Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Sự tham gia của người cao tuổi tại cộng đồng” (nghiên cứu trường hợp tại phường 8, quận tân bình – thành phố hồ chí minh)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHAN PHỤC

SỰ THAM GIA CỦA NGƢỜI CAO TUỔI TẠI CỘNG ĐỒNG
(Nghiên cứu trƣờng hợp tại phƣờng 8
quận Tân Bình – Thành phố Hồ Chí Minh)

LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

HÀ NỘI, năm 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

PHAN PHỤC

SỰ THAM GIA CỦA NGƢỜI CAO TUỔI TẠI CỘNG ĐỒNG
(Nghiên cứu trƣờng hợp tại phƣờng 8
quận Tân Bình – Thành phố Hồ Chí Minh)
Ngành: Xã hội học
Mã số: 8310301

LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. BẾ QUỲNH NGA



HÀ NỘI, năm 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là kết quả nghiên cứu của tôi, các số liệu được
trình bày trong kết quả nghiên cứu là hoàn toàn trung thực và chưa được công
bố trong bất kì nghiên cứu nào khác.
Học viên thực hiện

Phan Phục


LỜI CẢM ƠN
Trước hết tôi xin chân thành cảm ơn quý thầy cô Học viện Khoa học
Xã hội, đặc biệt là những người thầy cô đã tận tình giảng dạy, hướng dẫn cho
tôi trong suốt thời gian học tập và nghiên cứu tại Học viện.
Tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến Tiến sĩ Bế Quỳnh Nga đã dành
nhiều thời gian và tâm huyết hướng dẫn và giúp tôi hoàn thành tốt luận văn
này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Hội Người cao tuổi phường 8 đã giúp tôi
trong quá trình thu thập thông tin, tiến hành khảo sát tại địa bàn khu dân cư.
Tôi đã rất cố gắng và tâm huyết để hoàn thiện luận văn bằng cả sự nhiệt
tình, nổ lực của bản thân. Tuy nhiên, luận văn không thể tránh khỏi những
thiếu sót nhỏ. Rất mong được sự đóng góp quý báu của quý thầy cô.

Học viên thực hiện

Phan Phục



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN .................................................. 22
1.1.Cơ sở lý luận của đề tài ................................................................................... 22
1.2. Cơ sở thực tiễn................................................................................................ 26
_Toc510876387Chƣơng 2: CÁC ĐẶC ĐIỂM VỀ NGƢỜI CAO TUỔI VÀ

LOẠI HÌNH TỔ CHỨC THAM GIA HOẠT ĐỘNG TẠI CÔNG ĐỒNG............ 33
2.1. Đặc điểm chung của người cao tuổi tham gia nghiên cứu ............................. 33
2.2. Các loại hình tổ chức mà người cao tuổi tham gia ......................................... 44
Chƣơng 3: CÁC YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ THAM GIA ĐỘNG XÃ
HỘI CỦA NGƢỜI CAO TUỔI ............................................................................. 47
3.1. Sự đánh giá của chính quyền .......................................................................... 48
3.2. Hoạt động của hội người cao tuổi .................................................................. 49
3.3. Những khó khăn của người cao tuổi khi tham gia các hoạt động xã hội ....... 58
3.4. Sự hỗ trợ để người cao tuổi tham gia hoạt động xã hội ................................. 63
3.5. Sự tham gia các hoạt động xã hội của người cao tuổi .................................... 65
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 68
KHUYẾN NGHỊ...................................................................................................... 71
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC VIẾT TẮT

CLB:

Câu lạc bộ


HĐXH:

Hoạt động xã hội

NCT:

Người cao tuổi

NN:

Nhà nước

Tp. HCM:

Thành phố Hồ Chí Minh


DANH MỤC BẢNG BIỂU

Bảng 2.1: Mức độ tham gia hoạt động xã hội của người cao tuổiError! Bookmark not defin
Bảng 3.1: Mối liên quan giữa sự đánh giá của địa phương với mức độ tham
gia hoạt động xã hội của người cao tuổi................................................................ 49
Bảng 3.2. Mối liên quan giữa cảm nhận của người cao tuổi về công tác xã hội
với các hoạt động xã hội ........................................................................................ 52
Bảng 3.3: Mối liên quan giữa cảm nhận của người cao tuổi về giáo dục tri
thức với các hoạt động xã hội................................................................................ 53
Bảng 3.4: Mối liên quan giữa cảm nhận của người cao tuổi về giáo dục đạo
đức với các hoạt động xã hội ................................................................................. 54
Bảng 3.5: Mối liên quan giữa cảm nhận của người cao tuổi về định hướng
kinh tế với các hoạt động xã hội ............................................................................ 56

Bảng 3.6: Mối liên quan giữa cảm nhận của người cao tuổi về hoạt động văn
hóa với các hoạt động xã hội ................................................................................. 57
Bảng 3.7: Mối liên hệ giữa những khó khăn trong hoạt động như không được
tập huấn với mức độ tham gia hoạt động xã hội của người cao tuổi tại cộng
đồng ....................................................................................................................... 59
Bảng 3.8: Mối liên hệ giữa những khó khăn trong hoạt động như tuổi cao sức
yếu với mức độ tham gia hoạt động xã hội của người cao tuổi tại cộng đồng...... 61
Bảng 3.9: Mối liên hệ giữa những khó khăn trong hoạt động như cản trở từ
gia đình với mức độ tham gia hoạt động xã hội của người cao tuổi tại cộng
đồng ....................................................................................................................... 62
Bảng 3.10: Sự hỗ trợ, động viên của người khác cho người cao tuổi khi tham
gia hoạt động xã hội .............................................................................................. 64
Bảng 3.11: Mối liên quan giữa sự hỗ trợ của người khác với mức độ tham gia
hoạt động xã hội của người cao tuổi ..................................................................... 64
Bảng 3.12: Mối liên quan giữa hoạt động của hội Người cao tuổi về tổ chức
sinh hoạt với mức độ hoạt động xã hội của người cao tuổi................................... 66


