh: “Có biết bao người con gái con trai…
không ai nhớ mặt đặt tên…” “Nhưng họ đã làm ra đất nước”.
Những con người vô danh ấy chính là nhân dân, họ không chỉ là bảo vệ đất nước mà còn
sáng tạo và truyền lại mọi giá trị vật chất và tinh thần cho các thế hệ nối tiếp nhau:
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng…
Họ gánh theo tên làng, tên xã trong mỗi chuyến di dân”.
Đất nước ấy còn có một không gian cụ thể, nơi sinh tồn của cả cộng đồng
a. Cùng với “thời gian đằng đẵng” là “không gian mênh mông” được tạo lập từ thuở sơ
khai với truyền thuyết Lạc Long Quân – Âu Cơ: “Đất là nơi chim về, nước là nơi rồng ở” Một đất nước đẹp đẽ thiêng liêng biết bao!
b. Nhưng “Đất nước” cũng là cái không gian rất gần gũi với cuộc sống hàng ngày của mỗi
người dân: “Đất là nơi anh đến trường. Nước là nơi em tắm”. Và đất nước ấy cũng đã chứng
kiến những mối tình đầu của biết bao lứa đôi: “Đất nước là nơi ta hò hẹn… nhớ thầm”.
c. Từ quan niệm “Đất nước của nhân dân”, nhân dân làm nên đất nước, tác giả đã có một
phát hiện sâu sắc và thú vị: những thắng cảnh thiên nhiên đất nước không chỉ mang màu sắc
gấm vóc của non sông, mà chúng còn là kết tinh vẻ đẹp tâm hồn, truyền thống dân tộc, là sự
“hóa thân” của những cuộc đời bình dị vô danh diễn ra trong mọi thời gian, trong mọi không
gian đất nước.
“Ôi! Đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta!”
3. Đất nước trong bề dày văn hóa, tâm hồn cốt cách Việt Nam

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 8


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai


a. Cũng như hai phương diện trên, bề dày văn hóa, tâm hồn cốt cách Việt Nam không được
nói đến qua các danh nhân như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Lê Quí Đôn, Ngô Thì Nhậm…
mà được thể hiện trong nguồn mạch phong phú của văn hóa dân gian - tiếng nói tâm hồn
nhân dân trải qua từng thời kỳ lịch sử.
b. Tác giả ca ngợi ba vẻ đẹp nổi bật của tâm hồn, tính cách Việt Nam. Đó là thật đắm say và
thuỷ chung trong tình yêu! Biết quý trọng tình nghĩa nhưng cũng thật quyết liệt với kẻ thù.
5. Kết luận
a. “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm là đất nước của nhân dân, của ca dao thần thoại.
b. Những thi liệu dân gian đậm đà chất thơ kết hợp chặt chẽ với những suy nghĩ giàu chất trí
tuệ của tác giả đã làm nên nét đặc sắc đoạn thơ
c. Đó là một đóng góp riêng rất quan trọng của Nguyễn Khoa Điềm làm sâu sắc thêm ý
niệm về đất nước của thơ ca hiện đại

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 9


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

BÀI MẪU SỐ 3:
Đất nước là một chủ đề được quan tâm hàng đầu đối với văn học của những đất nước cđ
chiến tranh, vì thế là một chủ
để xuyên suốt lịch sử văn học nước ta. Mỗi thời đại có mộ cách hiểu, cách quan niệm riêng
về đất nước. Thời trung đại người ta thường quan niệm đất nước gắn liền với công láo của
các triều đại, do các triều đại kế tiếp nhau gây dựng lên. Còn ở thời hiện đại, khi người ta
nhìn thấy rõ sức mạnh to lớn của nhân dân, người ta mới thấy rằng đất nước là của nhân
dân. Điều này tất nhiên càng được các nhà văn Việt Nam ý thức sâu sắc hơn ai hết khi dân
tộc ta tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân vĩ đại chống Mỹ cứu nước. Tư tưởng xuyên suốt

chương thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm chính là tư tưởng ấy:
“Để đất nước này là đất nước nhân dân
Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao, thần thoại”.
Phân tích đoạn trích Đất nước để làm rõ tư tưởng đất nước của nhân dân
Phân tích đoạn trích Đất nước để làm rõ tư tưởng đất nước của nhân dân
Tư tưởng này đã được Nguyễn Khoa Điểm thể hiện một cách nhuần nhuyễn trong cả
chương thơ rất dài, trước hết bằng một chất liệu hết sức phù hợp: chất Ịiệu văn hoá dân gian.
Quả là viết về tư tưởng đất nước của nhân dân thì không có chất liệu nào có thể có ưu thế
bằng văn hoá dân gian. Chính vì thế mà Nguyễn Khoa Điềm đã khai thác một cách phong
phú vốn văn hoá dân gian giàu có của ta để viết nên bài thơ này. Có thể nói cả bài thơ đã
được sáng tạo, tái tạo từ những gì quen thuộc nhất trong nền văn hoá dân gian lâu đời của
người Việt Nam. Có thể thấy hàng loạt những câu thành ngữ, tục ngữ, ca dao, dân ca, hàng
loạt những truyện cổ, hàng loạt những phong tục, tập quán, hàng loạt những địa danh rải
trên khắp sông núi đã được huy động vào trong bài thơ này. Có những câu thơ, đoạn thơ tác
giả trích nguyên văn từ những câu ca dao. Nhưng phần quan trọng hơn là những chất liệu ấy
đã được nhào nặn bằng một cảm xúc mới với một ánh sáng mới, khiến cho những câu thơ
vừa rất hiện đại vừa thấm đẫm chất dân gian truyền thống. Chúng ta không khó khăn gì khi
chỉ ra những truyện cổ, những câu thành ngữ, tục ngữ đã hoá thân thành các câu thơ của
Nguyễn Khoa Điềm. Đọc câu:
“Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
“Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
hay câu – “Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm” .

