Tải bản đầy đủ (.pdf) (78 trang)

Nhiệm vụ, quyền hạn của viện kiểm sát nhân dân trong việc giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục xét xử giám đốc thẩm

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (673.4 KB, 78 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ KIỀU DIỄM

NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ
THEO THỦ TỤC XÉT XỬ GIÁM ĐỐC THẨM

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

HÀ NỘI – 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ KIỀU DIỄM

NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN
DÂN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ
THEO THỦ TỤC XÉT XỬ GIÁM ĐỐC THẨM

Ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SỸ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:


TS. HOÀNG THỊ QUỲNH CHI

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các tài liệu, số liệu trích dẫn trong luận án là trung thực, có nguồn
gốc rõ ràng. Những kết luận khoa học được trình bày trong luận án
chưa từng được công bố trong bất cứ công trình nào khác
Tác giả

Nguyễn Thị Kiều Diễm


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC
VỤ ÁN DÂN SỰ THEO THỦ TỤC XÉT XỬ GIÁM ĐỐC THẨM .................... 8
1.1. Tổng quan về thủ tục xét xử giám đốc thẩm vụ án dân sự và vị trí, chức năng
của Viện Kiểm sát nhân dân trong việc giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục
giám đốc thẩm ............................................................................................................. 8
1.2. Khái quát quá trình phát triển các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện
Kiểm sát nhân dân trong việc giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục xét xử giám
đốc thẩm .................................................................................................................... 23
1.3. Kinh nghiệm của một số nước về nhiệm vụ, quyền hạn của cơ quan công
tố/kiểm sát trong việc giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục xét xử giám đốc thẩm .. 31
Chương 2: THỰC TRẠNG QUY ĐỊNH VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN
CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC

VỤ ÁN DÂN SỰ THEO THỦ TỤC XÉT XỬ GIÁM ĐỐC THẨM VÀ
THỰC TIỄN THI HÀNH Ở VIỆT NAM ............................................................. 37
2.1. Quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện Kiểm sát nhân dân
trong việc giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục xét xử giám đốc thẩm theo Bộ luật
Tố tụng dân sự năm 2015 .......................................................................................... 37
2.2. Thực tiễn thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện Kiểm sát nhân dân trong việc
giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục xét xử giám đốc thẩm ........................................... 50
Chương 3: GIẢI PHÁP, KIẾN NGHỊ HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG
VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN DÂN SỰ THEO THỦ TỤC XÉT XỬ
GIÁM ĐỐC THẨM Ở VIỆT NAM ....................................................................... 57
3.1. Hoàn thiện pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện Kiểm sát nhân dân
trong việc giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục xét xử giám đốc thẩm..................... 57
3.2. Một số kiến nghị................................................................................................. 63
KẾT LUẬN .............................................................................................................. 68
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 70


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
BLTTDS

:

Bộ luật tố tụng dân sự

TA

:

Tòa án


TAND

:

Tòa án nhân dân

VKS

:

Viện kiểm sát

VKSND

:

Viện kiểm sát nhân dân

VKSNDTC :

Viện kiểm sát nhân dân tối cao


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 2013 tại
Khoản 1 Điều 107 quy định: “Viện kiểm sát có chức năng thực hành quyền

công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp”; Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân

dân năm 2014 tại Điều 27 quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát
nhân dân khi kiểm sát việc giải quyết vụ án hành chính, vụ việc dân sự, hôn nhân
và gia đình. Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015 tại Điều 21 quy định: “Viện

kiểm sát kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các
quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị theo quy định của pháp luật nhằm bảo
đảm cho việc giải quyết vụ việ dân sự kịp thời, đúng pháp luật ;Viện kiểm sát
tham gia phiên tòa, phiên họp sơ thẩm, phúc thẩm, giám đốc thẩm, tái thẩm”
Kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự là một trong các nhiệm vụ
thực hiện chức năng kiểm sát các hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân
dân. Viện kiểm sát thực hiện kiểm sát việc giải quyết các vụ án dân sự ở cả
hai cấp xét xử là sơ thẩm, phúc thẩm và thủ tục xét lại bản án, quyết định đã
có hiệu lực pháp luật của Tòa án (thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm). Giám đốc
thẩm là một thủ tục đặc biệt trong tố tụng Tòa án ở các nước thực hiện hai cấp
xét xử. Sau khi xét xử lần đầu (sơ thẩm) nếu không đồng ý với phán quyết của
Tòa án thì đương sự có quyền kháng cáo hoặc Viện kiểm sát có quyền kháng
nghị để Tòa án có thẩm quyền xét xử lại (phúc thẩm) bản án, quyết định đó.
Bản án, quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật ngay và cần được thi
hành. Tuy nhiên trong một số trường hợp bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của Tòa án lại không đúng với bản chất của sự việc hoặc có sai lầm
trong việc áp dụng pháp luật ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự, lợi ích của nhà nước, lợi ích công cộng… do đó cần
phải có một thủ tục đặc biệt để xét lại các bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật để sửa chữa những phán quyết sai lầm của Tòa án nhằm bảo quyền
1


và lợi ích hợp pháp của đương sự, của Nhà nước và của các chủ thể khác. Thủ
tục đặc biệt đó chính là thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm (thủ tục phá án).
Ở Việt Nam thực hiện chế độ hai cấp xét xử đó là xét xử sơ thẩm và

