VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
PHẠM THỊ ĐÀO
ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM
PHẠM TÍNH MẠNG, SỨC KHỎE CỦA CON NGƢỜI
TỪ THỰC TIỄN TỈNH HẢI DƢƠNG
Ngành: Luật hình sự và Tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04
LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC
PGS.TS. TRẦN ĐÌNH NHÃ
HÀ NỘI - 2018
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
công bố trong bất kỳ công trình nào khác.
Tác giả
Phạm Thị Đào
MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ......................................................................................................................... 1
Chƣơng 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ÁP DỤNG
HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM TÍNH MẠNG, ............................. 6
SỨC KHỎE CỦA CON NGƢỜI ................................................................................. 6
1.1. Những vấn đề lý luận về áp dụng hình phạt đối với các tội xâm phạm tính
mạng, sức khỏe của con người ........................................................................................ 6
1.2. Quy định của Bộ luật hình sự về áp dụng hình phạt đối với các tội xâm phạm
tính mạng, sức khỏe của con người ............................................................................... 15
1.3. Những yếu tố tác động đến chất lượng áp dụng hình phạt đối với các tội xâm
phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người ................................................... 25
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM
PHẠM TÍNH MẠNG, SỨC KHỎE CỦA CON NGƢỜI TỪ THỰC TIỄN XÉT
XỬ TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH HẢI DƢƠNG ............................................................... 28
2.1. Khái quát đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội, dân cư tỉnh Hải Dương .................. 28
2.2. Thực trạng áp dụng hình phạt đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe
của con người trên địa bàn tỉnh Hải Dương ................................................................. 29
2.3. Một số bất cập hạn chế trong áp dụng hình phạt đối với các tội xâm phạm tính
mạng, sức khỏe của con người và nguyên nhân ........................................................... 50
Chƣơng 3: MỘT SỐ YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ ÁP
DỤNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM TÍNH MẠNG, SỨC
KHỎE CỦA CON NGƢỜI ........................................................................................ 63
3.1. Một số yêu cầu cần đảm bảo trong áp dụng hình phạt đối với các tội xâm phạm
tính mạng, sức khỏe của con người. .............................................................................. 63
3.2. Các giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt đối với các tội xâm phạm
tính mạng, sức khỏe của con người trên địa bàn tỉnh Hải Dương ................................ 65
KẾT LUẬN .................................................................................................................. 79
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................... 81
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1. Kết quả thụ lý, xét xử các tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe của
con người trên địa bàn tỉnh Hải Dương (2013 - 2017). .............................. 29
Bảng 2.2. Loại và mức hình phạt được áp dụng đối với các tội xâm phạm tính
mạng, sức khỏe của con người của trên địa bàn tỉnh Hải Dương (2013 2017). .......................................................................................................... 31
Bảng 2.3. Mức hình phạt áp dụng đối với tội giết người trên địa bàn tỉnh Hải Dương
(2013 - 2017). ............................................................................................. 33
Bảng 2.4. Mức hình phạt áp dụng đối với tội giết con mới đẻ trên địa bàn tỉnh Hải
Dương (2013 - 2017). ................................................................................. 34
Bảng 2.5. Mức hình phạt áp dụng đối với tội giết người trong trạng thái tinh thần bị
kích động mạnh trên địa bàn tỉnh Hải Dương (2013 - 2017). .................... 34
Bảng 2.5. Mức hình phạt áp dụng đối với tội giết người do vượt quá giới hạn phòng
vệ chính đáng trên địa bàn tỉnh Hải Dương (2013 - 2017). ........................ 35
Bảng 2.6. Mức hình phạt áp dụng đối với tội làm chết người trong khi thi hành công
vụ trên địa bàn tỉnh Hải Dương (2013 - 2017). .......................................... 36
Bảng 2.7. Mức hình phạt áp dụng đối với tội vô ý làm chết người trên địa bàn tỉnh
Hải Dương (2013 - 2017). .......................................................................... 37
Bảng 2.8. Mức hình phạt áp dụng đối với tội vô ý làm chết người do vi phạm quy
tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính trên địa bàn tỉnh Hải Dương
(2013 - 2017). ............................................................................................. 38
Bảng 2.8. Mức hình phạt áp dụng đối với tội bức tử trên địa bàn tỉnh Hải Dương
(2013 - 2017). ............................................................................................. 39
Bảng 2.9. Mức hình phạt áp dụng đối với tội xúi giục hoặc giúp người khác tự giác
trên địa bàn tỉnh Hải Dương (2013 - 2017). ............................................... 40
Bảng 2.10. Mức hình phạt áp dụng đối với tội không cứu giúp người đang ở trong
tình trạng nguy hiểm đến tính mạng trên địa bàn tỉnh Hải Dương (2013 2017). .......................................................................................................... 41
Bảng 2.11. Mức hình phạt áp dụng đối với tội đe dọa giết người trên địa bàn tỉnh
Hải Dương (2013 - 2017). .......................................................................... 42
Bảng 2.12. Mức hình phạt áp dụng đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Hải Dương (2013 - 2017) 43
Bảng 2.13. Mức hình phạt áp dụng đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động
mạnh trên địa bàn tỉnh Hải Dương (2013 - 2017). ..................................... 44
Bảng 2.14. Mức hình phạt áp dụng đối với tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng
trên địa bàn tỉnh Hải Dương (2013 - 2017). ............................................... 45
Bảng 2.15. Mức hình phạt áp dụng đối với tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho
sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ trên địa bàn tỉnh Hải
Dương (2013 - 2017). ................................................................................. 46
Bảng 2.16. Mức hình phạt áp dụng đối với tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác trên địa bàn tỉnh Hải Dương (2013 - 2017). 47
Bảng 2.17. Mức hình phạt áp dụng đối với tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại
cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy
tắc hành chính trên địa bàn tỉnh Hải Dương (2013 - 2017). ....................... 48
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ADHP
Áp dụng hình phạt
ADPL
Áp dụng pháp luật
ADPLHS
Áp dụng pháp luật hình sự
BLHS
Bộ luật hình sự
BLTTHS
Bộ luật tố tụng hình sự
HĐXX
Hội đồng xét xử
HSST
Hình sự sơ thẩm
QĐHP
Quyết định hình phạt
TNHS
Trách nhiệm hình sự
TAND
Tòa án nhân dân
HTND
Hội thẩm nhân dân
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hình phạt là một phạm trù pháp lý và xã hội phức tạp, mang tính khách
quan, gắn liền với sự xuất hiện của nhà nước và pháp luật, vì thế nó được nghiên
cứu trong nhiều lĩnh vực khoa học xã hội khác nhau như triết học, thần học, giáo
dục học, đạo đức học, tâm lý học, tội phạm học. Trong lĩnh vực khoa học Luật hình
sự, quy định hình phạt là một trong những đối tượng nghiên cứu chủ yếu hết sức
quan trọng nhằm đó làm sáng tỏ việc áp dụng hình phạt trong từng tội phạm cụ thể.