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 10


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai


Chúng ta có thể thấy ngay trong đó diện mạo của các câu thành ngữ “một nắng hai sương”,
câu ca dao “Em ơi chua ngọt đã từng – Gừng cay muối mặn ta đừng quên nhau”, và bài ca
dao nổi tiếng:
“Khăn thương nhó ai – khăn rơii xuống dát
Khăn thương nhớ ai – khăn vắt trên vai’.
Thậm chí có những câu thơ rất giản dị nhưng dường như đã được nhào nặn, tái tạo từ nhiều
nguồn chất liệu khác nhau.
Ví như: “Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn. Nó gợi lên trong chúng ta một tập
tục đã ăn sâu vào truyền thống của người Việt: tục ân trầu, nó gợi lên những thành ngữ quen
thuộc:
”Miếng trầu là đầu câu chuyện”
“Cơi trầu nên dâu nhà người”
Đồng thời nó cũng gợi lên trong chúng ta một sự tích vào loại cổ nhất của người Việt: “Sự
tích trầu cau”. Ngoài ra nó cũng đánh thức dậy hình ảnh những miếng trầu đã trở thành các
biểu tượng của tình yêu, lòng thuỷ chung: miếng trầu của cô Tấm, miếng trầu của Xuân
Hương. Nhờ am hiểu khá sâu sắc và phong phú vốn văn hoá dân gian cho nên ngòi bút của
Nguyễn Khoa Điềm tỏ ra rất linh hoạt. Người ta thấy rõ những hình ảnh, hình tượng trong
bài “Đất nước” này được khơi dậy, được vun trồng bằng văn hoá dân gian và bản thân
chúng cũng bắt rễ rất sâu vào nguồn văn hoá dân gian ấy. Văn hoá dân gian đã nuôi dưỡng
cho một hồn thơ, khơi dòng cho một cảm hứng và nuôi dưỡng cho đến từng câu thơ trong
bài “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm.
Được viết trong thời chống Mỹ, bài “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm dường như là một
sự nhận thức lại về một vấn đề đã trở nên quen thuộc: vấn đề đất nước. Đất nước được hình
thành như thế nào? Đất nước của ai, đất nước được hiện lên trong đời sống hàng ngày ra
sao? Nguyễn Khoa Điềm đã nghiền ngẫm để trả lời những câu hỏi ấy. vì thế nhà thơ đã
khám phá, phát hiện vé đất nước. Mà tựu chung là khám phá trên ba bình diện: bề rộng
không gian, chiều dài lịch sử, bé dày văn hoá ở bình diện nào cũng có những phát hiện thật
lí thú, sắc sảo và hết sức bất ngờ. Có lẽ đối với bất cứ Tổ quốc nào thì hai thành phần khởi
đầu, hai “nguyên tố”, hai tế bào khởi đầu cho mọi sự sinh thành đều cũng là Đất và Nước.

Hai nguyên tố này kết hợp với nhau, giao hoà với nhau để rồi từ đó mà sinh thành nên cái
cơ thể của đất đai, nước non, xứ sở. Nguyễn Khoa Điềm đã bắt đầu khám phá bề rộng
không gian từ hai nguyên tố ấy:

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 11


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

“Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Đát nưóc là nơi ta hò hẹn
Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm
Đoạn thơ trên đây đã được viết bằng tư duy vừa giàu chất trữ tình thơ ca, vừa mang tính
huyền thoại, vừa thấm đượm một phong vị triết học. Không phải ngẫu nhiên mà Đất tương
ứng với Anh, Nước tương ứng với Em. Một yếu tố thuộc Âm, một yếu tố thuộc Dương. Khi
nói riêng về từng người thì Đất nước cũng tách riêng thành hai chữ. Nhưng đến khi Anh với
Em hò hẹn, Anh với Em hợp lại để thành Ta thì Đất và Nước cũng liền lại với nhau thành
Đất Nước. Như vậy Đất và Nước hoà hợp cùng với tình yêu và trong tình yêu của con
người. Từ đó bắt đầu sự sinh sôi. Và khi Em nhớ Anh thì cả Đất Nước dường như cũng
sống trong nỗi nhớ thầm. Cho nên câu thơ “Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong
nỗi nhớ thầm” là một câu thơ đẹp trong đótình yêu đôi lứa đã hoà hợp làm một với tình yêu
của đất nước.
Cứ thế, đất nước lớn lên trong tình yêu. Cả trong phạm vi đôi lứa, cả trong phạm vi của
cộng đồng. Tư duy của Nguyễn Khoa Điểm cứ mở rộng mãi để bao quát sự sinh thành,
trưởng thành, mở mang của cả đất nước:
“Đất là nơi con chim phượng hoàng bay vê hòn núi bạc

