Tải bản đầy đủ (.docx) (19 trang)

Phân tích những trường hợp bội chi ngân sách nhà nước và mối quan hệ đối với tăng trưởng kinh tế theo quy định của pháp luật hiện hành và thực tế năm 2014; ý kiến pháp lý của nhóm về vấn đề này

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (116.92 KB, 19 trang )

MỞ BÀI
Sau gần 30 năm thực hiện Đổi mới, mở cửa, nền kinh tế nước ta đã đạt được
nhiều thành tựu quan trọng. Theo đà phát triển của nền kinh tế, ngân sách nhà nước
đã thu được những khoản tiền không nhỏ và thu chi ngân sách được cân đối theo
từng năm ngân sách, góp phần đáp ứng nhu cầu chi tiêu, đầu tư phát triển kinh tế
của đất nước. Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu chi tiêu và đổi mới công tác quản lý
cũng như đầu tư phát triển kinh tế, nhà nước ta đã chi ra những khoản tiền rất lớn
dẫn đến tình trạng chi ngân sách (không bao gồm chi trả nợ) lớn hơn các khoản thu
ngân sách - tình trạng này gọi là bội chi ngân sách. Bội chi ngân sách hiện nay là
một vấn đề vô cùng gay gắt, ảnh hưởng lớn đến việc duy trì hoạt động của bộ máy
nhà nước và đầu tư phát triển kinh tế. Bài viết dưới đây có đề tài: “Phân tích
những trường hợp bội chi ngân sách nhà nước và mối quan hệ đối với tăng trưởng
kinh tế theo quy định của pháp luật hiện hành và thực tế năm 2014; ý kiến pháp lý
của nhóm về vấn đề này” sẽ khái quát cho các bạn biết cái nhìn rõ nét về bội chi
ngân sách và mối quan hệ của bội chi ngân sách đối với tăng trưởng kinh tế theo
quy định của pháp luật hiện hành, đồng thời có những ý kiến pháp về của nhóm
mình về vấn đề này.

1


NỘI DUNG
I. Khái quát chung về ngân sách nhà nước và bội chi ngân sách
1. Ngân sách nhà nước
1.1. Khái niệm
Trong pháp luật thực định Việt Nam, khái niệm ngân sách nhà nước được đề
cập tại khoản 14 Điều 4 Luật ngân sách nhà nước năm 2015, theo đó: “ Ngân sách
nhà nước là toàn bộ các khoản thu, chi của Nhà nước được dự toán và thực hiện
trong một khoảng thời gian nhất định do cơ quan nhà nước có thẩm quyền quyết
định để bảo đảm thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của Nhà nước.”


1.2. Đặc điểm
Ngân sách nhà nước là bộ phận chủ yếu của hệ thống tài chính quốc gia.
Ngân sách nhà nước vừa là nguồn lực để nuôi dưỡng bộ máy Nhà nước, vừa là
công cụ hữu hiệu để Nhà nước quản lý, điều tiết nền kinh tế và giải quyết các vấn
đề xã hội nên có những đặc điểm sau đây:1
- Ngân sách nhà nước là một kế hoạch tài chính khồng lồ nhất cần được
quốc hội biểu quyết thông qua trước khi thi hành. Đặc điểm này cho ta thấy việc
thiết lập ngân sách nhà nước không chỉ là vấn đề kĩ thuật nghiệp vụ kinh tế (lập dự
toán các khoản thu và chi định thực hiện trong một năm) mà còn là vấn đề mang
tính kĩ thuật pháp lý (nghĩa là phải trải qua giai đoạn xem xét, biểu quyết thông qua
tại quốc hội giống như việc ban hành một đạo luật để làm phát sinh các quyền và
nghĩa vụ pháp lý nhất định cho các chủ thể tham gia vào hoạt động ngân sách).
1 Giáo trình “Luật Ngân sách nhà nước” – Đại học Luật Hà Nội, trang 15.

2


- Ngân sách nhà nước không phải là một bản kế hoạch tài chính thuần túy
mà còn là một đạo luật. Theo thông lệ, sau khi bản dự toán ngân sách nhà nước
được cơ quan hành pháp soạn thảo thì nó sẽ được chuyển sang cho cơ quan lập
pháp xem xét quyết định và ban bố dưới hình thức một đạo luật để thi hành. Sở dĩ
ngân sách nhà nước phải được lập thành một đạo luật bởi vì ngân sách nhà nước có
vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự phát triển kinh tế, ổn định chính trị xã
hội của một đất nước nên cần thiết phải bảo đảm cho ngân sách nhà nước có được
giá trị pháp lý như một đạo luật. Hơn nữa, vì là một đạo luật nên đòi hỏi yêu cầu
phải có sự công khai, minh bạch trong quá trình thu, chi ngân sách nhà nước, giúp
Quốc hội kiểm soát được Chính phủ trong quá trình thu – chi ngân sách nhà nước
và giúp bản kế hoạch tài chính quan trọng bậc nhất này có thể thực hiện được dễ
dàng hơn trong thực tế khi nó được bảo đảm thực hiện như một đạo luật.
- Ngân sách nhà nước là kế hoạch tài chính của toàn thể quốc gia, được trao

