Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ THỰCTIỄN QUẬN 9, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (365.38 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN THỊ KIM QUY

ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM
SỞ HỮU THEO PHÁP LUẬT HÌNH SỰ VIỆT NAM TỪ
THỰCTIỄN QUẬN 9, THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

Chuyên ngành : Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số : 60.38.01.04

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

HÀ NỘI - 2017


Công trình được hoàn thành tại: Học viện khoa học xã hội
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS Trần Văn Độ

Phản biện 1:

...............................................................
...............................................................

Phản biện 2:

...............................................................
...............................................................


Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc
sĩ họp tại: Học viện Khoa học xã hội .......giờ ........ ngày...... tháng
....... năm 2017

Có thể tìm hiểu luận văn tại: Thư viện Học viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp luật hình sự là bộ phận thuộc kiến trúc thượng tầng được
quy định bởi cơ sở kiến trúc hạ tầng. Quy định hành vi nào là tội
phạm và xử lý bằng loại hình phạt nào là thuộc về chính sách hình sự
của Nhà nước, song chính sách đó lại hoàn toàn không phải là sản
phẩm của ý muốn chủ quan mà nó được quy định bởi nhu cầu xã hội
đối với việc điều chỉnh và bảo vệ các quan hệ xã hội. Hình phạt là
một phạm trù pháp lý và xã hội phức tạp, mang tính khách quan, gắn
liền với sự xuất hiện của nhà nước và pháp luật, vì thế nó được
nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau như triết học,
thần học, giáo dục học, đạo đức học, tâm lý học, tội phạm học, khoa
học Luật hình sự. Trong lĩnh vực khoa học Luật hình sự, hình phạt là
một trong những đối tượng nghiên cứu chủ yếu, trong đó việc làm
sáng tỏ áp dụng hình phạt là một vấn đề hết sức quan trọng.
Áp dụng hình phạt là công việc trọng tâm, cốt lõi trong hoạt
động xét xử của Tòa án. Nếu việc áp dụng hình phạt đúng sẽ mang
lại những hiệu quả tích cực, ngược lại áp dụng hình phạt sai sẽ để lại
nhiều hậu quả tiêu cực về mặt xã hội, giảm lòng tin của nhân dân đối
với Tòa án nói riêng, với các cơ quan tư pháp và các cơ quan chính
quyền nói chung, đồng thời làm giảm hiệu quả của công tác đấu
tranh phòng chống tội phạm nói chung, tội xâm phạm sở hữu nói
riêng.

Mặc dù trong thời gian qua Tòa án nhân dân Quận 9 đã có
những đóng góp đáng kể vào công tác đấu tranh phòng chống tội
phạm nhưng không hẳn hoạt động xét xử và áp dụng hình phạt nói
chung, áp dụng hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu nói riêng
đã hoàn thiện và đạt kết quả cao nhất. Thực tế cho thấy, trong thời
gian qua việc áp dụng hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu của
Tòa án nhân dân Quận 9 còn tồn tại nhiều bất cập; áp dụng hình phạt
1


còn có sự tùy tiện, thiếu thống nhất, làm ảnh hưởng chung tới kết quả
đấu tranh phòng, chống tội phạm, làm giảm lòng tin của quần chúng
nhân dân đối với ngành Tòa án.
Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu một cách khoa học,
nghiêm túc để chỉ ra những tồn tại vi phạm, phân tích các nguyên
nhân và đề ra các giải pháp để bảo đảm áp dụng hình phạt đúng đối
với các tội xâm phạm sở hữu trong hoạt động xét xử của Tòa án nhân
dân Quận 9, nhằm nâng cao vai trò và những đóng góp của ngành
TAND tới công tác đấu tranh phòng chống tội phạm là đòi hỏi mang
tính cấp thiết.
Chính vì vậy tác giả chọn Đề tài “Áp dụng hình phạt đối với
các tội xâm phạm sở hữu theo pháp luật hình sự Việt Nam từ thực
tiễn Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh” để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Ở Việt Nam, khoa học luật hình sự là một trong những ngành
khoa học pháp lý phát triển nhất so với các ngành khoa học pháp lý
khác. Áp dụng hình phạt có vị trí, vai trò quan trọng trong giai đoạn
xét xử một vụ án cụ thể.Vì thế, tình hình nghiên cứu đề tài phải có
hai nội dung đề cập.
2.1. Các công trình nghiên cứu về lý luận chung của khoa

học Luật hình sự
Để có cơ sở lý luận cho việc thực hiện đề tài Luận văn, các
công trình khoa học sau đây đã được nghiên cứu:
- Ths. Đinh Văn Quế - Bình luận khoa học Bộ Luật Hình Sự
1999, Phần các tội phạm, Tập II Các tội phạm xâm phạm sở hữu,
Nxb Tổng hợp, TP.HCM, 2006;
- TS. Trần Minh Hưởng – Tìm hiểu Bộ luật hình sự nước
Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam – Bình luận chú giải –
Chương IV: Các tội xâm phạm quyền sở hữu, Nxb Lao động, Hà
Nôi, 2002;
2


- TS. Cao Thị Oanh – Giáo trình Luật hình sự Việt Nam (phần
các tội phạm) – Chương IV: Các tội xâm phạm sở hữu, Nxb giáo
dục, 2010;
- Các bài viết về những vấn đề lý luận và thực tiễn về áp dụng
hình phạt theo luật hình sự Việt Nam đăng tải trên Tạp chí Nhà nước
và Pháp luật, Tạp chí Cảnh sát nhân dân, Tạp chí Kiểm sát, Tạp chí
Tòa án nhân dân, Công an nhân dân trong những năm gần đây.
Các công trình đã nêu không thể thiếu được cho việc thực hiện
đề tài Luận văn. Bởi vì trong đó không chỉ chứa đựng lý luận khoa
học Luật hình sự về các vấn đề cơ bản mà đề tài luận văn phải giải
quyết mà còn có những chỉ dẫn cho việc xác định phương pháp luận
nghiên cứu đề tài, từ tổng quan cho đến chi tiết.
2.2. Tình hình nghiên cứu thực tế cụ thể
Hiện nay, chưa có bất kỳ công trình nào tại Việt Nam nghiên
cứu về “Áp dụng hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu theo pháp
luật hình sự Việt Nam từ thực tiễn Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh”.
Hầu hết những công trình nghiên cứu đã được thực hiện trong thời