Nước là nơi con cá ngư ông mong nước biền khơi”
“Đất nước là nơi dân mình đoàn tụ
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ờ
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”.
Song song với quá trình sinh thành đất và nước để tạo ra thành địa bàn cư trú của người Việt
suốt mấy nghìn năm qua, là sự sinh sôi của các địa danh. Mỗi một địa danh không phải là
một dòng tên vô nghĩa. Đằng sau mỗi tên đất, tên rừng, tên núi, tên sông là mỗi cuộc đời,
mỗi cuộc đời là một kì tích, một huyền thoại. Một mảnh đất chưa có tên là một miền đất
hoang chưa có lịch sử, chưa có sự sống của con người. Vì thế khi địa danh lan đi đến đâu thì
đất đai được mở rộng đến đó. Nó là dấu ấn về sự sinh tồn của dân tộc này. Cho nên lần theo
những địa danh Nguyễn Khoa Điểm đã dựng lại được cả diện mạo non sông đất nước, mỗi

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 12


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

địa danh đều làm rung động sâu tâm linh của con người: Núi bút non nghiên, hòn Trống
Mái, Vọng Phu, vịnh Hạ Long, sông Cửu Long, ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm…
Mỗi địa danh là một cuộc đời, mối cuộc đời hoá thân thành sông núi. Điều đó cũng có nghĩa
là chính nhân dân đã gây dựng, mở mang, gìn giữ nên đất nước này.
Một đất nước mới chỉ có lãnh thổ không thôi thì chưa đủ. Nó còn phải có lịch sử, lịch sử của
một dân tộc chính là sự sống của dân tộc ấy trong chiều dài thời gian. Điểm vé lịch sử,
Nguyễn Khoa Điềm không nhắc tên những triều đại nổi tiếng, những anh hùng hữu danh.
Trái lại nhà thơ thấy bốn nghìn năm lịch sử là một cuộc chạy tiếp sức không mệt mỏi của

bốn nghìn thế hệ. Họ cầm trong tay ngọn đuốc sự sống của Việt Nam. Mỗi thế hệ chạy một
quãng đường và trao lại cho thế hệ kế tiếp:
“Nhưng em biết không
Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ dã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra đất nước”.
Cứ như thế sự sống của đất nước được duy trì, được gìn giữ và phát triển bởi vô số những
con người vô danh. Và lịch sử cũng không chỉ được hiểu như là những cuộc chống ngoại
xâm kế tiếp. Mà lịch sử là toàn bộ sự sống của người Việt. Chính những người vô danh đã
gìn giữ sự sống này qua những việc rất cụ thể:
‘Họ truyền lửa qua mồi nhà từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói
Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân
…vùng lên đánh bại”.
Cứ như thế đã suốt bốn nghìn năm, lịch sử này thuộc về những người vô danh, thuộc về
nhân dân.
Nói về một đất nước mà mới chỉ dừng lại ở lãnh thổ và lịch sử không thồi thì rõ ràng chưa
đủ. Sự sống của một cộng đồng trong thời gian, cẩn phải được kết tinh thành lối sống riêng,
cốt cách riêng, tâm hổn riêng, khuôn mặt riêng… không lẫn với những dân tộc khác. Có

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 13


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai


nghĩa là nó phải kết tinh thành bản sắc văn hoá. Thiếu điều này, người ta chưa thể hình dung
được đầy đủ về một đất nước thực thụ. Chính vì thế, Nguyễn Khoa Điểm đã nghiền ngẫm và
tiếp tục khám phá đất nước ở bình diện thứ ba: bề dày văn hoá.
Cũng thống nhất với các bình diện trên, ở đây khi điểm về văn hoá, Nguyễn Khoa Điểm
khống nhấc đến những công trình nổi tiếng thuộc nén văn hoá bác học như những công trình
kiến trúc: chùa Một Cột, chùa Bụt Tháp, không kể đến những công trình điêu khắc: tượng
các vị la hán chùa Tây Phương ,các tác phẩm văn học như: Truyện Kiều, Chinh phụ ngâm,
Cung oán ngâm… Đó cũng là những công trình tiêu biểu cho nền văn hoá Việt Nam. Tuy
nhiên, đó là thứ văn hoá dễ thấy, nó cũng giống như những người anh hùng hữu danh, ai
cũng ngưỡng mộ. Nguyễn Khoa Điềm quan tâm đến một thứ văn hoá khác, đó là những sản
phẩm văn hoá nhỏ nhoi bình thường đến tầm thường, đã quen thuộc đến quen nhàm trong
đời sống hàng ngày, khiến cho chúng ta dửng dưng, lãng quên. Đất nước đã được phát hiện
từ một câu chuyện cổ tích, một câu ca dao vất vưởng trôi nổi ở chốn thôn quê, được phát
hiện từ cái kèo, cái cột nôm na, được phát hiện từ vị gừng cay muối mặn mộc mạc, được
phát hiện từ cách làm ra hạt gạo, dãi dầu một nắng hai sương, được phát hiện từ cách bới tóc
sau đầu của người Việt… khiến cho chính người đọc cũng phải bất ngờ,- vỡ lẽ ra rằng:
không phải tìm kiếm đất nước ở đâu xa mà đất nước ở quanh ta, ở trong ta, ở ngay những gì
đơn sơ thân thuộc nhất. Nhưng có lẽ bất ngờ nhất vẫn là sự phát hiện này: “Đất nước bắt
đầu vói miếng trầu bảy giờ bà ăn”. Câu thơ dường như là một nghịch lý, phi lý. Đất nước là
một khái niệm lớn lao thiêng liêng, hệ trọng, tại sao lại có thể nằm trong một miếng trầu nhỏ
nhoi, tầm thường, không có gì quan trọng? Đi tìm sự khởi thuỷ của một đất nước, nghĩa là
phải ngược thời gian trở về với ngọn nguồn xa xưa, sao lại bất đầu với miếng trầu của “bây
giờ”? Câu thơ xem ra thật là phi logic. Nhưng ngẫm nghĩ, ta sẽ thấy cái phi lôgic kia chỉ là
hình thức của câu thơ. Tác giả đã mượn hình thức phi lí để chứa đựng ,một điều hợp lí Đó là
một đất nước dù lớn đến đâu cũng bắt đầu từ những cái nhỏ nhoi. Vô số những cái nhỏ nhoi
mới làm nên sự lớn lao. Nói một cách khác, không có cái nhỏ nhoi như miếng trầu thì cũng
không có sự lớn lao như đất nước. Thì ra mỗi miếng trầu kia đều gánh trong nó một phần
đất nước, mỗi miếng trầu bà ăn hôm nay đều đã có bốn nghìn năm tuổi. Cho nên cái hiện
diện của hôm nay, của bây giờ, đằng sau nó có cả một lịch sử lâu dài. Vì thế quá khứ luôn

