Tải bản đầy đủ (.docx) (69 trang)

Định giá tài sản góp vốn thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên theo luật doanh nghiệp 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (356.64 KB, 69 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ,

1


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày 26/11/2014, Luật Doanh nghiệp chính thức được Quốc hội ban hành với
mục tiêu cao nhất là đưa doanh nghiệp trở thành một công cụ kinh doanh an toàn hơn
và hấp dẫn hơn cho các nhà đầu tư, để qua đó tăng cường huy động và thu hút hơn
nữa mọi nguồn lực, cũng như vốn đầu tư vào sản xuất, kinh doanh. Trên cơ sở kế
thừa và phát huy những kết quả đã đạt được của Luật Doanh nghiệp 1999 và Luật
Doanh nghiệp 2005, đồng thời khắc phục những điểm hạn chế, bất cập của quy định
hiện hành và thể chế hóa các quan điểm của Đảng, giải quyết các vướng mắc phát
sinh từ thực tiễn, Luật Doanh nghiệp 2014 đã có những quy định mới nhằm tạo ra
một môi trường kinh doanh thuận lợi hơn nữa cho doanh nghiệp.
Luật Doanh nghiệp 2014 ra đời đã đánh dấu một sự thay đổi lớn trong pháp
luật về doanh nghiệp ở Việt Nam, đồng thời phản ánh được nhiều tư tưởng và mục
tiêu nổi bật của Luật Doanh nghiệp 2014 là hình thành một khung pháp lý chung,
bình đẳng áp dụng thống nhất cho mọi loại hình doanh nghiệp. Việc ban hành Luật
Doanh nghiệp 2014 đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam hoạt động bình
đẳng trong điều kiện nền kinh tế thị trường, cũng như hội nhập kinh tế quốc tế.
Để tạo thuận lợi cho chủ đầu tư trong việc định giá tài sản góp vốn, Luật
Doanh nghiệp quy định tài sản góp vốn khi thành lập doanh nghiệp phải được các
thành viên cổ đông sáng lập định giá theo nguyên tắc nhất trí hoặc do một tổ chức
thẩm định giá chuyên nghiệp định giá.
Vấn đề về vốn trong công ty TNHH hai thành viên nói riêng và đối với các
loại hình doanh nghiệp khác nói chung, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường hiện nay
là quan trọng hơn bao giờ hết. Vì vốn là một nhân tố cực kỳ quan trọng và là yếu tố
sống còn của doanh nghiệp, có vốn thì doanh nghiệp mới hoạt động có hiệu quả, thực


hiện được các chiến lược, mục tiêu kinh doanh đã đề ra, vượt qua được các khó khăn
và các đối thủ sẽ gặp phải trên thương trường, đem lợi nhuận về cho công ty thông
2


qua đó góp phần giải quyết việc làm cho người dân, tăng ngân sách cho Nhà nước,
thúc đẩy nền kinh tế phát triển...
Vốn là một yếu tố quyết định sự sống còn của một doanh nghiệp, quyết định
quyền và nghĩa vụ của chủ sở hữu, chủ đầu tư của doanh nghiệp. Mà một trong các
nguồn quan trọng và chủ yếu nhất để hình thành vốn của doanh nghiệp chính là vốn
góp của các thành viên khi thành lập doanh nghiệp.
Trên thực tế, có nhiều vướng mắc phát sinh khi áp dụng quy định của Luật
doanh nghiệp về góp vốn, ví dụ như: Vấn đề quy trách nhiệm cho người đại diện theo
pháp luật của công ty về việc xác định giá trị tài sản góp vốn cao hơn giá trị thực tế là
không thoả đáng. Có nhiều lý do để lãnh đạo các công ty “cố ý” xác định giá trị tài
sản góp vốn cao hơn so với giá trị thực tế, trong đó không loại trừ các lý do chủ quan
có tính chất tiêu cực, như: gia tăng chi phí khấu hao tài sản để giảm số thuế thu nhập
doanh nghiệp phải nộp, làm ảo tổng số vốn góp của chủ sở hữu nhằm giả tạo năng
lực tài chính của công ty, giúp cho người góp vốn bằng tài sản (phải định giá) được
hưởng quyền lợi nhiều hơn các cổ đông, thành viên khác. Khi đó, quyền lợi của công
ty, của chủ nợ và của các đồng chủ sở hữu khác đồng thời bị xâm phạm. Do vậy, cần
phải xác định trách nhiệm pháp lý, trước hết là trách nhiệm dân sự, cho những cá
nhân trực tiếp “thiết lập” các giao dịch góp vốn có tính chất man trá này.
Thứ hai, mặc dù Luật doanh nghiệp 2014 quy định nếu tài sản được định giá
cao hơn giá trị thực tế thì các thành viên, cổ đông sáng lập liên đới chịu trách nhiệm
góp thêm vào phần chênh lệch. Tuy nhiên, vấn đề là ai sẽ là người xác định giá trị
thực tế của tài sản được định giá. Và việc góp thêm phần chênh lệch giữa giá trị tài
sản được định giá so với giá trị tài sản thực tế sẽ được thực hiện như thế nào? Tỷ lệ
góp thêm giữa các thành viên, cổ đông sáng lập sẽ được tính ra sao? Như vậy sẽ rất
khó để kết luận các thành viên, cổ đông sáng lập cố ý định giá tài sản góp vốn cao

hơn thực tế. Và nếu có thiệt hại xảy ra thì tỷ lệ gánh chịu thiệt hại sẽ được phân chia
cho các thành viên, cố đông sáng lập như thế nào?
3


Vì những khó khăn, vướng mắc nêu trên tác giả đã chọn đề tài: “Định giá
tài sản góp vốn thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên theo
Luật doanh nghiệp 2014" làm luận văn thạc sỹ cho mình.

2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Định giá tài sản góp vốn thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên
trở lên theo Luật Doanh nghiệp 2014 là một đề tài mới nên chưa có tác giả nào
nghiên cứu một cách có hệ thống về mặt lý luận cũng như thực tiễn về vấn đề này.
Chỉ có một số tác giả nghiên cứu về các lĩnh vực tổ chức và quản lý của công ty, hành
vi góp vốn, định giá tài sản góp vốn thành lập công ty cổ phần, hoặc so sánh thủ tục
thành lập doanh nghiệp. Có thể kể đến như luận văn thạc sĩ "Góp vốn và hậu quả
pháp lý của hành vi góp vốn theo pháp luật Việt Nam" của tác giả Lưu Thu Hà
(2015), Khoa Luật - Trường Đại học Quốc Gia Hà Nội; Luận văn “Pháp luật về góp
vốn thành lập công ty cổ phần ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Hoàng Tố (2016),
Học viện khoa học xã hội; Luận văn “Chế độ pháp lý về vốn của công ty cổ phần
theo pháp luật Việt Nam” của tác giả Nguyễn Thanh Hải Tố (2007), Khoa Luật Trường Đại học Quốc Gia Hà Nội.
Ngoài ra có thể kể đến một số công trình nghiên cứu tiêu biểu có thể khai thác
trong luận văn như: Ngô Huy Cương (2013), Giáo trình luật thương mại - Phần
chung và Thương nhân, Nxb Đại Học Quốc Gia Hà Nội; Lê Tài Triển, Nguyễn Vạng
Thọ và Nguyễn Tân (1972), Luật thương mại Việt Nam dẫn giải, Quyển I và Quyển
II, Sài Gòn; Trường Đại học Luật Hà Nội (2007),
Giáo trình luật thương mại - Tập 1, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội; Viện quản lý
kinh tế trung ương (CIEM), Công ti Vision & Associates, \ Tổ chức hợp tác kỹ thuật
Đức (GTZ) (2005), Tìm hiểu về Luật Doanh nghiệp; Nguyễn Như Phát (1997), Giáo
trình luật kinh tế Việt Nam, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội; Phạm Duy Nghĩa