phúc thẩm, song trên thực tế việc xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật (xét xử giám đốc thẩm) đang bị coi là cấp xét xử thứ ba. Trong
những năm gần đây Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân
cấp cao nhận được một số lượng đơn rất lớn đề nghị kháng nghị theo thủ tục
giám đốc thẩm. Trong số đơn ấy có nhiều đơn đương sự đề nghị kháng nghị
giám đốc thẩm có căn cứ nhưng rất nhiều đơn đương sự đề nghị theo
hướng “cầu may” vì vậy làm gia tăng áp lực giải quyết đơn đề nghị giám đốc
thẩm cho cả Tòa án và Viện kiểm sát.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam, Viện kiểm sát là cơ quan tiến
hành tố tụng trong việc giải quyết các vụ án dân sự. Đặc biệt, trong việc giải
quyết các vụ án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm thì Viện kiểm sát tham gia
ngay từ khi nhận được đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm của đương sự
hoặc từ khi nhận được thông báo bằng văn bản của các cá nhân, cơ quan, tổ
chức phát hiện có vi phạm pháp luật trong bản án quyết định đã có hiệu lực
pháp luật. Tuy nhiên, qua các lần ban hành, sửa đổi, bổ sung Bộ luật Tố tụng
dân sự có sự thay đổi nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong tố tụng
dân sự (Khi thì thu hẹp phạm vi của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự, khi
thì mở rộng sự tham gia của Viện kiểm sát vào quá trình giải quyết các vụ án
dân sự. Sửa đổi Bộ luật Tố tung dân sự năm 2004 có rất nhiều ý kiến về vai
trò của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự. Tuy nhiên, ở thủ tục xét xử giám
đốc thẩm thì nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát tiếp tục được khẳng định
trong BLTTDS năm 2015. Thực tiễn trong các năm qua, khi thực hiện Bộ luật
Tố tụng dân sự thấy rằng thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát
nhân dân trong việc giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục xét xử giám đốc
thẩm còn một số hạn chế như: quyền yêu cầu của Viện kiểm sát (đặc biệt là
2


yêu cầu Tòa án chuyển hồ sơ vụ án để Viện kiểm sát thực hiện việc kháng
nghị theo thẩm quyền) còn chưa được Tòa án đáp ứng, kiến nghị của Viện

kiểm sát đối với Tòa án trong việc chuyển hồ sơ vụ án đã được Tòa án tiếp
thu song việc thực hiện kiến nghị còn chậm, số lượng kháng nghị giám đốc
thẩm của Viện kiểm sát so với đơn đề nghị kháng nghị của đương sự còn
khiêm tốn, do đó việc nghiên cứu các quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của
Viện kiểm sát ở trình tự này là hết sức cần thiết
2. Tình hình nghiên cứu đề tài:
Nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong việc giải
quyết các vụ án dân sự ở thủ tục xét xử giám đốc thẩm là vấn đề pháp lý
tương đối hep, do đó trong khoa học luật tố tụng dân sự chưa có công trình
nghiên cứu chuyên sâu về vấn đề này.
Có một số công trình nghiên cứu về Bộ Luật tố tụng dân sự ít nhiều đề
cập một số khía cạnh của vấn đề này; đó là: Đề tài khoa học cấp bộ của Viện
kiểm sát nhân dân tối cao (2006), “Căn cứ tiến hành thủ tục giám đốc thẩm
đối với các vụ án dân sự, vụ án hình sự” [31]; "Vị trí, vai trò của Viện kiểm
sát trong tố tụng dân sự theo yêu cầu cải cách tư pháp", của TS. Nguyễn Ngọc
Khánh, Tạp chí Kiểm sát, số 14 và 16 năm 2008 [4]; Đề án của Viện kiểm sát
nhân dân tối cao (2014) “Vị trí, vai trò, trách nhiệm của Kiểm sát viên tại
phiên tòa dân sự đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp” [33]; Đề tài khoa học cấp
bộ của Viện kiểm sát nhân dân tối cao (2017) “Viện kiểm sát nhân dân cấp
cao trong hệ thống Viện kiểm sát nhân dân mới” [34]; Đề án của Viện kiểm
sát nhân dân tối cao (2017), “Quy trình, kỹ năng kiểm sát bản án, quyết định
của Tòa án, đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp trong giai đoạn mới”[35]. Một
số các chuyên đề nghiệp vụ như: “Thực trạng, giải pháp nâng cao chất lượng
kiểm sát thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm và thủ tục đặc biệt xem xét lại quyết
định của Hội đồng Thẩm pháp tòa án nhân dân tối cao trong tố tụng dân sự”’
của Tiến sỹ Nguyễn Văn Quảng (2014)[10]; “Công tác kháng nghị giám đốc
3


thẩm trong lĩnh vực thừa kế” của Tiến sỹ Lê Thành Dương (2015) [6]. Một số

các bài viết trên tạp chí Kiểm sát, Thông tin Khoa học kiểm sát, các chuyên
đề bồi dưỡng chuyên sâu cho công chức ngành Kiểm sát : “Những nội dung
mới của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 về vị trí, vai trò của Viện kiểm sát
nhân dân trong tố tụng dân sự” của Tiến sỹ Hoàng thị Quỳnh Chi trên Thông
tin Khoa học kiểm sát số 3 và số 4 năm 2016; “Kỹ năng kiểm sát bản án,
quyết định dân sự của Tòa án” của Tiến sỹ Lê Thành Dương (2017) [7]; “Kỹ
năng thực hiện quyền kháng nghị, kiến nghị trong giải quyết các vụ việc dân
sự” của Tiến sỹ Vũ thị Hồng Vân (2017) [23]; “Kỹ năng kiểm sát việc giải
quyết theo thủ tục giám đốc thẩm và tái thẩm vụ án dân sự, hành chính, kinh
doanh thương mại và lao động; của thạc sỹ Phương Hữu Oanh (2017) [9]...
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu trên đây đã ít nhiều đề cập đến
nhiệm vụ, quyền hạn của VKSND trong việc giải quyết các vụ án dân sự. Tuy
nhiên vấn đề nghiên cứu đặt ra có phạm vi tương đối hẹp (chỉ ở thủ tục giám
đốc thẩm) trên cơ sở kế thừa, tiếp thu chọn lọc có bổ sung để hoàn thiện đề tài
nghiên cứu của mình, tác giả mong muốn Luận văn này trở thành một tài liệu
tham khảo tương đối đầy đủ và toàn diện, giải quyết được triệt để và thấu đáo
vấn đề này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Việc nghiên cứu luận văn là nhằm góp phần hoàn thiện lý luận, hoàn
thiện các quy định của pháp luật về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát
nhân dân trong việc giải quyết các vụ án dân sự ở thủ tục giám đốc thẩm góp
phần giải quyết vụ án dân sự nhanh chóng và đúng pháp luật. Để đạt được
mục đích trên, Luận văn có nhiệm vụ :
Nghiên cứu những đề lý luận cơ bản nhiệm vụ vủa Viện kiểm sát nhân
dân trong việc giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục GĐT.
Nghiên cứu các quy định của một số nước như: Pháp, Đức, Nga, Trung
Quốc, Mỹ, Úc, Nhật Bản… về nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm
4