cho chính phủ tổ chức thực hiện nhưng phải đặt dưới sự giám sát trực tiếp của quốc
hội. Việc thiết lập quyền giám sát của Quốc hội đối với hoạt động thi hành ngân
sách của chính phủ đóng vai trò quan trọng trong việc quản trị tốt nền tài chính
công; đồng thời kiểm soát nguy cơ lạm quyền của cơ quan hành pháp trong quá
trình thực thi ngân sách nhà nước. Do vậy, ngân sách nhà nước có sự tương quan
chặt chẽ giữa cơ quan lập pháp và hành pháp trong quá trình xây dựng và thực hiện
ngân sách.
- Ngân sách nhà nước được thiết lập và thực thi hoàn toàn vì mục tiêu mưu
cầu lợi ích chung cho toàn thể quốc gia, không phân biệt người thụ hưởng các lợi
ích đó là ai, thuộc thành phần kinh tế nào hay đẳng cấp xã hội nào.
2. Bội chi ngân sách
2.1. Khái niệm và đặc điểm của chi ngân sách nhà nước
3


a, Khái niệm
Chi ngân sách nhà nước là hoạt động nhằm sử dụng quỹ ngân sách, là quá
trình phân phối nguồn tiền tệ nằm trong quỹ ngân sách nhà nước để chi dùng vào
những mục đích khác nhau. Nếu hoạt động thu ngân sách nhà nước là nhằm thu hút
các nguồn vốn tiền tệ để hình thành nên quỹ ngân sách nhà nước thì chi ngân sách
nhà nước chính là chu trình phân phối, sử dụng các nguồn vốn tiền tệ đã được tập
trung vào quỹ tiền tệ đó. Do hoạt động thu ngân sách nhà nước vừa là tiền đề, vừa
là cơ sở cho hoạt động chi ngân sách nhà nước, vì vậy, quy mô, mức độ của hoạt
động chi ngân sách nhà nước phụ thuộc một phần vào kết quả của hoạt động chi
ngân sách nhà nước.2
Ta có thể kết luận, chi ngân sách nhà nước là hoạt động phân phối và sử
dụng quỹ ngân sách nhà nước theo dự toán ngân sách nhà nước đã được chủ thể
quyền lực nhà nước quyết định nhằm duy trì sự hoạt động của bộ máy nhà nước và
đảm bảo nhà nước thực hiện được các chức ngăn của mình.
b, Đặc điểm

Chi ngân sách nhà nước là hoạt động mang những đặc điểm chủ yếu sau
đây:3
- Thứ nhất, chi ngân sách nhà nước chỉ được tiến hành trên cơ sở pháp luật
và theo kế hoạch chi ngân sách cũng như phân bổ ngân sách do cơ quan quyền lực
nhà nước quyết định. Theo Điều 19 Luật Ngân sách nhà nước 2015, Quốc hội là cơ
quan duy nhất có quyền quyết định về tổng số chi, cơ cấu, nội dung, mức độ các
khoản chi ngân sách nhà nước và quyết định phân bổ ngân sách trung ương. Điều
30 Luật Ngân sách nhà nước 2015 đã giao cho Hội đồng nhân dân các cấp quyết
2 Giáo trình “Luật Ngân sách nhà nước” – Đại học Luật Hà Nội, trang 79.
3 Giáo trình “Luật Ngân sách nhà nước” – Đại học Luật Hà Nội, trang 80.

4


định dự toán chi ngân sách địa phương và quyền quyết định phân bổ ngân sách cấp
mình. Mọi hoạt động chi ngân sách phải được thực hiện trên cơ sở các quyết định
của Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp.
- Thứ hai, chi ngân sách nhà nước nhằm mục tiêu thỏa mãn nhu cầu về tài
chính cho sự vận hành của bộ máy nhà nước, bảo đảm cho Nhà nước thực hiện
được các chức năng, nhiệm vụ của mình. Như vậy, bên cạnh việc chịu ảnh hưởng
của kết quả thu ngân sách nhà nước, mức độ và phạm vi chi ngân sách nhà nước
còn phụ thuộc vào quy mô của bộ máy nhà nước cũng như tùy thuộc vào các chức
năng, nhiệm vụ mà Nhà nước đảm nhiệm. Khoản 2 Điều 5 Luật Ngân sách nhà
nước 2015 đã phản ánh khá khái quát về các mục tiêu chi cho hoạt động của bộ
máy nhà nước và đảm bảo thực hiện các chức năng của Nhà nước trên các lĩnh vực
kinh tế, xã hội, an ninh và quốc phòng.
- Thứ ba, chi ngân sách nhà nước là hoạt động được tiến hành bởi hai nhóm
chủ thể: (1) nhóm chủ thể đại diện cho Nhà nước thực hiện việc quản lý, cấp phát,
thanh toán các khoản chi ngân sách nhà nước (Bộ tài chính, sở tài chính tỉnh, thành
phố trực thuộc trung ương, phòng tài chính quận, huyện, thị xã thuộc tỉnh, thành