Áp dụng hình phạt là một vấn đề quan trọng trong hoạt động xét xử của Tòa
án. Việc áp dụng hình phạt đúng sẽ mang lại hiệu quả tích cực trong công cuộc đấu
tranh phòng, chống tội phạm; đồng thời nó mang lại niềm tin cho nhân dân đối với
công tác xét xử của Tòa án; ngược lại nếu việc áp dụng pháp luật chưa chính xác sẽ
để lại nhiều hậu quả tiêu cực về mọi mặt của xã hội.
Trong những năm gần đây, trên địa bàn tỉnh Hải Dương, các loại tội phạm
xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe của con người có xu hướng gia tăng và diễn
biến phức tạp ảnh hưởng không nhỏ đến tình hình an ninh trật tự, phát triển kinh tế
xã hội và đời sống của người dân. Từ thực tiễn áp dụng hình phạt của Tòa án nhân
dân hai cấp tỉnh Hải Dương đã góp phần đáng kể vào công tác đấu tranh phòng,
chống tội phạm nói chung của cả nước. Bên cạnh những mặt đã đạt được thì việc áp
dụng hình phạt đối với các tội phạm này trên địa bàn tỉnh Hải Dương cũng còn bất
cập, hạn chế trong việc xác định các tình tiết của vụ án, việc ra các quyết định áp
dụng hình phạt chưa chính xác, hạn chế trong tổng hợp hình phạt và hạn chế trong
các trường hợp cụ thể đã làm ảnh hưởng chung tới kết quả đầu tranh phòng, chống
tội phạm, làm giảm lòng tin của quần chúng nhân dân đối với hệ thống Tòa án.
Trước thực tế đó, việc nghiên cứu một cách khoa học và nghiêm túc, chỉ ra
những tồn tại, vi phạm, phân tích các nguyên nhân và đề ra các giải pháp để đảm bảo
áp dụng hình phạt đúng đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người
trong hoạt động xét xử của Tòa án trên địa bàn tỉnh Hải Dương, nhằm nâng cao hiệu
quả công tác đấu tranh phòng chống tội phạm là đòi hỏi mang tính cấp thiết.
1
Chính vì lý do đó mà học viên chọn Đề tài "Áp dụng hình phạt đối với các
tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người từ thực tiễn tỉnh Hải Dương" để
nghiên cứu làm luận văn thạc sĩ là hết sức cần thiết cả về lý luận và thực tiễn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Theo khảo sát của tác giả đã có nhiều công trình nghiên cứu về việc áp dụng
hình phạt đối với các nhóm tội, từ lý luận chung của khoa học Luật hình sự cũng
như tình hình nghiên cứu cụ thể, như: Th.s Nguyễn Mai Bộ có công trình bình luận
khoa học BLHS năm 1999 (phần các tội phạm) do Nxb chính trị quốc gia xuất bản
năm 2011; Th.s Đinh Văn Quế - bình luận khoa học Bộ luật hình sự năm 1999;
phần các tội phạm, tập IV Các tội phạm xâm phạm tính mạng, sức khỏe, Nxb Tổng
hợp, TP.HCM năm 2001; TS Cao Thị Oanh - Giáo trình luật hình sự Việt Nam
(phần các tội phạm), Nxb giáo dục, năm 2010; Các bài viết về những vấn đề lý luận
và thực tiễn áp dụng hình phạt theo luật hình sự Việt Nam đăng tải trên Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật; tạp chí Tòa án nhân nhân dân, Công an nhân dân, tạp chí Kiểm
sát trong những năm gần đây. Đối với tình hình nghiên cứu thực tế; đã có một số
công trung nghiên cứu đã tập trung vào áp dụng hình phạt, cụ thể như sau: Luận văn
thạc sĩ luật học đã nghiên cứu về áp dụng hình phạt như: "Quyết định hình phạt đối
với người chưa thành niên phạm tội" của tác giả Trần Đức Ninh bảo vệ năm 2013
của Học viện khoa học xã hội; tác giả Phạm Thị Nga với đề tài "Tình tiết giảm nhẹ
trách nhiệm hình sự trong việc định tội danh và áp dụng hình phạt" bảo vệ tại Đại
học Luật Hà Nội năm 2004; tác giả Phạm Đình Dũng đã bảo vệ đề tài "Căn cứ áp
dụng hình phạt: Những vấn đề lý luận và thực tiễn" bảo vệ tại Khoa luật Đại học
Quốc Gia Hà Nội năm 2006; tác giả Nguyễn Thị Bình bảo vệ năm 2010 với đề tài
"Quyết định hình phạt trong đồng phạm".
Các công trình nghiên cứu trên rất có giá trị để luận văn có thể kế thừa thông
tin, số liệu, đối chứng, ý tưởng nghiên cứu mà vẫn không bị trùng lặp vì có sự khác
nhau về các yếu tố như: Cách tiếp cận vấn đề nghiên cứu, thời gian nghiên cứu,
không gian nghiên cứu. Nhưng cho đến nay, chưa có công trình nào nghiên cứu về
"Áp dụng hình phạt đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người từ
2
thực tiễn tỉnh Hải Dương". Do vậy, công trình nghiên cứu này không trùng lặp với
bất kỳ công trình nghiên cứu nào trước đây.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu.
Luận văn nhằm bổ sung thêm những vấn đề lý luận về áp dụng hình phạt đối
với các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người; cung cấp thêm những
thông tin về thực trạng áp dụng hình phạt trên cả nước nói chung và trên địa bàn
tỉnh Hải Dương nói riêng. Những vấn đề bất cập, vướng mắc trong thực tiễn áp
dụng các quy định của Bộ luật hình sự trên địa bàn tỉnh Hải Dương từ năm 2013 2017; từ đó đề xuất một số kiến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật về loại
tội phạm này; giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt nói chung và đối với
các tội xâm phạm tính mạng sức khỏe của con người được đúng và chính xác.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Làm rõ những vấn đề lý luận và các quy định pháp luật về áp dụng hình
phạt đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người.
- Đánh giá thực trạng áp dụng hình phạt đối với các tội xâm phạm tính mạng,
sức khỏe của con người từ thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
- Đưa ra một số yêu cầu và đề xuất giải pháp đảm bảo áp dụng hình phạt
đúng đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu.