sát/Viện công tố trong việc giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục giám đốc
thẩm, từ đó rút ra bài học đối với Việt Nam.
Phân tích, đánh giá các quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành quy
định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong việc giải quyết các vụ
án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm.
Đề xuất giải pháp, kiến nghị góp phần hoàn thiện các quy định của
pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật về nhiệm vụ và quyền hạn
của Viện kiểm sát nhân dân trong việc giải quyết các vụ án dân sự theo thủ
tục giám đốc thẩm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Để đánh giá một cách đầy đủ, về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm
sát nhân dân trong việc giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục giám đốc
thẩm, Luận văn nghiên cứu các quy định của một số quốc gia về nhiệm vụ,
quyền hạn của Viện kiểm sát/Viện công tố cũng như thực tiễn áp dụng các
quy định đó. Bên cạnh đó Luận văn cũng nghiên cứu, so sánh các quy định
của pháp luật Việt Nam về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân
qua các thời kỳ để khẳng định vai trò của Viện kiểm sát trong tố tụng dân sự.
Theo quy định của BLTTDS năm 2015, Tòa án và Viện kiểm sát có
thẩm quyền giải quyết các tranh chấp dân sự và các yêu cầu dân sự (vụ án dân
sự và việc dân sự); đồng thời khái niệm “dân sự” được hiểu theo nghĩa rộng
bao gồm cả dân sự, hôn nhân - gia đình, kinh doanh, thương mại và lao động.
Trong phạm vi nghiên cứu, Luận văn chỉ đề cập đến việc giải quyết các vụ án
dân sự quy đinh tại Điều 26 và Điều 28 BLTTDS năm 2015.
Luận văn nghiên cứu nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát trong thủ
tục xét xử các vụ án dân sự ở giai đoạn giám đốc thẩm từ khi Luật tổ chức
Viện kiểm sát nhân dân có hiệu lực thi hành từ tháng 6 năm 2015 (thành lập
thêm một cấp kiểm sát mới có nhiệm vụ giám đốc thẩm) và Bộ luật Tố tụng
dân sự có hiệu lực từ ngày 01 tháng 7 năm 2016; do đó số liệu về thực tiễn
5



thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân cấp cao và Viện
kiểm sát nhân dân tối cao trong việc giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục
giám đốc thẩm được thực hiện trong thời gian từ 01/6/2015 đến 30/11/2017.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận khoa học của Chủ
nghĩa Mác- Lê nin về nhà nước và pháp luật, dựa trên cơ sở các quan điểm chỉ
đạo của Đảng về hội nhập kinh tế và cải cách tư pháp. Các phương pháp
nghiên cứu cụ thể được sử dụng là: phân tích, so sánh, bình luận, trao đổi,
thống kê…
- Luận văn nghiên cứu các quy định của pháp luật Việt Nam về nhiệm
vụ quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong việc giải quyết các vụ án dân
sự ở thủ tục xét xử giám đốc thẩm.
- Nghiên cứu pháp luật của một số nước quy định về nhiệm vụ, quyền
hạn của Viện công tố/Viện kiểm sát trong việc giải quyết các vụ án dân sự ở
thủ tục giám đốc thẩm.
- Nghiên cứu thực tiễn việc thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của Viện
kiểm sát trong việc giải quyết các vụ án dân sự ở thủ tục xét xử giám đốc
thẩm trong thời gian qua.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo trong quá trình
nghiên cứu hoàn thiện các quy định của pháp luật về thủ tục giám đốc thẩm
và về vị trí, vai trò của Viện kiểm sát nhân dân trong tố tụng dân sự.
Luận văn cũng có thể được sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu và học tập môn Luật tố tụng dân sự, công tác kiểm sát việc giải quyết
các vụ, việc dân sự, cơ chế xét xử vụ án dân sự và các môn học về luật tổ chức
hệ thống tư pháp… tại các cơ sở đào tạo luật và cơ sở đào tạo của ngành.

6



- Luận văn là công trình nghiên cứu riêng biệt và chuyên sâu về căn
cứ nhiệm vụ và quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong thủ tục giám đốc
thẩm dân sự.
- Luận văn chỉ ra được sự khác biệt trong quy định của pháp luật một
số nước trên thế giới thuộc các truyền thống pháp luật lục địa và án lệ về vấn
đề nghiên cứu; những yếu tố tiến bộ và phù hợp mà Việt Nam có thể tham
khảo trong việc xây dựng và hoàn thiện pháp luật của mình về vấn đề này.
- Luận văn khảo sát, đánh giá được thực tiễn việc thực hiện nhiệm vụ,
quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân theo Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân 2014 và Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài lời nói đầu và kết luận, Luận văn được kết cấu thành 3 chương
Chương 1: Những vấn đề chung về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm
sát nhân dân trong việc giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục xét xử giám
đốc thẩm.
Chương 2: Thực trạng quy định về nhiệm vụ, quyền hạn của Viện kiểm
sát nhân dân trong việc giải quyết các vụ án dân sự theo thủ tục xét xử giám
đốc thẩm và thực tiễn thi hành ở Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp, kiến nghị hoàn thiện pháp luật về nhiệm vụ,
quyền hạn của Viện kiểm sát nhân dân trong việc giải quyết các vụ án dân sự
theo thủ tục xét xử giám đốc

7


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ NHIỆM VỤ, QUYỀN HẠN CỦA VIỆN
KIỂM SÁT NHÂN DÂN TRONG VIỆC GIẢI QUYẾT CÁC VỤ ÁN
DÂN SỰ THEO THỦ TỤC XÉT XỬ GIÁM ĐỐC THẨM

