Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

NHẬN THỨC của học SINH THPT với vấn đề bạo lực học ĐƯỜNG HIỆN NAY (NGHIÊN cứu TRƯỜNG hợp tại TRƯỜNG THPT CAO bá QUÁT – QUỐC OAI – hà nội)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (718.39 KB, 95 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TỐNG QUANG MẠNH

“NHẬN THỨC CỦA HỌC SINH THPT VỚI VẤN ĐỀ BẠO LỰC
HỌC ĐƯỜNG HIỆN NAY”
(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP TẠI TRƯỜNG
THPT CAO BÁ QUÁT – QUỐC OAI – HÀ NỘI)

LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

Hà Nội - 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TỐNG QUANG MẠNH

“NHẬN THỨC CỦA HỌC SINH THPT VỚI VẤN ĐỀ BẠO LỰC
HỌC ĐƯỜNG HIỆN NAY”
(NGHIÊN CỨU TRƯỜNG HỢP TẠI TRƯỜNG
THPT CAO BÁ QUÁT – QUỐC OAI – HÀ NỘI)

Chuyên ngành: Xã hội học
Mã số:
831 03 01


LUẬN VĂN THẠC SĨ XÃ HỘI HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. LÊ NGỌC VĂN

Hà Nội - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng bản luận văn là công trình nghiên cứu khoa
học độc lập của tôi. Các số liệu , kết quả nêu trong luận văn này là trung thực
và có nguồn gốc rõ ràng
Hà Nội, ngày 4 tháng 6 năm 2018
Người cam đoan

Tống Quang Mạnh


LỜI CẢM ƠN
Luận văn là kết quả của quá trình học tập nghiên cứu ở nhà trường, kết hợp với
kinh nghiệm trong quá trình công tác thực tiễn, với sự nỗ lực cố gắng của bản thân .
Đạt được kết quả này tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành tới quí Thầy (cô)
giáo Học viện khoa học xã hội; Trường THPT Cao Bá Quát, các đồng chí, đồng
nghiệp và các em học sinh đã nhiệt tình giúp đỡ, hỗ trợ, cộng tác cho tôi. Đặc biệt, Tôi
xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến PGS.TS Lê Ngọc Văn là người trực tiếp
hướng dẫn đề tài; Thầy đã dày công giúp đỡ tôi trong suốt quá trình nghiên cứu và
hoàn tất đề tài.
Mặc dù đã có sự nỗ lực cố gắng nhưng luận văn không tránh khỏi những khiếm
khuyết, Tôi mong nhận được sự góp ý chân thành của quí thầy (cô), đồng chí, đồng
nghiệp để luận văn được hoàn thiện hơn.

Xin chân thành cám ơn!
Hà Nội, ngày 4 tháng 6 năm 2018

Tống Quang Mạnh


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .............................................................................................................. 1
Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI .................................................. 20
1. Cơ sở lý luận ................................................................................................... 20
1.1. Một số khái niệm công cụ ............................................................................ 20
1.2. Lý thuyết Xã hội học áp dụng để nghiên cứu đề tài .................................... 23
2. Quy định của pháp luật liên quan đến bạo lực ở tuổi vị thành niên................ 31
Chƣơng 2: VẤN ĐỀ BẠO LỰC HỌC ĐƢỜNG QUA NHẬN THỨC CỦA
HỌC SINH TRUNG HỌC PHỔ THÔNG HIỆN NAY ................................. 33
1. Đôi nét về địa bàn và trường THPT Cao Bá Quát – Quốc Oai – Hà Nội ....... 33
1.1. Địa bàn Huyện Quốc Oai ............................................................................. 33
1.2. Trường THPT Cao Bá Quát – Quốc Oai ..................................................... 33
2. Nhận thức về tính chất, mức độ của bạo lực học đường ................................. 34
2.1. Về tính chất .................................................................................................. 34
2.2. Về mức độ .................................................................................................... 47
3. Nhận thức về nguyên nhân của bạo lực học đường ........................................ 57
3.1. Nguyên nhân chủ quan ................................................................................. 57
3.2. Nguyên nhân khách quan ............................................................................. 60
4. Nhận thức về hậu quả và các nhân tố tác động của bạo lực học đường ......... 62
4.1. Về hậu quả .................................................................................................... 63
4.2. Những nhân tố tác động đến nhận thức của học sinh THPT đối với vấn đề
bạo lực học đường ............................................................................................... 66
KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ ................................................................... 72
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ......................................................... 75

PHỤ LỤC ........................................................................................................... 78


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BLHĐ

Bạo lực học đường

HS

Học sinh

THCN

Trung học chuyên nghiệp

THCS

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thông

TP

Thành phố

VN


Việt Nam

XHH

Xã hội học


DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1: Nhận thức của học sinh THPT về hành vi BLHĐ theo khối học.. ..... 37
Bảng 2.2: Nhận thức của học sinh về hình thức có thể tạo ra bạo lực học
đường......................................................................................................... 44
Bảng 2.3: Nhận thức của học sinh THPT về chủ thể gây ra các hành vi
BLHĐ. ....................................................................................................... 46
Bảng 2.4: Nhận thức của HS về mức độ BLHĐ cấp THPT khi so sánh với các
cấp học khác. .............................................................................................. 51
Bảng 2.5: Nhận thức của học sinh THPT về hậu quả của BLHĐ với học tập ... 64

DANH MỤC BIỂU ĐỒ
Biểu đồ 2.1: nhận thức của học sinh về các dạng thức bạo lực học đường. ....... 35
Biểu đồ 2.2: Nhận thức của HS nam và nữ về hành vi bạo lực học đường ....... 36
Biểu đồ 2.3: Quan điểm của học sinh đối với hành vi bạo lực học đường ......... 38
Biểu đồ 2.4: Nhận thức của học sinh về bản chất hành vi bạo lực học đường. .. 40
Biểu đồ 2.5: Nhận thức của học sinh THPT về các kiểu dạng BLHĐ ............... 42
Biểu đồ 2.6: Nhận thức của HS về mức độ bạo lực học đường hiện nay. .......... 49
Biểu đồ 2.7: Nhận thức của học sinh về mức độ gây ra bạo lực học đường
xét về mặt giới tính...................................................................................... 53
Biểu đồ 2.8: Nhận thức của học sinh về nguyên nhân chủ quan gây ra bạo lực
học đường..................................................................................................... 58
Biểu đồ 2.9: Nhận thức của học sinh về nguyên nhân khách quan tạo ra bạo lực

học đường..................................................................................................... 60