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là những vấn đề lý luận, các quy định
của pháp luật về áp dụng hình phạt và thực tiễn áp dụng hình phạt đối với các tội
xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người từ hoạt động xét xử trên địa bàn tỉnh
Hải Dương.
4.2. Phạm vi nghiên cứu.
Về thời gian: Số liệu nghiên cứu đề tài được giới hạn từ số liệu xét xử sơ
thẩm của Tòa án nhân dân hai cấp tỉnh Hải Dương, từ năm 2013 đến năm 2017 về
các tội xâm phạm, tính mạng sức khỏe của con người
3
Về cơ sở pháp lý: Luận văn nghiên cứu BLHS năm 1999, sửa đổi, bổ sung
năm 2009 và những điểm mới của BLHS năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017.
Về không gian: Đề tài luận văn được thực hiện trên phạm vi tỉnh Hải
Dương.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận.
Đề tài được nghiên cứu là dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng Mác - xít, Tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm của Đảng và Nhà nước về bảo vệ tính mạng, sức khỏe con người, về
chính sách hình sự, về cải cách tư pháp.
5.2. Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu cụ thể như: Phương pháp lịch
sử; phương pháp so sánh; phương pháp phân tích; phương pháp tổng hợp; phương
pháp nghiên cứu những vụ án điển hình; phương pháp thống kê, tổng hợp. Để hoàn
thành mục đích nghiên cứu tác giả vận dụng kết hợp giữa các phương pháp trong
từng nội dung của đề tài, trong đó phương pháp thống kê và phương pháp so sánh là
những phương pháp được sử dụng nhiều nhất trong đề tài này.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận của luận văn
Kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần hoàn thiện lý luận về hành vi xâm
phạm tính mạng, sức khỏe trong khoa học hình sự Việt Nam. Luận văn góp tiếng
nói khoa học về lý luận áp dụng hình phạt và kiểm chứng thông qua thực tiễn hoạt
động xét xử trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn của luận văn.
Đề tài này sẽ góp phần làm rõ những bất cập, hạn chế và nguyên nhân của
thực tiễn áp dụng hình phạt đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con
người trên địa bàn tỉnh Hải Dương. Những đề xuất, kiến nghị của luận văn có thể
phục vụ tốt hơn cho công tác lập pháp và hoạt động, áp dụng BLHS liên quan đến
nhóm tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người trong công tác đấu tranh và
phòng, chống tội phạm trên cả nước nhất là đối với địa bàn tỉnh Hải Dương. Ngoài
4
ra, luận văn còn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, học tập về
áp dụng hình phạt.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được cơ
cấu thành 03 chương.
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về áp dụng hình phạt đối với
các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người.
Chương 2: Thực trạng áp dụng hình phạt đối với các tội xâm phạm tính
mạng, sức khỏe của con người từ thực tiễn xét xử trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp nâng cao hiệu quả áp dụng hình phạt đối
với các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người.
5
Chƣơng 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ÁP DỤNG HÌNH PHẠT
ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM TÍNH MẠNG,
SỨC KHỎE CỦA CON NGƢỜI
1.1. Những vấn đề lý luận về áp dụng hình phạt đối với các tội xâm phạm tính
mạng, sức khỏe của con ngƣời.
1.1.1. Khái niệm, đặc điểm của áp dụng hình phạt đối với các tội xâm
phạm tính mạng, sức khỏe của con người.
1.1.1.1. Các khái niệm có liên quan
Khái niệm về hình phạt:
Trong lĩnh vực khoa học Luật hình sự, hình phạt là một trong những đối
tượng nghiên cứu chủ yếu. Đã có rất nhiều nhà khoa học đưa ra hai loại quan điểm
khác nhau về hình phạt; Loại thứ nhất, coi hình phạt là công cụ trừng trị, trả thù
người phạm tội, lấy sự khắc nghiệt của hình phạt làm điều răn cho người phạm tội;
còn loại quan điểm thứ hai, coi hình phạt là công cụ pháp lý cần thiết để đấu tranh
phòng, chống tội phạm, cải tạo giáo dục người phạm tội.
Theo GS.TS Võ Khánh Vinh quan niệm "Hình phạt là biện pháp cưỡng chế
nghiêm khắc nhất do luật quy định, được Tòa án nhân dân nhân danh Nhà nước
quyết định trong bản án đối với người có lỗi trong việc thực hiện tội phạm và được
thể hiện ở việc tước đoạt hoặc hạn chế các quyền và lợi ích do pháp luật quy định
đối với người bị kết án". [7.tr .26]. Còn GS.TS Nguyễn Ngọc Hòa thì định nghĩa:
"Hình phạt là biện pháp cưỡng chế Nhà nước nghiêm khắc nhất quy định trong
LHS, do Tòa án áp dụng cho chính người đã thực hiện tội phạm, nhằm trừng trị và
giáo dục họ, góp phần vào việc đấu tranh phòng và chống tội phạm, bảo vệ chế độ
và trật tự xã hội cũng như các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân". [9. tr. 24].
Theo quy định tại Điều 26 BLHS năm 1999 "Hình phạt là biện pháp cưỡng
chế nghiêm khắc nhất của Nhà nước nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền, lợi ích của
người phạm tội. Hình phạt được quy định trong BLHS và do Tòa án quyết định".
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử lập pháp nước ta đưa khái niệm hình phạt vào
6
BLHS. Việc quy định khái niệm hình phạt trong LHS có ý nghĩa đảm bảo nhận thức
thống nhất về hình phạt trong pháp luật Hình sự. Đến BLHS năm 2015, Nhà nước ta
xác định người phạm tội không chỉ là cá nhân mà còn có cả pháp nhân thương mại
nên khái niệm về hình phạt cũng được sửa đổi so với BLHS năm 1999. Tại Điều 30
BLHS năm 2015 quy định: "Hình phạt là biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc nhất
của Nhà nước được quy định trong Bộ luật này, do Tòa án quyết định áp dụng đối
với người hoặc pháp nhân thương mại phạm tội nhằm tước bỏ hoặc hạn chế quyền,
lợi ích của người, pháp nhân thương mại đó".