gian qua chỉ tập trung vào áp dụng hình phạt, cụ thể như sau:
Ở góc độ Luận án tiến sĩ luật học, có luận án về đề tài “Áp
dụng hình phạt trong Luật Hình sự Việt Nam” của tác giả Dương
Tuyết Miên đã bảo vệ thành công năm 2003. Bên cạnh đó, có rất
nhiều Luận văn thạc sĩ luật học đã nghiên cứu vấn đề áp dụng hình
phạt như: “Áp dụng hình phạt trong những trường hợp đặc biệt” của
tác giả Hoàng Chí Kiên bảo vệ năm 2004 tại Đại học Luật Hà Nội;
tác giả Phạm Thị Thanh Nga với đề tài “Tình tiết giảm nhẹ trách
nhiệm hình sự trong việc định tội danh và áp dụng hình phạt” bảo vệ
tại Đại học Luật Hà Nội cùng năm 2004; tác giả Phạm Đình Dũng đã
bảo vệ đề tài “Căn cứ áp dụng hình phạt: những vấn đề lý luận và
thực tiễn” tại khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội năm 2006. Ngoài
ra còn có các Luận văn thạc sĩ đã bảo vệ tại khoa Luật Đại học Quốc
3


gia Hà Nội như: “Áp dụng hình phạt đối với người chưa thành niên
phạm tội trong luật hình sự Việt Nam” của tác giả Nguyễn Minh
Khuê bảo vệ năm 2007; đề tài “Áp dụng hình phạt trong đồng phạm”
của tác giả Nguyễn Thị Bình bảo vệ năm 2010.
Các công trình trên rất có giá trị để luận văn có thể kế thừa
thông tin, số liệu đối chứng, ý tưởng nghiên cứu mà vẫn không bị
trùng lặp vì có sự khác nhau về các yếu tố như: cách tiếp cận vấn đề
nghiên cứu; thời gian nghiên cứu; không gian nghiên cứu; chất liệu
nghiên cứu
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Với đánh giá là quận có nhiều tiềm năng phát triển của Thành
phố Hồ Chí Minh, là cửa ngỏ thông thương với các tỉnh Miền Đông,
thì tình hình tội phạm, nhất là nhóm tội phạm xâm phạm sở hữu gia

tăng là không tránh khỏi. Điều này không những trực tiếp gây thiệt hại
về tài sản, tính mạng, sức khỏe của mọi người dân mà còn làm xấu đi
môi trường đầu tư cũng như ảnh hưởng đến định hướng phát triển kinh
tế xã hội đã được đề ra. Mục đích nghiên cứu là làm rõ những vấn đề
chung về ADHP và thực trạng việc áp dụng hình phạt đối với các tội
xâm phạm sở hữu trên địa bàn Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh để từ
đó đưa ra những giải pháp bảo đảm việc áp dụng hình phạt nói chung
và áp dụng hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu nói riêng tại
Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh được đúng đắn, chính xác.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Nhiệm vụ nghiên cứu của Đề tài tập trung vào các vấn đề sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận và phân tích các quy định
pháp luật về áp dụng hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu.
- Đánh giá thực tiễn áp dụng hình phạt đối với các tội xâm
phạm sở hữu trên địa bàn Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh.
- Đưa ra các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng hình phạt
4


đúng đối với các tội xâm phạm sở hữu.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là các quan điểm lý luận,
các quy định của pháp luật về áp dụng hình phạt và thực tiễn áp dụng
hình phạt tại Tòa án nhân dân Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về thời gian, Đề tài sử dụng chất liệu nghiên cứu trong vòng
năm năm (05 năm) từ năm 2012 đến năm 2016, bao gồm số liệu
thống kê xét xử sơ thẩm hình sự cấp quận và các bản án hình sự sơ
thẩm trên địa bàn Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh trong giai đoạn

2012 – 2016;
- Về cơ sở pháp lý, Đề tài đề cập các tội xâm phạm sở hữu qui
định tại chương XIV Bộ luật hình sự năm 1999.
- Về không gian, Đề tài luận văn được thực hiện trên phạm vi
Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Đề tài được thực hiện dựa trên cơ sở phương pháp luận chủ
nghĩa duy vật lịch sử và chủ nghĩa duy vật biện chứng mác-xít, Tư
tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về Nhà
nước và pháp luật, về chính sách hình sự, về cải cách tư pháp.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài sử dụng nhiều phương pháp nghiên cứu cụ thể như:
phương pháp lịch sử; phương pháp so sánh; phương pháp phân tích;
phương pháp tổng hợp; phương pháp nghiên cứu vụ án điển hình;
phương pháp thống kê, tổng hợp. Để hoàn thành mục đích nghiên
cứu, tác giả vận dụng kết hợp giữa các phương pháp trong từng nội
dung của đề tài, trong đó phương pháp thống kê và phương pháp so
sánh là những phương pháp được sử dụng nhiều nhất trong đề tài
5


này. Tác giả đã sử dụng phương pháp thống kê để thống kê số liệu về
tội phạm và người phạm tội, từ đó để xác định các thông số của tình
hình tội phạm tội XPSH.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
6.1. Ý nghĩa về mặt lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận văn này góp phần hoàn thiện lý
luận về các hành vi xâm phạm sở hữu trong khoa học luật hình sự
Việt Nam. Luận văn góp tiếng nói khoa học về lý luận áp dụng hình

phạt và phân tích, đánh giá một số vấn đề lý luận thông qua thực tiễn
ở một địa phương cụ thể là Quận 9, Tp. Hồ Chí Minh.
6.2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn
Tác giả mong muốn kết quả nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần
làm rõ hơn những vi phạm, sai lầm cũng như những nguyên nhân cơ
bản của của những vi phạm, sai lầm trong thực tiễn áp dụng hình
phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn Quận 9, thành phố
Hồ Chí Minh, từ đó có những đề xuất, kiến nghị thay đổi của luận
văn có thể làm luận chứng khoa học phục vụ tốt hơn cho công tác lập
pháp, áp dụng BLHS liên quan đến nhóm tội phạm xâm phạm sở hữu
trong công tác đấu tranh phòng ngừa tội phạm nước ta hiện nay.
Luận văn có thể được tham khảo trong nghiên cứu, học tập về
áp dụng hình phạt.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp luật về áp dụng
hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu.
Chương 2: Thực tiễn áp dụng hình phạt đối với các tội xâm
phạm sở hữu trên địa bàn Quận 9, thành phố Hồ Chí Minh.
Chương 3: Các yêu cầu và giải pháp bảo đảm áp dụng hình
phạt đúng đối với các tội xâm phạm sở hữu.
6


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ ÁP DỤNG
HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU
1.1. Những vấn đề lý luận về áp dụng hình phạt đối với các
tội xâm phạm sở hữu.