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, bạo lực học đường là một vấn nạn xảy ra ở hầu hết các nước. Được ví
như một vết đen trong trường học, hiện tượng này gây bức xúc cho xã hội, sợ hãi, lo
lắng cho nạn nhân và người chứng kiến. Giải quyết vấn đề nạn này đang là bài toán
khó cho các tổ chức xã hội, những nhà quản lý giáo dục, các bậc phụ huynh và chính
các em học sinh.
Tổ chức phát triển cộng đồng tập trung vào trẻ em Plan International và Trung
tâm nghiên cứu quốc tế về phụ nữ (ICRW) công bố báo cáo về tình trạng bạo lực trong
các trường học ở châu Á. Báo cáo dựa trên kết quả nghiên cứu và khảo sát thực tế với
9.000 học sinh ở lứa tuổi 12-17, các giáo viên, hiệu trưởng, phụ huynh... tại 5 quốc gia
Campuchia, Việt Nam, Indonesia, Pakistan và Nepal, thực hiện từ tháng 10/2013 đến
tháng 3/2014. Theo báo cáo này, tình trạng bạo lực trong các trường học châu Á đang
ở mức báo động. Trung bình cứ 10 học sinh thì có 7 em từng trải nghiệm bạo lực học
đường. Quốc gia có số học sinh hứng chịu nạn bạo lực cao nhất là Indonesia (84%);
thấp nhất là Pakistan với 43%. Chỉ tính trong 6 tháng (10/2013-3/2014), số học sinh bị
bạo lực (ở mọi hình thức: tinh thần, thể xác...) tại trường học của Indonesia là 75%.
Việt Nam đứng thứ hai với 71%. [20]
Ở nước ta, theo số liệu thống kê của Bộ Giáo dục và đào tạo đầu năm 2015,
trong một năm học, toàn quốc xảy ra khoảng 1.600 vụ học sinh đánh nhau ở cả trong
và ngoài phạm vi nhà trường, tương đương khoảng 5 vụ đánh nhau trong một ngày.
Trong đó, hơn 5.000 học sinh xảy ra một vụ đánh nhau, khoảng 11.000 học sinh có
một em bị buộc thôi học vì tội đánh nhau. [1]
Những số liệu nêu trên đã cho thấy mức độ nghiêm trọng của hiện tượng bạo
lực học đường ở nước ta hiện nay, vấn đề xã hội này đang nhận được nhiều sự quan
tâm và thu hút của dư luận cộng đồng. Các vụ việc bạo lực trường học được nhắc đến
trên những phương tiện thông tin đại chúng trong thời gian gần đây tạo ra sự bức xúc,

là nỗi trăn trở lo lắng cho các gia đình, phụ huynh, các em học sinh, các thầy cô giáo.
Tình hình bạo lực học đường ngày càng trở nên phức tạp và đang có chiều
hướng gia tăng. Đối tượng tham gia trước đây thường được nhắc đến là học sinh với

1


các vụ xô xát, đánh nhau không quá nghiêm trọng của các em đang tuổi cắp sách đến
trường còn nhiều hiếu động. Nhưng nay, đối tượng bạo lực học đường mở rộng đa
dạng hơn trước, không chỉ là học sinh mà đôi khi xuất hiện cả thầy/cô giáo, người làm
việc trong nhà trường, các đối tượng bên ngoài nhà trường. Tính chất hành vi bạo lực
cũng phát triển theo hướng khó kiểm soát, trở nên nguy hiểm và liều lĩnh hơn, có thể
gây tác hại rất lớn, một số vụ bạo lực học đường có cả việc sử dụng hung khí, vật gây
sát thương để đánh nhau. Bạo lực học đường cũng xuất hiện nhiều kiểu loại hơn so với
trước đây, với các sự việc như: Nữ sinh ở Nghệ An đánh nhau quay bằng điện thoại rồi
đăng tải lên mạng internet [4]; Bảo vệ trường dâm ô học sinh tiểu học ở Đăk Nông [7]
; Cô giáo mầm non hành hạ trẻ em ở thành phố Hồ Chí Minh [22]; Nữ giáo viên đánh
học sinh trong lớp ở Hà Nội [23] ...
Qua đó thể thấy được, bạo lực học đường hiện nay đã xảy ra ở nhiều cấp học
khác nhau, Thực tế đó vẫn là phần nổi của tảng băng chìm, những sự việc phát hiện ra
và được công chúng biết đến chưa thực sự phản ảnh hết thực trạng vấn đề bạo lực ở
các trường học hiện nay.
Tác hại của BLHĐ tới học sinh, gia đình, nhà trường rất lớn. Đối với học sinh
là những tổn hại về thể chất và tinh thần kéo theo đó là sút về học tập, thay đổi tâm lý,
tính cách theo chiều hướng tiêu cực. Đối với gia đình là sự bất an, lo lắng của phụ
huynh cho con em mình. Đối với nhà trường bạo lực học đường làm ảnh hưởng đến
môi trường giáo dục, làm suy giảm lòng tin của học sinh, gia đình, xã hội với nhà
trường, một phần làm ảnh hưởng đến chất lượng công tác giáo dục – đào tạo.
Hà nội cũng là một trong những điểm nóng của vấn nạn BLHĐ. Kết quả nghiên
cứu của Viện nghiên cứu Y – Xã hội thực hiện năm 2014 với 3000 học sinh của 30

trường THCS và THPT trên địa bàn Hà Nội cho thấy có 80% học sinh đã từng bị bạo
lực trong trường học ít nhất một lần, 71% bị bạo lực trong 6 tháng qua. [21].
Học sinh THPT là những người đang trong độ tuổi vị thành niên với những thay
đổi lớn về thể chất và tâm lý. Theo học ở các trường THPT là môi trường bản lề để
hình thành nhân cách, cũng là quãng thời gian rất quan trọng, các em đang đứng trước
ngưỡng cửa đại học hoặc những hướng đi khác sau khi tốt nghiệp, cần sự quan tâm
chu đáo của gia đình và nhà trường. Vì vậy, đây là đối tượng rất đáng quan tâm trong

2


vấn đề bạo lực học đường. Cần thấy được thực trạng, tìm ra nguyên nhân, xác định hậu
quả mới có giải pháp hiệu quả. Để làm được điều đó cần tìm hiểu chính nhận thức học
sinh THPT để đánh giá các em nhìn nhận vẫn đề này như thế nào. Từ đó hướng tới
giải quyết vấn đề bạo lực học đường, không chỉ ở cấp THPT mà các cấp học khác có
tình trạng này xảy ra.
Câu hỏi được đặt ra, nhận thức của học sinh THPT đối với vấn đề bạo lực học
đường hiện nay như thế nào?
Từ thực tế cấp thiết nêu trên, tôi lựa chọn đề tài “nhận thức của học sinh THPT
với vấn đề bạo lực học đường hiện nay”.
(Nghiên cứu trường hợp ở Trường THPT Cao Bá Quát – Quốc Oai – Hà Nội).
Đề tài sẽ tìm hiểu nhận thức của học sinh THPT với vấn đề bạo lực học đường
hiện nay ở các phương diện: Tính chất – mực độ; Nguyên nhân; Hậu quả và những
nhân tố tác động.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Về chủ đề BLHĐ đã có không ít công trình nghiên cứu trong và ngoài nước từ
những góc nhìn khác nhau. Dựa vào những tài liệu thu thập được, tôi đề cập đến ba nội
dung quan trọng được các tác giả đi trước đề cập đến trong những tác phẩm của họ. Đó
là: thực trạng, tính chất, mức độ của BLHĐ; nguyên nhân của BLHĐ; hậu quả và
những nhân tố tác động của bạo lực học đường.