Bảng 3.13: Mối liên quan giữa hoạt động của hội Người cao tuổi về tổ chức
khám sức khỏe với mức độ hoạt động xã hội của người cao tuổi ......................... 66
Bảng 3.14: Mối liên hệ giữa mong muốn với mức độ tham gia hoạt động xã
hội của người cao tuổi ........................................................................................... 67
Bảng 3.15: Cảm nhận của người cao tuổi với hoạt động của hội Người cao
tuổi ......................................................................................................................... 68


DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: Giới tính của NCT ........................................................................... 39
Biểu đồ 2.2: Nhóm tuổi của NCT......................................................................... 39
Biểu đồ 2.3:Tuổi tham gia hoạt động cộng đồng .................................................. 40

Biểu đồ 2.4:Trình độ học vấn của người cao tuổi ................................................. 41
Biểu đồ 2.5: Nghề nghiệp trước 60 tuổi của NCT ............................................... 42
Biểu đồ 2.6: Thu nhập hàng tháng của NCT ......................................................... 37
Biểu đồ 2.7:Nguồn thu nhập của người cao tuổi của NCT ................................... 38
Biểu đồ 2.8: Các loại hình tổ chức mà người cao tuổi tham gia ........................... 44


MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài
Theo Tổ chức Y tế thế giới (WHO) cho biết, hiện nay thế giới có
khoảng 901 triệu người cao tuổi (năm 2015), chiếm 12,3% dân số. Số này sẽ
tăng lên hơn 2 tỷ người vào năm 2050, chiếm 22% dân số thế giới. Trung
bình cứ một giây có 2 người bước vào tuổi 60, tức mỗi năm thế giới có thêm
khoảng 58 triệu người 60+ tuổi. Trung bình cứ 9 người sẽ có một người 60+
tuổi và tỉ lệ này sẽ là 5/1 vào năm 2050.
Ngày 14 tháng 12 năm 1990 Đại Hội đồng Liên Hiệp Quốc đã bỏ phiếu
tán thành việc lấy ngày 01 tháng 10 hàng năm làm ngày Quốc tế NCT, được
ghi trong Nghị quyết 45/106. Đây là mốc son thể hiện quan điểm của thế giới
về NCT. Ngày quốc tế NCT đầu tiên được tiến hành

ngày 1-10-

1991 nhằm nâng cao nhận thức, đánh giá cao những đóng góp NCT là tâm
điểm của Chương trình Liên hiệp Quốc về NCT và các tổ chức bảo vệ NCT.
Năm 1991, Đại Hội đồng Liên Hợp Quốc đề ra chương trình hành động về
NCT trong mười năm 1992 - 2001. Nghị quyết nêu “Những nguyên tắc về
đạo lí của Liên Hợp Quốc đối với NCT” làm cơ sở cho các chương trình quốc
tế, quốc gia về NCT. [2]
Theo Bộ Y Tế Việt Nam cho biết tỷ lệ người cao tuổi (NCT) ở Việt
Nam đang có khuynh hướng tăng nhanh, hiện nay trong nước có khoảng


10,1 triệu người cao tuổi, chiếm 11% dân số, riêng số người từ 80 tuổi trở
lên là 2 triệu người. Dự báo đến năm 2030, tỷ trọng NCT Việt Nam chiếm
18% và năm 2050 là 26% dân số [1]. Điều này cho thấy Việt Nam đã bước
vào giai đoạn “già hóa dân số” giai đoạn mà nhiều người cho rằng có ảnh
hưởng không nhỏ tới sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia.Với nét
đặc thù riêng của nền văn hóa Việt Nam, NCT vẫn chiếm một vị trí một vai
trò vô cùng quan trọng trong gia đình và xã hội. Trong gia đình, họ là điểm
1


tựa vững chắc, trong kinh nghiệm sống quý báu còn với bên ngoài xã hội,
Dựa vào các chương trình hoạt động vì NCT của Liên Hiệp Quốc, nhà nước
ta đã ban hành Chương trình hành động quốc gia về người cao tuổi Việt Nam
giai đoạn 2012 – 2020 nhằm nâng cao vị thế của NCT trong xã hội với những
phong trào thiết thực tạo điều kiện cho NCT có thể tiếp tục đóng góp sức lực
của minh cho cộng đồng theo nguyện vọng và hiện nay NCT đã trở thành lực
lượng tham gia vào hoạt động an sinh xã hộivà còn là nguồn lực quý giá trong
sức mạnh tổng hợp của khối đại đoàn kết toàn dân dân tộc, góp phần thúc
đẩy và thực hiện sự nghiệp đổi mới của đất nước, giữ vững ổn định chính trị xã hội an ninh quốc gia.
Thành phố Hồ Chí Minh là một trong những đầu tàu kinh tế - xã hội
của cả nước đồng thời cũng là nơi tích cực trong việc huy động sự đoàn kết
của nhân dân để tham gia xây dựng Đảng và chính quyền vững mạnh, phát
triển cộng đồng xã hội hướng tới mục đích dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh, NCT là một trong những lực lượng nòng cốt ở cơ sở
và trong mỗi gia đình, họ đã nêu gương, kiên trì hướng dẫn, động viên con
cháu chấp hành nghiêm túc pháp luật của Nhà nước, giữ gìn an ninh chính trị,
trật tự an toàn xã hội, thúc đẩy dân chủ ở cơ sở, bảo vệ môi trường sống, đóng
góp để kinh tế ngày càng phát triển, xã hội ngày càng văn minh. Sinh thời,
Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn đánh giá cao vai trò của các cụ phụ lão. Bác

thường dạy: “Tuổi già nhưng chí không già, góp phần xây dựng nước nhà
phồn vinh”. Qua việc thực hiện các phong trào “Nêu gương sáng” xây dựng
đời sống văn hóa khu dân cư, phong trào “Người cao tuổi tham gia bảo vệ
môi trường và xây dựng nông thôn mới”, “Tham gia bảo vệ chủ quyền, an
ninh biên giới, biển đảovà đặc biệt phong trào xây dựng “Gia đình ông bà,
cha mẹ mẫu mực, con cháu hiếu thảo” trong giai đoạn 2015-2020. Nhiều
NCT tại địa phương dù tuổi đã cao nhưng vẫn sẵn sàng nhận các nhiệm vụ
2