phố; sở kế hoạch và đầu tư và kho bạc nhà nước); (2) nhóm chủ thể sử dụng ngân
sách (các cơ quan nhà nước, kể cả các cơ quan hành chính thực hiện khoán biên
chế và kinh phí quản lý hành chính; các đơn vị, kể cả đơn vị sự nghiệp có thu; các
chủ dự án sử dụng kinh phí từ ngân sách nhà nước).
2.2. Khái niệm và đặc điểm của bội chi ngân sách
a, Khái niệm
Khoản 1 Điều 4 Luật Ngân sách nhà nước năm 2015 quy định: “Bội chi
ngân sách nhà nước bao gồm bội chi ngân sách trung ương và bội chi ngân sách
địa phương cấp tỉnh. Bội chi ngân sách trung ương được xác định bằng chênh lệch
5


lớn hơn giữa tổng chi ngân sách trung ương không bao gồm chi trả nợ gốc và tổng
thu ngân sách trung ương. Bội chi ngân sách địa phương cấp tỉnh là tổng hợp bội
chi ngân sách cấp tỉnh của từng địa phương, được xác định bằng chênh lệch lớn
hơn giữa tổng chi ngân sách cấp tỉnh không bao gồm chi trả nợ gốc và tổng thu
ngân sách cấp tỉnh của từng địa phương.”

b, Công thức tính bội chi ngân sách
Bội chi ngân sách nhà nước trong một thời kỳ (1 năm, 1 chu kỳ kinh tế) là số
chênh lệch giữa chi lớn hơn thu của thời kỳ đó. Nhưng thu gồm những khoản nào,
chi gồm những khoản gì? Theo thông lệ quốc tế, có thể tóm tắt báo cáo về ngân
sách nhà nước hằng năm như sau:
Bảng: Tóm tắt nội dung cân đối ngân sách nhà nước hằng năm

Thu

Chi

A. Thu thường xuyên D. Chi thường xuyên.

(thuế, phí, lệ phí).

E. Chi đầu tư.

B. Thu về vốn (bán tài F. Cho vay thuần
sản nhà nước).

(= cho vay mới - thu nợ

C. Bù đắp thâm hụt.

gốc).

- Viện trợ.
- Lấy từ nguồn dự trữ.
Vay thuần (= vay mới trả nợ gốc).
6


A + B +C = D + E + F
Công thức tính bội chi ngân sách nhà nước (NSNN) của một năm sẽ như
sau:
Bội chi NSNN = Tổng chi - Tổng thu = (D + E + F) - (A + B) = C
c, Đặc điểm
Bội chi ngân sách nhà nước có những đặc điểm như sau:
- Bội chi ngân sách nhà nước chỉ được tính trong một thời kỳ của ngân sách
nhà nước: Thời kỳ đó có thể là một năm ngân sách hoặc một chu kỳ kinh tế và số
bội chi ngân sách thực tế chỉ được xác định vào cuối năm ngân sách.
- Bội chi ngân sách nhà nước phản ánh mối quan hệ tương tác giữa thu và
chi ngân sách nhà nước trong một thời kì ngân sách nhà nước.

- Bội chi ngân sách nhà nước phản ánh được tình trạng ngân sách nhà nước:
Bội chi ngân sách nhà nước là sự thâm hụt của ngân sách nhà nước khi đó chi tiêu
của ngân sách nhà nước vượt quá các khoản thu của ngân sách nhà nước (không
bao gồm các khoản thu từ vay nợ của nhà nước).
II. Những trường hợp bội chi ngân sách nhà nước và mối quan hệ đối với tăng
trưởng kinh tế theo quy định của pháp luật hiện hành
1. Những trường hợp bội chi ngân sách nhà nước
Hiện nay, bội chi ngân sách nhà nước được chia thành hai loại là: bội chi cơ
cấu và bội chi chu kỳ:
(1) Bội chi cơ cấu
7