2.1. Về tính chất, mức độ của bạo lực học đường
Bạo lực trong các trường học là vấn đề tồn tại từ lâu, nếu như trong thời kỳ
trước các sự việc xảy ra không quá nghiêm trọng và số lượng không nhiều. Nhưng
nay, mặt trái của xã hội hiện đại cũng kéo theo vấn đề bạo lực học đường gia tăng cả
về mức độ và tính chất. Nhiều tác giả đã đi vào nghiên cứu về hai nội dung này.
* Nghiên cứu của tác giả Đàm Đức Dương, năm 2014 [6] đã nêu lên mức độ,
tính chất của vấn đề BLHĐ: Về mức độ nghiên cứu nêu ra thực trạng các hành vi đánh
đập, ngược đãi, xâm hại đến sức khỏe, thể xác hay tính mạng giữa các HS với nhau có
kết quả cao nhất (91,6% là nữ và 81,7 là nam), hành vi cưỡng ép, buộc phải quan hệ
tình dục chiếm tỉ lệ thấp nhất những cũng là còn số đáng chú ý với 31,7% là nam và
25,8% là nữ. Về tính chất, nghiên cứu đã cho thấy thực trạng BLHĐ hiện nay là khá

3


nghiêm trọng, nhận định sự nhận thức giữa nam và nữ về hành vi BLHĐ có ảnh hưởng
đến thực trạng vấn đề này. Ngoài ra, nghiên cứu cũng nêu lên một số nội dung về tính
chất BLHĐ như: Về việc nhận thức bản chất của hành vi bạo lực, quan điểm của HS
về việc sử dụng bạo lực ở trường học, quan điểm hành động khi chứng kiến BLHĐ,
quan điểm giải quyết mâu thuẫn, quan điểm đưa hình ảnh video bạo lực.
* Bài viết “hiểu biết về bạo lực ở trường học” của Trung Tâm kiểm soát và
phòng ngừa bệnh tật Hoa Kỳ (CDC), năm 2016 [34] đã đưa ra số liệu dẫn chứng về
tính chất và mức độ của BLHĐ. Trong năm học 2012 – 2013, có 31 vụ giết người của
thanh thiếu niên (từ 5 đến 18 tuổi) xảy ra tại trường học. Trong năm 2014, có khoảng
486.400 các vụ bạo lực phi phi thể với HS (từ 12 đến 18 tuổi) mà nạn nhân còn đang
đi học. Khoảng 9% giáo viên cho biết họ bị HS đe dọa, 5% giáo viên nói rằng họ đã bị
HS tấn công về thể chất ở trường học. Trong năm 2013, có 12% số HS (từ 12-18 tuổi)
cho biết các băng nhóm đã có mặt tại trường trong suốt năm học. Trong năm 2015: Có
5,6% HS cho biết đã không đi học một hoặc nhiều ngày trong 30 ngày trước cuộc khảo
sát vì cảm thấy không an toàn ở trường hoặc trên đường đi học hay từ trường trở về

nhà; 4,1% nói rằng đã từng mang vũ khí vào trường học trong 30 ngày trước cuộc
khảo sát; 6 % cho biết từng bị đe dọa hoặc bị thương do vũ khí trong trường học,
20.2% cho biết bị bắt nạt ở trường và 15,5% nói rằng bị bắt nạt qua mạng trong 12
tháng trước cuộc khảo sát.
* Báo cáo của Quỹ nhi đồng Liên Hiệp Quốc (Unicef), [33] năm 2017 về tình
trạng bạo lực đối với trẻ em và thanh thiếu niên, đã chỉ ra những số liệu của nhiều
nước trên thế giới cho thấy thực trạng bạo lực đang diễn ra với mức độ gia tăng. Gần
500 cuộc tấn công hoặc các mối đe dọa tấn công vào trường học đã được ghi lại hoặc
xác minh vào năm 2016 ở 18 quốc gia hoặc các khu vực trên thế giới bị ảnh hưởng bởi
các cuộc xung đột. Từ tháng 11 năm 1991 đến tháng 12 năm 2016, có 59 vụ bắn súng
ở trường. Trên toàn thế giới, gần 130 triệu (hơn một phần ba) HS ở độ tuổi 13 và 15
trải qua hiện tượng bắt nạt. Khoảng 17 triệu thanh niên ở tuổi 39 các quốc gia ở Châu
Âu và Bắc Mỹ thừa nhận đã bắt nạt những người khác ở trường. Có 732 triệu trẻ em
độ tuổi từ 6 đến 17 sống ở những quốc gia mà việc trừng phạt thể chất ở trường học
không phải là hoàn toàn bị cấm. Ngoài ra, báo cáo này cũng nêu lên tính chất của

4


BLHĐ: hiện nay HS cả nam và nữ đều có nguy cơ bị bắt nạt, đối với nam khả năng bị
bạo lực về thể chất cao hơn, trong khi đó các cô gái có vẻ nhiều hơn trong khuynh
hướng bị bạo lực về mặt tâm lý. Các hình thức BLHĐ biểu hiện như: trừng phạt thể
chất của giáo viên, quấy rối tình dục và bạo lực từ bạn bè hoặc nhân viên trường học.
* Dưới góc nhìn của tâm lý học và giáo dục học tác giả Phạm Văn Khanh với
bài tham luận “bạo lực học đường nhận diện và giải pháp ngăn chặn” [16] đã có
những diễn giải về tính chất của BLHĐ với nội dung nhận diện vấn đề này. Tác giả
cho rằng đây là hành vi lệch chuẩn nhưng thiên về bạo lực, với ba điểm chú ý. Thứ
nhất, đó là phân loại hành vi với hai loại hành vi bạo lực chủ động và bạo lực thụ
động. Thứ hai, đó là việc nhận diện hành vi bạo lực bao gồm hình thức bạo lực cơ bắp
gây tổn thương sức khỏe, tính mạng người bị hại. Bạo lực ở hình thức đe dọa, khủng

bố là các hành vi nhằm gây bất an cho người bị hại. Thứ ba, dấu hiệu của BLHĐ có ba
giai đoạn: Tiền bạo lực, thực hiện hành vi bạo lực, hậu bạo lực. Tác giả khuyến nghị
người làm công tác giáo dục cần lưu ý dấu hiệu tiền bạo lực để nhà trường tiến hành
can thiệp, ngăn chặn hành vi BLHĐ hiệu quả và dấu hiệu hậu bạo lực để cảm hóa,
ngăn chặn hành vi tiếp diễn.
* Trong cuốn “Giáo dục nếp sống văn hóa cho học sinh” của tác giả Nguyễn
Đắc Hưng, năm 2014, [12] đã nêu lên mực độ của vấn đề BLHĐ hiện nay. Cuốn sách
dẫn chứng số liệu thống kê của Cục cảnh sát quản lý hành chính về trật tự xã hội. Tỉ lệ
HS, sinh viên và thanh thiếu niên phạm tội và vi phạm pháp luật chiếm khoảng ¼ tổng
số vụ phạm pháp hình sự trên toàn quốc. Báo cáo của các Sở GD-ĐT, từ đầu năm học
2009 – 2010 đến nay, trên toàn quốc đã xảy ra khoảng 1.598 vụ việc HS đánh nhau ở
trong và ngoài trường học. Các nhà trường đã xử lý kỷ luật khiển trách 881 HS, cảnh
cáo 1.558 HS, buộc thôi học có thời hạn (từ 3 ngày, 1 tuần đến một năm học) 735 HS.
Vấn đề BLHĐ đang ngày càng nguy hiểm, có clip sự việc HS đánh nhau kiểu “hội
đồng” trên mạng internet làm xôn xao dư luận. Độ tuổi HS vi phạm chủ yếu là HS
năm cuối THCS và cấp THPT. Xét về giới tính, HS nam thường là chủ thể gây nên
BLHĐ nhiều hơn, nhưng gần đây xuất hiện tình trạng có địa phương HS nữ đánh nhau
nhiều hơn HS nam. Chủ thể gây bạo lực đa dạng hơn trước như: Người ngoài nhà
trường, giáo viên, HS và cán bộ nhà trường.