của xã hội giao cho với lòng nhiệt tình và tinh thần trách nhiệm cao với mong
muốn đóng góp sức lực của mình vào những việc có ích cho cộng đồng. Đây
là nguồn vốn vô cùng quý giá trong các phong trào hành động tại địa phương.
Trước tình hình NCT đã tham gia vào các hoạt động xã hội theo
Chương trình hành động quốc gia về người cao tuổi Việt Nam giai đoạn 2012
– 2020 đã được nhà nước ban hành vì vậy việc nghiên cứu về việc NCT tham
giahoạt động xã hội tại địa phương là một vấn đề cần thiết, để có một cách
nhìn tổng quan về NCT trong vấn đề này. Sau khi tìm hiểu cho thấy việc
nghiên cứu về vấn đề NCT tham gia hoạt động xã hội ở thành phố Hồ Chí
Minh trong giai đoạn hiện nay vẫn chưa có.
Từ những lý do trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu “Sự tham gia của
người cao tuổi tại cộng đồng” (Nghiên cứu trường hợp tại phường 8, quận
Tân Bình – Thành phố Hồ Chí Minh)để làm luận văn tốt nghiệpCao học.
Những kết quả của cuộc nghiên cứu này sẽ là nguồn tài liệu tham khảo cho
các cấp chính quyền để đưa ra các hoạch định cụ thể nhằm giúp nâng cao chất
lượng hoạt động của NCT trên địa bàn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Những nghiên cứu nước ngoài
Bài viết nghiên cứu “How Participatory Are They?The Strengthsand
challenges of Participationin theOlder People Self Help Group Initiative” của

tác giả Yang Yunjeong nhằm đánh giá hoạt động sáng kiến của nhóm người
cao tuổi tự lực tại Hàn quốc nhằm giúp người cao tuổi lão hoá trong cộng
đồng của họ như là những người tham gia tích cực chứ không phải là người
phụ thuộc, góp phần vào sự phát triển của cộng đồng đồng thời nghiên cứu
này cũng nhằm kiểm tra hiệu quả của hoạt động này. Qua nghiên cứu này
cũng hướng đến trở thành dữ liệu cơ sở thực tiễn để góp phần phát triển
ngành lão hóa học và là bài học kinh nghiệm cho các quốc gia trong quá trình
3


già hóa dân số.
Bài viết nghiên cứu “An Ecological Framework for Active Aging in China”
của tác giả Ko Pei Chun nhằm điều tra ảnh hưởng của các yếu tố cộng đồng
đối với việc tham gia vào các hoạt động sản xuất (làm việc, chăm sóc cho các
cháu, hoạt động tình nguyện, giúp đỡ và chăm sóc không chính thức) của
người Trung Quốc lớn tuổi và chỉ ra thay đổi cấu trúc hộ gia đình và sự phát
triển kinh tế nhanh chóng làm nổi bật tầm quan trọng của việc nghiên cứu sự
hội nhập xã hội của người cao tuổi. Phân tích về hiện trạng lão hóa chủ động
đã giải thích mức độ tham gia của người cao tuổi vào các hoạt động sản xuất
trong gia đình và cộng đồng có thể giúp quá trình hội nhập khi họ thiết lập
các vai trò xã hội mới khi bắt đầu nghỉ hưu. Tuy nhiên, vẫn còn thiếu các
nghiên cứu về giải thích các yếu tố lão hóa ở Trung Quốc, đặc biệt là về mối
quan hệ giữa cộng đồng và sự tham gia của hoạt động. Nghiên cứu này dựa
trên một phương pháp tiếp cận sinh thái nhấn mạnh rằng môi trường cộng
đồng tạo cơ hội cho các cá nhân tham gia vào các hoạt động xã hội, nghiên
cứu này lấy các chỉ số từ ba chiều của môi trường cộng đồng - môi trường thể
chế môi trường xã hội-nhân khẩu học và môi trường liên quan đến kinh tế để
kiểm tra xem liệu các yếu tố cộng đồng và mức độ có thể giải thích sự tham
gia của họ trong hoạt động sản xuất của người cao tuổi.Nghiên cứu sẽ giúp
nâng cao các yếu tố kiến thức hình thành cơ chế hỗ trợ và cơ hội khích lệ cho

người lớn tuổi tham gia vào xã hội.[3]
Trong bài viết “Tình hình người cao tuổi ở Trung quốc” cho thấy, vào
cuối năm 2000, Trung Quốc có 93,77 triệu người từ 65 tuổi trở lên, chiếm
7,3% tổng dân số. Số người từ 60 tuổi trở lên là 130 triệu người. Dự báo năm
2020 sẽ đạt 260 triệu và đến năm 2050 là 440 triệu người, chiếm 1/4 tổng dân
số. So với năm 1992, cuộc sống của người cao tuổi đã được cải thiện về mọi
mặt
4