Trên cơ sở các quan điểm của các nhà khoa học và các quy định trong BLHS
thì khái niệm về hình phạt ở nước ta được thể hiện thống nhất theo tư tưởng tiến bộ
và nhân đạo của hình phạt. Từ đó, có thể khái quát khái niệm về hình phạt như sau:
Hình phạt là biện pháp cưỡng chế Nhà nước nghiêm khắc nhất, được quy định trong
LHS, do Tòa án nhân danh Nhà nước tuyên trong bản án kết tội đã có hiệu lực pháp
luật đối với chính cá nhân, pháp nhân thương mại có lỗi trong việc thực hiện tội
phạm, tước bỏ hoặc hạn chế những quyền và lợi ích nhất định của cá nhân, pháp
nhân thương mại nhằm cải tạo, giáo dục người phạm tội và mang tính chất phòng
ngừa chung.
Khái niệm về áp dụng hình phạt:
Áp dụng pháp luật là một trong các hình thức thực hiện pháp luật, vừa có
những đặc điểm chung như các dạng thực hiện pháp luật khác, vừa có những đặc
điểm riêng của mình. Nội dung của áp dụng pháp luật bao gồm: Xác định sự kiện
pháp lý cần áp dụng pháp luật; Nhận thức quy định của pháp luật áp dụng; So sánh
sự phù hợp giữa quy định pháp luật áp dụng và sự kiện pháp lý để xác định quy
phạm pháp luật cần áp dụng; Ra quyết định áp dụng pháp luật.
Trong khoa học pháp lý nước ta, khái niệm áp dụng hình phạt rất ít được sử
dụng; mà thay vào đó là khái niệm quyết định hình phạt. Nhiều nhà khoa học quan
niệm áp dụng hình phạt và quyết định hình phạt là một. PGS.TS Nguyễn Ngọc Chí
đã đưa ra định nghĩa như sau: "Áp dụng hình phạt là việc nhận thức và áp dụng
pháp luật hình sự do Tòa án có thẩm quyền, nhân danh Nhà nước thực hiện sau khi
đã định tội danh và tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể để quyết định khung hình
7
phạt, loại hình phạt (hình phạt chính, hình phạt bổ sung), mức hình phạt cụ thể áp
dụng cho cá nhân người phạm tội trong phạm vi giới hạn của khung hình phạt do
luật định, phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm
tội; hoặc miễn hình phạt cho người phạm tội theo quy định của Bộ luật hình sự" [3.
tr 19]. Định nghĩa tương tự cũng được đưa ra trong các công trình nghiên cứu khác.
Theo khái niệm trên thì áp dụng hình phạt vẫn còn thiếu những dấu hiệu đặc
trưng của áp dụng pháp luật nói chung. Áp dụng hình phạt là một giai đoạn áp dụng
pháp luật hình sự do Tòa án tiến hành sau khi thực hiện định tội danh, áp dụng chế
tài quy phạm pháp luật hình sự đối với người bị kết tội theo trình tự, thủ tục mà
pháp luật tố tụng hình sự quy định.
Từ những quan niệm trên, có thể định nghĩa: Áp dụng hình phạt là hoạt động
nhận thức và áp dụng pháp luật hình sự, do Tòa án có thẩm quyền (Hội đồng xét
xử), nhân danh Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện sau khi đã
định tội danh và tùy thuộc vào từng trường hợp để quyết định khung hình phạt, loại
hình phạt (hình phạt chính, hình phạt bổ sung), mức hình phạt cụ thể áp dụng cho
chính người phạm tội trong phạm vi giới hạn của khung hình phạt do luật định, phù
hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội, hoặc miễn
hình phạt cho người phạm tội theo quy định của BLHS.
Khái niệm về các tội xâm phạm tính mạng, sức khoẻ con người:
Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người được quy định tại
Chương XII BLHS năm 1999, đã có nhiều công trình nghiên cứu và bài viết của các
nhà khoa học nghiên cứu về các tội này.
Theo Bình luận khoa học BLHS năm 1999 (Nhà xuất bản Công an nhân dân
của nhiều tác giả, năm 2002), Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm,
danh dự con người là những hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có năng lực
trách nhiệm hình sự thực hiện, có lỗi, gây tổn hại hoặc đe dọa gây tổn hại đến quyền
sống, quyền được bảo hộ về sức khỏe, nhân phẩm, danh dự của con người.
Theo giáo trình luật hình sự Việt Nam (trường Đại học Luật Hà Nội năm
2003): Tội phạm xâm phạm tính mạng sức khỏe của con người là những hành vi
8
hành động hoặc không hành động, có lỗi (vô ý hoặc cố ý) xâm phạm đến quyền
được tôn trọng, bảo vệ về sức khỏe và tính mạng.
Từ những kết quả trên, có thể đưa ra định nghĩa: Các tội xâm phạm tính
mạng, sức khỏe của con người là những hành vi nguy hiểm cho xã hội do người có
năng lực TNHS thực hiện một cách cố ý hoặc vô ý gây thiệt hại hoặc đe dọa gây
thiệt hại về quyền được sống, quyền được bảo hộ về sức khỏe của con người.
Khái niệm về áp dụng hình phạt đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức
khỏe của con người:
Từ khái niệm áp dụng hình phạt đến khái niệm về các tội xâm phạm tính
mạng, sức khỏe của con người, có thể hiểu về áp dụng hình phạt đối với các tội xâm
phạm tính mạng, sức khỏe của con người như sau:
"Áp dụng hình phạt đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con
người là hoạt động của Tòa án có thẩm quyền (Hội đồng xét xử) nhân danh Nhà
nước trên cơ sở xác định các tình tiết của vụ án về tội xâm phạm tính mạng, sức
khỏe của con người đã được định tội danh, căn cứ vào quy định của BLHS về áp
dụng hình phạt (hệ thống hình phạt, các quy định chung về áp dụng hình phạt, chế
tài các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người) để lựa chọn loại và mức
hình phạt được quy định trong chế tài các tội phạm đó để quyết định áp dụng đối
với người bị kết tội hoặc miễn hình phạt cho người phạm tội theo quy định của
BLHS. "
1.1.1.2. Đặc điểm áp dụng hình phạt đối với các tội xâm phạm tính mạng,
sức khỏe của con người.
Qua việc nghiên cứu các khái niệm trên và đặc điểm của áp dụng hình phạt
nói chung, chúng tôi nêu cụ thể hơn các đặc điểm của áp dụng hình phạt đối với các
tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người có các đặc điểm như sau:
+ Thứ nhất: Áp dụng hình phạt là hoạt động chỉ thuộc thẩm quyền của Tòa
án và có quan hệ chặt chẽ với hoạt động định tội danh. Nếu như quá trình định tội
danh diễn ra trong suốt quá trình tố tụng hình sự do cả Cơ quan điều tra, Viện kiểm
sát và Tòa án thực hiện, thì hoạt động áp dụng hình phạt chỉ duy nhất Tòa án được
quyền thực hiện nhân danh Nhà nước. Là chủ thể duy nhất có quyền xác định loại
9
hình phạt và mức hình phạt để áp dụng với người phạm tội nên hoạt động này chỉ
thông qua phiên tòa khi Tòa án thực hiện chức năng xét xử của mình.