5


* Trong tham luận của tác giả Cao Thanh Hương, năm 2014 có tựa đề “thực
trạng, nguyên nhân và giải pháp ngăn chặn bạo lực học đường” [13] tác giả nêu lên
mức độ nguy hiểm và nghiêm trọng của BLHĐ, với các vụ HS dùng hung khí đánh
nhau trong trường học, HS nữ đánh nhau hội đồng gây bức xúc trong dư luận. Bạo lực
ở trường học còn có hiện tượng giáo viên sử dụng biện pháp giáo dục HS có tính chất
bạo lực gây hậu quả nghiêm trọng hoặc có các lời nói xúc phạm HS, ngược lại xuất
hiện hiện tượng HS hành hung thầy cô giáo. Tác giả dẫn chứng thống kê từ 38 Sở

Giáo dục và Đào tạo gửi về Bộ từ năm 2003 đến năm 2009 có tới hơn 8000 vụ HS
đánh nhau và bị xử lý kỉ luật. Gần đây đã có các vụ bạo lực nghiêm trọng HS đâm bạn
tử vong, HS nam dùng dao, mã tấu, kiếm chém nhau ngay trong trường học… Về tính
chất của BLHĐ có sự
gia tăng và đa dạng hơn trước cả về hình thức thể hiện và phương tiện sử dụng.
* Khảo sát của Nguyễn Thị Minh Sao, năm 2011 [19] tiến hành tại ba trường
THPT Lê Quý Đôn, THPT Phạm Hồng Thái, THPT Đống Đa Hà Nội đã nêu lên tính
chất và mức độ vấn đề BLHĐ hiện nay. Về tính chất, kết quả nghiên cứu cho biết,
nhận thức của HS về tính chất BLHĐ chưa đầy đủ, chủ yếu nhận biết được ba dạng
bạo lực về thể chất, tinh thần, kinh tế. Đối với bạo lực tình dục, nhà trường và gia đình
ít đề cập đến vấn đề này nên HS không nhận diện được. Về mực độ, nghiên cứu cũng
chỉ ra vấn đề bạo lực trường học đang ngày càng nguy hiểm, điều này thể hiện ở hình
thức và phương tiện sử dụng. Các hình thức đa dạng: mắng chửi, đánh nhau, dọa
nhau, phá hoại học phẩm hay tài sản, quấy rối, ức hiếp, trấn lột. Phương tiện sử dụng
từ những lời nói đến hình vi gây ảnh hưởng về thể chất, tinh thần. Đó không còn là sự
quấy phá mang tính trò chơi mà còn là những tổn hại về thể chất, thậm chí mạng sống.
Đề tài nghiên cứu của tác giả WangJ và cộng sự, năm 2009 [35] tiến hành ở
nước Mỹ đã có những nghiên cứu về các hình thức bắt nạt trong trường học. Theo tác
giả có 4 hình thức bắt nạt trong nhóm những người trong độ tuổi thanh thiếu niên ở
trường học Mỹ là bắt nạt thể chất, bắt nạt lời nói, bắt nạt xã hội và bắt nạt sử dụng
công nghệ. Kết quả nghiên cứu đã cho thấy trong hai tháng gần nhất 20,8% là bắt nạt
thể chất, bắt nạt lời nói là 53,6%, ở xã hội là là 51,4% và trên internet là 13,6%.
Nghiên cứu chỉ ra về mặt giới tính, nam học sinh thường có hành vi bạo lực thể chất

6


hơn là lời nói. Với hiện tượng bắt nạt qua công nghệ, nam giới cũng là đối tượng bắt
nạt và nữ giới thường là nạn nhân. Nghiên cứu cũng chỉ ra việc thanh thiếu niên có
nhiều bạn bè sẽ liên quan đến các hành vi bắt nạt nhiều hơn và ít bị trở thành những

nạn nhân ở ba hình hình thức là lời nói, thể chất và xã hội, chỉ trừ hình thức bắt nạt qua
mạng là vẫn gặp phải.
Như vậy, về tính chất và mức độ của bạo lực học đường qua những công trình
nghiên cứu ở trên của đã cho thấy điểm nổi bật đầu tiên cần được chú ý tới đó là sự gia
tăng của hiện tượng này. Sự gia tăng ở hai khía cạnh, thứ nhất là nhiều hơn và đa dạng
hơn các hình thức bạo lực và thứ hai là nguy hiểm hơn trong các sự việc bạo lực. đây
chính là điểm chung mà những nghiên cứu đã cho thấy.
2.2. Về nguyên nhân của bạo lực học đường
Bạo lực ở môi trường học đường xuất phát từ nhiều nguyên nhân khác nhau, có
thể từ bản thân HS nhưng cũng có thể do những tác động ngoại cảnh, từ mặt trái môi
trường xã hội hoặc các phim, ảnh, game bạo lực dẫn đến HS bắt chước làm theo. Rất
nhiều tác giả đã đi tìm nguyên nhân của vấn đề BLHĐ, dưới đây là một số nghiên cứu
như vậy.
* Trong bài viết của tác giả Ezinne Enyinnaya, năm 2015 [30] đã đề cập đến
các nguyên nhân của BLHĐ. Nguyên nhân đầu tiên tác giả đề cập đến là sự dụng ma
túy và lạm dung rượu. Sử dụng các chất kích thích này dẫn đến con người mất kiểm
soát và là chất xúc tác cho tình trạng bạo lực ở trường học. Nguyên nhân thứ hai là do
tính cách HS, nhút nhát hoặc gây chú ý thái quá. Nguyên nhân do gia đình được lý giải
là do thiếu quan tâm, gây ra tâm trạng tiêu cực, những gia đình đó có hành vi bạo lực
của cha mẹ hoặc người giám hộ, cũng dẫn đến hành vi bạo lực bên ngoài. Nguyên
nhân từ truyền thông tác giả cho rằng những chương trình truyền hình, trò chơi điện tử
bạo lực khiến HS bắt chước theo và dẫn đến BLHĐ. Ngoài ra ,việc dễ tiếp cận, sử
dụng các đồ sắc nhọn hay vũ khí, HS mang tới trường để đe dọa bạn bè cũng là một
nguyên nhân dẫn đến tình trạng bạo lực ở trường học.
* Tác giả Nguyễn Dục Quang, năm 2016 [10] với nguyên cứu của mình đã chỉ
ra có 3 nguyên nhân gây nên hành vi BLHĐ, xuất phát từ gia đình, nhà trường, xã hội.
Đối với nguồn gốc từ gia đình, tác giả cho rằng do một số gia đình ít có thời gian quan

7



tâm, theo sát con cái hoặc quá nuông chiều con. Có trường hợp trẻ em bị ảnh hưởng do
cách giáo dục sai lệch hoặc sống trong gia đình thiếu hụt như bố mẹ ly thân, ly hôn, bố
mẹ sa vào tệ nạn xã hội...Đối với nguyên nhân xuất phát từ nhà trường, các yếu tố như:
chú trọng nhiều về dạy kiến thức cho HS mà chưa thực sự làm tốt, thiết thực việc giáo
dục đạo đức cho các em, chưa quan tâm sát sao tới HS, chưa nắm bắt được diễn biến
tâm lý thay đổi nhanh của HS được tác giả đưa ra. Đối với nguyên nhân từ xã hội, tác
giả cho rằng bắt nguồn từ các luồng văn hóa không lành mạnh, sự giăng bẫy từ các
phần tử xấu khiến cho các em trở thành nạn nhân của tệ nạn xã hội, bạo lực, xâm hại
tình dục… Chúng ta không khỏi giật mình với những tin tức, clip HS bạo lực trên
internet. Xã hội cần chung tay, chung sức với nhà trường và gia đình để ngăn chặn
BLHĐ.
* Trong cuốn“Giáo dục nếp sống văn hóa cho học sinh” của tác giả Nguyễn
Đắc Hưng chủ biên, năm 2014 [12] đã phân tích một số nguyên nhân dẫn đến BLHĐ.
Nguyên nhân từ gia đình, tác giả nhận định xuất phát từ hạn chế trong giáo dục hoặc
gia đình éo le như: bố, mẹ ly thân, ly hôn, vi phạm pháp luật, thường xuyên xảy ra
mâu thuẫn, bạo lực gia đình… ảnh hưởng đến suy nghĩ, lối sống của các em. Nguyên
nhân xuất phát từ yếu kém của giáo dục nhà trường: các tác giả cho rằng do hiện nay
có trường học chú trọng đến việc truyền đạt kiến thức hơn là giáo dục đạo đức cho HS,
giáo dục công dân nặng về lý thuyết, quan hệ thầy trò hời hợt, giáo dục HS có biểu
hiện của bạo lực… Nguyên nhân xuất phát từ những bất cập trong xã hội, đó là các trò
chơi, sách, báo, phim ảnh, truyện tranh có nội dung bạo lực, tình trạng bạo lực ngoài
xã hội diễn biến phức tạp. Nguyên nhân thứ tư được nhắc đến là từ bản thân HS, một
bộ phận học sinh thiếu hiểu biết, kỹ năng sống còn hạn chế, đua đòi, thể hiện, phạm tội
một cách hồn nhiên, thiếu ý chí phấn đấu…
* Tác giả Cao Thanh Hương với bài viết “thực trạng, nguyên nhân và giải pháp
ngăn chặn bạo lực học đường” [13] đã đưa ra bốn nguyên nhân gây nên tình trạng bạo
lực ở trường học từ góc nhìn của một người làm việc trực tiếp ở trường học phổ thông.
Nguyên nhân xuất phát từ phía HS, các lý do: Muốn chứng tỏ bản thân, khẳng định
cái tôi, dễ bị căng thẳng về xúc cảm, có hành vi bạo lực trong quá khứ, có tiền sử hoặc