Trong báo cáo về “Số liệu về người cao tuổi và tàn tật” cho thấy,năm
2005 người cao tuổi cả nước là 126.000, trong đóngười cao tuổi cô đơn không
nơi nương tựa là 30.221 người cao tuổi từ 90 tuổi trở lên được hưởng trợ cấp
xã hội hàng tháng tại cộng đồng với mức 65.000đồng/tháng đến
200.000đồng/tháng. Người cao tuổi được nuôi dưỡng tại các Trung tâm bảo
trợ xã hội với mức sinh hoạt phí từ 140.000 đến 300.000đồng/tháng có
363.065 người cao tuổi nghèo cô đơn được cấp thẻ Bảo hiểm y tế, 91.347
người cao tuổi từ 90 tuổi trở lên được cấp miễn phí thẻ Bảo hiểm y tế (67,7%
người cao tuổi từ 90 tuổi trở lên). [14]
Trong bài “TẠI SAO GIÀ HOÁ DÂN SỐ CÓ Ý NGHĨA TRIỂN VỌNG
TOÀN CẦU?” đã chỉ ra xu hướng của sự già hóa dân số thế giới cùng với
những triển vọng và thách thức của nó “Mặc dù già hoá dân số tượng trưng
cho thành công về các thành tựu kinh tế, xã hội, y tế và kiểm soát bệnh tật
nhưng nó cũng đồng thời cho thấy những thách thức lớn”. Già hóa dân số tạo
sức ép lên hệ thống lương hưu và bảo hiểm cũng như thách thức các mô hình
trợ giúp xã hội. Việc này ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế, thương mại, di
cư, các dạng bệnh tật cũng như các giả định cơ bản về sự gia tăng người cao
tuổi. Sử dụng số liệu của Liên Hợp Quốc, Cục điều tra dân số Hoa Kỳ và
phòng thống kê thuộc Cộng đồng Châu Âu cũng như các cuộc điều tra khu
vực và các tạp chí khoa học, Viện Gìa hoá Quốc gia Hoa Kỳ với sự đóng góp

của các nhà nhân khẩu học, kinh tế học và các chuyên gia về già hoá đã xác
định 9 xu hướng bức thiết về vấn đề già hoá toàn cầu. Đây là một quan điểm
về các thách thức và cơ hội cho thấy rõ ràng tại sao già hoá dân số lại mang
tính quan trọng tất yếu.
Trong bài viết “Chương trình người cao tuổi Hàn quốc và những bài
học kinh nghiệm” đã chỉ ra các kết quả của chính sách đối với NCT ở Hàn

5


Quốc và những mô hình hỗ trợ cuộc sống của NCT “Cung cấp việc làm cho
NCT”, năm 2009 cung cấp được 200.000 việc làm.
- Nhà nước trả lương cho NCT tham gia hướng dẫn, đào tạo nghề.
- Từ năm 2008 chi trả bảo hiểm y tế cho toàn bộ NCT (65 tuổi trở lên).
Cơ cấu: Nhà nước 62%; địa phương 25%; cá nhân 13%.
- Trợ cấp cho mỗi NCT cô đơn 88.000 won/tháng; Một cặp vợ chồng
cao tuổi cô đơn không nơi nương tựa 120.000 won/tháng.
- NCT được hưởng miễn phí các dịch vụ giao thông, vui chơi giải trí,....
- NCT ốm đau, không tự ăn, không tự phục vụ, không tự nuôi sống
được bản thân, nhà nước chu cấp toàn bộ.
- Từ năm 2010 tiến hành kiểm tra, khám sức khoẻ miễn phí cho tất cả
những người từ 60 tuổi trở lên.
- Chính sách chuẩn bị cho tuổi già: Tất cả những người từ 30 tuổi trở
lên nộp thuế thu nhập để hưởng chính sách khi tuổi già. Nguồn do cơ quan và
cá nhân, mức 01 năm = 01 tháng lương cơ bản.
- Nhiều người từ 50 tuổi trở lên bị cơ quan sử dụng xa thải hoặc cho
nghỉ chế độ, nhà nước sẽ cung cấp các việc làm tạo nguồn thu nhập cơ bản.
- Tổng ngân sách hỗ trợ cho người cao tuổi khoảng 2000 tỷ won/năm.
- Khuyến khích giới trẻ tổ chức các trung tâm cung cấp bữa ăn từ thiện
(tuần/lần) cho NCT.

Hiện tại ở Hàn Quốc có 5 loại hình chăm sóc NCT:
- Trung tâm tình nguyện chăm sóc NCT tại nhà. Những cơ sở tình
nguyện chăm sóc này hoàn toàn do các tình nguyện viên thực hiện và hoàn
toàn không nhận lương (hiện tại ở Hàn Quốc có 767 cơ sở). “
Tất cả những nghiên cứu trên của nước ngoài điều nhấn mạnh về những
cảnh báo sự gia tăng về già hóa dân số của từng quốc gia và chỉ ra những
hoạch định cho tương lai của sự già hóa ấy, song chưa thật sự có một chính
6


sách cụ thể nào để xử dụng phát huy hết vai trò tiềm năng của người cao tuổi
cụ thể là lứa tuổi còn sức khỏe, còn minh mẩn tiếp tục đóng góp cho xã hội và
cộng đồng.
2.2. Những nghiên cứu trong nước
Chuyên đề nghiên cứu “Nghiên cứu một số đặc trưng của người cao
tuổi Việt Nam và đánh giá mô hình chăm sóc người cao tuổi đang áp dụng"
của Tổng cục Dân số và kế hoạch hóa gia đình Việt Nam, cho thấy mặc dù
trình độ học vấn hay chuyên môn của người cao tuổi đang ngày được nâng lên
theo thời gian và thể hiện rõ qua các nhóm tuổi nhưng thực tế cho thấy vẫn có
một số lượng không nhỏ các cụ vẫn còn mù chữ, đặc biệt là các cụ ở vùng
sâu vùng xa, vùng khó khăn. Chính hạn chế này đã gây nhiều khó khăn cho
người cao tuổi khi tham gia vào các hoạt động xã hội, phát triển kinh tế gia
đình.“Mặc dù trình độ học vấn hay chuyên môn của người cao tuổi đang ngày
được nâng lên theo thời gian và thể hiện rõ qua các nhóm tuổi nhưng thực tế
cho thấy vẫn có một số lượng không nhỏ các cụ vẫn còn mù chữ, đặc biệt là
các cụ ở vùng sâu vùng xa, vùng khó khăn. Chính hạn chế này đã gây nhiều
khó khăn cho người cao tuổi khi tham gia vào các hoạt động xã hội, phát triển
kinh tế gia đình. Việc tiếp tục nâng cao trình độ học vấn cho NCT ở nước ta
hiện chưa triển khai, trong khi đây là một nhu cầu chính đáng của người cao
tuổi như Trung Quốc cũng đã mở các trường đại học dành cho người cao tuổi