Bội chi cơ cấu là các khoản thâm hụt được quyết định bởi những chính sách
tùy biến của chính phủ như quy định thuế suất, trợ cấp bảo hiểm xã hội hay quy mô
chi tiêu cho giáo dục, quốc phòng,... Ví dụ: Theo báo cáo của Tổng cục thống kê,
tổng chi ngân sách Nhà nước từ đầu năm đến thời điểm 15/12/2014 ước tính đạt
968,5 nghìn tỷ đồng; bằng 96,2% dự toán năm. Trong đó, chi đầu tư phát triển là
158 nghìn tỷ đồng; bằng 97% dự toán năm (riêng chi đầu tư xây dựng cơ bản 153,1
nghìn tỷ đồng, bằng 96,8%). Chi phát triển sự nghiệp kinh tế - xã hội, quốc phòng,
an ninh, quản lý Nhà nước, Đảng, đoàn thể ước tính đạt 690,5 nghìn tỷ đồng; bằng
98,2%; chi trả nợ và viện trợ 120 nghìn tỷ đồng; bằng 100% dự toán năm.
Nguyên nhân dẫn đến bội chi cơ cấu chủ yếu là nguyên nhân chủ quan là do
quản lý, điều hành ngân sách nhà nước bất hợp lý. Biểu hiện qua những vấn đề như
việc khai thác và đánh giá nguồn thu chưa tốt, phân bổ và sử dụng ngân sách nhà
nước còn nhiều bất cập, dẫn đến thất thoát và lãng phí nguồn lực tài chính của nhà
nước, hay vấn đề phân cấp quản lý ngân sách nhà nước chưa khuyến khích địa
phương nỗ lực trong khai thác nguồn thu và phân bổ chi tiêu hiệu quả. Những điều
đó đã làm nguồn thu vào ngân sách nhà nước bị thất thoát, hoạt động thu không
hiệu quả và không đủ cho hoạt động chi của nhà nước. Ngoài ra do nhà nước chủ

động sử dụng bội chi ngân sách nhà nước như là một công cụ để thực hiện chính
sách đẩy mạnh đầu tư, kích thích tiêu dùng tạo sự tăng trưởng cho nền kinh tế,
khắc phục tình trạng suy thoái của nền kinh tế.
(2) Bội chi chu kỳ
Bội chi chu kì là các khoản thâm hụt gây ra bởi tình trạng của chu kỳ kinh
tế, nghĩa là mức độ cao hay thấp của sản lượng và thu nhập quốc dân. Ví dụ: Năm
2013, kế hoạch bội chi ngân sách được Quốc hội đề ra vào đầu kỳ là 4,8% GDP.

8


Tuy nhiên, sau đó đến cuối năm Chính phủ đề xuất nới trần bội chi lên 5,3% GDP
để tạo thêm dư địa tăng đầu tư phát triển trong bối cảnh ngân sách khó khăn.
Nguyên nhân dẫn đến bội chi chu kì thường là nguyên nhân khách quan: Do
nền kinh tế suy thoái và khủng hoảng, của cải vật chất tạo ra ít, năng suất lao động
của xã hội thấp, thất nghiệp gia tăng, làm cho nguồn thu vào quỹ ngân sách nhà
nước bị giảm sút, nhưng nhu cầu chi tiêu lại gia tăng để giải quyết những vấn đề
khó khăn mới về kinh tế - xã hội như: trợ cấp xã hội, quốc phòng, an ninh ,… đồng
thời nhà nước còn chi tiền để phục hồi nền kinh tế. Điều đó dễ dẫn đến tình trạng
thu không đủ chi và ngân sách nhà nước bị thâm hụt. Ngược lại, khi kinh tế ở giai
đoạn phồn thịnh, thu vào ngân sách nhà nước liên tục tăng lên mà không phải chi
các khoản chi bất thường thì ngân sách nhà nước tăng lên và đảm bảo thực hiện tốt
những dự toán đã được đề ra. Qua đó, ta thấy suy thoái và khủng hoảng kinh tế là
một trong những nguyên nhân gây ra bội chi ngân sách nhà nước. Bên cạnh đó,
thiên tai và tình trạng bất ổn về an ninh chính trị của quốc gia, thế giới cũng ảnh
hưởng rất lớn đến ngân sách nhà nước, do nhu cầu chi tiêu cho quốc phòng và an
ninh trật tự xã hội tăng lên và phải chi nhiều để khắc phục hậu quả thiên tai.
Ngoài ra, căn cứ vào yếu tố thời gian, có sự phân chia bội chi ngân sách
thành bội chi ngắn hạn và bội chi dài hạn. Việc phân biệt các loại bội chi có tác
dụng quan trọng trong việc đánh giá ảnh hưởng thực sự của chính sách tài chính

khi thực hiện chính sách tài chính mở rộng hay thắt chặt sẽ ảnh hưởng đến thâm
hụt ngân sách như thế nào giúp cho chính phủ có những biện pháp điều chỉnh
chính sách hợp lý trong từng giai đoạn của chu kỳ kinh tế.
2. Quan hệ giữa bội chi ngân sách nhà nước với tăng trưởng kinh tế.
a. Bội chi ngân sách nhà nước và vấn đề thoái lui đầu tư.