1.1.1. Khái niệm áp dụng hình phạt đối với các tội xâm
phạm sở hữu
Áp dụng pháp luật trong hệ thống các hình thức thực hiện
pháp luật. ADPL hình sự có tầm quan trọng đặc biệt, vừa có những
đặc điểm chung như các dạng ADPL khác, vừa có những đặc điểm
riêng của mình. Căn cứ vào tính chất của các hoạt động thực hiện
pháp luật, khoa học pháp lý đã phân chia thực hiện pháp luật thành
những hình thức cụ thể như: Tuân thủ pháp luật; thi hành pháp luật;
sử dụng pháp luật; và ADPL.
ADPL là một trong bốn hình thức thực hiện pháp luật cơ bản,
có tính chất đặc biệt, trong đó nhà nước thông qua các cơ quan hoặc
người có thẩm quyền hoặc nhà chức trách cá biệt hoá các quy định
của pháp luật vào trong những trường hợp cụ thể của đời sống xã
hội. Nội dung của ADPL bao gồm: 1/ Xác định sự kiện pháp lý cần
áp dụng pháp luật; 2/ Nhận thức quy định của pháp luật áp dụng; 3/
So sánh sự phù hợp giữa quy định pháp luật áp dụng và sự kiện pháp
lý để xác định quy phạm pháp luật cần áp dụng; 4/ Ra quyết định áp
dụng pháp luật.
Trong khoa học pháp lý nước ta, khái niệm áp dụng hình phạt
rất ít được sử dụng; mà thay vào đó là khái niệm quyết định hình
phạt. Vậy, phải chăng ADHP và QĐHP là giống nhau?
Nhiều nhà khoa học dường như coi ADHP và QĐHP là một.
PGS. TS. Nguyễn Ngọc Chí đã đưa ra định nghĩa khoa học về ADHP
như sau: “Áp dụng hình phạt là việc nhận thức và áp dụng pháp luật

7


hình sự do Tòa án có thẩm quyền, nhân danh Nhà nước thực hiện
sau khi đã định tội danh và tùy thuộc vào từng trường hợp cụ thể để

quyết định khung hình phạt, loại hình phạt (hình phạt chính, hình
phạt bổ sung), mức hình phạt cụ thể áp dụng cho cá nhân người
phạm tội trong phạm vi giới hạn của khung hình phạt do luật định,
phù hợp với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi
phạm tội; hoặc miễn hình phạt cho người phạm tội theo quy định của
Bộ luật hình sự”. Định nghĩa tương tự cũng được đưa ra trong các
công trình khác.
Theo chúng tôi, khái niệm ADHP nêu trên vẫn cò thiếu những
dấu hiệu đặc trưng của ADPL nói chung, ADHP nói riêng. ADHP là
một giai đoạn ADPLHS do Tòa án tiến hành sau khi thực hiện định
tội danh, áp dụng chế tài quy phạm pháp luật hình sự đối với người
bị kết tội theo trình tự, thủ tục mà pháp luật tố tụng hình sự quy định.
ADHP là hoạt động nhân danh quyền lực Nhà nước, chỉ duy
nhất Tòa án được quyền thực hiện khi thực hiện chức năng xét xử
thông qua phiên tòa; tuân thủ chặt chẽ trình tự thủ tục do BLTTHS
quy định và là quá trình cá biệt hóa chế tài quy phạm pháp luật hình
sự đối với người bị kết tội.
Từ khái niệm chung nêu trên, theo chúng tôi, “ADHP đối với
các tội XPSH là hoạt động của Toà án trên cơ sở xác định các tình
tiết của vụ án về tội XPSH đã được định tội danh; căn cứ các quy
định của BLHS về áp dụng hình phạt (hệ thống hình phạt, các quy
định chung về áp dụng hình phạt, chế tài các tội XPSH…) để lựa
chọn loại và mức hình phạt được quy định trong chế tài các tội phạm
đó để quyết định áp dụng đối với người bị kết tội”.
1.1.2. Nội dung áp dụng hình phạt
ADPLHS để giải quyết vụ án của Toà án có nhiều nội dung
khác nhau như định tội danh, áp dụng hình phạt và quyết định các
vấn đề khác của vụ án. ADHP là giai đoạn cơ bản quan trọng được
8



thực hiện sau khi Toà án xác định một người phạm tội cụ thể.
1.1.3. Đặc điểm của áp dụng hình phạt đối với các tội xâm
phạm sở hữu
Qua việc nghiên cứu khái niệm và nội dung ADHP, chúng tôi
thấy ADHP đối với các tội XPSH có các đặc điểm như sau:
-Thứ nhất, đây là hoạt động ADPL chỉ thuộc thẩm quyền của
Tòa án và có quan hệ chặt chẽ với hoạt động định tội danh. Nếu như
hoạt động định tội danh diễn ra trong suốt quá trình TTHS do cả Cơ
quan điều tra và Viện kiểm sát và Toà án thực hiện, thì hoạt động
ADHP chỉ duy nhất Tòa án được quyền thực hiện. Là chủ thể duy
nhất có quyền xác định loại hình phạt và mức hình phạt để áp dụng
với người phạm tội nên hoạt động này chỉ thông qua phiên tòa khi
Tòa án thực hiện chức năng xét xử của mình.
-Thứ hai, hoạt động ADHP của Tòa án nên đòi hỏi sự tuân thủ
các căn cứ và nguyên tắc trong quá trình áp dụng và điều này có thể
được thể hiện trực tiếp trong BLHS hoặc thể hiện trong tinh thần của
các điều luật. BLHS có qui định về các căn cứ để Tòa án ADHP, tức
là những tiêu chí mà dựa vào đó, Tòa án sẽ lựa chọn được loại hình
phạt và mức hình phạt phù hợp với trường hợp cụ thể của mỗi bị cáo,
trên cơ sở đánh giá tổng thể các yếu tố về khách quan, chủ quan, về
con người, tâm lý... với mục đích đạt được là hình phạt đó sẽ không
chỉ là “cái giá” mà bị cáo phải gánh chịu do hành vi phạm tội của
mình mà còn là “cơ hội” để bị cáo đó có khả năng phục thiện, tái hóa
nhập cộng đồng.
- Thứ ba, ADHP của Toà án có quyền lựa chọn và tính tuỳ
nghi cao. Đa số chế tài các tội xâm phạm sở hữu đều mang tính lựa
chọn giữa hình phạt tù với tù chung thân (đối với các tội đặc biệt
nghiêm trọng); giữa cải tạo không giam giữ, phạt tiền, thậm chí cảnh
cáo với phạt tù đối với nhiều tội phạm. Khi ADHP, Toà án lựa chọn