có mặt với hiện tại, lịch sử vẫn đang hiện diện với hôm nay. Những câu thơ như thế thực sự
lặ một phát hiện bất ngờ khiến cho người đọc phải ngỡ ngàng. Nổ không chỉ là sản phẩm
của một tư duy sắc sảo. Mà trước hết nó là sản phẩm của một tình yêu, một tấm lòng. Nếu
không có một sự trân trọng với tất cả những gi mà tổ tiên đã chắt chiu, chi chút, gìn giữ suốt
mấy nghìn năm, thì Nguyễn Khoa Điềm không thể có được những câu thơ cứ thể làm rung
động tâm linh người Việt đến như thế.
Toàn bộ đoạn thơ này được viết bằng hình thức một cuộc tâm tình của một đôi traị- gái. Họ
‘hẹn hò vớí nhau, họ tâm sự, tự tình. Những khi riêng tư nhất, cần phải nói những chuyện
sâu kín nhất, họ lại nói về đất nước. Đất nước đã trở thành mối quan tâm hàng đầu của cả

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 14


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

dân tộc, của từng con người, của mỗi đôi lứa. Qua đó Nguyễn Khoa Điềm đã biến một vấn
đề chính trị thành một câu chuyện tâm tình, một dòng tâm sự. Có lẽ nhờ thế mà tính truyền
cảm của bài thơ trở nên mạnh mẽ hơn, sâu hơn. Nguyễn Khoa Điềm cũng phát huy một tư
duy thơ độc đáo, đó làmột lối tư duy nghiêng về suy ngẫm, thâm trầm, sâu lắng. Mối một
lời thơ kết tinh bao suy tư. Cho nên lời thơ nào, câu thơ nào cũng nặng ý tưởng. Khiến cho
người đọc thơ phải cùng suy ngẫm với tác giả mới có thể thấu hiểu được những ý tưởng
giản dị mà hàm súc, chất chứa đằng sau mỗi lời thơ đó. Và là nhờ suy tư thâm trầm sắc sảo
mà Nguyễn Khoa Điểm mới có thể phát hiện ra được rằng: đất nước là ở quanh ta, thậm chí
đất nước ở ngay trong ta:
” Trong anh và em hôm nay
Đầu có một phần đát nước
Khi hai đứa cầm tay

Đất nước trong chúng ta hài hoà nồng thấm
Khi chúng ta cầm tay mọi người
Đất nước vẹn

tròn, to lớn”.

Và cũng chính nhờ đó mà Nguyễn Khoa Điềm mới tiếp cận chân lí:
đất nước của nhân dân.

đất nước này



Đất nước là một đề tài muôn thuở. Chừng nào mỗi con người vẫn là con đẻ của một dân tộc,
của một mảnh đất, chừng ấy người ta vẫn còn viết về cái mảnh đất thiêng liêng được gọi là
Tổ quốc của mình. Mỗi thời có một cảm nhận riêng, nhưng tất cả đều phải xuất phát từ một
tấm lòng chung, đó là sự thiết tha, sự thuỷ chung với giang sơn Tổ quốc. Nếu thiếu điều
này thì dù sự am hiểu văn hoá phong phú đến đâu, tư duy dù sắc sảo đến đâu cũng không
giúp cho thi sĩ viết nên những tiếng thơ có khả năng rung động hàng triệu trái tim người.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 15