(2006), Giáo trình luật kinh tế - Tập 1: Luật doanh nghiệp, Tình huống- Phân tíchBình luận, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội; Bùi Ngọc Cường (2001), Xây
4


dựng và hoàn thiện pháp luật kinh tế nhằm bảo đảm quyền tự do kinh doanh ở nước
ta, Luận án tiến sỹ luật học, Trường Đại học Luật Hà Nội; Nguyễn Ngọc Bích,
Nguyễn Đình Cung (2009), Công ty- vốn, quản lý và tranh chấp theo Luật Doanh
nghiệp 2005, Nxb Tri Thức, TP. Hồ Chí Minh.
Nhìn chung, các đề tài của các tác giả chủ yểu khái quát về các loại hình
doanh nghiệp, trong đó có công ty TNHH hai thành viên; so sánh các loại hình doanh
nghiệp đó với nhau theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, các tác giả cũng đề cập
đến vấn đề vốn góp trong việc thành lập doanh nghiệp; tuy nhiên điểm hạn chế là
chưa đi sâu vào phân tích một cách có hệ thống về mặt lý luận cũng như thực tiễn của
vấn đề, một số nghiên cứu khác lại chỉ tập trung đến loại hình công ty cổ phần. Tuy
nhiên, ít có tác giả nào nghiên cứu chuyên sâu về định giá tài sản khi góp vốn, càng
hiếm có tác giả nghiên cứu định giá tài sản góp vốn thành lập công ty TNHH hai
thành viên trở lên. Vì thế, luận văn này sẽ là công trình nghiên cứu đầu tiên có tính hệ
thống và toàn diện về vấn đề định giá tài sản góp vốn thành lập công ty trách nhiệm
hữu hạn hai thành viên trở lên.

3. Mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu đề tài
3.1.

Mục đích nghiên cứu của đề tài

Mục đich nghiên cứu luận văn là nghiên cứu cac quy đinh về định giá tài sản
góp vốn thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên theo Luật
Doanh nghiệp 2014 và thực tiễn thi hành cac quy đinh này, từ đó đề xuất một số giải
pháp nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật về định giá
tài sản góp vốn thành lập công ty TNHH hai thành viên trở lên.

3.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài

Thứ nhất, luận văn phải khái quát được những vấn đề lý luận về góp vốn
thành lập doanh nghiệp theo quy định pháp luật Việt Nam.

5


Thứ hai, luận văn phải đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật về định giá tài sản
góp vốn cũng như những khó khăn, tồn tại vướng mắc trong thực tiễn hoạt động định
giá tài sản góp vốn.
Thứ ba, đề xuất được các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam và
nâng cao hiệu quả thi hành pháp luật về định giá tài sản góp vốn.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.

Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật về định giá
tài sản góp vốn trong việc thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở
lên theo Luật Doanh nghiệp 2014 và thực tiễn thi hành pháp luật về vấn đề này ở Việt
Nam.
4.2.

Pham vi nghiên cứu

Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sỹ, đổng thời để phù hợp với mục

đich, đối tượng nghiên cứu, tac giả tập trung chủ yếu vào những quy đinh của Luật
Doanh nghiệp 2014 về định giá tài sản góp vốn trong việc thành lập công ty trách
nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên; qua đó đưa ra các giải pháp, kiến nghị nhằm
hoàn thiện các quy định trên trong thực tiễn áp dụng.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1.

Phương pháp luận

Tac giả vận dụng quan điểm của Chủ nghĩa duy vật biện chứng và lý luận về
nhận thức của triết học Mác - Lê Nin; Tư tưởng Hổ Chi Minh về Nhà nước và phap
luật, về quyền con người; Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về vấn đề cải cach
tư phap và xây dựng Nhà nước phap quyền.
5.2.

Phương pháp nghiên cứu

Luận văn sử dụng các phương phap nghiên cứu bao gổm:

6


- Phương phap tổng hợp, phân tich, so sanh, chứng minh dùng để làm rõ về
mặt lý luận cac quy đinh của pháp luật về định giá tài sản góp vốn trong việc thành
lập công ty trách nhiệm hữu hạn hai thành viên trở lên theo Luật doanh nghiệp 2014.
- Phương phap lich sử được vận dụng nhằm phân tich, đanh gia sự kế thừa và
phat triển của cac quy đinh trong pháp luật về định giá tài sản góp vốn.

6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn

Luận văn đã phân tich, đanh gia một cach khoa học những quy đinh của pháp
luật về định giá tài sản góp vốn trong việc thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên trở lên theo Luật Doanh nghiệp 2014. Qua đó, luận văn đanh gia một cach
khach quan về thực tiễn thực hiện quy đinh của pháp luật về định giá tài sản góp vốn
trong doanh nghiệp nói chung, trong công ty TNHH hai thành viên trở lên nói riêng.
Từ đó, luận văn chỉ rõ những bất cập trong quy đinh của phap luật cần hoàn thiện
cũng như những vướng mắc trong qua trình ap dụng phap luật cần khắc phục. Trên
những cơ sở đó, luận văn đã đưa ra một số đề xuất nhằm hoàn thiện cac quy đinh của
phap luật hiện hành về định giá tài sản góp vốn.
Kết quả nghiên cứu có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy,
học tập về phap luật kinh tế. Đây cũng cỏ thể là nguổn tư liệu mang tinh lý luận và
thực tiễn cao, dùng để tham khảo trong qua trình sửa đổi, bổ sung để hoàn thiện Luật
doanh nghiệp 2014.

7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, luận văn gổm
ba chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về góp vốn thành lập doanh nghiệp và định
giá tài sản góp vốn
Chương 2: Thực trạng quy định pháp luật Việt Nam về định giá tài sản góp
vốn thành lập cổng ty TNHH hai thành viên trở lên

7


Chương 3: Hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực thi pháp luật
về định giá tài sản góp vốn thành lập cổng ty trách nhiệm hữu hạn hai
thành viên trở lên

8



CHƯƠNG 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ GÓP VỐN
THÀNH LẬP DOANH NGHIỆP VÀ ĐỊNH GIÁ TÀI SẢN
GÓP VỐN
1.1.