+ Thứ hai: Hoạt động áp dụng hình phạt đòi hỏi sự tuân thủ các căn cứ và
nguyên tắc trong quá trình áp dụng. Điều này được thể hiện trực tiếp trong Bộ luật
hình sự hoặc thể hiện trong tinh thần của các điều luật. Bộ luật hình sự quy định về
các căn cứ để Tòa án áp dụng hình phạt, tức là các tiêu chí mà dựa vào đó, Tòa án
sẽ đưa ra loại hình phạt và mức hình phạt phù hợp với trường hợp cụ thể của mỗi bị
cáo, trên cơ sở đánh giá tổng thể các yếu tố về khách quan, chủ quan, về con người,
tâm lý... với mục đích đạt được là hình phạt đó sẽ không chỉ là "cái giá" mà các bị
cáo phải gánh chịu do hành vi phạm tội của mình, mà còn là "cơ hội" để bị cáo đó
sửa chữa, cải tạo nhằm hòa nhập cộng đồng, trở thành người công dân có ích cho
gia đình và xã hội. Việc áp dụng hình phạt có vai trò vô cùng quan trọng đối với
công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm. Do vậy, đòi hỏi người được Nhà nước
trao quyền phải có sự hiểu biết sâu sắc về pháp luật, hiểu biết về các yếu tố, tình tiết
liên quan đến từng trường hợp phạm tội và người phạm tội mới có thể đưa ra một
quyết định (bản án) có giá trị pháp lý cũng như giá trị nhân văn cao.
+ Thứ ba: Quá trình áp dụng pháp luật của Tòa án có quyền lựa chọn và tính tùy
nghi cao. Trong từng điều luật của các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con
người đều quy định về hình phạt có tính lựa chọn giữa hình phạt tù có thời hạn với tù
chung thân, tử hình (đối với các tội đặc biệt nghiêm trọng). Khi áp dụng Tòa án lựa
chọn một trong những hình phạt chính được quy định đối với người bị kết tội.
Ngoài chế tài lựa chọn, các chế tài quy định về từng loại hình phạt đều có
một khoảng tùy nghi nhất định và Tòa án có quyền quyết định mức cụ thể trong
phạm vi tùy nghi đó.
Khả năng lựa chọn rộng, tùy nghi cao đòi hỏi Thẩm phán, Hội thẩm nhân
dân phải có trình độ, năng lực, bản lĩnh chính trị, nghề nghiệp vững vàng và lương
tâm, đạo đức trong sáng vì công lý...để trong từng trường hợp cụ thể lựa chọn hình
phạt áp dụng đối với người phạm tội cho phù hợp.
10
1.1.2. Phân loại áp dụng hình phạt đối với các tội xâm phạm tính mạng,
sức khỏe của con người.
1.1.2.1. Áp dụng hình phạt chính đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức
khỏe của con người
Điều 28 Bộ luật hình sự năm 1999 xác định mục đích của hình phạt: "Hình
phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo dục họ trở thành người
có ích cho xã hội, có ý thức tuân thủ theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã
hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người
khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng và chống tội phạm".
Điều 21 Bộ luật hình sự năm 1999 phân chia hệ thống hình phạt thành hai
nhóm, trong đó hình phạt chính bao gồm: Cảnh cáo, phạt tiền, cải tạo không giam
giữ, trục xuất, tù có thời hạn, tù chung thân, tử hình.
Các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người được quy định trong
Bộ luật hình sự năm 1999 gồm có 17 điều luật, trong đó có 6 điều quy định về hình
phạt bổ sung. Mức hình phạt cao nhất là tử hình.
Bộ luật hình sự Việt Nam không có quy phạm định nghĩa về hình phạt chính.
Tuy nhiên nhiều nhà khoa học đã đưa ra các quan điểm khác nhau về hình phạt chính,
như "Hình phạt chính là hình phạt được tuyên độc lập đối với một tội phạm nhất định".
Từ quan điểm của các nhà khoa học, có thể đưa ra khái niệm hình phạt
chính: "Là hình phạt cơ bản được áp dụng cho một loại tội phạm và được tuyên độc
lập với mỗi tội phạm, Tòa án chỉ có thể tuyên án độc lập một hình phạt chính".
Như vậy, hình phạt chính là hình phạt cơ bản được quy định trong mỗi điều
luật. Một tội phạm chỉ được áp dụng một hình phạt chính. Đối với các tội xâm phạm
tính mạng sức khỏe của con người, Tòa án chỉ được áp dụng một hình phạt chính là
cải tạo không giam giữ, tù có thời hạn, chung thân hoặc tử hình. Các hình phạt này
được tuyên độc lập với nhau. Trong một tội phạm không thể có hai hình phạt chính.
1.1.2.1. Áp dụng hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức
khỏe của con người
Hình phạt bổ sung được quy định trong một số điều luật cụ thể về các tội
xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người. Mặc dù, trong Bộ luật hình sự Việt
11
Nam chưa có quy phạm định nghĩa thế nào là hình phạt bổ sung, tuy nhiên trong
quá trình nghiên cứu, một số nhà khoa học đã đưa ra các quan điểm khác nhau về
hình phạt bổ sung, như: "Hình phạt bổ sung là hình phạt được bổ sung thêm cho
hình phạt chính và không được tuyên độc lập mà chỉ có thể kèm theo một hình phạt
chính. Tùy theo từng trường hợp cụ thể của vụ án, kèm theo một hình phạt chính
Tòa án có thể tuyên một hoặc một vài hình phạt bổ sung" hoặc có quan điểm cho
rằng: "Hình phạt bổ sung là một trong những biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của
Nhà nước, được quy định trong BLHS, do Tòa án có thể hoặc bắt buộc áp dụng kèm
theo hình phạt chính đối với người bị kết án về một tội phạm cụ thể mà luật định,
được thể hiện ở việc hạn chế một số quyền, lợi ích của họ nhằm bổ sung cho hình
phạt chính trong việc đạt được mục đích của hình phạt". Từ những quan điểm trên
của các nhà khoa học, có thể hiểu hình phạt bổ sung như sau: Hình phạt bổ sung là
biện pháp cưỡng chế nghiêm khắc của Nhà nước được luật quy định, do Tòa án có
thể áp dụng hình phạt bổ sung thêm cho hình phạt chính và không được tuyên độc
lập mà chỉ tuyên kèm theo một hình phạt chính. Đối với mỗi tội phạm, người phạm
tội có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung.