một trong các hình phạt chính được quy định đối với người bị kết tội.
9


Ngoài chế tài lựa chọn, các chế tài quy định về từng loại hình
phạt đều có một khoảng tuỳ nghi nhất định và Toà án có quyền quyết
định mức cụ thể trong phạm vi tuỳ nghi đó.
Khả năng lựa chọn rộng, tuỳ nghi cao đòi hỏi Thẩm phán, Hội
thẩm trình độ, năng lực, bản lĩnh chính trị, nghề nghiệp vững vàng và
lương tâm, đạo đức trong sáng vì công lý... để có thể trong từng trường
hợp cụ thể lựa chọn hình phạt hợp lý áp dụng với người bị kết tội.
- Thứ tư, ADHP với nhóm tội XPSH còn có điểm đặc thù so
với việc QĐHP đối với nhóm các tội phạm khác xuất phát từ đặc
điểm của tội phạm XPSH. BLHS 1999 quy định tại Chương XIV.
Các tội XPSH là những hành vi nguy hiểm cho xã hội xâm hại đến
quyền sở hữu hợp pháp (chiếm hữu, sử dụng và định đoạt) của cá
nhân, tổ chức thực hiện dưới hình thức lỗi cố ý, vô ý gây thiệt hại
không chỉ về tài sản cho cá nhân, tổ chức mà còn gây thiệt hại cho
tính mạng, sức khỏe, tinh thần của con người. BLHS quy định nhóm
tội phạm này gồm 13 tội (từ Điều 133 đến Điều 145 BLHS). Mục
đích tư lợi của người phạm tội trong đa số các tội xâm phạm sở hữu,
nhất là tội chiếm đoạt, cũng là yếu tố mà Toà án cần phải cân nhắc
để ADHP đối với người phạm tội; trong đó có hình phạt tiền và các
hình phạt bổ sung.
1.1.4.Ý nghĩa của áp dụng hình phạt đối với các tội xâm
phạm sở hữu (XPSH)
1.1.4.1. Ý nghĩa chính trị - xã hội.
Ý nghĩa của việc quyết định hình phạt đối với công tác đấu
tranh chống tội phạm được thể hiện trên phương diện ảnh hưởng, tác
động của việc quyết định hình phạt đúng hay sai.

1.1.4.2. Ý nghĩa pháp lý
Quyết định hình phạt là một hoạt động quan trọng của Tòa án,
thông qua hoạt động này các hình phạt cụ thể đã được BLHS quy
định sẽ được áp dụng đối với người đã thực hiện hành vi phạm tội.
10


Hình phạt là sự biểu hiện của công bằng xã hội. Trong khi đó,
công bằng (cũng có thể hiểu trong trường hợp này là công bằng xã
hội) là một giá trị pháp luật cơ bản, là một đòi hỏi, dấu hiệu bắt buộc
của công lý. Do đó, bảo đảm và thực thi công lý được nhìn nhận là
một chức năng xã hội quan trọng của hình phạt.
Trong lĩnh vực luật hình sự, sự biểu hiện của công lý trước
tiên là kịp thời nhận diện những hành vi gây nguy hiểm cho xã hội
nào là tội phạm, từ đó, đặt ra tính không thể tránh khỏi việc áp dụng
hình phạt lên các hành vi phạm tội đó.
Hình phạt là một trong những biện pháp để phòng ngừa, ngăn
chặn, giảm thiểu, tiến tới loại bỏ các hành vi vi phạm để bảo đảm
tính tích cực trong sự phát triển các quan hệ xã hội.
1.1.4.3. Ý nghĩa phòng ngừa
Quyết định hình phạt đúng là cơ sở pháp lý đầu tiên để đạt
được mục đích của hình phạt. Điều 27 BLHS Việt Nam năm 1999
quy định: “Hình phạt không chỉ nhằm trừng trị người phạm tội mà
còn giáo dục họ trở thành người có ích cho xã hội, có ý thức tuân
theo pháp luật và các quy tắc của cuộc sống xã hội chủ nghĩa, ngăn
ngừa họ phạm tội mới. Hình phạt còn nhằm giáo dục người khác tôn
trọng pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống tội phạm”. Vì vậy,
khi quyết định hình phạt Tòa án phải luôn cân nhắc để đưa ra được
loại và mức hình phạt tương xứng bảo đảm hai mục đích trừng trị và
giáo dục của hình phạt.

1.2. Quy định của Bộ luật hình sự về quyết định hình phạt
đối với các tội xâm phạm sở hữu
1.2.1. Quy định của Bộ luật hình sự về căn cứ quyết định
hình phạt
1.2.1.1. Căn cứ vào quy định của Bộ luật hình sự
1.2.1.2.Căn cứ vào tính chất và mức độ nguy hiểm của hành
vi phạm tội
11