Khái niệm và đặc điểm của góp vốn thành lập doanh nghiệp

Vốn là yếu tố quan trọng không thể thiếu khi thành lập bất kì loại hình doanh
nghiệp nào. Nó không những quyết định sự sống còn của doanh nghiệp mà còn thể
hiện khả năng gánh chịu nghĩa vụ pháp lý của doanh nghiệp, quyết định quyền và
nghĩa vụ của các chủ sở hữu, chủ đầu tư của doanh nghiệp. Một trong các nguồn
quan trọng và chủ yếu nhất để hình thành vốn của doanh nghiệp chính là vốn góp
của các thành viên khi thành lập doanh nghiệp.
1.1.1.

Khái niệm góp vốn

Theo Từ điển Luật học (2006): “Góp vốn là việc nhà đầu tư đưa tài sản dưới
các hình thức khác nhau vào Doanh nghiệp để trở thành chủ sở hữu hoặc đồng chủ
sở hữu doanh nghiệp ”. [2]
Theo Vũ Tuấn Anh (2012): “Xét về mặt pháp lý, người góp vốn chuyển giao
quyền sở hữu tài sản của mình cho người kinh doanh (thương nhân) để đổi lại
những lợi ích từ việc góp vốn đó”[1]. Góp vốn thành lập công ty là việc một người
chuyển giao quyền sở hữu tài sản của mình vào công ty do tự mình hoặc cùng với
người khác thành lập nhằm mục tiêu kiếm lời. Tài sản góp vốn về nguyên tắc là tất
cả các loại tài sản mà theo quan niệm của pháp luật Việt Nam hiện nay bao gồm vật,
tiền, giấy tờ có giá và quyền tài sản. Tuy nhiên pháp luật có thể qui định cụ thể về tài

sản góp vốn đối với từng trường hợp cụ thể. Theo Điều 35 Luật Doanh nghiệp 2014,
tài sản góp vốn có thể là Đồng Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng, giá trị
quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài
sản khác có thể định giá được bằng Đồng Việt Nam.


Theo Điều 4 Luật doanh nghiệp 2014: “Góp vốn là việc góp tài sản để tạo
thành vốn điều lệ của công ty. Góp vốn bao gồm góp vốn để thành lập doanh nghiệp
hoặc góp thêm vốn điều lệ của doanh nghiệp đã được thành lập ”.
Việc chuyển đổi quyền sở hữu tài sản cụ thể lấy quyền lợi trong công ty
thường được qui đổi theo tỷ lệ nhất định mà người ta gọi là tỉ lệ vốn góp mà chủ sở
hữu hoặc đồng sở hữu của công ty góp vào vốn điều lệ. Lợi ích mà người góp vốn
nhận được là phần vốn góp hoặc cổ phần trong vốn điều lệ của công ty. Các phần
vốn góp và cổ phần này không phải được hình thành từ thế giới vật chất như các tài
sản hữu hình (vật), cũng không phải là sản phẩm được hình thành từ hoạt động sáng
tạo của trí tuệ (đối tượng của quyền sở hữu trí tuệ). Phần vốn góp phải là tài sản của
người góp vốn và được chuyển từ người góp vốn sang công ty.
Tài sản góp vốn vào công ty và phần vốn góp là hai khái niệm khác nhau.
Phần vốn góp là khoản vốn được tính theo tỷ lệ của người góp vốn trong tổng số vốn
điều lệ của công ty mới hình thành hoặc nhận góp vốn. Tài sản đem góp vốn là tài
sản thuộc sản nghiệp của người góp vốn. Về mặt pháp lý, vốn điều lệ của công ty là
do các thành viên, các cổ đông đóng góp. Đối với chủ nợ của công ty, số tiền mà các
thành viên, cổ đông bỏ vào công ty chính là sự cam kết lâu dài cho việc đầu tư.
Trong trường hợp công ty bị phá sản, các chủ nợ có thể thu hồi nợ trên số tài sản
hình thành từ vốn góp cùng với các tài sản khác của công ty.
Việc góp vốn vào công ty bằng cách chuyển quyền sở hữu hoặc quyền sử
dụng đối với tài sản của mình cho công ty để đổi lại tư cách sở hữu chủ hoặc đồng sở
hữu chủ của công ty đó.
1.1.2.


Đặc điểm của góp vốn

Từ khái niệm trên, có thể nhận thấy góp vốn có các đặc trưng sau:
Thứ nhất, góp vốn là hành vi pháp lý làm chấm dứt quyền sở hữu tài sản của
người góp vốn, làm phát sinh quyền sở hữu tài sản của công ty và tạo lập ra công ty


thuộc sở hữu của người góp vốn hoặc thuộc sở hữu chung của những người góp vốn
trên hai phương diện: kinh tế và pháp lý.
Góp vốn là việc tạo ra tài sản cho công ty nhằm đảm bảo thực hiện các hoạt
động kinh doanh theo mục đích đã đăng ký của công ty và đảm bảo quyền lợi cho
các chủ nợ trong trường hợp công ty bị phá sản. Khi tài sản được một thành viên,
một cổ đông góp vào công ty, tài sản đó được chuyển dịch quyền sở hữu từ thành
viên đó, cổ đông đó sang công ty. Việc dịch chuyển quyền sở hữu này có thể được
thực hiện thông qua cách giao kết hợp đồng thành lập công ty của các cổ đông, thành
viên góp vốn. Bằng hành vi góp vốn các thành viên, các cổ đông sáng lập đã tạo ra
sản nghiệp ban đầu cho công ty để đổi lại quyền lợi của mình trong công ty.
Thứ hai, quyền lợi này được xác định theo các quy định của pháp luật và điều
lệ của công ty. Việc góp vốn hay hùn vốn là việc nhiều người cùng góp nguồn lực
của mình để tạo nên một nguồn lực chung lớn hơn nhằm thực hiện ý tưởng kinh
doanh. Đó chính là ý nghĩa kinh tế quan trọng xuyên suốt lịch sử hình thành và phát
triển của công ty trong lịch sử. Cùng với sự phát triển của các quan hệ kinh tế, việc
góp vốn thành lập công ty có khi chỉ đơn giản là để nhà đầu tư kiếm lời từ vốn góp
của mình chứ không thực sự chú trọng vào mục đích thực hiện một hoạt động kinh
doanh nào cụ thể. Góp vốn vào công ty cũng dễ dàng chuyển nhượng lại phần vốn
góp đó cho người khác để hưởng chênh lệch hoặc thu lại một phần vốn. Số lượng
người góp vốn được mở rộng, khả năng bán lại phần vốn dễ dàng, người góp vốn có
thể thay đổi nhanh chóng song công ty vẫn tồn tại, đó là sự khác biệt lớn của công ty
đối vốn so với công ty đối nhân.
Thứ ba, góp vốn là hành vi chuyển giao tài sản để đổi lấy quyền lợi đối với