Khái niệm như trên cũng thống nhất với quy định tại khoản 3 Điều 28 Bộ
luật hình sự năm 1999 "Đối với mỗi tội phạm, người phạm tội chỉ bị áp dụng một
hình phạt chính và có thể bị áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung".
Qua nghiên cứu hình phạt bổ sung cho thấy, ngoài đặc điểm của hình phạt
nói chung, thì hình phạt bổ sung còn có các đặc điểm riêng sau:
+ Hình phạt bổ sung không được áp dụng độc lập đối với mỗi tội phạm cụ thể
mà chỉ được áp dụng bổ sung cho hình phạt chính (nếu điều luật có quy định) và không
được áp dụng đối với tất cả các tội phạm được quy định trong Bộ luật hình sự.
+ Trong hệ thống hình phạt, hình phạt bổ sung không được sắp xếp theo một
trật tự nhất định như các hình phạt chính.
+ Trong hệ thống hình phạt, hình phạt bổ sung là những hình phạt không
tước quyền tự do thân thể của người bị kết án.
+ Tòa án có thể áp dụng một hoặc một số hình phạt bổ sung kèm theo hình
phạt chính đối với mỗi loại tội phạm cụ thể.
12
+ Hình phạt bổ sung được quy định dưới dạng bắt buộc áp dụng hoặc có thể
tùy nghi áp dụng.
1.1.3. Ý nghĩa của việc áp dụng hình phạt đối với các tội xâm phạm tính
mạng, sức khỏe của con người.
1.1.3.1. Ý nghĩa về phương diện chính trị - xã hội.
Việc áp dụng hình phạt đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con
người có ý nghĩa đối với công tác đấu tranh phòng chống tội phạm, được thể hiện
thông qua những ảnh hưởng, tác động của việc áp dụng hình phạt đúng hay sai. Cụ thể:
Nếu áp dụng hình phạt đúng sẽ là cơ sở để đạt được mục đích của hình phạt
và đương nhiên trong trường hợp này sẽ có tác động tích cực tới công tác đấu tranh
phòng chống tội phạm. Hiệu quả của hình phạt càng cao trong thực tế thì càng tiến
gần đến mục đích của hình phạt. Việc nhà nước xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp
luật về hình phạt chỉ có ý nghĩa khi việc áp dụng hình phạt trong thực tế được đúng
và việc Tòa án áp dụng hình phạt đúng cũng sẽ là cơ sở để việc chấp hành hình phạt
phát huy tác dụng. Nếu Tòa án áp dụng hình phạt không đúng, không tương xứng
với tích chất, mức độ, hậu quả của hành vi phạm tội đã gây ra hoặc không phù hợp
với nhân thân người phạm tội sẽ làm giảm hiệu quả của hình phạt, người phạm tội
bị kết án sẽ không thấy được tính đúng đắn của bản án. Từ đó, không tích cực lao
động, rèn luyện, cải tạo bản thân thành người công dân có ích cho gia đình và xã
hội, sẽ gây dư luận không tốt, làm giảm niềm tin của quần chúng nhân dân đối với
pháp luật vào công cuộc đấu tranh phòng, chống tội phạm, xa hơn nữa là không bảo
đảm mục đích của hình phạt.
Áp dụng hình phạt đúng là cơ sở pháp lý đầu tiên để đạt được mục đích của
hình phạt. Điều 28 Bộ luật hình sự năm 1999 (nay là Điều 31 Bộ luật hình sự năm
2015) quy định: "Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà còn giáo
dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân theo pháp luật và các quy
tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn
nhằm giáo dục người khác tôn trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội
phạm". Vì vậy, khi áp dụng hình phạt Tòa án luôn phải cân nhắc để có cần áp dụng
hình phạt hay không và đưa ra loại và mức hình phạt tương xứng bảo đảm hai mục
13
đích trừng trị và giáo dục của hình phạt. Nếu Tòa án áp dụng hình phạt thiên về
trừng trị sẽ làm cho hình phạt quá nặng, người phạm tội có thể nẩy sinh tâm lý tiêu
cực không chấp hành hoặc chấp hành hình phạt một cách miễn cưỡng mà không
thực sự nhận ra sai phạm để có hướng sửa chữa, cải tạo, hoàn lương để hòa nhập
cộng đồng. Ngược lại, nếu Tòa án áp dụng hình phạt quá thiên về tính giáo dục sẽ
làm cho pháp luật thiếu tính mạnh mẽ, người phạm tội coi thường pháp luật, mất
niềm tin đối với quần chúng nhân dân, không thể hiện được tính răn đe, phòng ngừa
đối với những người có ý định phạm tội. Do đó, Tòa án không được đề cao hay coi
nhẹ mặt nào mà phải đặt trong mối liên hệ tổng quát trên cơ sở các căn cứ áp dụng
hình phạt để áp dụng một hình phạt cụ thể, tương xứng với tính chất, mức độ, hành
vi phạm tội của người phạm tội.
1.1.3.2. Ý nghĩa về phương diện pháp lý.
Hình phạt là sự biểu hiện của công bằng xã hội mà công bằng là một giá trị
pháp luật cơ bản, là đòi hỏi, dấu hiệu bắt buộc của công lý. Do đó, bảo đảm và thực
thi công lý được nhìn nhận là một chức năng xã hội quan trọng của hình phạt:
"Trong lĩnh vực luật hình sự, sự biểu hiện của công lý trước tiên là kịp thời nhận
diện những hành vi gây nguy hiểm cho xã hội nào là tội phạm, từ đó, đặt ra tính
không thể tránh khỏi việc áp dụng hình phạt lên các hành vi phạm tội đó".
Hình phạt mang ý nghĩa pháp lý khi nó tuân thủ một cách chặt chẽ nguyên
tắc cá thể hóa trách nhiệm hình sự. Nếu mức độ nghiêm trị của hình phạt không
tương xứng với mức độ và hậu quả xã hội mà tội phạm gây ra thì sẽ không thể bảo
đảm công bằng xã hội cho những nạn nhân và người bị hại của tội phạm. Nếu mức
độ tác động của hình phạt quá nghiêm khắc, quá mức cần thiết đối với mức độ và
hậu quả xã hội mà tội phạm gây ra thì sẽ không thể bảo đảm sự công bằng đối với
người phạm tội. Nếu cùng một mức độ và hậu quả mà hình phạt áp dụng đối với các
tội phạm giống nhau mà mức độ nghiêm trị, độ hà khắc của hình phạt lại khác nhau
thì cũng không thể bảo đảm các giá trị công bằng đối với các cá nhân người phạm
tội cụ thể. Hình phạt một mặt nghiêm trị tội phạm: mặt khác, nó là phương tiện,
cách thức khắc phục, phục hồi và bồi hoàn trong khả năng, chừng mực có thể các
hậu quả xã hội do tội phạm gây ra đối với xã hội. Áp dụng hình phạt đúng còn góp
14
phần quan trọng vào việc duy trì, củng cố nền pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nguyên
tắc pháp chế trong áp dụng hình phạt đòi hỏi các cơ quan tiến hành tố tụng trong
hoạt động xét xử và áp dụng hình phạt phải tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của
Hiến pháp, pháp luật.