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

BÀI MẪU SỐ 4:
Lịch sử văn học đã từng ghi dấu rất nhiều tác phẩm ra đời ca ngợi quốc gia dân tộc, ca ngợi

nhân dân. Nhưng trong số đó, hiếm thấy có tác phẩm nào có được quan niệm mới mẻ như
trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm. Trường ca là một dấu ấn tiến bộ
trong quan niệm của Nguyễn Khoa Điềm về công lao của nhân dân đối với lịch sử. Công lao
ấy được quy tụ lại trong quan điểm "Đất Nước này là Đất Nước Nhân dân", một tư tưởng
mới thể hiện tập trung và sâu sắc trong đoạn thơ Đất Nước (trích phần đầu chương V của
trường ca Mặt đường khát vọng).
Đất nước – hai tiếng gần gũi, thiêng liêng và tha thiết đã từng theo mỗi chúng ta đi suốt
cuộc đời. Nó thân thuộc vô cùng bởi được xây nên từ tình cảm yêu thương của mỗi chúng
ta. Ai đã từng một lần định nghĩa về đất nước? Khái niệm ấy bao la lắm mà sao vẫn cảm
thấy thân quý vô cùng. Ta hãy nghe nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cảm nhận, cắt nghĩa về đất
nước:
Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi
Đất Nước có trong những cái "ngày xửa ngày xưa… " mẹ thường hay kể
Đất nước của nhà thơ được cảm nhận bằng thời gian quá khứ xa xăm. Đất nước ấy là thế
giới của ca dao cổ tích. Chẳng ai biết được nó có tự bao giờ, chỉ biết từ khi có miếng trầu,
khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc, Đất nước đã có rồi. Đất nước được hình thành từ
sự vất vả, yêu thương, của cha, của mẹ. Nguyễn Khoa Điềm đã dùng toàn bộ là chất liệu
dân gian mà tạo nên đất nước của mình. Đất nước ấy vẫn có chiều dài của lịch sử nhưng
không phải là lịch sử của những vương triều mà là lịch sử của nhân dân được ghi bằng cổ
tích, bằng ca dao và bằng phong tục.
Sau phần cảm nhận về hai từ đất nước thiêng liêng và cao quý, Nguyễn Khoa Điềm bắt đầu
diễn nghĩa tư tưởng đất nước của Nhân dân.
Đất nước của Nhân dân theo sự cảm nhận triết lý của nhà thơ là đất nước được dệt bởi một
không gian văn hóa. Đó là một "không gian mênh mông" mở ra cái mênh mang về chiều
kích của đất nước mình. Không gian ấy có khi gần gũi:
Đất là nơi anh đến trường
Nước là nơi em tắm
Có khi xa xăm, huyền thoại hơn:
Đất là nơi "con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”
Nước là nơi "con cá ngư ông mong nước biển khơi”


Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 16


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

Vận dụng triệt để thủ pháp nghê thuật "chiết tự" (tách chữ) và kiểu câu định nghĩa, nhà thơ
đã tạo nên khái niệm "không gian đất nước" khái quát mà thống nhất hòa hợp vô cùng. Nó
không phải là thứ không gian được đo bằng những phép đo thường lệ. Nó là không gian mà
ở đó cái chung thống nhất với cái riêng, cộng đồng hòa hợp từ mỗi chính sách, không gian
của hiện thực pha vào huyền thoại. Không gian ấy không đo đếm được. Nó mênh mang như
tâm tưởng kia không giới hạn.
Nhưng đất nước ấy còn phải có chiều dài lịch sử. Thời gian đằng đẵng thống nhất với không
gian mênh mông. Thời gian ấy được dệt bằng huyền thoại.
Đất là nơi Chim về
Nước là nơi Rồng ở
Lạc Long Quân và Âu Cơ
Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng
Đất nước được gọi về tự phía cội nguồn với những khái niệm mà không người dân đất Việt
nào nghe mà không biết: chim Lạc, giống Rồng, Lạc Long Quân, Âu Cơ, bọc trứng, vua
Hùng, giỗ Tổ… Những câu thơ đã chạm nên vẻ đẹp của đất nước vừa chân thực lại vừa
huyền thoại. Nó còn được gợi ý thức về tổ tiên nòi giống. Từ đó mà nghĩ về đất nước, mọi
người sẽ tự ý thức về trách nhiệm của mình bởi:
Trong anh và em hôm nay
Đều có một phần Đất Nước
Làm như thế nào để tóc dài được? Chỉ cần...
Chúng ta biết Mặt đường khát vọng là một bản trường ca viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ

các thành thị vùng tạm chiếm miền Nam. Nhưng đúng! để nhận rõ bộ mặt xâm lược của đế
quốc Mỹ từ đó ý thức được sứ mệnh của mình, xuống đường hòa nhịp cùng cuộc đấu tranh
chung của toàn dân tộc thì trước hết các thế hệ thanh niên phải được gợi lên cái ý thức dân
tộc của mình. Đó là ý thức về giống nòi, về niềm tự hào, tự tôn dân tộc. Ý thức về một quá
khứ anh hùng của cha ông. Chỉ có như vậy, tuổi trẻ mới thực sự được khắc sâu cái sứ mệnh
thế hệ của mình.
Nguyễn Khoa Điềm cắt nghĩa nhiều khái niệm nhưng khái niệm nào cũng được ông hình
tượng hóa nên nó cứ nhẹ nhàng mà thấm đẫm hồn ta. Ở đoạn thơ tiếp sau này, tư tưởng đất
nước nhân dân được thể hiện qua cái nhìn độc đáo và mới mẻ về thiên nhiên. Chẳng có gì
xa lạ, thiên nhiên được gọi ra bằng những cái tên gần gũi quen thuộc vô cùng: những núi
Vọng Phu, những hòn Trống Mái, những nút Bút, non Nghiên hay đảo Con Cóc, Con Gà
trên Hạ Long bãi đảo… Thiên nhiên ấy vẫn là niềm say mê của muôn đời nhưng nó tồn tại