công ty. Hành vi này là căn cứ làm chấm dứt quyền sở hữu tài sản của người góp vốn
đối với tài sản góp vốn cụ thể, đồng thời làm phát sinh quyền sở hữu của công ty đối
với tài sản góp vốn đó, và làm phát sinh quyền sở hữu của người góp vốn đối với


phần vốn góp vào công ty theo tỷ lệ với các phần vốn góp khác hoặc quyền sở hữu
của người góp vốn (người mua cổ phần) đối với một hoặc một số cổ phần của công
ty. Một vấn đề kinh tế khác khi các thành viên, các cổ đông góp vốn vào công ty là
việc thực hiện quyền quản lý công ty để đảm bảo việc sử dụng đồng vốn của mình sẽ
đem đến hiệu quả kinh tế cao nhất. Do là công ty đối vốn điển hình nên quyền quản
lý trong công ty tương ứng với tỷ lệ số vốn góp vào công ty thông qua tỷ lệ vốn góp
của từng thành viên và số lượng cổ phần nắm giữ của từng cổ đông.[1]
Thông qua hành vi góp vốn, mối quan hệ pháp lý được tạo lập. Nghĩa vụ đối
ứng giữa người góp vốn thành lập công ty và công ty khác với nghĩa vụ đối ứng giữa
các bên trong quan hệ mua bán hay cho thuê. Hành vi góp vốn đổi lấy quyền lợi
cũng khác với hành vi mua bán hay hành vi cho thuê tà i sản ở chỗ khi chuyển giao
quyền sở hữu tài sản hay quyền sử dụng tài sản cho công ty, thì người góp vốn không
nhận được bất kể khoản tiền nào từ việc chuyển giao đó mà chỉ nhận lại được là một
thứ quyền đặc biệt đó là quyền sở hữu gắn liền với quyền lợi của chủ sở hữu công ty.
Quyền lợi này có thể tính thành tiền, tuy nhiên còn phụ thuộc vào từng hình thức
công ty và quy chế riêng có thể có.
Quyền lợi này khi tham gia vào công ty thì đương nhiên trở thành viên của
công ty và được tham dự họp Hội đồng thành viên, thảo luận, kiến nghị, biểu quyết
các vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội đồng thành viên. Có số phiếu biểu quyết tương
ứng với phần vốn góp; kiểm tra, xem xét, tra cứu, sao chép hoặc trích lục sổ đăng ký
thành viên, sổ ghi chép và theo dõi các giao dịch, sổ kế toán, báo cáo tài chính hàng
năm, sổ biên bản họp Hội đồng thành viên, các giấy tờ và tài liệu khác của công ty.
Được chia lợi nhuận tương ứng với phần vốn góp sau khi công ty đã nộp đủ thuế và
hoàn thành các nghĩa vụ tài chính khác theo quy định của pháp luật. Được chia giá trị
tài sản còn lại của công ty tương ứng với phần vốn góp khi công ty giải thể hoặc phá

sản. Ngoài ra, thành viên khi góp vốn vào công ty còn được định đoạt phần vốn góp


của mình bằng cách chuyển nhượng, để thừa kế, tặng cho và cách khác theo quy định
của pháp luật và Điều lệ công ty...
Như vậy, việc góp vốn thành lập công ty có nét giống với sự trao đổi tài sản
giữa hai chủ thể, trong đó người góp vốn bỏ ra tài sản và nhận lại quyền lợi từ công
ty. Do đó, khi góp vốn vào công ty thì người góp vốn có phần vốn góp luôn luôn gắn
với công ty, có giá trị thay đổi theo tình hình tài chính của công ty và khi công ty
không còn tồn tại thì quyền tài sản này cũng sẽ mất
đi.[1]
ĩ

.2. Tài sản góp von
1.2.1.

Khái niệm tài sản

Tài sản là một từ ngữ quen thuộc đối với bất kì ai, đó là vấn đề trọng tâm của
các quan hệ xã hội nói chung và trong quan hệ pháp luật nói riêng. Tài sản tồn tại
dưới nhiều dạng khác nhau, phong phú và đa dạng, do vậy việc phân loại tài sản có
vai trò quan trọng trong giải quyết các vấn đề tranh chấp phát sinh. Tuy nhiên, trong
thực tế khái niệm tài sản được hiểu mơ hồ, chưa có sự thông nhất chung đề có thể
xác định đối tượng đó có phải là tài sản hay không và hậu quả gây ảnh hưởng đến
giao dịch dân sự, thương mại và kinh tế.
Theo quy định tại Bộ luật dân sự 2015 thì tài sản được liệt kê khép kín gồm:
vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản.
Vật là một bộ phận của thế giới vật chất, tồn tại khách quan mà con người có
thể cảm giác được bằng các giác quan của mình. Vật chỉ có ý nghĩa khi nó trở thành
đối tượng trong quan hệ pháp luật, do vậy, nếu bộ phận của thế giới vật chất mà con

người không thể kiểm soát được chiếm hữu được nó thì đồng nghĩa với việc con
người không thể tác động được vào nó. Như vậy, muốn trở thành vật trong dân sự
phải thỏa mãn những điều kiện sau:


Thứ nhất, là bộ phận của thế giới vật chất: đây là một điều kiện không thể
thiếu để trở thành vật trong giao dịch dân sự.
Thứ hai, chỉ khi con người chiếm hữu được nó thì nó mới được coi là vật, tức
là con người có thể nắm giữ, quản lý được thì mới có thể đưa vào giao dịch dân sự
và được coi là vật.
Thứ ba, có thể đang tồn tại hoặc sẽ hình thành trong tương lai.Ví dụ như: một
dự án nhà chung cư đang chuẩn bị khởi công xây, công trình đường sắt trên cao.. .cả
hai cái đó đều được đưa vào giao dịch dân sự như một vật sẽ hình thành trong tương
lai.
Còn đối với tiền theo kinh tế chính trị học là vật ngang giá chung được sử
dụng làm thước đo giá trị của các loại tài sản khác. Một tài sản được coi là tiền hiện
nay khi nó đang có giá trị lưu hành trên thực tế. Tiền được coi là một dạng đặc biệt
của tài sản và cũng là thước đo để xác định toàn bộ khối tài sản của một chủ thể nào
đó trong quan hệ pháp luật dân sự.
Về giấy tờ có giá là loại tài sản rất phổ biến trong giao dịch dân sự hiện nay
đặc biệt là giao dịch trong các hệ thống ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Căn
cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành thì giấy tờ có giá bao gồm: Hối phiếu
đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, công cụ chuyển nhượng; Trái phiếu Chính phủ, trái
phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu. giấy tờ có giá là một loại tài sản trong quan hệ
pháp luật dân sự và có các thuộc tính như xác nhận quyền tài sản của một chủ thể
xác định; trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao quyền sử hữu cho thủ thể khác
trong giao dịch dân sự.
Về quyền tài sản, theo Điều 181 BLDS 2005 định nghĩa: “Quyền tài sản là
quyền trị giá được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả
quyền sở hữu trí tuệ Quyền này được hiểu là một quyền năng dân sự chủ quan của

chủ thể được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Quyền đó phải được xác định tương