9


Theo “thuyết tương đương” của Ricardo khi có tình trạng thâm hụt ngân
sách thì tiết kiệm của dân chúng tăng lên bằng mức thâm hụt. Vì thế sẽ không ảnh
hưởng đến lãi suất, không gây cản trở đầu tư.
Tuy nhiên, thực tế ở nhiều nước khi có bội chi ngân sách nhà nước, chi tăng,
thu giảm, tổng sản quốc dân (GNP) sẽ tăng lên theo hệ số nhân, nhu cầu về tiền
tăng theo. Với mức cung tiền cho trước, lãi suất sẽ tăng lên, bóp nghẹt một số đầu
tư. Kết quả là một phần GNP tăng lên có thể bị mất đi do thâm hụt cao, kéo theo
thoái lui đầu tư với quy mô nhỏ nếu trong ngắn hạn và quy mô lớn nếu trong dài
hạn. Từ đó làm giảm sự tăng trưởng kinh tế.
b, Tác động của bội chi ngân sách Nhà nước đến nền kinh tế vĩ mô
Bội chi ngân sách sẽ có ảnh hưởng đến tổng cầu nền kinh tế. Điều đó xuất
phát từ đẳng thức kinh tế xác định tổng sản phẩm quốc nội:
GDP = C + I + G + NX
Trong đó: GDP là tổng sản phẩm quốc nội;
C là tiêu dùng tư nhân;
I là tổng đầu tư;
G là chi tiêu chính phủ;
NX là xuất khẩu ròng;
Đưa thêm biến số thuế T vào đằng thức ta có:
(GDP – C – T) + (T – G) = I
S = (GDP – C – T) S + (T – G) = I


10


Với S là tiết kiệm tư nhân, (T – G) là tiết kiệm chính phủ, cũng chính là
chênh lệch giữa thu ngân sách và chi ngân sách. Trường hợp (T – G) = 0 tức ngân
sách nhà nước cân bằng; trường hợp (T – G) > 0 thì ngân sách nhà nước có thặng
dư; trường hợp (T – G) < 0 thì ngân sách nhà nước bội chi. Trong bối cảnh ngân
sách nhà nước bội chi, chính phủ phải tìm cách bù đắp bội chi bằng cách vay trong
nước hoặc nước ngoài. Vay trong nước làm cho tiết kiệm tư nhân giảm, tổng đầu tư
giảm; để duy trì được mức tổng đầu tư chính phủ phải lựa chọn phương án đi vay
nước ngoài. Mỗi khi chính phủ chi tiêu quá một đồng vượt số thu ngân sách, buộc
phải tài trợ bằng cách tăng nợ công một đồng.
c, Bội chi ngân sách với vấn đề lạm phát
Lạm phát là sự tăng lên của mức giá trung bình theo thời gian. Lạm phát có
thể có tác hại rất lớn như phân phối lại thu nhập và của cải một cách ngẫu nhiên,
gây biến dạng về cơ cấu sản xuất và làm việc trong nền kinh tế… Thế nhưng bội
chi ngân sách lại là một nguyên nhân góp phần dẫn tới lạm phát. Vì một trong
những cách giải quyết vấn đề bội chi ngân sách nhà nước là nhà nước phát hành
thêm tiền và đưa ra lưu thông. Giải pháp này sẽ gây ra lạm phát nếu nhà nước phát
hành thêm quá nhiều tiền để bù đắp bội chi ngân sách. Đặc biệt, khi nguyên nhân
bội chi ngân sách nhà nước là do thiếu hụt các nguồn vốn đối ứng để đầu tư cho
phát triển gây "tăng trưởng nóng" và không cân đối với khả năng tài chính của
quốc gia.
d, Bội chi ngân sách và cán cân thương mại
Tình trạng bội chi ngân sách sẽ làm cho lãi suất thị trường tăng. Lãi suất
tăng làm cho giá trị đồng nội tệ tăng giá, giá hàng hóa trong nước theo đó cũng
tăng theo từ đó làm giảm lượng hàng xuất khẩu. Trong khi tương ứng, hàng hóa
của đất nước khác sẽ rẻ tương đối so với nước đó, dẫn tới việc tăng lượng hàng hóa
11