1.1. Tổng quan về thủ tục xét xử giám đốc thẩm vụ án dân sự và vị
trí, chức năng của Viện Kiểm sát nhân dân trong việc giải quyết các vụ
án dân sự theo thủ tục giám đốc thẩm
1.1.1. Khái quát chung về thủ tục xét xử giám đốc thẩm vụ án dân sự
1.1.1.1. Khái niệm, bản chất của thủ tục xét xử giám đốc thẩm vụ án
dân sự
*Khái niệm thủ tục giám đốc thẩm
Thủ tục tố tụng được hiểu là toàn bộ các trình tự, thủ tục, cách thức,
thời hạn tiến hành …của một số các cơ quan để có được một phán quyết về
một vấn đề tranh chấp. Tùy thuộc vào mỗi loại tranh chấp, yêu cầu của người
giải quyết tranh chấp sẽ có các thủ tục tố tụng khác nhau. Nếu căn cứ vào tính
chất của chủ thể ra phán quyết có thể chia thành thủ tục tố tụng Tòa án và thủ
tục tố tụng tại các cơ quan hành chính trong việc giải quyết các tranh chấp.
Thủ tục tố tụng Tòa án được hiểu là toàn trình tự, thủ tục, quy định việc
giải quyết một vụ án hình sự, dân sự hoặc hành chính. Thủ tục tố tụng này
thường được phân loại theo nhiều tiêu chí khác nhau như: thủ tục tố tụng hình
sự, thủ tục tố tụng dân sự, thủ tục tố tụng hành chính… hoặc thủ tục tố tụng
tại Tòa án cấp sơ thẩm (thủ tục sơ thẩm), thủ tục tố tụng tại Tòa án cấp phúc
thẩm (thủ tục phúc thẩm), thủ tục tố tụng tại Tòa giám đốc thẩm
Một số các quốc gia khác (thường là các nước theo truyền thống thông
luật lại không áp dụng chế độ hai cấp xét xử. Nếu không đồng ý với phán
quyết của Tòa án, đương sự có quyền kháng cáo nhưng tại mỗi cấp Tòa án
khác nhau, pháp luật lại quy định các căn cứ kháng cáo khác nhau. Ở các

8


quốc gia này, không có khái niệm bản án, có hiệu lực pháp luật, bản án chung
thẩm vì vậy không có thủ tục xét lại bản án có hiệu lực pháp luật mà các nước
theo truyền thống dân sự gọi là thủ tục phá án hoặc thủ tục giám đốc thẩm.

Các nước này thường quy định thủ tục tại Tòa sơ thẩm hoặc Tòa kháng cáo
(Appeal Court). Tại mỗi Tòa kháng cáo cũng có những căn cứ, thủ tục khác
nhau: Ví dụ Nhật Bản mặc dù không phải là quốc gia điển hình theo truyền
thống thông luật song pháp luật tố tụng Tòa án của Nhật Bản có khá nhiều
điểm tương đồng với pháp luật các nước này. Theo quy định của Bộ luật Tố
tụng hình sự, Bộ luật Tố tụng dân sự và Quy chế số 5 ngày 17 tháng 11 năm
1996 của Tòa án tối cao Nhật Bản, chế độ xét xử được thực hiện theo ba cấp:
Cấp sơ thẩm, cấp phúc thẩm koso, cấp phúc thẩm Jokoku, Kokoku, hoặc tái
thẩm. Trong các thủ tục này, phúc thẩm Jokoku có tính chất gần giống với
tính chất của thủ tục giám đốc thẩm trong tố tụng Tòa án của Việt Nam, Liên
bang Nga, Trung Quốc hoặc thủ tục phá án theo pháp luật của cộng hòa Pháp
và một số nước khác trên thế giới. Sở dĩ pháp luật tố tụng ở Nhật Bản gọi thủ tục
này là thủ tục phúc thẩm vì theo quan điểm lập pháp và theo pháp luật hiện hành
thì không có khái niệm “bản án có hiệu lực pháp luật” (thực chất là hiệu lực thi
hành) như các nước khác. Sau khi phúc thẩm Koso (có tính chất tương tự như
phúc thẩm ở nước ta), nếu thấy có căn cứ theo quy định của pháp luật thì đương
sự có quyền kháng cáo Jokoku và bản án chưa được thi hành [32].
Ở những nước thực hiện chế độ hai cấp xét xử (thường là các nước theo
truyền thống luật dân sự và các nước xã hội chủ nghĩa trước đây như Liên Xô,
Trung Quốc, Việt Nam…sau khi xét xử lần đầu (sơ thẩm) nếu không đồng ý
với phán quyết của Tòa án, đương sự có quyền kháng cáo để Tòa án có thẩm
quyền xét xử lại (phúc thẩm). Sau khi xét xử sơ thẩm hoặc phúc thẩm mà
không có kháng cáo của đương sự hoặc kháng nghị của VKS trong thời hạn
pháp luật quy định thì phán quyết của Tòa án có hiệu lực pháp luật và phán
quyết đó phải được thi hành. Tuy nhiên trong trường hợp phán quyết của Tòa
9


án đã có hiệu lực pháp luật mà phát hiện có sai lầm ảnh hưởng nghiêm trọng
đến quyền lợi ích hợp pháp của đương sự và các chủ thể khác thì pháp luật

các nước đều cho phép kháng cáo để xét lại các bản án, quyết định đã có hiệu
lực đó với các tên gọi khác nhau như: thủ tục phá án, thủ tục giám đốc thẩm…
để hạn chế đến mức tối đa những phá quyết sai lầm của Tòa án bảo vệ quyền
và lợi ích hợp pháp cho nhà nước, các đương sự và các chủ thể khác [32].
Hệ thống xét xử của Toà án nhân dân ở nước ta gồm hai cấp: cấp sơ
thẩm và cấp phúc thẩm. Hệ thống xét xử hai cấp được hiểu là bản án sơ thẩm
(chưa có hiệu lực pháp luật) còn có thể bị cấp phúc thẩm xét xử lại trong
trường hợp có kháng cáo, kháng nghị theo quy định của pháp luật. Việc xét
xử hai cấp không có nghĩa là cấp sơ thẩm xét xử xong là mặc nhiên đến cấp
xét xử phúc thẩm xử lại. Nếu có kháng cáo, kháng nghị theo quy định của
pháp luật thì Toà án cấp phúc thẩm phải tổ chức xét xử phúc thẩm nhằm sửa
chữa những sai lầm mà Toà án cấp sơ thẩm mắc phải, bảo đảm áp dụng pháp
luật thống nhất, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của các đương sự.
Tuy nhiên, về nguyên tắc bản án, quyết định của Toà án luôn phải đảm
bảo tính hợp pháp và tính có căn cứ, do đó, việc xem xét tính hợp pháp và
tính có căn cứ của bản án, quyết định không những được thực hiện trước khi
chúng có hiệu lực pháp luật, mà ngay cả sau khi chúng có hiệu lực pháp luật.
Như vậy, những bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nếu phát hiện
thấy những vi phạm thì sẽ bị kháng nghị theo quy định của pháp luật. Khi đó,
sẽ nảy sinh mâu thuẫn: một là yêu cầu về tính bắt buộc phải thi hành bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật; hai là, yêu cầu về nguyên tắc pháp chế
trong tố tụng dân sự đòi hỏi các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
nhưng vi phạm pháp luật phải hủy bỏ. Giải quyết không đúng mâu thuẫn này
hoặc sẽ làm xáo trộn thêm các quan hệ dân sự vốn đã bị xáo trộn bởi tranh
chấp, bởi vi phạm trước đó hoặc sẽ phải chấp nhận hiện tượng quyền và lợi
ích hợp pháp của các bên đương sự không được bảo vệ thoả đáng. Hậu quả là
10


trong cả hai trường hợp, uy tín và hiệu lực xét xử của Toà án đều bị giảm sút.