đương với một đại lượng vật chất nhất định. Hiện nay, một số quyền tài sản được
công nhận như quyền sử dụng đất, quyền tài sản phát sinh từ quyền tác gia, quyền sở
hữu công nghiệp, quyền đòi nợ...
r
7^

^

¥/-| r •

• ỵ> _

/



.2.2. Khái niệm tài sản góp vốn
Luật Doanh nghiệp 1999 (Điều 3, khoản 4) định nghĩa:
“Góp vốn là việc đưa tài sản vào công ty để trở thành chủ sở hữu hoặc các
chủ sở hữu chung của công ty. Tài sản góp vốn có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự
do chuyển đổi, vàng, giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công
nghệ, bí quyết kỹ thuật, các tài sản khác ghi trong điều lệ công ty do thành viên góp
để tạo thành vốn của công ty”.
Luật Doanh nghiệp 2005 (Điều 4, khoản 4), cũng đưa ra định nghĩa tương tự.
Xét về mặt biểu hiện bên ngoài, các định nghĩa này cho thấy góp vốn là việc người
đầu tư đổi tài sản thuộc sở hữu của mình để trở thành chủ sở hữu của công ty.
Luật Doanh nghiệp 2014 (Điều 4, khoản 13) đã xem xét và định nghĩa lại

như sau: “Góp vốn là việc đưa tài sản vào tạo thành vốn điều lệ của công ty. Góp
vốn bao gồm góp vốn để thành lập doanh nghiệp mới hoặc góp thêm vốn điều lệ của
doanh nghiệp đã được thành lập ”.
Vốn góp là khái niệm nhằm xác định một cách cụ thể tổng giá trị của những
tài sản mà nhà đầu tư nào đó đóng góp vào công ty. Như vậy, vốn góp được định
lượng bằng tiền. Luật Doanh nghiệp coi góp vốn là việc dịch chuyển tài sản từ người
góp vốn sang cho công ty để trở thành chủ sở hữu của công ty. Đồng thời, Luật
Doanh nghiệp cũng quy định cụ thể tài sản góp vốn bao gồm những loại nào. Tuy
nhiên dùng phương pháp liệt kê có thể dẫn tới sự không đầy đủ. Do vậy, Luật Doanh
nghiệp có quy định mở là ngoài các tài sản đã liệt kê thì các tài sản khác ghi trong
Điều lệ công ty cũng được coi là tài sản góp vốn. Luật Doanh nghiệp chỉ đề cập đến
việc góp vốn thành lập công ty bằng tài sản và liệt kê các loại tài sản. Còn tài sản là


gì, các loại tài sản như thế nào và việc thực hiện góp vốn bằng tài sản, chuyển giao
vốn góp như thế nào thì đòi hỏi phải có sự quy định về tài sản và quyền sở hữu trong
Bộ luật Dân sự.
Tuy nhiên có thể thấy các định nghĩa về góp vốn nói trên trong các đạo luật
về doanh nghiệp được ban hành trong các thời kỳ khác nhau gần đây, khái niệm góp
vốn có sự khác biệt. Luật Doanh nghiệp 1999 và Luật Doanh nghiệp 2005 xuất phát
từ góc độ pháp lý để định nghĩa. Còn Luật Doanh nghiệp 2014 lại xuất phát từ góc
kinh tế để định nghĩa. Việc định nghĩa khái niệm góp vốn dưới góc kinh tế không
thuận tiện cho việc nhận biết các dấu hiệu pháp lý của việc góp vốn và cũng không
cho thấy rõ quyền và nghĩa vụ cơ bản của người góp vốn cũng như người nhận vốn.
Luật Doanh nghiệp 2014 chỉ ra tài sản có thể đem vào góp vốn bao gồm:
“1. Tài sản góp vốn có thể là tiền Việt Nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi, vàng,
giá trị quyền sử dụng đất, giá trị quyền sở hữu trí tuệ, công nghệ, bí quyết kỹ thuật,
các tài sản khác có thể định giá được bằng tiền Việt Nam.
2. Quyền sở hữu trí tuệ được sử dụng để góp vốn bao gồm quyền tác giả,
quyền liên quan đến quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống

cây trồng và các quyền sở hữu trí tuệ khác theo quy định của pháp luật sở hữu trí tuệ.
Chỉ cá nhân, tổ chức là chủ sở hữu hợp pháp đối với các quyền nói trên mới có
quyền sử dụng các tài sản đó để góp vốn” (Điều 35)
Khác với Bộ luật Dân sự 2015 của Việt Nam, Bộ luật Dân sự của một số
nước trên thế giới không đưa ra một định nghĩa cụ thể nào về tài sản. Song theo quan
niệm chung, người ta có thể hiểu được rằng tài sản bao gồm hai loại là vật và quyền.
Tài sản là một khái niệm trừu tượng khó xác định về mặt phạm vi. Hiện rất hiếm
thấy các định nghĩa về tài sản trong pháp luật của các quốc gia. Thế nhưng tài sản là
đối tượng quan trọng nhất của hành vi góp vốn. Vì vậy có thể thấy việc liệt kê các tài
sản góp vốn như Luật Doanh nghiệp 2014 của Việt Nam có ý nghĩa thực tế và nhưng


không thể không có các thiếu sót. Có lẽ các qui định này không dám đi quá xa ra
khỏi khuôn khổ của các qui định về tài sản trong Bộ luật Dân sự 2015 của Việt Nam
nơi đã đặt ra tiền đề cho những thiếu sót như vậy. Chẳng hạn: theo pháp luật Việt
Nam “vật chất liệu” đó là cơ sở quan trọng của quan niệm về tài sản. Tuy có nhắc tới
quyền tài sản, nhưng nó không được xem là vật quyền. Do đó việc góp vốn bằng các
vật quyền khó có được các qui định đầy đủ, trừ quyền sử dụng đất.
Khái niệm tài sản được quy định trong Điều 163 Bộ luật Dân sự năm 2005:
“Tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ có giá và các quyền tài sản ”. Khái niệm tài sản
tại Điều 105 BLDS 2015 quy định: “Tài sản là vật, tiền, giấy tờ có giá và quyền tài
sản.Tài sản bao gồm bất động sản và động sản. Bất động sản và động sản có thể là
tài sản hiện có và tài sản hình thành trong tương lai ”.
Theo quy định của Bộ luật Dân sự năm 2005 thì quyền sở hữu bao gồm ba
quyền năng là quyền chiếm hữu, sử dụng và định đoạt của chủ sở hữu. Như vậy,
chiếm hữu là một trong những quyền năng mà chủ sở hữu tài sản có được đối với tài
sản của mình.
Trong lịch sử nghiên cứu khoa học pháp luật về tài sản, đã có rất nhiều tác giả
quan tâm nghiên cứu và đã có những đóng góp, những cống hiến rất to lớn cho nền
khoa học pháp lý nước ta. TS. Nguyễn Ngọc Điện là một trong số các tác giả đó.