nhập khẩu. Vì vậy, thâm hụt ngân sách sẽ gián tiếp gây ra tình trạng nhập siêu từ
đó sẽ khiến việc sử dụng hàng hóa sản xuất trong nước bị hạn chế, sản xuất gặp
nhiều khó khăn, tác động không ít tới tăng trưởng kinh tế.
e, Mối quan hệ của bội chi ngân sách nhà nước với nền kinh tế Việt Nam
Nhìn chung, bội chi ngân sách có những tích cực và tiêu cực đối với tăng
trưởng kinh tế ở Việt Nam như sau:
Tích cực: bội chi ngân sách trong những năm qua được sử dụng như là một
công cụ của chính sách tài khóa để tăng trưởng kinh tế.
Tiêu cực: bội chi ngân sách nhà nước cao, kéo dài dẫn tới đe dọa sự ổn định
vĩ mô. Cụ thể là:
- Việc bội chi tăng sẽ có thể dẫn đến giảm tiết kiệm nội địa, giảm đầu tư tư
nhân, hay gia tăng sự thâm hụt cán cân tài khoản vãng lai, giảm tăng trưởng trong
dài hạn.
- Bội chi cao và kéo dài còn làm xói mòn niềm tin đối với năng lực điều
hành vĩ mô của chính phủ. Ngoài ra, việc bội chi cao và lâu dài tất yếu dẫn tới việc
nhà nước buộc phải in thêm tiền để giải quyết vấn đề bội chi và đây là nguyên
nhân dẫn tới lạm phát.
- Việc bội chi ngân sách tăng lên sẽ làm tăng nợ quốc gia, khiến sự tăng
trưởng chậm lại.
Bội chi ngân sách nhà nước còn khiến việc sử dụng các gói kích thích tài chính
không đúng thời điểm mong muốn.
- Để bù lại các khoản thâm hụt chính phủ buộc phải tăng thuế hoặc vay nợ
thông qua phát hành trái phiếu hoặc tăng cương thu thêm các loại thuế. Từ đó làm
méo mó nền kinh tế, gây ra tổn thất vô ích về phúc lợi xã hội và các doanh nghiệp

12



phải chịu chi phí lớn hơn, làm giảm động lực sản xuất và khả năng cạnh tranh.
Đồng thời mức tiêu dùng cũng giảm dẫn tới giảm tổng cầu.
Như vậy, bội chi ngân sách là có tác động cả tích cực và tiêu cực đối với nền
kinh tế một nước tùy theo tỷ lệ ít hay nhiều và theo thời gian ngắn hoặc kéo dài.
III. Thực tế bội chi ngân sách nhà nước năm 2014
Bội chi NSNN năm 2014 là 5,3% GDP, tương ứng 224.000 tỷ đồng. Bảng
tổng kết dưới đây sẽ làm rõ hơn về bội chi ngân sách nhà nước 2014:

CÂN ĐỐI NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC4
Đơn vị: Tỷ
Stt

Nội dung
TỔNG THU NGÂN SÁCH NHÀ

Dự toán

Ước thực

đồng
Dự toán

hiện
846,400

2015
921,100

I


NƯỚC
Thu cân đối ngân sách nhà nước

2014
782,700
782,700

846,400

911,100

1

Thu nội địa

539,000

574,100

638,600

2

Thu từ dầu thô

85,200

107,000

93,000


3

Thu từ xuất khẩu, nhập khẩu

154,000

160,800

175,000

4

Thu viện trợ không hoàn lại

4,500

4,500

4,500

II

Thu chuyển nguồn
TỔNG CHI CÂN ĐỐI NGÂN

A

B


10,000

SÁCH NHÀ NƯỚC
Trong đó:

1,006,700

1,070,400

1,147,100

1

Chi đầu tư phát triển

163,000

169,100

195,000

2
3

Chi trả nợ và viện trợ
Chi phát triển các sự nghiệp KT-XH,

120,000
704,400


120,000
717,500

150,000
767,000

quốc phòng, an ninh, quản lý hành
4 Cổng thông tin điện tử của Bộ Tài Chính Việt Nam.

13


chính
4

Chi thực hiện cải cách tiền lương

5

Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính

6

Dự phòng
BỘI CHI NGÂN SÁCH NHÀ

C

10,000
100


100

19,200

NƯỚC
Tỷ lệ bội chi so GDP

100
25,000

224,000

224,000

226,000

5.3%

5.3%

5.0%

Dư nợ công khoảng 59,8% GDP, dư nợ Chính phủ khoảng 46,2% GDP và
dư nợ nước ngoài của quốc gia khoảng 42,4% GDP. Các chỉ số nợ trong ngưỡng an
toàn, không ảnh hưởng lớn đến các chỉ tiêu vĩ mô, đầu tư công và lạm phát.
Tỷ lệ bội chi ngân sách bình quân từ năm 2011- 2014 khoảng 5% GDP chưa
bao gồm trái phiếu Chính phủ là quá cao so với chỉ tiêu QH (đến cuối năm 2015
bội chi đạt dưới 4,5% GDP, bao gồm cả trái phiếu Chính phủ).
Người đứng đầu Chính phủ nhận định, khó khăn, thách thức là rất lớn. Tỷ lệ