1.2.1.3.Căn cứ vào nhân thân người phạm tội
1.2.1.4.Căn cứ vào các tình tiết giảm nhẹ và tăng nặng trách
nhiệm hình sự
Kết luận Chương 1
Hình phạt là một phạm trù pháp lý và xã hội phức tạp, mang
tính khách quan, gắn liền với sự xuất hiện của nhà nước và pháp luật,
vì thế nó được nghiên cứu trong nhiều lĩnh vực khoa học khác nhau
như triết học, thần học, giáo dục học, đạo đức học, tâm lý học, tội
phạm học, khoa học Luật hình sự. Trong lĩnh vực khoa học Luật hình
sự, hình phạt là một trong những đối tượng nghiên cứu chủ yếu,
trong đó việc làm sáng tỏ áp dụng hình phạt là một vấn đề hết sức
quan trọng. Trong Chương 1, tác giả đã làm rõ được những vấn đề
chung về áp dụng hình phạt. Nội dung thứ nhất là khái niệm, đặc
điểm và ý nghĩa của áp dụng hình phạt. Nội dung thứ hai là nêu lên
quy định của Bộ luật hình sự về áp dụng hình phạt và các căn cứ áp
dụng hình phạt. Ngoài ra tác giả còn đi sâu giải thích và làm sáng tỏ
hơn nội dung của các nguyên tắc và căn cứ áp dụng hình phạt, từ đó
rút ra được những yếu tố tác động đến chất lượng áp dụng hình phạt
để người đọc hiểu rõ hơn và có cái nhìn toàn diện hơn về áp dụng
hình phạt và là cơ sở để hoàn thiện hơn các quy định nhằm đảm bảo

cho vệc áp dụng hình phạt được chính xác và đúng đắn. Đó là cơ sở
để chúng ta tìm hiểu các quy định của pháp luật hình sự Việt Nam về
áp dụng và áp dụng hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu.

12


Chương 2
THỰC TIỄN ÁP DỤNG HÌNH PHẠT ĐỐI VỚI CÁC TỘI
XÂM PHẠM SỞ HỮU CỦA TÒA ÁN NHÂN DÂN QUẬN 9,
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
2.1. Tổng quan kết quả thực tiễn áp dụng hình phạt đối với
các tội xâm phạm sở hữu của Tòa án nhân dân Quận 9, Tp. Hồ
Chí Minh
2.1.1. Kết quả thụ lý và xét xử các tội xâm phạm sở hữu
Để mô tả được thực trạng của tình hình các tội xâm phạm sở hữu
trên địa bàn Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh từ năm 2012 đến năm
2016, trước hết cần phải xem xét số liệu thụ lý và xét xử các tội xâm
phạm sở hữu trên địa bàn Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh thông qua
số vụ phạm tội và số bị cáo đã bị Tòa án xét xử, tuyên bằng bản án đã có
hiệu lực pháp luật. Theo số liệu thống kê, số vụ án và số bị cáo bị xét xử
về các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn Quận 9, Thành phố Hồ Chí
Minh từ năm 2012 đến năm 2016 diễn biến như sau:
Qua bảng số liệu thống kê trên cho thấy, trong thời gian 5 năm
(từ 2012 đến 2016), TAND Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh đã xét
xử 1.086 vụ án với 1.641 bị cáo, trong đó xét xử 629 vụ án với 924
bị cáo về các tội XPSH. Số vụ án mà TAND Quận 9 xét xử có diễn
biến tăng từ năm 2014 đến năm 2016. Đối với các tội XPSH năm
2015 xảy ra nhiều nhất với 145 vụ án và 182 bị cáo, năm 2013 xảy ra
ít nhất với 113 vụ án và 191 bị cáo.

2.1.2. Kết quả quyết định hình phạt đối với các tội xâm phạm
sở hữu trên địa bàn Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh
Từ năm 2012 đến năm 2016, Tòa án nhân dân Quận 9, Thành
phố Hồ Chí Minh đã đưa ra xét xử 1.086 vụ án với 1.641 bị cáo về
các tội xâm phạm sở hữu với các loại và mức hình phạt được thể
hiện như sau:

13


Qua bảng số liệu trên cho thấy, loại hình phạt chính được Tòa
án nhân dân Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh áp dụng khi xét xử các
tội xâm phạm sở hữu từ năm 2012 đến năm 2016 chủ yếu là hình
phạt tù có thời hạn, các loại hình phạt khác không áp dụng. Trong
tổng số 924 bị cáo bị xét xử thì mức hình phạt chính được Tòa án áp
dụng nhiều nhất là phạt tù đến 03 năm với 676 bị cáo chiếm tỷ lệ
73,2%; tù từ trên 03 năm đến 07 năm với 168 bị cáo chiếm tỷ lệ
18,2%; cho hưởng án treo với 39 bị cáo chiếm tỷ lệ 4,2%; tù từ trên
07 năm đến 15 năm với 41 bị cáo chiếm tỷ lệ 4,4%.
Kết quả này cho thấy thói quen áp dụng hình phạt của Hội đồng
xét xử nói chung thường chỉ sử dụng hình phạt tù và hình phạt tù cho
hưởng án treo mà rất ít hoặc thậm chí là không sử dụng các loại hình
phạt khác (các hình phạt không phải là tù rất ít được áp dụng)
Loại hình phạt bổ sung được Tòa án nhân dân Quận 9, Thành
phố Hồ Chí Minh áp dụng khi xét xử các tội xâm phạm sở hữu từ
năm 2012 đến năm 2016 chủ yếu là hình phạt tịch thu tài sản, phạt
tiền, các loại hình phạt khác không áp dụng. Trong tổng số 924 bị
cáo bị xét xử thì có 46 bị cáo bị Tòa án áp dụng hình phạt bổ sung
chiếm tỷ lệ 5%.
2.2. Những hạn chế trong áp dụng hình phạt đối với các tội

xâm phạm sở hữu và nguyên nhân.
2.2.1 Những hạn chế trong áp dụng hình phạt đối với các
tội xâm phạm sở hữu
Qua nghiên cứu thực tiễn xét xử và ADHP đối với các tội
XPSH của TAND Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh trong 5 năm trở
lại đây (từ năm 2012 đến năm 2016) cho thấy việc QĐHP không
đúng do những nguyên nhân chủ quan và khách quan khác nhau
nhưng nguyên nhân chính và chủ yếu là do các Thẩm phán và Hội
thẩm nhân dân khi ADHP đã không tuân thủ và áp dụng đúng các
căn cứ QĐHP.
14