Vì hình phạt đối với những người phạm các tội xâm phạm tính mạng, sức
khỏe của con người chỉ có thể và phải quy định trong đạo luật, chỉ có luật mới có
thể xác định hình phạt cho mỗi tội phạm nói chung và người phạm tội xâm phạm
tính mạng sức khỏe của con người nói riêng,
Yêu cầu hình phạt đối với các tội xâm phạm tính mạng sức khỏe của con
người phải được quy định trong đạo luật hình sự. Đó là sự thể hiện rõ nét nguyên
tắc pháp chế và hình phạt. Hiện nay, văn bản luật duy nhất quy định các hình phạt là
Bộ luật hình sự. Trong Bộ luật hình sự hình phạt được quy định ở cả phần chung và
phần các tội phạm. Do đó, nguyên tắc áp dụng hình phạt là khi xét xử về tội cụ thể
nào của Chương XII thì trước hết phải căn cứ vào các điều luật cụ thể đó, ngoài việc
phải tuân thủ các nguyên tắc khác và các quy định khác của Hiến pháp và pháp luật
hình sự trong áp dụng hình phạt.
1.2. Quy định của Bộ luật hình sự về áp dụng hình phạt đối với các tội xâm
phạm tính mạng, sức khỏe của con ngƣời.
1.2.1. Quy định về các hình phạt trong chế tài các tội xâm phạm xâm
phạm tính mạng, sức khỏe của con người.
1.2.1.1. Quy định về các hình phạt chính trong chế tài các tội xâm phạm xâm
phạm tính mạng, sức khỏe của con người trong Bộ luật hình sự năm 1999 (được sửa
đổi bổ sung năm 2009) và trong Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi bổ sung
năm 2017).
Chương XIV "các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự
của con người" của BLHS năm 2015 được sửa đổi bổ sung năm 2017 có 34 điều (từ
Điều 123 đến Điều 156) trong đó có 18 điều (từ Điều 123 đến Điều 140) quy định
về các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người. So với BLHS năm 1999
được sửa đổi bổ sung năm 2009 thì BLHS năm 2015 tăng 03 điều và có nhiều điểm
15
được sửa đổi bổ sung cho phù hợp với chủ trương cải cách tư pháp của Đảng và
Nhà nước ta.
Đối với hình phạt chính có 44 lượt hình phạt đối với các tội xâm phạm tính
mạng, sức khỏe của con người. Trong đó có 01 lượt hình phạt cảnh cáo (khoản 1
Điều 132); 04 lượt hình phạt tiền (Khoản 1 Điều 135; khoản 1 Điều 136; khoản 1
Điều 138; khoản 1 Điều 139); 06 lượt cải tạo không giam giữ; 31 lượt hình phạt tù
có thời hạn; 01 lượt hình phạt chung thân; 01 lượt hình phạt tử hình.
Những điểm mới về hình phạt giữa BLHS năm 2015 và BLHS năm 1999 cụ
thể như sau:
- BLHS năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017) bổ sung các tình tiết
định tội, định khung tăng nặng TNHS.
- Bổ sung hình phạt tiền là hình phạt chính áp dụng đối với một số tội danh
về gây thương tích như: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của
người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh; tội cố ý gây thương tích
hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn của phòng vệ
chính đáng; tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng; tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn
hại cho sức khỏe của người khác trong khi thi hành công vụ; tội vô ý gây thương
tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác và tội vô ý gây thương tích hoặc
gây tổn hại sức khỏe của người khác do vi phạm nguyên tắc nghề nghiệp hoặc quy
tắc hành chính.
- Một số tội tăng mức hình phạt chính: Tội làm chết người trong khi thi hành
công vụ (Điều 97 BLHS năm 1999 – nay là Điều 127 BLHS năm 2015). Tại khoản
1 tăng mức hình phạt khởi điểm từ 02 – 07 năm, nay là từ 05 năm – 10 năm; khoản
2 từ 07 – 15 năm, nay từ 08 – 15 năm. Tội vô ý làm chết người (Điều 98 BLHS năm
1999 – nay là Điều 128 BLHS năm 2015). Tại khoản 1 tăng mức hình phạt khởi
điểm từ 06 tháng – 05 năm, nay bổ sung thêm hình phạt chính là cải tạo không giam
giữ đến 03 năm hoặc phạt tù là từ 01 năm – 05 năm. Tội vô ý làm chết người do vi
phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính (Điều 99 BLHS năm 1999 – nay
là Điều 129 BLHS năm 2015), BLHS năm 2015 giảm mức hình phạt từ 01 – 06
16
năm, nay chỉ còn từ 01 – 05 năm tại khoản 1. Tội xúi giục người khác tự sát (Điều
101 BLHS năm 1999 – nay là Điều 131 BLHS năm 2015). BLHS năm 2015 bổ
sung thêm hình phạt chính là cải tạo không giam giữ đến 03 năm. Tội không cứu
giúp người đang trong trạng thái nguy hiểm đến tính mạng (Điều 102 BLHS năm
1999 – nay là Điều 132 BLHS năm 2015). BLHS năm 2015 bổ sung thêm khoản 3
và áp dụng mức hình phạt từ 03 – 07 năm. Tội đe dọa giết người (Điều 103 BLHS
năm 1999 – nay là Điều 133 BLHS năm 2015). BLHS năm 2015 tăng mức hình
phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm, phạt tù tăng từ 03 tháng lên 06 tháng đến
03 năm. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khỏe cho người khác (Điều
104 BLHS năm 1999 – nay là Điều 134 BLHS năm 2015). BLHS năm 2015 bổ
sung thêm khoản và tăng mức hình phạt trong từng khoản phù hợp với tỷ lệ thương
tích. Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong
trạng thái tinh thần bị kích động mạnh (Điều 105 BLHS năm 1999 – nay là Điều
135 BLHS năm 2015). BLHS năm 2015 ngoài việc bổ sung thêm hình phạt tiền còn
giảm mức hình phạt tại các khoản.