trả nợ trực tiếp của Chính phủ so với tổng thu ngân sách năm 2014 khoảng 14,2%
(theo quy định của Chiến lược nợ công là không quá 25%) nhưng nếu tính cả vay
để đảo nợ và trả nợ vay về cho vay lại thì khoảng 26,2%.
Theo báo cáo của Chính phủ, trong điều kiện kinh tế phát triển không thuận lợi,
thu ngân sách nhà nước có nhiều khó khăn, chúng ta vẫn phải giảm thu để hỗ trợ
doanh nghiệp.
Mặt khác, cơ cấu vay ưu đãi nước ngoài có xu hướng giảm qua các năm do
Việt Nam đã bước vào nhóm nước có thu nhập trung bình. Tỷ trọng vay trong nước

14


tăng lên và việc huy động trái phiếu Chính phủ chủ yếu là dưới 5 năm dẫn đến
nghĩa vụ trả nợ trực tiếp của Chính phủ trong ngắn hạn tăng lên.
Trong bối cảnh đó, chúng ta vẫn bảo đảm trả nợ đầy đủ, không để phát sinh
nợ quá hạn. Nghĩa vụ trả nợ nước ngoài của quốc gia so với giá trị xuất khẩu hàng
hóa, dịch vụ năm 2014 dự kiến khoảng 25,9% (theo quy định của Chiến lược nợ
công và nợ nước ngoài của quốc gia là dưới 25%).
Nguyên nhân là do nền kinh tế có bước phục hồi, nhu cầu vốn ngoại tệ để
thanh toán hàng hóa, dịch vụ tăng cao, các tổ chức tín dụng đã tận dụng cơ hội vay
vốn nước ngoài ngắn hạn lãi suất thấp (chiếm khoảng 11,32%).
IV. Ý kiến pháp lý của nhóm về vấn đề bội chi ngân sách
Theo Luật ngân sách nhà nước năm 2015, thì để xử lý bội chi ngân sách,
Nhà nước có thể thực hiện những giải pháp như sau:
Khoản 4 và khoản 5 Điều 7 Luật ngân sách nhà nước 2015 quy định:
“4. Bội chi ngân sách trung ương được bù đắp từ các nguồn sau:
a) Vay trong nước từ phát hành trái phiếu chính phủ, công trái xây dựng Tổ
quốc và các khoản vay trong nước khác theo quy định của pháp luật;
b) Vay ngoài nước từ các khoản vay của Chính phủ các nước, các tổ chức
quốc tế và phát hành trái phiếu chính phủ ra thị trường quốc tế, không bao gồm

các

khoản

vay

về

cho

vay

lại.

5. Bội chi ngân sách địa phương:
a) Chi ngân sách địa phương cấp tỉnh được bội chi; bội chi ngân sách địa
phương chỉ được sử dụng để đầu tư các dự án thuộc kế hoạch đầu tư công trung
hạn đã được Hội đồng nhân dân cấp tỉnh quyết định;

15


b) Bội chi ngân sách địa phương được bù đắp bằng các nguồn vay trong
nước từ phát hành trái phiếu chính quyền địa phương, vay lại từ nguồn Chính phủ
vay về cho vay lại và các khoản vay trong nước khác theo quy định của pháp luật;
c) Bội chi ngân sách địa phương được tổng hợp vào bội chi ngân sách nhà
nước và do Quốc hội quyết định. Chính phủ quy định cụ thể điều kiện được phép
bội chi ngân sách địa phương để bảo đảm phù hợp với khả năng trả nợ của địa
phương và tổng mức bội chi chung của ngân sách nhà nước”.
Những giải pháp trên đều chủ yếu hướng đến việc vay tiền trong và ngoài