Có thể hệ thống những hạn chế, sai sót trong ADHP của
TAND Quận 9 như sau:
- Hạn chế trong xác định các tình tiết của vụ án liên quan
đến ADHP.
- Áp dụng hình phạt quá nhẹ
- Áp dụng hình phạt quá nặng
- Áp dụng án treo chưa chính xác
- Áp dụng hình phạt dưới mức thấp nhất của khung hình phạt
chưa đúng
- Hạn chế QĐHP trong trường hợp phạm nhiều tội, trong tổng
hợp hình phạt của nhiều bản án
- Hạn chế trong áp dụng hình phạt trong trường hợp chuẩn bị
phạm tội, phạm tội chưa đạt
- Hạn chế trong áp dụng hình phạt trong trường hợp đặc biệt
2.2.2. Nguyên nhân của những hạn chế
2.2.2.1. Nguyên nhân do các bất cập của BLHS
Quá trình soạn thảo và ban hành luật của nước ta hiện nay còn

nhiều bất cập. Tính minh bạch – một thuộc tính có vị trí đặc biệt
quan trọng đối với văn bản QPPL nhiều lúc bị hạn chế. Quy trình xây
dựng văn bản QPPL của nước ta còn rườm rà, không hợp lý; việc lấy
ý kiến góp ý cho dự thảo văn bản QPPL chỉ làm cho đủ thủ tục chứ
thực tế các ý kiến đóng góp không được xem xét thấu đáo.
2.2.2.2. Nguyên nhân do các bất cập, thiếu sót trong hướng
dẫn áp dụng pháp luật
Các quy định hiện hành của Bộ luật hình sự và các văn bản
hướng dẫn đối với áp dụng hình phạt còn mang tính khái quát, chưa
hướng dẫn cụ thể dẫn đến việc áp dụng gặp nhiều khó khăn. Một số
tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ khi áp dụng để làm căn cứ áp dụng hình
phạt chưa được quy định cụ thể.

15


Các điều luật trong phần các tội phạm của Bộ luật hình sự có
khung hình phạt rất dài dẫn đến việc tùy nghi áp dụng trong từng trường
hợp cụ thể, dễ nảy sinh những sai sót, áp dụng hình phạt không tương
xứng vi phạm nguyên tắc công bằng của áp dụng hình phạt.
2.2.2.3.Nguyên nhân do năng lực, trách nhiệm của người tiến
hành tố tụng
Trình độ, năng lực chuyên môn và trách nhiệm nghề nghiệp
của Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân bị chi phối bởi nhiều yếu tố
dẫn đến việc áp dụng hình phạt chưa chính xác, hiệu quả của công
tác xét xử chưa cao.
2.2.2.4. Nguyên nhân trong tổ chức, quản lý Tòa án
- Việc tổ chức tổng kết, rút kinh nghiệm hằng năm Tòa án nhân
dân Tối cao và Tòa án nhân dân TP. Hồ Chí Minh chưa được kịp thời
và chưa sâu sát với thực tiễn nên ứng dụng của nó trong công tác xét

xử án hình sự nói chung và ADHP nói riêng chưa được thiết thực.
Tập huấn nghiệp vụ là nhiệm vụ rất quan trọng trong việc
thống nhất đường lối áp dụng pháp luật trong thực tiễn. Tuy nhiên do
số lượng công việc trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh rất nhiều,
tổng lượng án chiếm 1/5 số lượng cả nước. Do đó việc tập huấn
nghiệp vụ đôi khi còn chưa được sâu sát
Độc lập xét xử là nguyên tắc hiến định, là cốt lõi của quyền tư
pháp trong nhà nước pháp quyền, có vai trò đặc biệt quan trọng trong
việc bảo đảm tính tối cao của pháp luật, đảm bảo sự cân bằng và kiểm
soát các quyền lực nhà nước và bảo vệ quyền con người. Việc tăng
cường cơ chế giám sát của nhân dân trong hoạt động xét xử của Tòa
án, của Thẩm phán thông qua việc công khai rộng rãi các phán quyết
của Tòa án là nhu cầu thiết thực. Điều đặc biệt quan trọng để đạt được
mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN ở Việt Nam là phải
nhận thức một cách toàn diện về quyền tư pháp, nâng cao vị thế của
quyền tư pháp, của Tòa án, của Thẩm phán. Có như vậy, thì nguyên
16


tắc "Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp
luật…” mới có ý nghĩa và được bảo đảm một cách đích thực.
Tuy nhiên, trên thực tế, việc thực hiện nguyên tắc này vẫn còn
bị chi phối bởi nhiều yếu tố. Khi xét xử có thể Thẩm phán bị chi phối
bởi lãnh đạo Tòa, lãnh đạo địa phương. Hội thẩm nhân dân chưa phát
huy hết vai trò của mình, chưa có chính kiến mà phần lớn phụ thuộc
vào quyết định của Thẩm phán chủ tọa phiên tòa.
Kết luận Chương 2
Tại chương 2, tác giả đi sâu phân tích thực tiễn áp dụng hình
phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu trên địa bàn Quận 9, Thành
phố Hồ Chí Minh. Trên cơ sở phân tích thực tiễn chỉ ra những vi

phạm, sai lầm và nguyên nhân của những vi phạm, sai lầm đối với
ADHP trong các tội xâm phạm sở hữu. Từ những số liệu thống kê,
phân tích, so sánh việc ADHP về các tội xâm phạm sở hữu, các hình
phạt đối với từng tội phạm cụ thể trong thời gian năm năm từ năm
2012 đến năm 2016 trên địa bàn Quận 9, Thành phố Hồ Chí Minh do
Tòa án nhân dân Quận 9 xét xử, tác giả đã rút ra được những tồn tại,
vướng mắc trong quá trình xét xử và áp dụng hình phạt của cơ quan
Tòa án. Việc liệt kê và phân tích một cách chi tiết, đầy đủ giúp người
đọc hiểu một cách sâu sắc hơn về việc áp dụng hình phạt đối với các
tội phạm xâm phạm sở hữu. Qua đó thấy được những thuận lợi, khó
khăn vướng mắc và nguyên nhân của những khó khăn vướng mắc
trong việc áp dụng hình phạt, từ đó đưa ra các yêu cầu và giải pháp
bảo đảm áp dụng hình phạt đúng đối với các tội xâm phạm sở hữu
được thể hiện ở Chương 3.