1.2.1.2. Quy định về các hình phạt bổ sung trong chế tài các tội xâm phạm
xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người trong Bộ luật hình sự năm 1999
(được sửa đổi bổ sung năm 2009) và trong Bộ luật hình sự năm 2015 (được sửa đổi
bổ sung năm 2017).
Về hình phạt bổ sung đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con
người giữa hai Bộ luật hình sự năm 1999 và năm 2015 không có sự thay đổi, bổ sung gì.
Theo quy định của BLHS năm 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 đối với nhóm tội
xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người có 18 điều luật, trong đó có 06 điều luật
quy định về hình phạt bổ sung. Những hình phạt bổ sung được quy định cụ thể trong các
Điều 123 (Tội giết người); Điều 127 (Tội làm chết người trong khi thi hành công vụ);
Điều 129 (Tội vô ý làm chết người do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành
chính); Điều 132 (Tội không cứu giúp người đang trong tình trạng nguy hiểm đến tính
mạng); Điều 137 (Tội gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác
trong khi thi hành công vụ); Điều 139 (Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức
khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính). Loại
17
hình phạt bổ sung đối với các tội này được quy định chủ yếu là cấm đảm nhiệm chức vụ,
cấm hành nghề hoặc một công việc nhất định từ 01 đến 05 năm. Riêng đối với tội giết
người thì quy định cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 đến 05 năm; phạt
quản chế hoặc cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm.
Việc quy định loại hình phạt bổ sung này rất phù hợp đối với các tội xâm phạm
đến tính mạng, sức khỏe của con người, bảo đảm xử lý nghiêm các hành vi xâm phạm
quyền con người, quyền cơ bản của công dân.
1.2.2. Quy định của Bộ luật hình sự về căn cứ quyết định hình phạt.
Theo tác giả Võ Khánh Vinh thì "căn cứ quyết định hình phạt là những đòi
hỏi cơ bản có tính nguyên tắc do luật hình sự quy định hoặc do giải thích luật mà có
buộc Tòa án phải tuân theo khi quyết định hình phạt đối với người thực hiện hành vi
phạm tội". [43,tr.27]
Điều 45 BLHS năm 1999 (được sửa đổi bổ sung năm 2009) nay là Điều 50
BLHS năm 2015 (được sửa đổi bổ sung năm 2017): "Khi quyết định hình phạt, Tòa
án căn cứ vào quy định của BLHS, cân nhắc tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã
hội của hành vi phạm tội, nhân thân người phạm tội, các tình tiết giảm nhẹ và tăng
nặng TNHS".
Các căn cứ quyết định hình phạt đều có vai trò quan trọng trong việc áp dụng
hình phạt của Tòa án. Tuy nhiên, trong thực tiễn xét xử và áp dụng hình phạt, việc
nhận thức, đánh giá vai trò của mỗi căn cứ lại có sự khác nhau giữa các Thẩm phán,
Hội thẩm nhân dân. Điều này phụ thuộc vào các nguyên nhân chủ quan và khách
quan khác nhau, song phần lớn Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân đều có chung
nhận thức, căn cứ vào quy định của BLHS là căn cứ có tính căn bản, tiền đề đảm
bảo cho việc áp dụng hình phạt được chính xác, đúng đắn.
Căn cứ quyết định hình phạt cụ thể theo quy định tại Điều 45 BLHS năm
1999 (nay là Điều 50 BLHS năm 2015) bao gồm:
1.2.2.1. Căn cứ vào các quy định của Bộ luật hình sự
Căn cứ đầu tiên và có ý nghĩa quan trọng làm tiền đề đảm bảo cho việc quyết
định hình phạt đúng, đó chính là các quy định của BLHS hiện hành (bao gồm cả
phần chung và phần các tội phạm). Phần chung của BLHS có nguyên tắc và phần
18
các tội phạm sẽ chỉ ra tội danh cụ thể, loại hình phạt và mức hình phạt đối với người
đã thực hiện hành vi phạm tội cụ thể, xâm phạm tới một trong các khách thể được
Luật hình sự bảo vệ.
Khi áp dụng hình phạt đối với các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của
con người. Căn cứ vào quy định của BLHS trước hết là xem xét các quy định về
QĐHP được quy định ở phần chung và các quy định tại Chương XII - Các tội phạm
xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người của BLHS năm 1999 (Chương XIV
BLHS năm 2015). Căn cứ vào các quy định tại chương các tội xâm phạm tính
mạng, sức khỏe của con người để xác định hành vi phạm tội là tội phạm cụ thể nào
và hình phạt được các nhà làm luật quy định cụ thể áp dụng cho tội phạm đó ra sao?
Việc quy định khi quyết định hình phạt Tòa án phải căn cứ vào quy định của BLHS
cũng là tiền đề để Tòa án xem xét đánh giá các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ TNHS
đối với người phạm các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người. Bởi các
tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng TNHS được quy định tại Điều 46 và Điều 48 của
BLHS năm 1999 (nay là Điều 51 và 52 BLHS năm 2015), là yếu tố vô cùng quan
trọng khi Tòa án xét xử và quyết định hình phạt.
Theo Điều 45 BLHS năm 1999 và Điều 50 BLHS hiện hành, căn cứ vào
"quy định của BLHS" là căn cứ quyết định hình phạt đầu tiên. Điều này cho thấy
các nhà lập pháp đã nhận thức và đánh giá cao vai trò quan trọng của căn cứ này.
Chính sự ghi nhận trong BLHS có tính bắt buộc đối với Tòa án khi áp dụng hình
phạt đã tránh được tình trạng tùy tiện, áp dụng hình phạt không tương xứng với tính
chất và mức độ của hành vi phạm tội đối với các bị cáo. Hơn nữa, sự ghi nhận căn
cứ này trong BLHS còn tạo cơ sở pháp lý giúp cho việc áp dụng hình phạt được
chính xác và thống nhất trên phạm vi toàn quốc.
1.2.2.2. Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội
Để lựa chọn và xác định đúng hình phạt cụ thể áp cho người phạm tội thì Tòa
án phải dựa vào các căn cứ tiếp theo được quy định trong Điều 45 BLHS năm 1999
(nay là Điều 50 BLHS năm 2015) đó là "tính chất và mức độ nguy hiểm cho xã hội
của hành vi phạm tội". Trong thực tiễn mỗi loại tội phạm có thể gây ra tính chất và
mức độ nguy hiểm cho xã hội khác nhau; nhân thân người phạm tội cũng như các
19