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 17


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

chưa chắc đã phải do tạo hóa làm ra. Nếu nó không được thổi vào đó những cuộc đời,
những tâm hồn, những số phận thì chắc gì đã khiến con người say sưa đến ngàn năm. Vậy
thiên nhiên làm sống lại những cuộc đời hay chính những cuộc đời, những số phận đã tạo
nên "hồn sống" cho thiên nhiên! Cùng vậy, đất nước làm nên những cuộc đời hay chính
những cuộc đời thầm lặng đang điểm vào những tên núi, tên sông kia đã làm nên đất nước.
Và còn nữa, những cuộc đời đã nên núi nên sông kia chỉ là những cái tên rất nhỏ trong hàng
triệu triệu cuộc đời đã, đang và sẽ làm ra đất nước. Cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm về
thiên nhiên quả thực là sâu sắc.
Nhưng cũng phải đến đây, đến tận đoạn cuối này, tác giả mới khẳng định cái vai trò lịch sử

của nhân dân để hoàn thiện tư tưởng "Đất Nước này là Đất Nước nhân dân". Trong phần
này, tác giả đã "cố tình" không nhắc đến những anh hùng đã từng rạng danh trong lịch sử để
dành trọn những trang thơ cho hàng triệu những anh hùng vô danh. Giọng thơ vẫn là giọng
triết lý khơi gợi thấm đậm sâu xa:
Em ơi em
Hãy nhìn rất xa
Vào bốn nghìn năm Đất Nước
Năm tháng nào cũng người người lớp lớp
Con gái con trai bằng tuổi chúng ta
Câu thơ giản dị mà đánh thức suy nghĩ sâu xa của không biết bao nhiêu thế hệ. Những con
người ấy hàng ngàn đời nay vẫn "cần cù làm lụng” và đánh giặc chẳng kể gái trai; đàn ông,
đàn bà; người già hay con trẻ:
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước
Không chỉ đấu tranh và xây dựng quê hương, làm nên lịch sử, họ còn là những người âm
thầm gìn giữ những nét văn hóa của dân tộc. Họ truyền hạt lúa, truyền lửa qua mỗi nhà. Họ
gánh theo tên làng, tên xã trong mỗi chuyến di dân. Họ đắp đập be bờ, trồng cây cho người
đời sau hái trái. Và tóm lại, họ đã đem cả cuộc đời để dựng xây và phát triển những giá trị
vật chất và tinh thần cho con cháu mãi mãi về sau. Đoạn thơ cuối lặp ý ngọt ngào. Nét đẹp
trữ tình và thơ mộng trong tâm hồn dân tộc dịu dàng lan tỏa.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 18


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai


Cắt nghĩa sâu sắc tư tưởng "Đất Nước này là Đất Nước nhân dân", đoạn Đất Nước của
Nguyễn Khoa Điềm đã đánh giá thật khái quát vai trò của nhân dân trong lịch sử. Nhân dân
là chủ nhân của lịch sử, chủ nhân của đất nước mình. Chân lý ấy đã, đang và sẽ mãi mãi
không bao giờ thay đổi không chỉ đối với dân tộc chúng ta.

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 19


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

BÀI MẪU SỐ 5:
DÀN BÀI
I. Mở bài:
- N.K.Đ là nhà thơ trưởng thành trong kháng chiến chống Mĩ
- Trường ca “Mặt đường khát vọng” là tác phẩm tiêu biểu, làm nên tên tuổi của ông.
- Điểm đặc sắc, độc đáo của đoạn thơ “Đất Nước” trong bản trường ca này là sự cảm nhận
về đất nước trong một cái nhìn toàn vẹn, tổng hợp từ nhiều bình diện và làm nổi bật tư
tưởng “Đất Nước của Nhân dân”.
II. Thân bài:
1.Khái quát: (Đề 1)
2. Phân tích:
a. Tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân” được N.K.Đ thể hiện trước hết bằng một chất
liệu phù hợp: chất liệu văn hóa dân gian:
* Cả bài thơ đã được sáng tạo, tái tạo từ những gì quen thuộc nhất trong nền văn hóa lâu đời
của người VN. Hàng loạt các câu chuyện kể, thành ngữ, tục ngữ, ca dao, dân ca; hàng loạt
các phong tục tập quán, các địa danh xuất hiện trong các câu thơ.