đang sử dụng ma túy hay chất kích thích, thất bại trong chuyện học…được tác giả dẫn

8


chứng là nhóm HS có khả năng cao gây nên BLHĐ. Nguyên nhân xuất phát từ gia
đình tác giả cho rằng bắt nguồn từ sự thiếu quan tâm, kiểm soát, chiều chuộng quá, gia
đình có bạo lực sẽ ảnh hưởng đến trẻ và tạo nên những suy nghĩ lệch lạc. Nguyên nhân
xuất phát từ nhà trường: là việc HS bị thầy cô hay người làm việc trong trường bạo
hành, đe dọa, lề lối bất công trong lớp học, biện pháp kỷ luật của thầy cô, nhà trường
không nhất quán. Đối với các nguyên nhân từ cộng đồng, xã hội và phương tiện truyền
thông bài viết đã nêu lên những yếu tố như: Sự phân tầng về kinh tế, chức năng kinh tế
ở gia đình lấn át chức năng giáo dục, bạo lực gia đình, game online, các clip, truyện
tranh với nội dung bạo lực, các hình ảnh bạo lực thực tế ngoài xã hội
* Kết quả đề tài nghiên cứu của tác giả Đàm Đức Dương, năm 2014 với tên gọi
“Nhận thức và các yếu tố ảnh hưởng tới bạo lực học đường ở học sinh trung học phổ
thông hiện nay” [6] đã đưa ra các nguyên nhân dẫn đến bạo lực học đường như: không
ưa thì đánh, vì lý do tình cảm, bạn bè cổ vũ, xem nhiều phim bạo lực, bị khiêu khích,
người khác nhờ đánh, chẳng vì lý do gì. Trong đó, lý do không ưa thì đánh chiếm tỉ lệ
cao nhất với nữ sinh là 38,9% và nam sinh là 23,3% và lý do chiểm tỉ lệ thấp nhất
trong số các câu trả lời của HS là xem nhiều phim bạo lực tương đương tỉ lệ ở nam là
5% và nữ là 3,1%. Lý do không ưa thì đánh chiếm tỉ lệ cao nhất được tác giả phân tích
bắt nguồn từ HS giải quyết căng thẳng về tâm lý và muốn khẳng định bản thân.
Những bài viết nêu trên có đặc điểm chung khi nghiên cứu nguyên nhân dẫn
đến BLHĐ là cùng đánh giá ở ba khía cạnh là: Gia đình, nhà trường và xã hội. Sự
đồng nhất của các tác giả là cho rằng yếu tố gia đình là quan trọng nhất gây nên hành
vi bạo lực của HS ở nhà trường. Ngoài ra, có tác giả cũng đã nhấn mạnh đến nguyên
nhân xuất phát từ truyền thông, đây cũng là điểm rất đáng chú ý khi nghiên cứu về
nguyên nhân của BLHĐ vì hiện nay tác động của truyền thông phần nào đã bộc lộ mặt
tiêu cực dẫn đến vấn đề bạo lực xã hội nói chung và trong nhà trường nói riêng.

2.3. Về hậu quả và những nhân tố tác động của bạo lực học đường
BLHĐ gia tăng trong những năm gần đây cả về hình thức, tính chất, mức độ
nguy hiểm đã để lại nhiều hậu quả xã hội tiêu cực không những cho chính người trong
cuộc mà cho cả nền giáo dục có nhiệm vụ trồng người. Nhiều nghiên cứu đã phân tích
về hậu quả và các nhân tố tác động đến hành vi BLHĐ. Sau đây là một số những

9


nghiên cứu đã thu thập được có nội dung nêu trên.
* Báo cáo của Quỹ nhi đồng Liên Hiệp Quốc (Unicef), [33] năm 2017 về tình
trạng bạo lực đối với trẻ em và thanh thiếu niên, đã nêu lên những hậu quả nghiêm
trọng của tình trạng bạo lực ở các trường học để lại. Theo báo cáo này, những hình
thức bạo lực có điểm chung là gây tác hại, có ảnh hưởng đến trẻ em, gia đình và cộng
đồng của họ. Bạo lực trong các trường học gây cản trở đáng kể cho việc đi học, kết
quả học tập thấp hơn và dẫn đến tỷ lệ bỏ học cao hơn. Tại Hoa Kỳ, vào năm 2015, 6%
HS cho biết họ không đi học ít nhất một ngày trong tháng vừa qua vì quan tâm đến sự
an toàn ở trường học, trên đường đến trường hoặc từ trường về nhà. Trong khi đó,
23% HS độ tuổi từ 13 đến 15 nói rằng đã không đến trường trong một ngày hoặc nhiều
hơn trong tháng do lo ngại về an toàn. Phân tích dữ liệu từ Ethiopia, Ấn Độ, Peru và
Việt Nam cho thấy rằng bạo lực trong trường học, bao gồm lạm dụng thể chất và lời
nói của giáo viên hoặc HS, là lý do phổ biến nhất khiến trẻ em không thích học và có
liên quan đáng kể với điểm số thấp, sự tự tin.
* Trang thông tin của Trung Tâm kiểm soát và phòng ngừa bệnh tật Hoa Kỳ
(CDC), năm 2016 [34] nêu lên hậu quả BLHĐ với sức khỏe. Bài viết đã cho biết tử
vong chỉ là một phần của vấn đề, nhiều thanh thiếu niên đã gặp phải thương tích về thể
chất do BLHĐ gây ra. Nếu là thương tích nhẹ, sẽ là vết cắt, vết thâm tím và xương bị
gãy. Các thương tích nặng như vết thương do súng đạn, chấn thương đầu, nghiêm
trọng hơn có thể dẫn đến khuyết tật vĩnh viễn. Bài viết cũng cho biết thêm các vết thương
trên cơ thể nạn nhân không phải tất cả đều có thể nhìn thấy. Thanh thiếu niên tham gia

bạo lực nói chung và bạo lực ở trường học nói riêng có thể dẫn đến một loạt các hành vi
tiêu cực bao gồm sử dụng rượu, ma túy, tự sát. Và về mặt tinh thần, hậu quả do BLHĐ để
lại như: Trầm cảm, lo lắng, sợ hãi hoặc nhiều các vấn đề tâm lý khác.
* Đề tài nghiên cứu thực nghiệm xã hội học thực hiện ở hai trường THCS
Nguyễn Huệ, Quận 4 và THPT Tạ Quang Bửu, Quận 8 Thành Phố Hồ Chí Minh, của
Nguyễn Thị Thùy, năm 2014 [25] với nội dung có đề cập đến nhận thức của HS đối
với hậu quả của BLHĐ. Qua kết quả khảo sát, người viết đã nêu lên thực tế vấn đề bạo
lực trong trường học đã và đang gây ra những hậu quả nghiêm trọng đối với chính bản
thân các em HS. Tuy vậy, nhận thức của HS lại có sự khác nhau. Có 88% HS không