(Đại học lão niêu). Đặc biệt nhóm NCT là nghệ nhân, học giả,… cần tạo điều
kiện cho các cụ duy trì, phát huy và truyền lại cho thế hệ con, cháu sau này.
Đối tượng người cao tuổi ở nước ta khá đa dạng, đặc biệt nhóm người cao
tuổi có công với đất nước chiếm tỷ lệ không nhỏ”, người cao tuổi còn đóng
vai trò quan trọng trong việc truyền lại những kinh nghiệm, những giá trị
truyền thống, các quy tắc xã hội và các nghi lễ cũng như các hoạt động xã
hội... Người cao tuổi và Hội người cao tuổi đã tích cực tham gia phong
7


trào“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hoá khu dân cư” và coi đây là
một chương trình quan trọng của Hội người cao tuổi. Sự đóng góp công sức
và những việc làm thiết thực của người cao tuổi cho cộng đồng dân cư tạo
dựng được cuộc sống tình nghĩa đậm đà thôn xóm.”
Chuyên đề nghiên cứu “Nghiên cứu thực trạng người cao tuổi tại Hà
Tây năm 2003” của Uỷ ban Dân số, Gia đình và Trẻ em tỉnh Hà Tây, kết
quả về phần tham gia hoạt động của người cao tuổi cho thấy “Tham gia
hoạt động của Đảng và Chính quyền: ở thành thị các cụ tham gia cao hơn
so với ở nông thôn (6,0% so với 4,1%); các cụ từ 70 - 79 tuổi tham gia
nhiều hơn các nhóm tuổi khác (5,6%); các cụ ông tham gia cao hơn các cụ
bà (6,6% so với 5,6%); các cụ thuộc các thành phần xã hội tham gia tương
đối đồng đều.Tham gia hoạt động của Đoàn thể: có 39,6% cụ ông (chiếm
tỷ lệ cao nhất), sau đó đến các cụ ở nông thôn và hầu như các cụ ở các độ
tuổi cũng như các thành phần kinh tế tham gia hoạt động này tương đối
đồng đều. Có một phần nhỏ các cụ tham gia các hoạt động tôn giáo (từ
3,0% cho đến 14,6%). Tuy nhiên, tỷ lệ các cụ không tham gia hoạt động
một cách thường xuyên chiếm một tỷ lệ rất lớn, hầu như ở tất cả các
nhóm tuổi, khu vực, thành phần xã hội với tỷ lệ khá cao từ 45,6% đến
75,4%. Kết quả nghiên cứu được cho thấy công tác chăm sóc và quan tâm
đến người cao tuổi còn chưa đồng đều và chưa rộng khắp, cần có những

mô hình giúp đỡ NCT vui chơi, giải trí cũng như công tác chăm sóc NCT
ngày một tốt hơn”[6]
Trong báo cáo “Đánh giá 10 năm thực hiện chương trình hành động
quốc tế Madrid về ngươi cao tuổi” đăng trên tạp chí của của Tổng cục dân số
và kế hoạch hóa gia đình Việt Nam cho biết người cao tuổi tích cực tham gia
8


hoạt động xã hội và quá trình phát triển, có khoảng 86% NCT tham gia các tổ
chức xã hội như Hội NCT Việt Nam, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam…số
đông người cao tuổi có những ý kiến đóng góp quan trọng góp phần xây dựng
Đảng, chính quyền các cấp. Nhiều người cao tuổi cũng tích cực tham gia các
hoạt động văn hoá, xã hội, phát triển cộng đồng.
- Về lao động, việc làm và nguồn thu nhập: Theo kết quả điều tra quốc
gia về NCT Việt Nam năm 2011, có 39% NCT vẫn đang làm việc, phần lớn
lao động tự làm các nghề nông nghiệp. Những NCT không tham gia lao động,
ngoài lý do đang hưởng hưu trí hoặc các nguồn trợ cấp khác (khoảng 30%),
nguyên nhân quan trọng là có vấn đề về sức khoẻ (gần 40%) và phục vụ công
việc gia đình (15%).
- Về thu nhập, phần lớn nguồn thu nhập của NCT là từ hỗ trợ của con
cái (31,9%), từ làm việc (29,4%) và từ lương hưu và trợ cấp xã hội (25,5%).
Do mức sống còn chưa cao nên tiết kiệm đóng vai trò không đáng kể trong
nguồn thu nhập của NCT (chiếm 1,3%).
- Tiếp cận kiến thức, giáo dục và đào tạo: Có 83,2% NCT biết đọc, biết
viết, 19,4% NCT chưa bao giờ đi học, 32,4% chưa học hết tiểu học, 17,1%
học hết tiểu học, 15,8% học hết trung học cơ sở, 8,2% học hết trung học phổ
thông, 3,9% hoàn thành trung cấp/đào tạo nghề.” [7]
Trong bài báo “Chăm sóc và phát huy vai trò người cao tuổi trong sự
nghiệp đổi mới” đã đưa ra các kết quả tích cực từ sự tham gia hoạt động xã
hội của NCT “sau khi Chủ tịch nước ký lệnh ban hành, Luật Người cao tuổi

được dư luận đánh giá cao. Hàng chục vạn hội viên NCT đã tham gia các tổ
hòa giải, tổ an ninh, thanh tra nhân dân, thuyết phục hòa giải các bất hòa, mâu
thuẫn trong dân cư, phát hiện kẻ xấu, cảm hóa giáo dục người lầm lỗi... Nhiều
tổ chức cơ sở Hội ở vùng biên giới đã phối hợp bộ đội biên phòng giáo dục,
động viên nhân dân chống lại âm mưu chia rẽ dân tộc của các thế lực thù
9