Để khắc phục tình trạng này, pháp luật tố tụng dân sự nước ta đã quy định
một thủ tục đặc biệt nhằm xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
nhưng phát hiện thấy sai lầm. Đó là thủ tục giám đốc thẩm. Thủ tục giám đốc
thẩm trong tố tụng dân sự được quy định khá sớm và không ngừng được hoàn
thiện cho phù hợp với tổ chức của các cơ quan tư pháp nói chug và hệ thống
Tòa án nói riêng đồng thời phù hợp với tiến trình hội nhập quốc tế và công cuộc
cải cách tư pháp của Nhà nước ta. Trong nhiều năm qua các quy định này đã tạo
điều kiện thuận lợi cho Tòa án và các cơ quan nhà nước có thẩm quyền trong
việc giải quyết các tranh chấp theo thủ tục giám đốc thẩm bảo vệ lợi ích của Nhà
nước, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân.
Theo Từ điển Tiếng Việt, “Giám đốc thẩm” là Tòa án có thẩm quyền
xét lại các bản án hoặc quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp
dưới khi bị kháng nghị trên cơ sở phát hiện có sai lầm trong quá trình điều
tra, xét xử vụ án”
Theo cuốn “Từ điển giải thích thuật ngữ luật học”, “Giám đốc thẩm” là
xét lại bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng cáo, kháng
nghị vì phát hiện có vi phạm trong việc xử lý vụ án”
Tại Điều 325 BLTTDS năm 2015 quy định “GĐT là việc xét lại bản án,
quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật nhưng bị kháng nghị GĐ Tkhi
có căn cứ quy định tại Điều 326 của Bộ luật này”
Các căn cứ để kháng nghị giám đốc thẩm bao gồm:
“a) Kết luận trong bản án, quyết định không phù hợp với những tình tiết
khách quan của vụ án gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương sự;
b) Có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm cho đương sự không
thực hiện được quyền, nghĩa vụ tố tụng của mình, dẫn đến quyền, lợi ích hợp
pháp của họ không được bảo vệ theo đúng quy định của pháp luật;

11



c) Có sai lầm trong việc áp dụng pháp luật dẫn đến việc ra bản án,
quyết định không đúng, gây thiệt hại đến quyền, lợi ích hợp pháp của đương
sự, xâm phạm đến lợi ích công cộng, lợi ích của Nhà nước, quyền, lợi ích hợp
pháp của người thứ ba”.
Như vậy rõ ràng, GĐT là một thủ tục đặc biệt của tố tụng dân sự trong
đó Toà án cấp trên xét lại vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp
luật của Toà án cấp dưới bị kháng nghị do phát hiện thấy những sai lầm.
GĐT là một thủ tục đặc biệt bởi lẽ đối tượng bị kháng nghị là bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Xét lại là kiểm tra xem xét tính hợp pháp
và tính có căn cứ của bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật. Tính hợp
pháp của bản án, quyết định thể hiện ở chỗ nội dung của nó phải phù hợp việc
quy định của pháp luật dân sự và về hình thức phải phù hợp với pháp luật tố
tụng dân sự. Tính có căn cứ thể hiện ở chỗ, kết luận trong bản án, quyết định
phải phù hợp với tình tiết khách quan của vụ án.
Tuy nhiên, cũng cần phải phân biệt giữa thủ tục giám đốc thẩm với
giám đốc việc xét xử. Trước đây hai khái niệm này đều được dùng với một ý
nghĩa. Theo thông tư 06/TC ngày 23/7/1964 của Toà án nhân dân tối cao thì:
"Trình tự giám đốc xét xử (tức trình tự giám đốc thẩm) là trình tự tố tụng áp
dụng trong việc xét xử lại những vụ án đã có bản án hoặc quyết định có hiệu
lực pháp luật nhưng phát hiện có sai lầm”. Hiện nay, giám đốc xét xử và giám
đốc thẩm là hai khái niệm khác nhau.
Giám đốc thẩm là thủ tục đặc biệt của tố tụng dân sự trong đó Toà án cấp
trên xét lại vụ án mà bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Toà án cấp
dưới bị kháng nghị do phát hiện thấy những sai lầm hoặc vi phạm pháp luật.
Giám đốc xét xử là sự kiểm tra hoạt động xét xử của Toà án cấp trên
đối với Toà án cấp dưới, thông qua đó mà đề ra các biện pháp sửa chữa, hủy
bỏ những sai lầm đảm bảo cho bản án, quyết định của Toà án đã tuyên là hợp
pháp và có căn cứ. Giám đốc xét xử bao gồm nhiều hoạt động như kiểm tra,
12