17


Chương 3
CÁC YÊU CẦU VÀ GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM ÁP DỤNG
QUYẾT ĐỊNH HÌNH PHẠT ĐÚNG ĐỐI VỚI
CÁC TỘI XÂM PHẠM SỞ HỮU
3.1. Các yêu cầu bảo đảm áp dụng hình phạt đúng đối với
các tội xâm phạm sở hữu
3.1.1. Bảo đảm các nguyên tắc áp dụng hình phạt
- Bảo đảm nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa
Nội dung đầu tiên của nguyên tắc pháp chế là tính hợp pháp
của các hoạt động tố tụng. Tính hợp pháp này thể hiện ở chỗ, các
hoạt động tố tụng phải được tiến hành theo quy định của pháp luật.
Như vậy, Nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa yêu cầu trong

khi xét xử, nghị án Tòa án phải tuân thủ các quy định của BLTTHS;
tuân thủ các quy định của luật nội dung – BLHS. Tất cả các hình
phạt được áp dụng đối với người có hành vi phạm tội đều phải trải
qua quá trình tố tụng nghiêm ngặt từ khâu điều tra, truy tố, xét xử và
quá trình này phải được thực hiện theo đúng các qui định của BLHS
và BLTTHS.
- Bảo đảm nguyên tắc xử lý nói chung và các nguyên tắc áp
dụng hình phạt nói riêng
Các nguyên tắc ADHP như pháp chế XHCN, cá thể hoá hình
phạt, nhân đạo và công bằng phải tuyệt đối được tuân thủ trong
ADHP. Bảo đảm được các nguyên tắc áp dụng hình phạt là bảo đảm
các nguyên tắc xử lý nói chung trong xét xử vụ án hình sự.
- Đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp
Thực hiện chính sách hình sự hướng thiện, coi trọng tính phòng
ngừa là ý tưởng chủ đạo trong việc xây dựng chính sách hình sự của
nhà nước ta. Bộ luật Hình sự cần được triển khai trên cơ sở đổi mới tư
duy về chính sách hình sự, đề cao hiệu quả phòng ngừa và tăng tính

18


hướng thiện trong việc xử lý người phạm tội, tôn trọng và bảo đảm
thực thi đầy đủ các quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của
công dân được ghi nhận trong Hiến pháp năm 2013 cũng như bảo đảm
thực thi các Công ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên là những
yêu cầu cơ bản trong ADPLHS nói chung, ADHP nói riêng.
- Bảo vệ công lý, bảo đảm quyền con người
Quyền con người là một trong những giá trị nhân bản cao nhất
mà các quốc gia trên thế giới đều đề cao và bảo vệ. Bảo vệ quyền
con người cũng là một nhân tố quan trọng cho sự phát triển bền vững

của một quốc gia. Mỗi quốc gia đều xây dựng hệ thống pháp luật
riêng cho quốc gia mình dựa trên các điều kiện chính trị, kinh tế, xã
hội và các giá trị truyền thống của quốc gia để bảo đảm các quyền
con người được thực hiện một cách tốt nhất và đầy đủ nhất.
- Bảo đảm đáp ứng yêu cầu phòng, chống tội phạm
Phòng, chống tội phạm là một công tác quan trọng, thường
xuyên, liên tục và lâu dài đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng, là nhiệm vụ
của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó, chú trọng công tác
phòng ngừa. Khi tội phạm bị phát hiện và được đưa ra xét xử thì áp
dụng hình phạt phải đáp ứng được yêu cầu phòng chống tội phạm,
trong đó có các tội XPSH. Nếu áp dụng hình phạt quá nặng sẽ dẫn đến
việc xử lý tội phạm chỉ mang tính chất trừng trị và thiếu tính giáo dục,
còn nếu áp dụng hình phạt quá nhẹ sẽ dung dưỡng, làm cho tội phạm
coi thường pháp luật, từ đó không đáp ứng được yêu cầu phòng chống
tội phạm nói chung
3.2. Các giải pháp bảo đảm áp dụng hình phạt đúng đối
với các tội xâm phạm sở hữu
3.2.1..Hoàn thiện pháp luật hình sự
Qua phân tích các nguyên nhân dẫn tới những sai sót, vi phạm
của Tòa án trong việc áp dụng hình phạt đối với các tội xâm phạm sở
hữu đã được chỉ ra ở phần trên. Một trong những nguyên nhân là do hạn
19


chế của các quy định hiện hành liên quan đến áp dụng hình phạt nói
chung, áp dụng hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu nói riêng
3.2.2.Tăng cường hướng dẫn áp dụng pháp luật
Tòa án nhân dân Tối cao cần tăng cường giám đốc xét xử,
tổng kết thực tiễn để rút kinh nghiệm trong vấn đề xét xử của Tòa án
các cấp. Với nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Tòa án nhân dân Tối

cao phải thường xuyên tổng kết thực tiễn xét xử và hướng dẫn các
Tòa án áp dụng thống nhất pháp luật.
3.2.3. Nâng cao năng lực, phẩm chất Thẩm phán và Hội thẩm
Một trong những đặc điểm của ADHP là mang tính tuỳ nghi,
tính lựa chọn cao; Thẩm phán, Hội thẩm độc lập và chỉ tuân theo
pháp luật. Vì vậy, để nâng cao hiệu quả của việc áp dụng hình phạt
nói chung, áp dụng hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu nói
riêng chúng ta phải quan tâm đến việc nâng cao chất lượng của đội
ngũ thẩm phán làm công tác xét xử hình sự. Đây là nhiệm vụ then
chốt có vai trò quyết định tới hiệu quả của việc áp dụng hình phạt nói
chung, áp dụng hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu nói riêng
3.2.4. Tăng cường hoạt động kiểm tra, giám sát việc áp dụng
hình phạt của Toà án
Kiểm tra, giám sát đối với hoạt động của Tòa án là một trong
những phương thức hữu hiệu để nâng cao chất lượng hoạt động của
Tòa án nói chung và hoạt động áp dụng hình phạt nói riêng.
Thông qua hoạt động kiểm tra, giám sát của Tòa án cấp cấp
trên (TAND Tp. Hồ Chí Minh) với Tòa án nhân quận, huyện để từ
đó kịp thời phát hiện những tồn tại, hạn chế trong hoạt động của Tòa
án cấp dưới hoặc những vi phạm, sai lầm của Hội đồng xét xử để qua
đó kịp thời có các biện pháp chấn chỉnh, khắc phục.