địch, chống xâm canh xâm cư, bảo vệ biên cương. Ở Tây Nguyên, nhiều già
làng, các cụ cao niên đã giáo dục con cháu không nghe lời dụ dỗ của bọn xấu,
không tham gia biểu tình, không vượt biên trái phép, không để mắc mưu chia
rẽ dân tộc. NCT hiện nay vẫn là một lực lượng lao động quan trọng, tham gia
các hoạt động xóa đói, giảm nghèo, thi đua sản xuất, phát triển kinh tế, làm
giàu chính đáng. Năm 2008 tại Hội nghị toàn quốc biểu dương NCT tiêu biểu
làm kinh tế giỏi lần thứ 2, có 224.064 NCT làm kinh tế giỏi ở ba cấp xã,
huyện và tỉnh. Năm 2010, qua Hội nghị điển hình tiên tiến ở các cấp, có hơn
300.000 vị được tôn vinh là NCT làm kinh tế giỏi. Những điển hình làm kinh
tế giỏi trong nông, lâm, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp đã góp phần phát
triển các hình thái kinh tế hộ, hợp tác, trang trại, phát triển các doanh nghiệp
vừa và nhỏ....Các cấp Hội đã xây dựng chương trình hành động, cùng cán bộ
Đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể xây dựng các quy ước,
hương ước làng văn hóa, Quy chế dân chủ ở cơ sở, động viên mọi người thực
hiện nếp sống văn minh, gia đình văn hóa, góp phần xây dựng cụm dân cư,
thôn ấp, bản làng văn hóa, tích cực thực hiện công tác khuyến học khuyến tài,
xây dựng xã hội học tập, tham gia tích cực vào phong trào "Toàn dân đoàn kết
xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư”. Qua thực tế hoạt động của Hội
Người cao tuổi, lãnh đạo Đảng, Nhà nước và nhiều cấp ủy, chính quyền địa
phương đánh giá Hội NCT là một đoàn thể đông hội viên, một lực lượng nội
sinh quan trọng của đất nước, có các hoạt động phong phú trên tất cả các lĩnh
vực hoạt động xã hội, góp phần thực hiện thắng lợi các chương trình kinh tế xã hội, giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội từ cơ sở, tổ chức Hội

thật sự là cầu nối giữa Đảng với dân. Tại Đại hội toàn quốc lần thứ II của Hội
NCT Việt Nam (2001), Ban Bí thư Trung ương Đảng đã trao tặng Hội NCT
Việt Nam bức trướng 18 chữ: "Tuổi cao chí càng cao, nêu gương sáng vì sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc"[8]
10


Trong bài “Người cao tuổi Hòa Bình tham gia xóa đói, giảm nghèo” tác
giả cho thấy, bằng vốn kiến thức, kinh nghiệm đã tích lũy, người cao tuổi Hòa
Bình đã áp dụng vào sản xuất, kinh doanh, tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị
kinh tế cao, góp phần từng bước xóa đói, giảm nghèo, làm giàu chính đáng
cho gia đình và xã hội. Toàn tỉnh hiện có trên 36.300 người cao tuổi trực tiếp
lao động, sản xuất trên các lĩnh vực, trong đó có 3.360 người cao tuổi được
công nhận là người cao tuổi làm kinh tế giỏi; 10.112 người cao tuổi đạt khá,
giàu. Xuất hiện nhiều mô hình sản xuất, kinh doanh giỏi cho thu nhập từ 50300 triệu đồng/năm. Ngoài ra, người cao tuổi Hòa Bình cũng tích cực tham
gia nhiều phong trào trên địa bàn tỉnh như: Nêu gương sáng trong xây dựng
làng bản văn hóa, khu dân cư văn hóa; nêu gương sáng trong cuộc vận động
xây dựng, chỉnh đốn Đảng, xây dựng chính quyền trong sạch, vững
mạnh... hưởng ứng phong trào thi đua người cao tuổi nêu gương sáng xây
dựng con người mới, gia đình hiếu học, khuyến tài, 100% cơ sở hội đều có
Quỹ khuyến học. Hiện có 9.313 hội viên người cao tuổi tích cực tham gia các
hoạt động trong công tác khuyến học, khuyến tài tại các trung tâm học tập
cộng đồng, dòng họ, gia đình.”.[9]
Trong bài “45.700 người cao tuổi tham gia các phong trào thi đua phát
triển kinh tế xã hội, xóa đói, giảm nghèo” đã phản ứng phong trào thi đua
phát triển kinh tế xã hội, xóa đói, giảm nghèo được đông đảo hội viên người
cao tuổi hưởng ứng với trên 45.700 người cao tuổi tham gia. Các hội viên
cũng tích cực vận động con cháu, gia đình tự nguyện đóng góp 21.000 ngày
công, hiến 97.000 m2 và trên 1,2 tỷ đồng cho chương trình xây dựng nông
thôn mới.”[10]

Bài viết “Người cao tuổi phát huy vai trò trong các hoạt động”cho thấy
hoạt độnghiện nay, trên địa bàn huyện có trên 16 ngàn hội viên người cao tuổi
(NCT), đạt trên 90% so với NCT toàn huyện, đang sinh hoạt tại 138 Chi hội.
11