phát hiện thiếu sót, sai lầm, giải quyết khiếu nại, tố cáo của các cơ quan nhà
nước, tổ chức xã hội, tổ chức kinh tế và của công dân về các vụ án mà bản án,
quyết định đã có hiệu lực pháp luật; tổng kết kinh nghiệm xét xử; hướng dẫn
Toà án các cấp áp dụng thống nhất pháp luật; kháng nghị các bản án, quyết định
đã có hiệu lực pháp luật để xét xử theo thủ tục giám đốc thẩm, tái thẩm. Như
vậy, giám đốc xét xử là hoạt động quản lý về công tác xét xử của Toà án cấp trên
đối với Toà án cấp dưới, không lệ thuộc vào có hay không có kháng nghị.
1.1.1.2. Các chủ thể tham gia vào quá trình giải quyết vụ án dân sự
theo thủ tục xét xử giám đốc thẩm
Chủ thể của quan hệ pháp luật tố tụng dân sự là cá cá nhân, tổ chức
tham gia vào qua hệ pháp luật tố tụng dân sự, bao gồm: Cơ quan tiến hành tố
tụng (Tòa án, Viện kiểm sát); người tiến hành tố tụng (Chánh án, Thẩm phán,
Thẩm tra viên, Thứ ký Tòa án, Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân, Kiểm sát
viên, Kiểm tra viên). Người tham gia tố tụng, bao gồm đương sự (nguyên
đơn, bị đơn dân sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan trong giải quyết
vụ án dân sự và những người tham gia tố tụng khác (Người bảo vệ quyền và
lợi ích hợp pháp của đương sự, người làm chứng, người giám định, người
phiên dịch, người đại diện của đương sự).
Tuy nhiên việc xét lại bản án, quyết định theo trình tự giám đốc thẩm là
một thủ tục đặc biệt, do đó chủ thể tham gia giải quyết vụ án ở giai đoạn này
thông thường chỉ là cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành tố tụng; chỉ
trong những trường hợp xét thấy cần thiết Tòa án mới triệu tập đương sự hoặc
người đại diện hợp pháp, người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của đương
sự hoặc người tham gia tố tụng khác.
a. Về cơ quan tiến hành tố tụng, gồm:
Tòa án nhân dân và Viện kiểm sát nhân dân: Trước ngày 01/7/2016,
theo quy định Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và Luật Tổ chức Viện kiểm sát
nhân dân năm 2002 và Bộ luật tố Tụng dân sự năm 2004 được sửa đổi, bổ
13



sung năm 2011, thẩm quyền giám đốc thẩm thuộc về TAND tối cao, VKSND
tối cao, TAND cấp tỉnh, VKSND cấp. Theo đó TAND tối cao và VKSND tối
cao có thẩm quyền giám đốc thẩm các các bản án, quyết định đã có hiệu lực
pháp luật của Tòa án các cấp trừ quyết định GĐT của Hội đồng Thẩm phán
TAND tối cao; TAND cấp tỉnh và VKSND cấp tỉnh có thẩm quyền giám đốc
thẩm các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp huyện
(Điều 285 BLTTDS sửa đổi 2011). Việc xét xử GĐT thuộc về Tòa chuyên
trách TANDTC, Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao hoặc Ủy ban Thẩm phán
TAND cấp tỉnh.
Hiện nay, theo Luật Tổ chức Tòa án nhân dân và Luật Tổ chức Viện
kiểm sát nhân dân 2014, Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2015, Tòa án và Viện
kiểm sát cấp tỉnh không còn thẩm quyền giám đốc thẩm các bản án, quyết
định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp huyện mà thẩm quyền này được
giao cho Tòa án nhân dân cấp cao và Viện kiểm sát nhân dân cấp cao - Một
cấp Tòa án và Viện kiểm sát mới được thành lập từ năm 2015, đồng thời việc
giám đốc thẩm các bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án cấp
tỉnh cũng được giao cho cấp này. Toà án nhân nhân tối cao và Viện kiểm sát
nhân dân tối cao có thẩm quyền giám đốc thẩm bản án, quyết định đã có hiệu
lực của TAND cấp cao và Tòa án khác khi cần thiết; trừ quyết định GĐT của
Hội đồng Thẩm phán TAND tối cao,
b. Về người tiến hành tố tụng, gồm:
- Chánh án Tòa án nhân dân tối cao và Chánh án Tòa án nhân dân cấp
cao: đây là người được bầu hoặc được bổ nhiệm theo quy định của pháp luật,
có một số nhiệm vụ quyền hạn trong quá trình xét xử giám đốc thẩm các vụ
án dân sự.
- Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao và thẩm phán Tòa án nhân dân
cấp cao: đây là các chức danh tư pháp được Quốc hội hoặc Chánh án Tòa án
nhân dân tối cao bổ nhiệm chuyên làm nhiệm vụ xét xử các vụ án.

14


- Thẩm tra viên: là một chức danh tư pháp mới được quy định trong
Luật Tổ chức Tòa án nhân dân năm 2014 và Bộ luật Tố tụng dân sự năm
2015. Thẩm tra viên thẩm tra hồ sơ vụ án dân sự, báo cáo Chánh án về kết
quả thẩm tra, đề xuất phương án giải quyết đồng thời hỗ trợ Thẩm phán một
số hoạt động tố tụng khi bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật cần xem
xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm.
- Viện trưởng Viện kiểm sát nhân sân tối cao,Viện trưởng Viện kiểm
sát nhân dân cấp cao: Là người được bầu hoặc được bổ nhiệm là người lãnh
đạo Viện kiểm sát; Viện trưởng có nhiệm vụ và quyền hạn trong việc thực
hiện chức năng kiểm sát việc tuân theo pháp luật của Tòa án trong việc giải
quyết vụ án dân sự.
- Kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao và kiểm sát viên cao
cấp: đây là các chức danh tư pháp do Chủ tịch nước hoặc Viện trưởng Viện
kiểm sát nhân dân tối cao bổ nhiệm làm nhiệm vụ kiểm sát việc tuân theo
pháp luật trong quá trình giải quyết vụ án của Tòa án.
- Kiểm tra viên: Giống như thẩm tra viên, kiểm tra viên là chức danh tư
pháp mới được quy định từ năm 2014, có nhiệm vụ giúp Kiểm sát viên nghiên
cứu hồ sơ vụ án, đề xuất phương án giải quyết vụ án, hỗ trợ Kiểm sát viên
kiểm sát việc tuân theo pháp luật trong việc giải quyết vụ án dân sự theo thủ
tục giám đốc thẩm.
1.1.1.3. Trình tự, thủ tục giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục xét xử
giám đốc thẩm
Theo quy định của Bộ luật tố tụng dân sự, bản án, quyết định dân sự sơ
thẩm khi hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị theo quy định tại các Điều 273,
Điều 280, Điều 322 BLTTDS năm 2015) thì có hiệu lực pháp luật và phải
được thi hành, còn bản án quyết định phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ
ngày tuyên án và cũng cần được thi hành (Điều 313 BLTTDS năm 2015). Tuy