* Những chất liệu dân gian được nhào nặn bằng một cảm xúc mới, bằng ánh sáng của thời
đại mới, những câu thơ vừa hiện đại vừa thấm đẫm chất dân gian truyền thống:
- Những câu thành ngữ, tục ngữ, ca dao, dân ca đã hóa thân thành các câu thơ của N.K.Đ:
+ “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
+ “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”
+ “ĐN là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”
-> Chúng ta thấy ngay trong diện mạo của các câu thơ là câu thành ngữ: “Một nắng hai
sương”, câu ca dao: “Tay nâng đĩa muối chén gừng – Gừng cay muối mặn xin đừng quên
nhau” và bài ca dao nổi tiếng: “Khăn thương nhớ ai, khăn rơi xuống đất – Khăn thương nhớ
ai, khăn vắt lên vai…”
- Có những câu thơ rất giản dị nhưng được nhào nặn, tái tạo từ nhiều nguồn chất liệu khác
nhau: “ĐN bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn”

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 20


Luyn thi THPT QG mụn Ng vn nm 2017
Vng vng nn tng, Khai sỏng tng lai

+ Cõu th gi lờn mt tp tc ó n sõu vo truyn thng ca dõn tc (tc n tru), gi lờn
cõu thnh ng quen thuc Ming tru l u cõu chuyn, gi khụng gian tỡnh ngha ca
S tớch tru cau
+ Hỡnh nh ming tru bõy gi b n cũn l mt biu tng thiờng liờng: Mi ming tru
u gỏnh trong nú mt phn N; mi ming tru b n hụm nay u ó cú 4000 nm tui.
Quỏ kh luụn cú mt vi hin ti, lch s vn hin din vi hụm nay
-> N c cht chiu, gỡn gi trong c nhng s vt nh bộ, bỡnh d.
=> Vn húa dõn gian ó khi dũng cm hng, chy t hỡnh tng n tng cõu ch ca
on trớch t Nc.

b. t nc c cm nhn theo chiu rng ca khụng gian, chiu di thi gian v
chiu sõu ca lch s:
* t nc c cm nhn theo chiu rng ca khụng gian :
- t v Nc l 2 yu t ch vt cht, 2 yu t khi nguyờn ca th gii, to thnh 1 khỏi
nim ch giang sn t quc. N l khụng gian gn gi, gn bú gia anh v em, l khụng
gian ca tỡnh yờu ụi la, tỡnh yờu N v tỡnh yờu ụi la ó hi hũa lm mt:
t l ni anh n trng
Nc l ni em tm
N l ni ta hũ hn
N l ni em ỏnh ri chic khn trong ni nh thm
- T duy ca N.K. m rng bao quỏt s sinh thnh, trng thnh, m mang b cừi:
t l ni con chim phng hong bay v hũn nỳi bc
Nc l ni con cỏ ng ụng múng nc bin khi
Thụứi gian ủaống ủaỹng
Khụng gian mờnh mụng
t Nc l ni dõn mỡnh on t
t l ni Chim v
Nc l ni Rng
Lc Long Quõn v u C

Truy cp website www.hoc247.vn tham kho thờm nhiu bi vn mu khỏc!

Trang | 21


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”
-> Truyền thuyết Tiên – Rồng, Lạc Long Quân – Âu Cơ là truyền thuyết về cội nguồn của

người Việt. Nhắc đến truyền thuyết này, nhà thơ vừa thể hiện niềm tự hào về nguồn gốc cao
quí của dân tộc, vừa gợi được hồn sông núi một cách thiêng liêng và trang trọng.
- Song song với quá trình hình thành địa bàn cư trú của người Việt suốt mấy ngàn năm là sự
sinh sôi của các địa danh. Mỗi địa danh không phải là những dòng tên vô nghĩa. Đằng sau
mỗi tên đất, tên rừng, tên núi, tên sông là mỗi cuộc đời; mỗi cuộc đời là một huyền thoại…
Điều đó có nghĩa chính nhân dân đã gây dựng, mở mang, gìn giữ nên đất nước này:
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”
* ĐN được cảm nhân theo chiều dài lịch sử và bề dày văn hóa:
- Điểm về lịch sử, N.K.Đ không nhắc đến các triều đại nổi tiếng, những anh hùng đã lưu
danh. Nhà thơ thấy lịch sử 4000 năm của dân tộc là một cuộc chạy tiếp sức không mệt mỏi
của hàng ngàn thế hệ. Họ là những người vô danh, là Nhân dân đã hóa thân mình cho “dáng
hình xứ sở”:
“Có biết bao người con gái, con trai
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết
Giản dị và bình tâm
Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra ĐN”
- Nhân dân _ những con người “không ai nhớ mặt đặt tên” đã gìn giữ hồn Việt qua những
việc cụ thể:
“Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng
Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi
Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 22



Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

Họ gánh theo tên xã tên làng trong mỗi chuyến di dân
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái
Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm
Có nội thù thì vùng lên đánh bại
Để ĐN này là ĐN của Nhân dân
ĐN của Nhân dân, ĐN của ca dao thần thoại”
- Sự sống của cộng đồng theo thời gian được kết tinh thành bản sắc văn hóa riêng. N.K.Đ
nghiền ngẫm và khám phá bề dày văn hóa của dân tộc hết sức bất ngờ và cảm động:
+ Hình ảnh người phụ nữ VN tần tảo, đảm đang với tóc “bới sau đầu”
+ Nhà thơ không nhắc đến những công trình văn hóa hay những tác phẩm văn học nổi tiếng
mà phát hiện ra trong những sự vật bình thường nhỏ bé chứa đựng văn hóa ngàn đời của đất
nước: miếng trầu, cái kèo, cái cột, hạt gạo một nắng hai sương…
=> Bằng tấm lòng trân trọng tất ca những gì mà tổ tiên đã chắt chiu, gìn giữ, N.K.Đ đã sáng
tạo những câu thơ làm rung động tâm hồn của người Việt. Đó là sản phẩm của một tư duy
sắc sảo, nhưng trước hết là sản phẩm của một trái tim yêu nước thiết tha.
c. Nghệ thuật:
- Đây là đoạn thơ trữ tình – chính luận; kết hợp thành công xúc cảm và suy nghĩ, trữ tình –
chính luận.
- N.K.Đ đã sử dụng rộng rãi và sáng tạo các chất liệu của văn hóa dân gian _ điều đó đã tạo
ra cho đoạn thơ 1 không gian nghệ thuật đặc sắc: gợi mở 1 thế giới nghệ thuật quen thuộc,
gần gũi mà bay bổng của văn hóa dân gian, kết tinh tâm hồn và trí tuệ của nhân dân.
- Hai chữ ĐN và Nhân dân được viết hoa trang trọng và diệp lại nhiều lần vang vọng khắp
đoạn trích như một khúc nhạc thiêng về sự sinh thành và trường tồn của ĐN.
III. Kết bài:
- Với ngôn ngữ giản dị, mộc mạc, nhà thơ đã bình dị hóa đất nước một cách bất ngờ, cảm

động.
- Bên cạnh những khái niệm trừu tượng, kì vĩ về đất nước mà ta đã bắt gặp trong “Nam
quốc sơn hà” (Lí Thường Kiệt?), “Bình Ngô đại cáo” (Nguyễn Trãi), người đọc ngỡ ngàng,
cảm động nhận ra một đất nước thân thương, máu thịt trong thơ N.K.Đ – “ĐN của Nhân
dân, ĐN của ca dao thần thoại”

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 23


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

BÀI MẪU SỐ 6:
Đất nước chính là nguồn cảm hứng vô tận của thi ca, của tâm hồn người nghệ. Từ xa xưa, ta
bắt gặp hình ảnh đất nước trong những cánh cò trắng trên cánh đồng làng vào những chiều
quê yên ả. Rồi ta bắt gặp đất nước “lưng đeo gươm tay mềm mại bút hoa”, trong thơ Chế
Lan Viên, một đất nước “rũ bùn đứng dậy sáng loà", đất nước của những mùa thu xưa và
nay trong thơ Nguyễn Đinh Thi. Và khi đọc Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm
ta lại gặp hình ảnh “đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại” ở toàn bộ
chương Đất nước của bản trường ca này.
Hình ảnh “đất nước của nhân dân, của ca dao thần thoại” được tác giả thể hiện bằng hình
thức thơ trữ tình, chính luận. Đậm đà cảm xúc mà cũng giàu chất triết lý sâu xa, vừa đem
đến cho người đọc những cảm nhận mới mẻ về đất nước vừa giúp mỗi người yêu hơn ,
thương hơn đất nước mình.
Quan niệm của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước có điểm gì mới về tư tưởng và hình thức
biểu hiện
Quan niệm của Nguyễn Khoa Điềm về đất nước
Theo Nguyễn Khoa Điềm, đất nước không là của riêng ai mà là của toàn nhân dân. Hàng

triệu người vô danh từ thế hệ này sang thế hệ khác đã đổ mồ hôi và xương máu để bảo vệ và
xây dựng đất nước.
Có biết bao người con gái, con trai,
Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi
Họ đã sống và chết.
Giản dị và bình tâm,
Không ai nhớ mặt đặt tên,
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.
Trong suốt bốn nghìn năm dựng nước, nhân dần ta đã chiến đấu, lao động tạo nên bộ mặt
lãnh thổ, nền văn hoá dân tộc, những mối quan hệ gia đình, làng xóm, tổ tiên, quan hệ với
thiên nhiên, lịch sử…
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi,
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 24


Luyện thi THPT QG môn Ngữ văn năm 2017
Vững vàng nền tảng, Khai sáng tương lai

Đất Nước sau bốn ngàn năm đi đâu ta cũng thấy,
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta.
Đất Nước không phải là những gì xa xôi trừu tượng mà thật cụ thể, gắn bó thân thiết với
tình cảm và sinh hoạt hằng ngày của chúng ta:
Đất là nơi anh đến trường,
Nước là nơi em tắm,
Đất Nước là nơi ta hò hẹn,
Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm

Và hiện hữu ngay trong bản thân mỗi người chúng ta:
Trong anh và em hôm nay.
Đều có một phần Đất Nước,
Khi hai đứa cầm tay,
Đất Nước trong chúng ta hài hòa nồng thắm.
Quan niệm về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm có điểm khác với quan niệm phong kiến
ngày xưa – đất nước là của nhà vua.
Nam quốc Sơn hà nam đế cư.
Tiệt nhiên định phận tại thiên thư
(Lí Thường Kiệt)
Nợ thuở trước đánh Tàu mấy lớp,
Cõi trời Nam cơ nghiệp mở mang .
Sông Đằng lớp sóng Trần Vương,
Núi Lam rẽ khói mở đường nhà Lê.
Quang Trung để từ khi độc lập,
Khí anh hăng đầy lấp giang Sơn.
(Phan Bội Châu)

Truy cập website www.hoc247.vn để tham khảo thêm nhiều bài văn mẫu khác!

Trang | 25


×