Cuốn sách “Nghiên cứu về tài sản trong pháp luật dân sự Việt Nam” NXB Trẻ,
Thành phố Hồ Chí Minh năm 1999 có thể được coi là một trong những “dấu ấn” đầu
tiên nghiên cứu pháp luật về tài sản một cách có hệ thống trong lịch sử nghiên cứu
lập pháp tại Việt Nam. Theo tác giả tài sản được hiểu theo hai cách:
Một là, theo phương diện pháp lý, tài sản là của cải được con người sử
dụng.
Hai là, trong ngôn ngữ thông dụng thì tài sản là một vật cụ thể được con
người nhận biết và sử dụng, có tài sản vô hình hữu hình, tài sản vô hình. Nhưng dù


tồn tại ở bất cứ dạng nào thì chúng đều có thể được sở hữu, tức là phải thuộc riêng về
một chủ thể nào đó. [9]
1.2.3.

Phân loại tài sản góp vốn

Theo từ điển mở Wikipedia định nghĩa: “Tài sản là của cải vật chất dùng vào
mục đích sản xuất hoặc tiêu dùng. Khi phân loại tài sản theo chu kỳ sản xuất, ta có
tài sản cố định và tài sản lưu động. Cồn khi phân loại tài sản theo đặc tính cấu tạo
của vật chất, ta có tài sản hữu hình và tài sản vô hình ”[40] .
Tài sản cố định là những tư liệu sản xuất, là một trong những loại tài sản có
giá trị lớn được huy động và sử dụng vào hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh
nghiệp nhằm mục đích sinh lời và thường thì các loại tài sản này có chu kì sử dụng
trong dài hạn. Tài sản cố định được phân thành bất động sản và động sản. Bất động
sản là các tài sản bao gồm: a) Đất đai; b) Nhà, công trình xây dựng gắn liền với đất
đai, kể cả các tài sản gắn liền với nhà, công trình xây dựng đó; c) Các tài sản khác
gắn liền với đất đai; d) Các tài sản khác do pháp luật quy định. Động sản là những tài
sản cố định không phải là bất động sản.
Tài sản lưu động là đối tượng lao động chỉ dùng được trong một chu kỳ sản
xuất. Đó là tổng thể nói chung tiền mặt, tiền gửi ngân hàng và những khoản có thể

chuyển ngay thành tiền mặt, như thương phiếu, v.v.
Tài sản hữu hình bao gồm những vật (có những điều kiện nhất định) tiền và
giấy tờ có giá (ngôn ngữ luật học). Tài sản hữu hình là những thứ có thể dùng giác
quan nhận biết được hoặc dùng đơn vị đo lường được. Điều kiện để vật trở thành tài
sản là một vấn đề còn tranh cãi rất nhiều, bởi vì khi vật không thuộc của ai gọi là vật
vô chủ, nhưng không ai gọi là tài sản vô chủ cả. Khi nói đến tài sản hữu hình bắt
buộc chúng phải có một số đặc tính riêng như: Thuộc sở hữu của ai đó; Có đặc tính
vật lý; Có thể trao đổi được; Có thể mang giá trị tinh thần hoặc vật chất; Là những


thứ đã tồn tại(tài sản trước kia) đang tồn tại và có thể có trong tương lai. Tài sản hữu
hình khi có càng nhiều đặc tính nêu trên thì càng chắc chắn đó là tài sản hữu hình.
Tài sản vô hình là những quyền tài sản (nghĩa hẹp) thuộc sở hữu của một chủ
thể nhất định và thường chỉ gắn với một chủ thể nhất định và thường không thể
chuyển giao. Tuy nhiên một số quyền tài sản có thể chuyển giao như thương hiệu,
hàng hóa, tiền mã hóa (Bitcoin, Ethereum, ...), tài sản trí tuệ hoặc ủy quyền cho chủ
thể khác. Tài sản vô hình là những thứ không thể dùng giác quan để thấy được và
thường không thể dùng đại lượng để tính. Nhưng trong quá trình chuyển giao có thể
quy ra tiền (cái này là quan trọng nhất). Tùy từng thời điểm nhất định mà quyền tài
sản có giá như thế nào. Việc gây thiệt hại về tài sản vô hình của chủ thể sẽ phải bồi
thường nhưng rất khó để xác định giá trị của nó. Ngoài những quy định trong luật
còn việc xác định giá trị của tài sản vô hình không thể xác định được.

1.3.

Chủ thể, hình thức và thủ tục góp vốn thành lập doanh nghiệp

tại Việt Nam
1.3.1.


Chủ thể góp vốn thành lập doanh nghiệp

Trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay, góp vốn thành lập doanh
nghiệp là nghĩa vụ của nhà đầu tư. Nhưng tự do kinh doanh không đồng nghĩa với
việc bất cứ người nào, cơ quan, tổ chức nào cũng có quyền thành lập doanh nghiệp
trong kinh doanh. Để đảm bảo quyền bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong kinh
doanh, bảo vệ lợi ích cộng đồng, xã hội, Nhà nước quy định mọi tổ chức, cá nhân
đều có quyền góp vốn, thành lập hoặc quản lý doanh nghiệp, trừ các trường hợp mà
các hoạt động kinh doanh của họ có nguy cơ phá vỡ sự bình đẳng của các doanh
nghiệp và lợi ích xã hội.
Khoản 3 Điều 18 Luật Doanh nghiệp năm 2014 quy định: Tổ chức, cá nhân
có quyền góp vốn, mua cổ phần, mua phần vốn góp vào công ty cổ phần, công ty


trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh theo quy định của luật này, trừ các trường
hợp sau đây:
- Cơ quan nhà nước, đơn vị vũ trang nhân dân sử dụng tài sản nhà nước góp
vốn vào doanh nghiệp để thu lợi riêng cho cơ quan, đơn vị mình;
- Các đối tượng không được góp vốn vào doanh nghiệp theo quy định của
pháp luật về cán bộ, công chức.
Ngoài ra, vợ hoặc chồng, bố, mẹ, con của những người đứng đầu, cấp phó
của người đứng đầu cơ quan nhà nước không được góp vốn vào doanh nghiệp hoạt
động trong phạm vi ngành, nghề mà người đó trực tiếp thực hiện việc quản lí nhà
nước (Điều 37 Luật Phòng chống tham nhũng năm 2005).
Các quy định về thành lập doanh nghiệp một mặt nhằm bảo đảm quyền tự do
kinh doanh của nhà đầu tư, mặt khác phải đáp ứng yêu cầu của quản lý nhà nước đối
với doanh nghiệp. Vì thế, các chủ thể muốn thành lập, góp vốn doanh nghiệp phải
đáp ứng những điều kiện mà pháp luật thương mại nói chung và pháp luật doanh
nghiệp nói riêng.
Như vậy, có thể nhận thấy rằng các quy định về chủ thể kinh doanh của doanh