nhiên trong một số trường hợp khi đã hết thời hạn kháng cáo, kháng nghị
15


phúc thẩm (đối với bản án, quyết định sơ thẩm) và bản án quyết định phúc
thẩm đã có hiệu lực pháp luật mà đương sự hoặc một số các cá nhân, cơ quan,
tổ chức có thẩm quyền mới phát hiện ra phán quyết của Tòa án không phù
hợp với các tình tiết khách quan của vụ án gây thiệt hại đến quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự; có vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng làm cho
đương sự không thực hiện được quyền và nghĩa vụ của mình dẫn đến quyền
và lợi ích hợp pháp của họ không được bảo vệ; hoặc có sai lầm trong việc áp
dụng pháp luật dẫn đến việc ra quyết định, bản án không đúng gây thiệt hại
đến quyền lợi ích hợp pháp của đương sự, xâm phạm đến lợi ích công cộng,
lợi ích của Nhà nước, quyền lợi ích hợp pháp của người thứ ba khi đó một
trình tự tố tụng mới được mở ra để xem xét lại các bản án, quyết định đã có
hiệu lực pháp luât – đó chính là thủ tục giám đốc thẩm (thủ tục phá án). Giám
đốc thẩm là một thủ tục đặc biệt, vì vậy nó phải tuân theo những trình tự, thủ
tục do Bộ luật Tố tụng dân sự quy định, cụ thể:
Thứ nhất, thụ lý đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm
Về thời hạn gửi đơn đề nghị xem xét lại bản án, quyết định đã có hiệu
lực pháp luật của Tòa án (sau đây viết tắt là đơn đề nghị) theo thủ tục giám
đốc thẩm của đương sự: Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối
cao, Tòa án nhân dân cấp cao, Viện kiểm sát nhân dân cấp cao chỉ xem xét
đơn đề nghị mà đương sự gửi trong thời hạn 01 năm kể từ ngày bản án, quyết
định của Tòa án có hiệu lực pháp luật, nếu đơn của đương sự gửi quá thời hạn
này sẽ không được xem xét thụ lý.
Ngoài đương sự thì Tòa án, Viện kiểm sát hoặc cá nhân cơ quan tổ
chức khác phải thông báo bằng văn bản cho người có thẩm quyền kháng nghị
giám đốc thẩm quy định tại Điều 331 BLTTDS năm 2015. Chánh án Tòa án
nhân dân cấp tỉnh có quyền kiến nghị chánh án Tòa án nhân dân cấp cao hoặc

tối cao xem xét kháng nghị theo thủ tục giám đốc thẩm các bản án, quyết định

16


của tòa án nếu phát hiện có căn cứ quy định tại Khoản 1 Điều 326 BLTTDS
năm 2015.
Kiểm tra đơn đề nghị, văn bản thông báo: Khi nhận được đơn đề nghị,
văn bản thông báo người được phân công phải kiểm tra cả về nội dung và
hình thức của đơn xem có đúng quy định tại Điều 328 BLTTDS năm 2015
không. Nếu đủ các nội dung Tòa án, Viện kiểm sát vào sổ nhận đơn và cấp
giấy xác nhận đã nhận đơn cho đương sự; trường hợp không đủ các nội dung
trên thì hướng dẫn đương sự gửi đơn sửa đổi, bổ sung các nội dung còn thiếu
trong vòng 01 tháng, hết thời hạn này mà người gửi đơn không sửa đổi, bổ
sung thì Tòa án, Viện kiểm sát trả lại đơn đề nghị cho đương sự và nêu rõ lý
do đồng thời ghi chú vào sổ nhận đơn. Tòa án và Viện kiểm sát chỉ thụ lý đơn
khi có đầy đủ các nội dung quy định tại Điều 328 BLTTDS năm 2015.
Thứ hai, yêu cầu Tòa án đã ra bản án, quyết định đang bị đề nghị
xem xét lại theo thủ tục giám đốc thẩm chuyển hồ sơ vụ án.
Sau khi thụ lý đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm Tòa án, hoặc
VKS làm văn bản yêu cầu Tòa án đang quản lý hồ sơ vụ án đó chuyển hồ sơ
cho Tòa án, Viện kiểm sát đã nhận đơn yêu cầu đề nghị kháng nghị giám đốc
thẩm để nghiên cứu. Việc chuyển hồ sơ theo quy định tại Khoản 2 Điều 5
Thông tư liên tịch số 02/2016/TTLT-TANDTC-VKSNDTC ngày 31 tháng 8
năm 2016
Thứ ba, nghiên cứu hồ sơ:
Sau khi nhận được hồ sơ vụ án TA, VKS có thẩm quyền kháng nghị
GĐT tiến hành nghiên cứu hồ sơ vụ án. Đây là giai đoạn quan trọng nhất để
quyết định có mở ra thủ tục tố tụng mới hay không. Kết thúc việc nghiên cứu
hồ sơ vụ án, TA hoặc VKS phải ra quyết định kháng nghị (Nếu có đủ căn cứ

kháng nghị), hoặc thông báo cho đương sự và các các nhân, cơ quan khác biết
việc không kháng nghị (nếu không đủ căn cứ kháng nghị)

17


Trong quá trình nghiên cứu hồ sơ TA và VKS có quyền yêu cầu đương
sự, các cá nhân, cơ quan, tổ chức cung cấp tài liệu, chứng cứ liên quan đến
việc giải quyết đơn đề nghị kháng nghị giám đốc thẩm mà họ đang lưu giữ.
Thứ tư, ban hành kháng nghị và gửi quyết định kháng nghị giám đốc thẩm
Nếu hồ sơ vụ án có đủ căn cứ thì Chánh án (TA tối cao hoặc TA cấp
cao) Viện trưởng (VKS tối cao hoặc VKS cấp cao) ban hành quyết định
kháng ngị giám đốc thẩm đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật
của Tòa án.
Quyết định kháng nghị giám đốc thẩm phải được gửi cho các đương sự,
TA, VKS... theo quy định tại Điều 336 BLTTDS năm 2015. Đồng thời với
việc gửi quyết định kháng nghị giám đốc thẩm thì hồ sơ vụ án phải được
chuyển cho Tòa án có thẩm quyền xét xử giám đốc thẩm (trường hợp VKS
kháng nghị); hoặc hồ sơ được chuyển cho VKS tham gia phiên họp giám đốc
thẩm (trường hợp TA kháng nghị) để VKS nghiên cứu hồ sơ trong thời hạn 15
ngày; hết thời hạn này VKS phải chuyển trả hồ sơ cho TA cùng cấp để chuẩn
bị mở phiên họp giám đốc thẩm.
Thứ năm, chuẩn bị phiên tòa GĐ
Để chuẩn bị mở phiên Tòa GĐT, Chánh án phải thành lập hội đồng xét
xử GĐT theo quy định tại Điều 338 BLTTDS năm 2015. Đồng thời, Chánh
án phải phân công một Thẩm phán làm bản thuyết trình về nội dung vụ án,
nội dung của kháng nghị, bản thuyết trình này phải được gửi cho các thành
viên hội đồng xét xử GĐT chậm nhất là 07 ngày trước khi mở phiên tòa GĐT
(Điều 340 BLTTDS năm 2015)
Thứ sáu, Phiên tòa giám đốc thẩm