10


có hành vi bạo lực nhận thức đúng về vấn đề bạo lực gây tổn hại cả về thể chất lẫn tinh
thần. Trong khi đó con số này tương đương ở các em có hành vi bạo lực chỉ là 56,9%.
Qua số liệu so sánh trên, tác giả của luận văn nêu lên vấn đề BLHĐ gia tăng một phần
nguyên do bắt nguồn từ nhận thức chưa đầy đủ của HS đối với vấn đề này.
* Khảo sát của tác giả Đinh Anh Tuấn, năm 2017 [26] tiến hành ở 496 trường
hợp là học sinh THCS và THPT của tất cả các khối, của 8 trường khác nhau trên địa
bàn thành phố Quy Nhơn, Tỉnh Bình Định đã đưa ra năm nhân tố ảnh hưởng đến
BLHĐ. Nhóm nhân tố cá nhân: xuất phát từ chính tâm lý tuổi vị thành niên, một số đã
thể hiện điều này theo khuynh hướng tiêu cực. Nhóm nhân tố gia đình: HS gây nên
BLHĐ thường từ gia đình có bố mẹ hay cãi vã, bố mẹ ly hôn hoặc con không sống
chung cùng cả bố và mẹ, dẫn đến sự chăm sóc và dạy dỗ con em có sự thiếu hụt.
Nhóm nguyên nhân từ bạn bè, tác giả cho rằng do HS bỏ học hoặc giao lưu kết bạn với
những HS cá biệt và ảnh hưởng tiêu cực từ nhóm bạn xấu. Nhân tố trường học: do nội
dung giáo dục văn hóa chiếm nhiều thời gian nhất trong hoạt động học tập của HS,
hoạt động ngoài giờ với nội dung BLHĐ gần như là không có, việc xử lý hành vi bạo
lực của nhà trường chưa thực sự hiệu quả. Đối với nhân tố môi trường xã hội: do HS xem
phim hay chơi game có nội dung bạo lực. HS không phân biệt rạch ròi giữa đời sống thực

và ảo trong phim và game. Nhiều khi giải quyết mâu thuẫn trong quá trình chơi game
bằng hành động ở ngoài, lấy mạng internet để bạo lực tinh thần đối với bạn bè.
* Bài viết của tác giả Hồng Bàng, năm 2016 [2] đã nêu lên thực trạng BLHĐ
hiện nay với các hình thức táo bạo, những thứ hung khí nguy hiểm như dao, kéo…
khiến cho khả năng gây ra thương tích đối với nạn nhân sẽ lớn hơn như: chảy máu,
tinh thần hoảng loạn, gây ra chấn động tâm lý… Tình trạng trẻ đánh nhau, sỉ nhục, rồi
quay tung lên mạng gây cho nạn nhân những sang chấn tâm lý, ảnh hưởng đến quá
trình hình thành nhân cách tự nhiên. Bài viết cũng cho thấy thực tế, người bị bạo lực
và người bạo lực đều bị tổn thương đều có những sang chấn tâm lý nhất định như ám
ảnh sợ, strees, rối loạn lo âu, trầm cảm. Nếu trẻ bị BLHĐ thì đến tuổi trưởng thành dễ
bị rối loạn nhân cách. Ví dụ như: gặp khó khăn duy trì các mối quan hệ, thường có
hành vi tiêu cực, thích dùng vũ lực để giải quyết vấn đề, tình cảm, nhận thức sai lầm
về thẩm mỹ, nghề nghiệp, giải trí, dễ nghiện hút, phạm tội…

11


* Trong cuốn sách viết về văn hóa truyền thông đại chúng ở Việt Nam của tác
giả Nguyễn Thị Thu Hương chủ biên, năm 2016 [14] đã đề cập đến nội dung truyền
thông là một nhân tố tác động đến BLHĐ. Tác giả đã nêu lên thực trạng biến đổi văn
hóa học đường trong thời kỳ truyền thông số. Xã hội càng phát triển giới trẻ ngày càng
được tiếp nhận thông tin từ nhiều hướng. Nếu không kiểm soát được việc chọn lọc
thông tin, trẻ em có thể tiếp nhận các sản phẩm văn hóa mới, trong đó có không ít
những cái xấu, độc hại, bạo lực. Chúng gây ảnh hưởng xấu đến nhận thức, làm sai lệch
quan điểm sống, hành động của các em. Các tác giả cũng cho biết việc chưa chú trọng
đúng mức tới giá trị giáo dục gia đình và nhà trường cũng là nhân tố gây ra BLHĐ ở
một bộ phận giới trẻ. Ngoài ra, tác giả còn phân tích sự xuống cấp của văn hóa học
đường khi bản thân thầy/cô trở thành tấm gương xấu trong mắt học trò và xã hội. Dẫn
chứng bằng clip sự việc cô giáo “cung bọ cạp” Phạm Nguyễn Lê Na xưng mày, tao
mắng chửi học viên được tung lên mạng.

* Công trình nghiên cứu khoa học của tác giả Đặng Quốc Thành, năm 2016
[10] đã trình bày nội dung về hậu quả của BLHĐ ở các trường phổ thông hiện nay với
bốn nhóm đối tượng bị tác động là: nạn nhân, người gây ra bạo lực, gia đình, nhà
trường và xã hội. Với các nạn nhân là những ảnh hưởng về thể chất và tinh thần, với
mức độ nhẹ là lo lắng, hoang mang, với mức độ nặng là phải chịu đau đớn, khiếm
khuyết về thân thể. Đối với người gây ra bạo lực là bị bạn bè xa lánh, học sinh gây bạo
lực hay gặp phải tệ nạn xã hội, hành vi bạo lực ở nhà trường là mầm mống cho điều
tương tự ở ngoài xã hội. Hậu quả đối với gia đình, nghiên cứu cho thấy ở cả gia đình
người bị bạo lực và người gây ra bạo lực. Cuối cùng là hậu quả đối với nhà trường và
xã hội. Với nhà trường là việc HS sợ hãi khi đến trường vì cảm giác mất an toàn, lo
lắng, giảm sút kết quả học tập và ảnh hưởng xấu đến kết quả giáo dục. Đối với xã hội
là những sai lệch về mặt hành vi, góp phần làm mất trật tự an toàn xã hội, ảnh hưởng
xấu đến thế hệ tương lai và sự phát triển quốc gia sau này.
* Nghiên cứu của hai tác giả Tài Thành và Vũ Thanh, năm 2015 [24] đã nêu lên
hai nhóm hậu quả chính của BLHĐ đó là đối với HS; gia đình, nhà trường và xã hội.
Hậu quả đối với HS: về mặt thể chất là những chấn thương, có hành vi bạo lực đã làm
mất đi vĩnh viễn cơ hội được sống của chính mình hoặc của bạn bè mình. Về mặt tinh