nước để bù đắp bội chi ngân sách, tuy nhiên để giải quyết tổng thể vấn đề bội chi
ngân sách nhà nước ở Việt Nam theo nhóm em cần thiết phải có những quy định
chặt chẽ hơn, theo đó có thể áp dụng các giải pháp sau:
1- Tập trung các khoản vay do Trung ương đảm nhận. Các nhu cầu đầu tư
của địa phương cần được xem xét và thực hiện bổ sung từ ngân sách cấp trên. Thực
hiện như vậy tránh được đầu tư tràn lan, kém hiệu quả và để tồn ngân sách quá lớn
và quản lý chặt chẽ số bội chi ngân sách nhà nước. Hiện tại, chúng ta đang đứng
trước mâu thuẫn giữa nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển với nguồn lực hạn hẹp.
Nếu thực hiện thắt chặt, hạn chế vay để đầu tư sẽ kìm hãm sự phát triển của nền
kinh tế đang có nhu cầu vốn rất cao. Nhưng nếu chúng ta không kiểm soát chặt chẽ
các khoản vay nợ của ngân sách nhà nước, nhất là vay của ngân sách địa phương,
thì nguy cơ ảnh hưởng đến an ninh tài chính quốc gia, sự bền vững của ngân sách
nhà nước. Thực hiện đầu tư tập trung cũng có lợi là bảo đảm phát triển hài hoà, cân
đối giữa các vùng, miền trong toàn quốc. Kinh nghiệm của Trung Quốc: nghiêm
cấm ngân sách các địa phương vay vốn dưới bất kỳ hình thức nào, các khoản chi
đầu tư của địa phương được xem xét tính toán và bổ sung từ ngân sách trung ương.
2 - Giải quyết tốt mối quan hệ giữa chi đầu tư phát triển và chi thường
xuyên, nhất là ngân sách các địa phương. Do vậy, khi các địa phương vay vốn để
16


đầu tư, sẽ kiên quyết không bố trí nguồn chi thường xuyên cho việc vận hành các
công trình khi hoàn thành và đi vào hoạt động cũng như chi phí duy tu, bảo dưỡng
các công trình, làm giảm hiệu quả đầu tư. Có như vậy, các địa phương phải tự cân
đối nguồn kinh phí này chứ không thể yêu cầu cấp trên bổ sung ngân sách.
3 - Nếu chấp nhận bội chi ngân sách địa phương thì cần quản lý và giám sát
chặt chẽ việc vay vốn. Các khoản vốn vay chỉ đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng và
phát triển các cơ sở kinh tế. Các khoản vay của ngân sách địa phương cần được
tổng hợp và báo cáo Quốc hội để tổng hợp số bội chi ngân sách nhà nước hằng
năm. Vấn đề vay vốn của các địa phương không được kiểm soát chặt chẽ chẳng

những tạo ra nguy cơ vay vốn tràn lan, đầu tư kém hiệu quả mà còn ảnh hưởng đến
tính bền vững của NSNN trong tương lai. Bội chi NSNN hằng năm không được
kiểm soát chặt chẽ trước khi trình Quốc hội, mức bội chi thực tế khác với mức bội
chi báo cáo Quốc hội. Điều đó tạo nên gánh nặng nợ cho NSNN, bởi NSNN là một
thể thống nhất và đa số các địa phương trông chờ chủ yếu vào ngân sách trung
ương, do vậy suy cho cùng, các khoản nợ của ngân sách địa phương sẽ là gánh nợ
của NSNN trong khi việc đầu tư lại dàn trải, kém hiệu quả./.

17


KẾT LUẬN
Vấn đề bội chi ngân sách nhà nước là một vấn đề nhức nhối không chỉ của
nước ta mà là của hầu hết các quốc gia trên thế giới, trong đó có cả những nước
phát triển như Mỹ, Nhật Bản, Đức, Pháp,… Trong điều kiện nước ta đang thúc đẩy
phát triển kinh tế thì vấn đề nhà nước thường xuyên chi đầu tư cho phát triển cơ sở
hạ tầng, trợ giá hàng hóa, hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp với nguồn lực hạn hẹp
thì bội chi gần như là không thể tránh khỏi. Vì vậy, nhóm chúng em làm đề tài này
bên cạnh đưa đến cho các bạn cái nhìn khái quát về vấn đề bội chi ngân sách thì
điều quan trọng nhất mà nhóm mình trình bày trong bài chính là giải pháp để giải
quyết vấn đề. Tất nhiên với cách tiếp cận còn nhiều thiếu xót thì bài viết này này
còn rất nhiều chỗ chưa hoàn thiện, mong thầy cô và các bạn bổ sung để bài viết
được hoàn thiện hơn.

18


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Luật ngân sách nhà nước – Nhà xuất bản Công an nhân dân năm
2014.

2. Luật Ngân sách nhà nước năm 2002.
3. Luật Ngân sách nhà nước năm 2015.
4. Bài viết “Xử lý bội chi ngân sách nhà nước nhằm kiềm chế lạm phát hiện nay”
đăng trên trang web của Sở Tài chính - Ủy ban nhân dân tỉnh Hòa Bình.
5. Bài viết “Đánh giá tình hình thực hiện kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước
năm 2014” đăng trên cổng thông tin điện tử Bộ Tài chính Việt Nam ngày
08/01/2015.
6. Bài viết “Phụ lục số liệu về kinh tế - xã hội và ngân sách nhà nước thực hiện
năm 2014 và dự toán ngân sách nhà nước năm 2015” đăng trên Cổng thông tin
điện tử Bộ Tài chính Việt Nam ngày 08/01/2015.

19



×