nghiệp là sự thể hiện một bước tiến trong việc ghi nhận quyền của Nhà đầu tư từ chỗ
“chỉ làm những gì Nhà nước cho phép” sang “được làm tất cả những gì Nhà nước
không cấm”. Điều này góp phần tạo cơ hội thuận lợi cho các nhà đầu tư nhận thức
đựợc khả năng của mình, tự hoàn thiện các điều kiện kinh doanh để lựa chọn cho
mình một phương án kinh doanh phù hợp. Cũng như các quy định trên đây đã hạn
chế tình trạng mỗi ngành mỗi cấp tùy tiện đưa ra các điều kiện kinh doanh đối với
nghành, nghề của mình quản lý. Thông qua các quy định về điều kiện của chủ thể
kinh doanh, Nhà nước thực hiện sự quản lý, điều tiết sản xuất kinh doanh theo định
hướng phát triển kinh tế phù hợp với lợi ích cơ bản và lâu dài của đất nước.


Theo khoản 2 Điều 48 Luật doanh nghiệp 2014 thì thành viên phải góp vốn
phần vốn góp cho công ty đủ và đúng loại tài sản như đã cam kết khi đăng ký thành
lập doanh nghiệp trong thời hạn 90 ngày, kể từ ngày được cấp Giấy chứng nhận đăng
ký doanh nghiệp. Thành viên công ty chỉ được góp vốn phần vốn góp cho công ty
bằng các tài sản khác với loại tài sản đã cam kết nếu được sự tán thành của đa số
thành viên còn lại. Trong thời hạn này, thành viên có các quyền và nghĩa vụ tương
ứng với tỷ lệ phần vốn góp như đã cam kết.
Nhiều công ty khi thành lập cần có điều kiện, cụ thể như nếu doanh nghiệp
đăng ký ngành nghề kinh doanh bình thường không yêu cầu mức vốn pháp định, thì
theo luật không quy định mức vốn tối thiểu để thành lập công ty. Trong thực tế có
nhiều đơn vị doanh nghiệp đã đăng ký vốn điều lệ công ty là một triệu đồng, điều
này hoàn toàn pháp luật không cấm, tuy nhiên khi đăng ký mức vốn điều lệ quá thấp
như vậy thì khi đi giao dịch và làm việc với đối tác, các cơ quan ngân hàng, thuế thì
họ thường không tin tưởng doanh nghiệp này và rất hạn chế giao dịch và cũng là một
trở ngại lớn khi đăng ký mức vốn điều lệ quá thấp. Cho nên cần đăng ký mức tương
đối và phù hợp với thực tế để thuận tiện hơn cho việc kinh doanh. Còn nếu doanh
nghiệp đăng ký ngành nghề kinh doanh yêu cầu mức vốn pháp định để hoạt động, thì
vốn tối thiểu để thành lập công ty chính là bằng với mức quy định của ngành nghề
kinh doanh đó.

1.3.2.

Hình thức góp vốn thành lập doanh nghiệp

Góp vốn thành lập công ty có nhiều hình thức khác nhau. Việc phân loại các
hình thức này chủ yếu dựa vào đối tượng của hành vi góp vốn - đó chính là tài sản,
công sức, và tri thức. Điều đáng lưu ý nhất là mỗi hình thức góp vốn dường như phụ
thuộc vào một quy chế pháp lý khác nhau xuất phát từ đối tượng của hành vi góp
vốn.


Góp vốn bằng tài sản là hình thức góp vốn quan trọng nhất bởi không có tài
sản thì công ty không thể hoạt động được. Về nguyên tắc, mọi tài sản đều có thể đem
góp làm vốn của công ty, tuy nhiên còn lệ thuộc vào từng sự thỏa thuận cụ thể trong
các hợp đồng thành lập công ty. Tài sản góp vốn có thể thuộc bất kể dạng nào: vật
chất liệu hay các quyền vô hình, với điều kiện các tài sản này phải là các tài sản có
thể được chuyển giao trong giao lưu dân sự một cách hợp pháp, bởi bản thân góp
vốn đó là một hành vi chuyển giao tài sản, do đó phải tuân thủ những qui tắc chung
có liên quan tới việc chuyển giao tài sản. Căn cứ vào việc chuyển giao, người ta chia
các hình thức góp vốn bằng tài sản thành một số loại để nghiên cứu và qui định như
góp vốn bằng tiền, góp vốn bằng hiện vật (vật chất liệu) và góp vốn bằng quyền.
Góp vốn bằng quyền tài sản lại được phân chia thành: góp vốn bằng quyền sử dụng,
sản nghiệp thương mại và quyền sở hữu trí tuệ.

❖ Góp vốn bằng tiền
Theo như tìm hiểu của Lưu Thu Hà (2015): “Góp vốn bằng tiền là việc cá
nhân hay tổ chức chuyển một khoán tiền (Việt Nam đồng hay ngoại tệ hay những
giấy tờ có giá trị như ngân phiếu, trái phiếu của mình) để hình thành vốn của công
ty, và đổi lại phần vốn góp hay cổ phần từ công ty. Hành vi chuyển dịch chỉ được
thực hiện xong khi nào thành viên góp vốn hoàn thành nghĩa vụ góp vốn mà có hình

thức như: chuyển tiền vào tài khoản phong tỏa tại ngân hàng hoặc một tài khoản
trung gian... ”[10]
Góp vốn bằng tiền có tính chất giống với việc bỏ tiền ra mua quyền lợi trong
công ty. Do tính chất thanh khoản của tiền như vật ngang giá chung của cả nền kinh
tế. Khi cam kết góp mà không góp hoặc góp không đúng hạn khoản tiền cam kết góp
được coi là người cam kết nợ khoản cam kết đó với công ty. Việc góp vốn hay trả nợ
vốn có thể thực hiện bằng các phương thức thanh toán theo qui định của pháp luật
hay sự thỏa thuận của các bên.