12


thần, người bị hại thường có dấu hiệu rối nhiễu hành vi, ảnh hưởng đến học tập, năng
khiếu, lao động, ước mơ, sở thích bản thân. Về học tập, biểu hiện lơ là, sa sút học tập,
có trường hợp bỏ học thường xuyên hoặc bỏ học vĩnh viễn. Hậu quả đến với gia đình,
nhà trường và xã hội các tác giả cho rằng BLHĐ làm ảnh hưởng đến tình cảm, hòa khí
gia đình khi cha mẹ không hiểu được con cái. Nhà trường thì hoạt động giáo dục bị
ảnh hưởng. Các cuộc họp với phụ huynh hoặc các hội đồng kỷ luật phải mở ra để giải
quyết hệ quả. Đối với xã hội, làm ảnh hưởng đến trật tự an toàn xã hội, các cuộc hội
thảo phải mở ra, nhiều lực lượng tham gia để chung tay giải quyết vấn đề xã hội này.
Ở những nghiên cứu khoa học nêu trên có điểm chung là đánh giá hậu quả và

các nhân tố tác động của BLHĐ với ba khía cạnh, đối với HS, gia đình và xã hội. Sự
khác biệt ở các nghiên cứu là cách tiếp cận vấn đề, điều này sẽ tạo cho người đọc sự
nhìn nhận hậu quả và nhân tố tác động của BLHĐ ở nhưng hướng nhìn khác nhau. Đối
với nghiên cứu của tác giả Đặng Quốc Thành ngoài những điểm chung nêu trên, còn
có đặc điểm riêng là đã nêu lên hậu quả của BLHĐ ở cả HS là nạn nhân và HS thực
hiện hành vi bạo lực, cũng như hậu quả đối với cả gia đình nạn nhân và gia đình người
thực hiện hành vi bạo lực, ở hai phần tách biệt. Điều này sẽ giúp người đọc nhìn rõ
hơn hậu quả của BLHĐ.
2.4. Một số nhận xét
Qua những công trình nghiên cứu là các cuốn sách chuyên khảo, luận văn, báo
cáo, tham luận, bài báo ở trong và ngoài nước nêu trên đã cho thấy tổng quan thực tế
của vấn đề BLHĐ trên bình diện ba góc độ là: Thực trạng, tính chất, mức độ; Nguyên
nhân; Hậu quả và các nhân tố tác động. Những tác phẩm đó cho chúng ta có cái nhìn
tổng quát về hiện tượng bạo lực trường học ở nhiều chiều cạnh. Và ở một phần riêng
biệt các công trình nghiên cứu khoa học trên khi đi vào khảo sát chuyên sâu về một nội
dung, đã vẽ lên một bức tranh rõ nét, sâu sắc về mỗi vấn đến riêng biệt này. Chẳng hạn
như khi đi vào phân tích về nhân tố tác động của bạo lực học đường thì cũng cho
chúng ta một cái nhìn tầng sâu về vấn đề này. Từ đó thấy được các nhân tố ẩn đằng
sau hành vi, sự việc bạo lực, giúp người đọc thấy được nguồn gốc sâu xa của vấn đề.
Trong các công trình nghiên cứu, cũng đã nêu lên được thực trạng về vấn đề bạo lực
học đường hiện nay. Điều này được thể hiện qua những số liệu mà các tác giả đã dẫn

13


chứng của các cơ quan, tổ chức công bố hoặc số liệu mà các tác giả đã thực hiện
nghiên cứu. Sự đa dạng trong nguồn thông tin thu thập giúp đề tài có cơ sở định hình
hướng nghiên cứu.
Các bài viết hay công trình nghiên cứu ở trên thuộc nhiều lĩnh vực như tâm lý
học, giáo dục học, truyền thông, báo cáo khoa học, xã hội học, thực hiện nghiên cứu,

đánh giá vấn đề ở nhiều góc độ khác nhau. Những nguồn tài liệu đa dạng như vậy
cũng là một thuận lợi cho việc thực hiện đề tài. Nhất là đối với nội dung nghiên cứu
chuyên sâu về nhận thức, cần tìm hiểu ở các ngành có liên quan, thì việc có được
những tài liệu như vậy sẽ giúp cho đề tài thực hiện hiệu quả hơn.
Nhìn chung, những tác phẩm trên giúp cho tác giả luận văn này có cái nhìn tổng
quan về thực trạng trạng, tính chất, nguyên nhân, hậu quả của BLHĐ đã diễn ra trong
thời gian qua ở VN; giúp tác giả có cơ sở để xây dựng mục tiêu, nội dung, câu hỏi
nghiên cứu, giả thuyết nghiên cứu, mục đích nghiên cứu… của đề tài. Những thành
tựu ở các công trình nghiên cứu là những cơ sở khoa học, nguồn tài liệu quí giá và hữu
ích cho việc thực hiện đề tài nghiên cứu này.
Tuy vậy, các tác phẩm nghiên cứu trên vẫn có những hạn chế nhất định. Thực tế
chưa có tác phẩm nào đề cập cả ba nội dung về tính chất, mức độ; nguyên nhân; hậu
quả và các nhân tố tác động của bạo lực học đường một cách đầy đủ. Các tác phẩm
chủ yếu đi sâu vào một hoặc hai nội dung cụ thể, những nội dung còn lại mang tính
tóm lược hoặc điểm qua. Thứ hai ở các công trình nghiên cứu đi sâu về vấn đề cụ thể
của BLHĐ, trong đó có một số nội dung nằm trong phạm vi đề tài thực hiện nhưng
chưa đáp ứng được kỳ vọng vì tương đối chung chung. Các nội dung chủ yếu đánh giá
khái quát, chưa có nhiều số liệu về từng vấn đề riêng biệt. Chẳng hạn nghiên cứu về
nguyên nhân của bạo lực học đường, các tác giả đã đưa ra các nguyên nhân từ học
sinh, gia đình, nhà trường, xã hội và đi vào phân tích rất cụ thể, chỉnh xác. Tuy nhiên,
những số liệu để minh chứng cho từng nội dung riêng biệt thì các nghiên cứu chưa đưa
ra. Hoặc khi phân tích về tính chất của bạo lực học đường đã nêu lên thực trạng là hiện
nay diễn biến phức tạp với nhiều hình thức và xuất hiện ở nhiều cấp học, nhưng chưa
đưa ra nhận định cụ thể ở từng cấp học, cấp nào nhiều hơn, vì sao lại như vậy.
Một số nghiên cứu tương đối ngắn, đánh giá mang tính bề rộng khiến cho việc

14


thực hiện tìm hiểu vấn đề ở chiều sâu ít nhiều có những hạn chế.