Hàng năm, các cấp Hội NCT đều chủ động xây dựng kế hoạch phối hợp tốt
với các ban, ngành, đoàn thể trong các hoạt động tư vấn, chăm sóc sức khỏe,
khám chữa bệnh, phòng chống tội phạm, xây dựng nông thôn mới, bảo vệ môi
trường, công tác thực hiện các chế độ, chính sách đối với NCT”.[11]
Bài viết “Nhân rộng mô hình câu lạc bộ Liên thế hệ tự giúp nhau”đã
cho thấy hiệu quả của việc thành lập các câu lạc bộ dành cho NCT Kết quả
nghiên cứu đánh giá về tác động của CLB liên thế hệ tự giúp nhau của Viện
Nghiên cứu Y – Xã hội học (Liên hiệp các hội Khoa học và Kỹ thuật Việt
Nam) cho thấy, CLB là mô hình có tác động toàn diện tới người cao tuổi và
cộng đồng. Cụ thể là: thành viên được vay vốn và chuyển giao khoa học kỹ
thuật, có thể tăng 50% thu nhập sau ba năm, góp phần giảm nghèo cho người
cao tuổi và gia đình. Sức khỏe của thành viên tốt lên do rèn luyện và có kiến
thức tự chăm sóc. Ðời sống tinh thần được nâng cao, có cơ hội giao lưu, nâng
cao nhận thức. Thúc đẩy sự hiểu biết và hỗ trợ lẫn nhau giữa các thành viên,
các thế hệ, giữa người khó khăn và không khó khăn; gắn kết tình làng nghĩa
xóm, thúc đẩy các phong trào tại cộng đồng và thực hiện tốt luật pháp, chính
sách về người cao tuổi.Hoạt động của CLB còn làm thay đổi cách nhìn về
người cao tuổi, về sự đóng góp và phát huy nội lực của người cao tuổi; góp
phần làm tốt công tác người cao tuổi. Nhiều chuyên gia trong nước và quốc tế
cũng công nhận CLB liên thế hệ tự giúp nhau là mô hình có tính nhân văn
cao, hỗ trợ toàn diện người cao tuổi và có hiệu quả nhất, tạo điều kiện hỗ trợ
người cao tuổi nghèo, có hoàn cảnh khó khăn vươn lên thoát nghèo.[12]
Trong Báo cáo “Kết quả và những khó khăn, hạn chế trong việc thực
hiện chính sách, chế độ đối với người cao tuổi” đã chỉ ra những kết quả tích

cực trong đồi sống của ngườ cao tuổi như sau: “Hầu hết người cao tuổi đã
tham gia xây dựng hương ước, cụm dân cư văn hoá, phòng chống các tệ nạn
xã hội, giữ gìn an ninh trật tự, an toàn xã hội, hoà giải tranh chấp, mâu thuẫn
12


tại cộng đồng dân cư, khôi phục truyền thống văn hoá, truyền thụ kiến thức
văn hoá, xã hội, khoa học và công nghệ, kỹ năng nghề nghiệp cho thế hệ trẻ
cụ thể đã:
+ Góp phần xây dựng chính sách, chương trình, công tác xã hội: Nhiều
người cao tuổi đã nghỉ hưu, nhưng còn sức khoẻ đã tham gia tổ chức Đảng,
đoàn thể, chính quyền ở cấp xã, tổ thôn xóm. Năm 2007, có khoảng 60,25%
người cao tuổi tham gia các hoạt động phát triển cộng đồng; 3,68% tham gia
công tác ở cấp thôn, tổ dân phố (chủ yếu ở tuổi 60-70 tuổi); 4,14% tham gia
tổ hoà giải; 2,43% tham gia tổ an ninh nhân dân; gần 80% tham gia Hội người
cao tuổi và các tổ chức đoàn thể; 4,79% là thành viên các câu lạc bộ; 30%
người cao tuổi được xin ý kiến về các chương trình, chính sách và dự án ở cơ
sở”
Trong luận văn “Sắp xếp đời sống gia đình của người cao tuổi tại
Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay” tác giả Nguyễn Thị Thanh Tùng viết vào
năm 2010 đã phác họa được thực trạng đời sống của người cao tuổi tại
TP.HCM hiện nay. Nêu lên cách sắp xếp đời sống gia đình và sự tác động của
các yếu tố kinh tế, văn hóa, xã hội tới các kiểu sắp xếp đời sống gia đình của
người cao tuổi. So với người cao tuổi trong các tỉnh thành cả nước, nhất là
người cao tuổi ở nông thôn, đời sống vật chất của các cụ tại TP. HCM có sự
vượt trội đáng kể. Qua kết quả phân tích trong luận văn cho thấy, so với năm
năm trước đây, mức sống của người cao tuổi đã có sự cải thiện đáng kể. Hầu
hết người cao tuổi đều độc lập về kinh tế dựa trên tiền lương hưu, lao động
hiện tại hoặc các nguồn thu khác (cho thuê nhà, bán đất đai,…). Bên cạnh đó
cũng có một thực tế hiện đang diễn ra: những người cao tuổi trước đây là

công nhân viên Nhà nước hoặc có mức sống cao, hiện tại có cuộc sống ổn
định, con cái lại được đầu tư ăn học, trưởng thành có nghề nghiệp và thu
nhập, đủ sức lo cho bố mẹ. Trong khi đó, người cao tuổi trước đây là nông
13


dân, lao động tự do, làm thuê,… hiện tại cuộc sống khó khăn, đa số con cái lại
không được học hành tới nơi tới chốn, nghề nghiệp không ổn định, cuộc sống
tiếp tục khó khăn, không thể chăm lo cho bố mẹ. Những biến đổi trong đời
sống gia đình liên quan đến các biến đổi xã hội. Mối quan hệ giữa bố mẹ và
con cái đang ngày càng lỏng lẻo. Quan điểm sống của người cao tuổi và giới
trẻ ngày càng nới rộng khoảng cách. Nếu như ở nông thôn, mối quan hệ hàng
xóm, láng giềng mang tính mở, thì ở đô thị, mối quan hệ này ngày càng bị thu
hẹp.
Người cao tuổi ở đô thị, ngoài các mối quan hệ trong gia đình còn có
mối quan hệ với đồng nghiệp hoặc bạn bè ở các đoàn thể, câu lạc bộ mà mình
tham gia. Nếu trong đời sống vật chất, mức sống của các cụ ở nội thành cao
hơn ngoại thành thì trong đời sống tinh thần, mối quan hệ gia đình, họ hàng,
bạn bè, hàng xóm láng giềng của các cụ ở ngoại thành lại chặt chẽ hơn. Người
cao tuổi hiện nay đa số sắp xếp đời sống gia đình trong một hộ gia đình mở
rộng (gồm vợ/ chồng, con và cháu). Hầu hết các cụ đang sống cùng con trai,
trong đó phần lớn là con trai trưởng. Tuy nhiên cũng không ít người cao tuổi
hiện có các hình thức sắp xếp đời sống gia đình khác như sống riêng (sống
một mình, sống với vợ/chồng), sống cùng với cháu, sống với họ hàng, bạn bè,
hàng xóm hoặc nương nhờ các tổ chức tôn giáo, trung tâm bảo trợ. Đối với
người cao tuổi có sự độc lập về kinh tế thì họ có khả năng lựa chọn bất kỳ
một hình thức sắp xếp nào mà mình thích. Còn đối với người cao tuổi không
có thu nhập, thu nhập không ổn định, đa phần họ sống phụ thuộc vào con
hoặc sự giúp đỡ từ bên ngoài (họ hàng, bạn bè, các tổ chức xã hội). Tác giả
Nguyễn Thị Thanh Tùng cũng đã đưa ra hai nền văn hóa lớn ảnh hưởng rõ nét