20


3.2.5. Bảo đảm thực hiện nguyên tắc Thẩm phán và Hội
thẩm xét xử độc lập
Độc lập trong xét xử là một nguyên tắc mang tính đặc thù của
các Thẩm phán. Vì vậy, để giữ được tính độc lập trong xét xử của các
thẩm phán nhưng không tách rời sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt

Nam, trong thời gian tới Đảng cần phải đổi mới phương thức lãnh đạo
cho phù hợp với đặc thù trong hoạt động xét xử của các Thẩm phán.
Hiện nay, trên thực tế, phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Tòa án
còn thiếu những quy định rõ ràng và cụ thể nên tính độc lập của
Thẩm phán đôi khi vẫn chưa được bảo đảm. Nhận thức được tầm quan
trọng trong việc đổi mới phương thức lãnh đạo đối với hoạt động của
Tòa án Nghị quyết 49/NQ-TW của Bộ Chính trị đã xác định: “Hoàn
thiện cơ chế lãnh đạo của Đảng đối với công tác tư pháp”. Do đó, để
nâng cao chất lượng đội ngũ Thẩm phán và Hội thẩm nhân dân thì
cũng cần phải hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng đối với hoạt
động của Thẩm phán để một mặt bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng
nhưng không can thiệp vào việc xét xử cụ thể của các Thẩm phán.
3.2.6. Các giải pháp khác
Trong quá trình xây dựng các quy định của BLTTHS cần tăng
cường tính minh bạch, nâng cao chất lượng tranh tụng, sử dụng ghi
âm, ghi hình như một nguồn chứng cứ khi thực hiện các quy định
của pháp luật trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử...
Ngoài ra, để việc giải quyết các vụ án hình sự nói chung và
các vụ án XPSH nói riêng đạt chất lượng, hiệu quả cao thì việc nâng
cao năng lực đội ngũ kiểm sát viên, trình độ chuyên môn của điều tra
viên cũng như phát triển đội ngũ luật sư tương xứng với sự phát triển
chính trị, kinh tế, xã hội của đất nước cũng hết sức quan trọng.
Kết luận Chương 3
Tại chương 3, tác giả đi sâu phân tích các yêu cầu và giải pháp
bảo đảm áp dụng hình phạt đúng đối với các tội xâm phạm sở hữu.
21


Trên cơ sở tuân thủ các nguyên tắc cơ bản của pháp luật hình sự,
trong đó đề cao nguyên tắc pháp chế xã hội chủ nghĩa, nguyên tắc xử

lý nói chung và nguyên tắc áp dụng hình phạt nói riêng trên cơ sở
đảm bảo quyền con người, đáp ứng yêu cầu phòng chống tội phạm
và cải cách tư pháp mà các Nghị quyết của Đảng, pháp luật của nhà
nước đã nêu ra. Đồng thời đưa ra các giải pháp nâng cao hiệu quả áp
dụng hình phạt đối với các tội xâm phạm sở hữu, đưa ra những giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật hình sự về các tội xâm phạm sở hữu
và nâng cao hiệu quả xét xử trong việc áp dụng hình phạt. Đề xuất
kịp thời hướng dẫn và tập huấn Bộ luật hình sự năm 2015, kiến nghị
về việc hoàn thiện, nâng cao chất lượng các văn bản hướng dẫn áp
dụng thống nhất pháp luật, hoàn thiện các quy định của pháp luật về
các căn cứ áp dụng hình phạt và kịp thời hướng dẫn việc áp dụng các
quy định của pháp luật về các căn cứ áp dụng hình phạt; Vấn đề
tuyển dụng đội ngũ cán bộ, tăng cường nâng cao trình độ chuyên
môn, trách nhiệm nghề nghiệp cho Thẩm phán, Hội thẩm nhân dân,
chế độ chính sách tiền lương ... Tất cả những giải pháp đó nhằm
nâng cao hiệu quả của việc áp dụng hình phạt đối với các tội xâm
phạm sở hữu nói riêng và áp dụng hình phạt nói chung. Khi hoàn
thiện được những vấn đề trên thì cơ quan áp dụng pháp luật mới có
những căn cứ chuẩn mực, công cụ sắc bén để áp dụng hình phạt đúng
pháp luật, công bằng và hợp lý đối với mỗi tội phạm và người phạm
tội, đạt được mục đích của hình phạt, đáp ứng được yêu cầu của cuộc
đấu tranh phòng chống tội phạm trong giai đoạn hiện nay.

22


KẾT LUẬN
Áp dụng hình phạt là một trong những chế định quan trọng
của luật hình sự Việt Nam, do đó nắm vững bản chất pháp lý của chế
định này sẽ giúp các Tòa án áp dụng hình phạt trong thực tế được

đúng. Qua việc nghiên cứu các quy định liên quan đến áp dụng hình
phạt cũng như thực tiễn áp dụng, tác giả rút ra những kết luận sau:
1. Áp dụng hình phạt là hoạt động thực tiễn của Tòa án (Hội
đồng xét xử) được thực hiện sau khi xác định tội danh để định ra
biện pháp tương ứng với tính chất, mức độ nguy hiểm cho xã hội của
hành vi bị cáo đã thực hiện. Nội dung của áp dụng hình phạt có thể là
miễn trách nhiệm hình sự, có thể là miễn hình phạt hoặc nếu Tòa án
áp dụng hình phạt thì hoạt động áp dụng hình phạt bao gồm việc xác
định loại và mức hình phạt hình phạt cụ thể trong phạm vi luật cho
phép đối với bị cáo.
Áp dụng hình phạt đúng không chỉ là cơ sở để đạt được mục
đích của hình phạt cũng như nâng cao hiệu quả của hình phạt mà
còn có ý nghĩa góp phần củng cố pháp chế và trật tự pháp luật xã
hội chủ nghĩa.
Áp dụng hình phạt là một hoạt động quan trọng trong áp dụng
pháp luật hình sự, việc áp dụng hình phạt phải tuân thủ các nguyên
tắc đặc thù cho hoạt động áp dụng hình phạt. Các nguyên tắc áp dụng
hình phạt là tư tưởng chỉ đạo định hướng trong quá trình xây dựng và
áp dụng các quy định pháp luật hình sự để Tòa án áp dụng hình phạt
đúng với người phạm tội.
Quá trình áp dụng các quy định của luật hình sự về áp dụng
hình phạt và thực tiễn xét xử đã cho thấy vai trò to lớn của các quyết
định này trong công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm cũng như
bộc lộ những hạn chế, thiếu sót. Chính vì những hạn chế nêu trên của
Bộ luật hình sự hiện hành về áp dụng hình phạt đã gây ảnh hưởng
không nhỏ đến hiệu quả của công tác đấu tranh phòng ngừa và chống
23



×