Theo quy định tại Điều 339 BLTTDS năm 2015 trong thời hạn 4 tháng
kể từ ngày nhận được kháng nghị kèm theo hồ sơ vụ án, Tòa án có thẩm
quyền giám đốc thẩm phải mở phiên tòa để xét xử vụ án theo thủ tục giám
đốc thẩm.
18


Phiên tòa GĐT gồm có: VKS cùng cấp, nếu thấy cần thiết TA có thể
triệu tập đương sự hoặc người đại diện hợp pháp, người bảo vệ, quyền lợi ích
hợp pháp của đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác có liên quan đến
việc kháng nghị. Thành phần hội đồng: có thể là Hội đồng xét xử toàn thể
hoặc Hội đồng gồm 03 hoặc 05 Thẩm phán theo quy định tại Điều 337
BLTTDS năm 2015.
Tại phiên tòa GĐT một thành viên Hội đồng xét xử trình bày tóm tắt
nội dung vụ án, quá trình xét xử vụ án vụ án, bản án, quyết định của TA có
hiệu lực pháp luật bị kháng nghị, căn cứ, nhận định của kháng nghị và đề nghị
của người kháng nghị. Nếu VKS kháng nghị thì VKS trình bày nội dung
kháng nghị. Đương sự hoặc người đại diện hợp pháp, người bảo vệ, quyền lợi
ích hợp pháp của đương sự hoặc người tham gia tố tụng khác được TAND
triệu tập đến phiên tòa trình bày ý kiến về những vấn đề mà hội đồng xét xử
yêu cầu, nếu họ vắng mặt mà có ý kiến trình bày bằng văn bản thì Hội đồng
xét xử công bố ý kiến của họ.
Đại diện VKSND phát biểu ý kiến về kháng nghị (nếu VKS kháng
nghị) và quan điểm giải quyết vụ án.
Cuối cùng các thành viên hội đồng xét xử phát biểu ý kiến và thảo luận;
sau đó Hội đồng xét xử tiến hành nghị án và biểu quyết về việc giải quyết vụ
án và công bố nội dung quyết định về việc giải quyết vụ án tại phiên tòa.
Thứ bẩy, ra quyết định và gửi quyết định giám đốc thẩm
Sau khi xét xử giám đốc thẩm, Hội đồng xét xử giám đốc thẩm phải ra
quyết định nhân danh nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quyết định

này phải có đầy đủ các nội dung được quy định tại Điều 348 BLTTS năm
2015. Trong thời hạn 5 ngày làm việc kể từ ngày ra quyết định Hội đồng xét
xử GĐT phải gửi quyết định GĐT cho đương sự, người khác có quyền lợi,
nghĩa vụ liên quan theo quyết định giám đốc thẩm, Tòa án ra bản án, quyết
định có hiệu lực pháp luật bị kháng nghị; VKSND cùng cấp, cơ quan thi hành
19


án dân sự có thẩm quyền. Đồng thời quyết định này được công bố trên cổng
thông tin điện tử của Tòa án (nếu có) trừ trường hợp quy định tại Khoản 2
Điều 109 BLTTDS năm 2015.
Như vậy quy trình giải quyết vụ án dân sự theo thủ tục GĐT bắt đầu từ
khi nhận và thụ lý đơn yêu cầu kháng nghị GĐT và kết thúc khi Hội đồng xét
xử ban hành quyết định GĐT.
1.1.2. Vị trí, chức năng của Viện Kiểm sát nhân dân trong việc giải
quyết vụ án dân sự theo thủ tục xét xử giám đốc thẩm
1.1.2.1. Vị trí
Theo quy định tại khoản 1 Điều 107 Hiến pháp năm 2013, thì VKSND
có chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp. Trong
BLTTDS năm 2015 tại Điều 21 quy định: “VKS kiểm sát việc tuân theo pháp
luật trong tố tụng dân sự, thực hiện các quyền yêu cầu, kiến nghị, kháng nghị
theo quy định của pháp luật nhằm bảo đảm cho việc giải quyết vụ việc dân sự
kịp thời đúng pháp luật; VKS tham gia phiên toà, phiên họp phúc thẩm, giám
đốc thẩm, tái thẩm” Cũng tại Điều 46 Bộ luật này quy định VKS là cơ quan
tiến hành tố tụng. Như vậy pháp luật đã khẳng định trong tố tụng dân sự VKS
cơ quan tiến hành tố tụng trong quá trình giải quyết vụ án dân sự.
Trong thủ tục giải quyết các vụ án dân sự theo trình tự giám đốc thẩm
thấy rằng VKS là cơ quan tiến hành tố tụng được thể hiện rất rõ: Viện kiểm
sát có thẩm quyền nhận đơn và giải quyết đơn đề nghị kháng nghị giám đốc
thẩm của đương sự, cá nhân, cơ quan, tổ chức (Điều 328 BLTTS năm

2015),VKS có quyền yêu cầu Tòa án chuyển hồ sơ vụ án để nghiên cứu giải
quyết theo thẩm quyền (Khoản 2 Điều 5 TTLT số 02); trường hợp VKS
kháng nghị, VKS có quyền thu thập tài liệu, chứng cứ để đảm bảo cho việc
thực hiện quyền kháng nghị giám đốc thẩm (Khoản 6 Điều 97 BLTTDS năm
2015); VKS có quyền quyết định kháng nghị, thay đổi, bổ sung hoặc rút
kháng nghị đối với bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án
20


×