tới sắp xếp đời sống gia đình của người cao tuổi đó là nền văn hóa Đông Á
(Ba mẹ thường sống chung với con trai – nhất là người con trai trưởng,
thường ở miền Bắc) và nền văn hóa Đông Nam Á (chính yếu tố văn hóa này
14


khiến cho tỷ lệ người cao tuổi sống với một người con trai bất kỳ và sống với
con gái tăng dần). Từ những yếu tố nêu ra, tác giả đã đưa ra những khuyến
nghị như nên củng cố, tăng cường các mối quan hệ họ hàng, dòng họ bằng các
hoạt động như xây dựng quỹ khuyến học, khuyến tài… mà người cao tuổi có
thể trực tiếp tham gia bằng cách đóng góp tiền bạc và công sức, khuyến khích
người cao tuổi tham gia vào các câu lạc bộ sinh hoạt (nhất là các cụ bà và các
cụ không phải là công nhân viên chức nghỉ hưu), cẩn mở các dịch vụ chăm
sóc y tế dành cho những người cao tuổi…nhằm bảo đảm cho người cao tuổi
một cuộc sống tốt nhất dưới ảnh hưởng của sự thay đổi kinh tế, văn hóa và xã
hội hiện nay.
Trong trang mục “Chúng tôi có ý kiến” của báo tuổi trẻ ngày
10/03/2018 với đầu đề “Về hưu rồi làm gì” Tiến sỹ Võ Đình Trí có bài viết
nói về những hoạt động của người về hưu ở nước ngoài với câu hỏi “Sắp tới
về hưu anh/chị làm gì” Hầu hết những người được hỏi ở Pháp đều có câu trả
lời gắn với một dự án cá nhân của mình được chuẩn bị từ 1-2 năm trước. Đó
có thể là tham gia thường xuyên hơn ở một hay vài hội đoàn (ở Pháp có
73.000 hội đoàn theo Luật hội đoàn 1901), theo học một chương trình nào đó,
hay tham gia các dự án thiện nguyện với chuyên môn của mình.
Đã có nhiều nghiên cứu cho thấy ở tuổi hưu, nếu không tiếp tục tương
tác với cộng đồng có những hoạt động trí óc (đọc, suy nghỉ, giải quyết vấn đề,
viết …) thì trí nhớ, sự minh mẫn, hay thậm chí sức khỏe sẽ giảm sút nhanh
chóng. Chính vì vậy, các hội đoàn, các dự án thiện nguyện hay các chương
trình học suốt đời gắn với chuyên môn và sở thích của người về hưu là hết sức
quan trọng và cần thiết.

Ở những nước phát triển các hội đoàn, công tác xã hội hay các dự án
thiện nguyện phù hợp với độ tuổi, chuyên môn và sở thích của người về hưu
rất phổ biến. Người thích công việc giảng dạy có thể tham gia các chương
15


trình giảng dạy, đào tạo cho cộng đồng nơi mình ở hay vùng lân cận. Người
có chuyên môn kỷ thuật, luật sư, bác sĩ, các ngành khoa học xã hội khác có
thể tham gia các dự án thiện nguyện ở các vùng, các nước kém phát triển, hay
viết để chia sẽ với cộng đồng. Chẳng hạn như tôi có biết một nhóm các bác sĩ,
dược sĩ gốc Việt ở Pháp và bạn bè người Pháp của họ từ nhiều năm nay có
các thiện nguyện ở Việt Nam, trong đó nhiều người đã về hưu.
Nhiều trường đại học ở những nước này cũng có các chương trình đào
tạo riêng cho người về hưu. Có những người trước đây vì lý do nào đó không
theo được chương trình đại học, giờ ở tuổi về hưu, họ có thể theo học một
chương trình mà mình yêu thích, không chỉ tốt về mặt trí tuệ, sức khỏe, mà
còn là một nguồn động viên lớn lao cho con cháu của họ. Bên cạnh đó, với sự
phát triển nhanh chóng của Internet, các chương trình học trực tuyến cũng phù
hợp cho người về hưu để phát triển một kiến thức hay kỷ năng mới, hoặc học
thêm một lĩnh vực nghệ thuật như vẽ tranh, điêu khắc, tạc tượng, sáng tác…
Trong khi đó, ở các đô thị của Việt Nam, người về hưu dường như có
rất ít sự lựa chọn các hoạt động cho tuổi hưu của mình. Nhiều người về hưu
không biết làm gì ngoại trừ việc tập thể dục hằng ngày, làm việc nhà, giữ
cháu, thỉnh thoảng đi du lịch.
Điều này có nguyên nhân từ việc ở Việt Nam rất thiếu môi trường để
người về hưu có thể tiếp tục làm việc, học tập, đóng góp cho cộng đồng. Hệ
thống các thư viện công cộng các cơ sở văn hóa nghệ thuật có chức năng đào
tạo liên tục, phù hợp với người cao tuổi là rất hiếm, ngay cả ở các thành phố
lớn. Các câu lạc bộ hưu trí có nhiều nhưng hoạt động lại không mang tính
chuyên biệt như các hội có chung một mục đích tôn chỉ, do vậy mức độ hấp

dẫn không cao. Các chương trình, dự án thiện nguyện của cộng động phần lớn
tập trung vào vật chất với việc trao tặng, nên cũng chưa chú ý nhiều đến việc

16


×