❖ Góp vốn bằng hiện vật
Theo Ngô Huy Cương (2004): “Góp vốn bằng hiện vật là việc góp vốn bằng
quyền sở hữu đối với vật mà có thể là bất động sản do bản chất hay do mục đích,
hoặc động sản do bản chất. Về nguyên tắc, mọi tài sản là vật đều có thể đem góp
vốn thành lập công ty, tuy nhiên còn lệ thuộc vào sự thỏa thuận cụ thể về việc góp
vốn thành lập công ty. Vật đưa vào góp vốn phải là vật được đưa vào giao lưu dân
sự đáp ứng đầy đủ ba yêu cầu: (i) vật có thực phải là một bộ phận của thế giới vật
chất; (ii) vật có thực phải đem lại lợi ích cho con người; (iii) vật có thực là những
vật con người có thể chiếm giữ được”[6].
Như vậy việc góp vốn bằng hiện vật gần giống với việc bán hay đổi vật đó để
lấy quyền lợi trong công ty. Người góp vốn thu được quyền lợi. Còn công ty có được
quyền sở hữu đồ vật. Chính vì vậy, Bộ luật Dân sự Pháp quy định: “việc góp vốn
bằng hiện vật được thực hiện bằng cách chuyển quyền đối với vật và giao vật cho
công ty sử dụng. Nếu góp vốn bằng quyền sở hữu, người góp vốn phải đảm bảo đối
với công ty như người bán đảm bảo đối với người mua” (Điều 1843 - 3).
Vật được đem góp vốn phải là tài sản được phép giao dịch. Vật phải được xác
định rõ. Chất lượng của vật do các bên thỏa thuận. Trong trường hợp chất lượng của
vật đó được công bố hoặc được cơ quan nhà nước có thẩm quyền quy định chất
lượng của vật được xác định theo tiêu chuẩn đó công bố hoặc theo quy định của cơ
quan nhà nước có thẩm quyền. Khi các bên không có thỏa thuận và pháp luật không

có quy định về chất lượng thì chất lượng của vật mua bán được xác định theo mục
đích sử dụng và chất lượng trung bình của vật cùng loại. Với nghĩa vụ như người bán
đối với người mua thì thành viên góp vốn có nghĩa vụ giao vật đúng số lượng, đồng
bộ và đúng chủng loại, cung cấp thông tin cần thiết về vật và hướng dẫn cách sử
dụng vật đó, đảm bảo quyền sở hữu đối với vật đó góp vốn không bị bên thứ ba tranh
chấp.


Việc xác định thời điểm chuyển quyền sở hữu tài sản từ thành viên sang công
ty có ý nghĩa pháp lý quan trọng, vì thời điểm chịu rủi ro đối với tài sản thường gắn
liền với thời điểm chuyển quyền sở hữu. Về nguyên tắc, chủ sở hữu phải chịu rủi ro
xảy ra đối với tài sản của mình. Từ thời điểm thành viên cam kết góp vốn mới làm
phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự của thành viên với công ty. Trong đó, nếu công
ty chưa đăng ký kinh doanh thì chưa làm phát sinh quyền sở hữu tài sản của công ty
vì công ty chưa ra đời. Việc chuyển dịch quyển sở hữu tài sản từ thành viên sang
công ty chỉ có thể tính từ thời điểm công ty được chính thức thừa nhận về mặt pháp
lý, tức là thời điểm cấp giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp. Tức là, việc công ty
trở thành chủ sở hữu của vật góp vốn buộc công ty phải có tư cách pháp nhân, nghĩa
là công ty phải có khả năng hưởng quyền và gánh vác nghĩa vụ.
Tùy theo đặc điểm, tính chất của từng loại tài sản và ghi nhận của pháp luật,
của hợp đồng hoặc điều lệ công ty mà việc chuyển quyền sở hữu tài sản hiện vật từ
thành viên sang công ty được thực hiện theo những thủ tục khác nhau. Vật được giao
theo phương thức thỏa thuận về việc góp vốn; nếu không có thỏa thuận về phương
thức giao vật thì vật do thành viên góp vốn giao một lần, giao trực tiếp công ty.
Thành viên góp vốn phải chịu chi phí vận chuyển đến địa điểm giao vật và chi phí
liên quan đến việc chuyển quyền sở hữu đối với vật.

❖ Góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất
Điều 53 Hiến pháp 2013 quy định: “Đất đai, tài nguyên nước, tài nguyên
khoáng sản, nguồn lợi vùng biển, vùng trời, tài nguyên thiên nhiên khác và các tài

sản do Nhà nước đầu tư, quản lý là tài sản công thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước
đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý”.
Qua đây có thể hiểu đất đai là một tài sản đặc biệt, có qui chế pháp lý rất khác
so với các loại tài sản khác. Đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước đại diện chủ
sở hữu và thống nhất quản lý. Do đó người ta chỉ có thể góp vốn bằng quyền sử dụng


đất. Nhà nước ta trao cho người sử dụng đất những quyền năng nhất định, trong đó
có quyền góp vốn bằng quyền sử dụng đất để thành lập công ty. Đất đai là bất động
sản do bản chất. Thông thường có thể xếp việc góp vốn bằng đất đai vào góp vốn
bằng hiện vật. Nhưng Nhà nước chỉ trao cho các tổ chức, cá nhân quyền sử dụng đất
với từng mảnh đất cụ thể. Quyền sử dụng đất lại được quy định bởi nhiều chế độ
pháp lý khác nhau tùy theo từng loại đất. Do vậy, theo pháp luật hiện hành, góp vốn
bằng quyền sử dụng đất là một hình thức góp vốn bằng quyền. Việc góp vốn thành
lập công ty bằng quyền sử dụng đất phải thỏa mãn các điều kiện sau: (i) có giấy
chứng nhận quyền sử dụng đất; (ii) không có tranh chấp; (iii) quyền sử dụng đất
không bị kê biên để bảo đảm thi hành án; (iv) trong thời hạn sử dụng đất.
Người Việt Nam định cư ở nước ngoài, tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư tại
Việt Nam được nhà nước Việt Nam cho thuê đất. Nếu thuê đất thu tiền thuê đất hàng
năm có quyền góp vốn bằng tài sản thuộc sở hữu củ a mình gắn liền với đất thuê tại
các tổ chức tín dụng được phép hoạt động tại Việt Nam. Nếu cho thuê đất thu tiền
thuê đất một lần cho cả thời gian thuê có quyền góp vốn bằng quyền sử dụng đất
thuê và tài sản thuộc sở hữu của mình gắn liền với đất để hợp tác kinh doanh, sản
xuất trong thời hạn thuê đất. [28] Việc góp vốn bằng quyền sử dụng đất đòi hỏi
quyền sử dụng đất phải thuộc trường hợp pháp luật cho phép được dùng vốn góp như
một tài sản. Quyền sử dụng đất mà các bên đem góp vốn phải được định giá, các bên
có thể thỏa thuận định giá và cùng chịu trách nhiệm về thỏa thuận định giá đó hoặc
thuê tổ chức định giá chuyên nghiệp.
Như vậy, với việc chỉ có một hình thức sở hữu về đất đai là sở hữu toàn dân
do nhà nước quản lý và không công nhận sở hữu tư nhân về đất đai, thì quyền sử

dụng đất được đưa ra như một tài sản đặc thù và việc góp vốn bằng quyền sử dụng
đất với tư cách là một bất động sản vô hình cũng có những đặc thù riêng.

❖ Góp vốn bằng quyền sử dụng


×