Chính vì vậy, đề tài nghiên cứu xã hội học chuyên biệt về nhận thức của học sinh
THPT với bạo lực học đường sẽ đi sâu nghiên cứu ở cả ba nội dung cụ thể là: Tính chất,
mức độ; Nguyên nhân; Hậu quả của bạo lực học đường. Đây là cơ hội để đề tài tiếp thu
tham khảo cũng như lấp đầy khoảng trống mà những nghiên cứu đi trước để lại với hai
nội dung chính là hoàn thiện khái niệm nhận thức của học sinh THPT đối với vấn đề bạo
lực học đường cũng như đi vào nghiên cứu vấn đề này ở góc độ của XHH.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu nhận thức của học sinh THPT đối với vấn đề bạo lực học đường hiện
nay. Trên cơ sở đó đề xuất một số khuyến nghị nâng cao nhận thức của học sinh, ngăn
ngừa và giảm thiểu bạo lực học đường hiện nay.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Tổng quan tài liệu nghiên cứu trong nước và quốc tế về nhận thức của học sinh
đối với vấn đề bạo lực học đường.
Xây dựng cơ sở lý luận của đề tài bao gồm các nội dung: Giải thích khái niệm
và thực hiện lựa chọn lý thuyết xã hội học phù hợp làm cơ sở nền tảng cho đề tài
nghiên cứu.
Tiến hành một cuộc khảo sát về nhận thức của học sinh THPT đối với vấn đề
bạo lực học đường hiện nay.
Phân tích kết quả khảo sát về nhận thức của học sinh THPT đối với vấn đề bạo
lực học đường hiện nay.
Nêu một số khuyến nghị nhằm phòng ngừa và giảm thiểu BLHĐ.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Nhận thức của học sinh THPT về vấn đề bạo lực học đường hiện nay trên ba nội
dung là: Tính chất – mức độ; Nguyên nhân; Hậu quả và các nhân tố tác động.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Không gian: Trường THPT Cao Bá Quát – Quốc Oai – Hà Nội.
- Thời gian: Từ tháng 11/2017 đến tháng 3/2018.


15


- Nội dung: Do hạn chế về thời gian và điều kiện thực hiện, đề tài chỉ đi sâu
nghiên cứu ba nội dung là:
+, Tính chất – mức độ của bạo lực học đường
+, Nguyên nhân của bạo lực học đường.
+, Hậu quả và các nhân tố tác động của bạo lực học đường.
4.3. Khách thể nghiên cứu
- 180 học sinh Trường THPT Cao Bá Quát – Quốc Oai – Hà Nội, trong đó
* Theo giới tính là: 90 học sinh nam và 90 học sinh nữ. Lựa chọn mẫu như vậy
nhằm tìm hiểu và so sánh nhận thức của HS nam và nữ trong tổng thể chung nhận thức
của HS. Từ đó đánh giá được nhân tố giới tác động lên nhận thức của HS về BLHĐ
như thế nào.
* Theo khối học là:
+, 60 em học sinh khối 10, với 30 nam và 30 nữ.
+, 60 em học sinh khối 11, với 30 nam và 30 nữ.
+, 60 em học sinh khối 12. với 30 nam và 30 nữ.
Lựa chọn mẫu theo khối học như trên nhằm mục đích tìm hiểu nhận thức của
HS phân chia theo lứa tuổi và từ đó thấy được nhận thức của HS chuyển biến qua các
tuổi như thế nào. Qua đó cũng đánh giá được nhân tố về tuổi tác động lên nhận thức
của HS về BLHĐ. Trong mỗi khối học cũng lựa chọn mẫu theo giới với sự phân chia
số lượng tương đường nhau nhằm so sánh nhận thức của HS nam và nữ trong một độ
tuổi cụ thể.
- Ngoài ra, để làm rõ hơn nội dung nghiên cứu của đề tài, thực hiện phỏng vấn
sâu: 05 giáo viên, 05 phụ huynh HS, 05 HS. Lựa chọn mẫu như vậy để làm rõ nội
dung nghiên cứu từ chính HS, phụ huynh và giáo viên là những người luôn theo sát và
giáo dục HS sẽ nắm bắt nhận thức HS rõ ràng nhất.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận

Để thực hiện nghiên cứu, đề tài thực hiện phương pháp luận kết hợp nghiên cứu
lý luận và điều tra thực tiễn.
Đối với nghiên cứu lý luận là các hình thức phân tích những tài liệu có sẵn có

16


nội dung liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài. Trước hết là nghiên cứu hai
thuyết xã hội học là thuyết hành động xã hội và thuyết xã hội hóa. Từ những lý thuyết
này mà có cơ sở để vận dụng và đi vào nghiên cứu những nội dung đề tài đã được định
hình. Sau những lý thuyết xã hội học là những nghiên cứu trong và ngoài nước đã
được các công bố, đây chính là nguồn tài liệu hữu ích để tham khảo để làm cơ sở đưa
ra những câu hỏi nghiên cứu, đặt giả thuyết nghiên cứu và sau đó là nghiên cứu đề tài.
Đề tài thực hiện nghiên cứu lý luận để làm cơ sở nghiên cứu thực tiễn và ngược
lại khi đi vào nghiên cứu thực tiễn sẽ là căn cứ để kiểm chứng các lý thuyết trong
thực tế có đúng đắn không, có phù hợp hay không. Trong nghiên cứu thực nghiệm đề
tài thực hiện tổng hợp các phương pháp: Điều tra bảng hỏi, phỏng vấn sâu, quan sát,
phân tích số liệu và nội dung. Các phương pháp áp dụng làm sáng tỏ nội dung nghiên
cứu và hướng đến hoàn thiện đề tài.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Câu hỏi nghiên cứu
Học sinh THPT có nhận thức như thế nào về tính chất, mức độ, nguyên nhân và
hậu quả của vấn đề bạo lực học đường hiện nay ?
Những nhân tố nào tác động đến nhận thức của học sinh về vấn đề bạo lực học đường ?
5.2.2. Giả thuyết nghiên cứu
Học sinh THPT nhận thức khá rõ ràng về tính chất, mức độ của BLHĐ, các em
nắm bắt được hành vi, hình thức, chủ thể gây ra hành vi bạo lực, cũng như nhận thức
được sự gia tăng và nguy hiểm của BLHĐ. Tuy nhiên, HS nhận thức chưa đầy đủ các
dạng bạo lực. HS nhận thức khá rõ về nguyên nhân gây ra BLHĐ, các em nhận định
tâm lý tuổi vị thành niên là một trong các nguyên nhân chính gây ra hành vi bạo lực ở

trường học. HS nhận thức được hậu quả tiêu cực của vấn đề BLHĐ đối với bản thân
HS ở các yếu tố về sức khỏe và học tập.
Giới tính, tuổi, hoàn cảnh gia đình, truyền thông đại chúng, môi trường xã hội
là những nhân tố có tác động đến nhận thức của học sinh THPT về bạo lực học đường.
5.2.3. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi: Sử dụng bảng hỏi phỏng vấn 180 học sinh
THPT.

17


-Phương pháp phỏng vấn cá nhân: Phỏng vấn sâu 05 giáo viên, 05 phụ huynh
học sinh, 05 học sinh THPT.
Phương pháp quan sát: Những nơi hoc sinh chơi đùa và quan sát thái độ, hành
vi, ngôn ngữ, hành vi của học sinh khi giải quyết những mâu thuẫn gặp phải trong
trường học.
Phương pháp nghiên cứu tài liệu: nghiên cứu những tài liệu có sẵn với nội dung
có liên quan đến nội dung nghiên cứu của đề tài.
5.2.4. Khung phân tích

(yếu tố vĩ mô)
-CNH, HĐH, KTTT, HNQT
- Chính sách giáo dục

NHẬN THỨC
CỦA HỌC SINH
THPT VỚI VẤN
ĐỀ BẠO LỰC
HỌC ĐƯỜNG


- Giới
- Nhóm tuổi
- Hoàn cảnh
gia đình


- Môi trường xã hội
- Truyền thông đại chúng
- Nhóm bạn

Tính chất,
mức độ của
bạo lực học
đường

Nguyên nhân
của bạo lực
học đường

Hậu quả của
bạo lực học
đường

6.Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Góp phần hoàn thiện khái niệm nhận thức của học sinh THPT với vấn đề bạo
lực học đường hiện nay.
Vận dụng một số lý thuyết xã hội học để thực hiện đề tài, từ đó kiểm chứng tính
ứng dụng của các lý thuyết xã hội học này trong thực tế xã hội Việt Nam hiện nay.


18


×