Tải bản đầy đủ (.docx) (85 trang)

Kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp theo pháp luật thuế ở việt nam hiện nay từ thực tiễn cục thuế thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (402.71 KB, 85 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN TIẾN ANH

KIỂM TRA THUẾ ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP THEO
PHÁP LUẬT THUẾ Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
TỪ THỰC TIỄN CỤC THUẾ THÀNH PHỐ HÀ NỘI

Chuyên ngành: Luật kinh tế
Mã số

: 8.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT KINH TẾ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS NGUYỄN ĐỨC MINH

HÀ NỘI, 2018



LỜI CAM ĐOAN
Tôi cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví
dụ và trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính xác và trung thực. Những kết
luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình khoa học
nào khác.
rp r _

•2



1 Ạ______ w_______

Tác giả luận văn

NGUYỄN TIẾN ANH


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
DN:
GTGT:

Doanh nghiệp
Giá trị gia tăng

KTTT:

Kiểm tra thanh tra

NNT:

Người nộp thuế

QTKT:
TNCN:

Ngân sách nhà
nước
Quy trình kiểm tra
Thu nhập cá nhân


TP:

Thành phố

UBND:

Ủy ban nhân dân

XHCN:

Xã hội chủ nghĩa

NSNN:


Bảng 2.1. Kết quả kiểm tra hồ sơ khai thuế tại trụ sở cơ quan thuế năm


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Pháp luật kiểm tra thuế là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan
hệ xã hội phát sinh trong quá trình đăng ký thuế, kê khai thuế, nộp thuế, quyết toán
thuế giữa cơ quan Nhà nước có thẩm quyền và người nộp thuế nhằm hình thành nguồn
thu ngân sách Nahà nước để thực hiện những nhiệm vụ, mục tiêu nhất định. Ngoài ra,
pháp luật kiểm tra thuế còn được sử dụng như một công cụ để điều tiết nền kinh tế,
thực hiện đường lối trong một thời kỳ nhất định của Nhà nước. Việc xây dựng hệ thống
pháp luật kiểm tra thuế phải được đảm bảo những nguyên tắc như: nghĩa vụ thuế phải
đảm bảo công bằng, đánh thuế phải đảm bảo lợi ích giữa Nhà nước và người nộp thuế,
đánh thuế phải đảm bảo tính nhất quán, dễ hiểu, đạt hiệu quả và đánh thuế phải đảm

bảo không xảy ra tình trạng một đối tượng tính thuế phải chịu một loại thuế nhiều lần;
luật thuế phải tạo cơ sở pháp lý quan trọng và ổn định cho nguồn thu, đáp ứng nhu cầu
chi tiêu của Nhà nước.
Đối với doanh nghiệp, pháp luật kiểm tra thuế có tầm quan trọng trong nền kinh
tế, tác động nhiều mặt về kinh tế - chính trị - xã hội. Có hiệu lực từ 01/07/2007, Luật
quản lý thuế được coi như một bước tiến quan trọng trong công tác quản lý thu nộp
ngân sách khi nó điều chỉnh thống nhất về mặt thủ tục đối với toàn bộ các loại thuế từ
nội địa cho đến thuế đối với hàng xuất khẩu và các khoản thu khác thuộc Ngân sách
Nhà nước. Tuy nhiên, do Luật quản lý thuế mới được triển khai thực hiện trong một
thời gian ngắn nên không thể không tồn tại những hạn chế, thiếu sót như hiện tượng nợ
đọng thuế chưa giải quyết được, tình trạng lách luật để gian lận trong kê khai thuế, trốn
thuế... Bên cạnh đó, do tính chất là trung tâm kinh tế, chính trị của cả nước, là đầu mối
của các hoạt động sản xuất, kinh doanh của toàn quốc, nên các loại hình sản xuất, kinh
doanh ở Hà Nội là vô cùng đa dạng và phức tạp, là tiền đề để hoạt động gian lận thuế
diễn ra, dẫn đến làm hao hụt Ngân sách Nhà nước. Trong bối cảnh đó, thực hiện chức
năng quản lý thuế của ngành thuế sẽ giữ vai trò vô cùng quan trọng, góp phần phát
hiện, truy thu về cho Ngân sách Nhà nước. Công tác kiểm tra thuế là một trong các
chức năng quản lý thuế.
Với chủ trương đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước cùng với
xu thế hội nhập, liên kết phát triển kinh tế trong khu vực hiện nay, việc cải cách hệ

6


thống pháp luật kiểm tra thuế nhằm phù hợp với tình hình đổi mới và thông lệ quốc tế
là tất yếu khách quan. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều khía cạnh bất cập chưa hợp lý hoặc
không mang tính khoa học cao khi áp dụng vào thực tiễn, trong đó nổi bật là luật thuế
áp dụng đối với doanh nghiệp. Hoàn thiện pháp luật kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp
đang áp dụng hiện nay là một nội dung rất lớn và cấp bách đòi hỏi phải có nhiều thời
gian nghiên cứu về lý luận lẫn thực tiễn. Xuất phát từ những yêu cầu thực tế tại địa

phương trên tôi lựa chọn đề tài “Kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp theo pháp luật
thuế ở Việt Nam hiện nay từ thực tiễn cục thuế thành phố Hà Nội” với hy vọng tìm
chọn một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả trong hoạt động kiểm tra thuế doanh
nghiệp trên địa bàn.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Nghiên cứu lý luận về pháp luật kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp, thực trạng
quy định và thực hiện pháp luật kiểm tra thuế đói với doanh nghiệp và giải pháp hoàn
thiện pháp luật kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp.
Đối với pháp luật kiểm tra thuế, có nhiều tác giả quan tâm và vận dụng những
thành tựu về lý luận pháp luật thuế, đồng thời đưa ra nhiều vấn đề về các giải pháp,
kinh nghiệm xuất phát từ thực tiễn.
Sau khi tổng quan tình hình nghiên cứu về các vấn đền nêu trên, tác giả đã tìm hiểu
một số nội dung của các đề tài đã nghiên cứu trước đây, cụ thể:
Luận văn Thạc sĩ Luật Kinh tế của tác giả Trương Thị Hồng Nhung với đề tài “
Pháp luật về quản lý thuế Giá trị gia tăng tại Việt Nam” được thực hiện năm 2013.
Luận văn đã đưa ra kết luận khoa học về thực trạng pháp luật quản lý thuế GTGT và
thực tiễn áp dụng pháp luật quản lý thuế, kết luận về nguyên nhân của thực trạng để
làm cơ sở cho việc xây dựng giải pháp hoàn thiện pháp luật nhằm nâng cao hiệu quả
pháp luật quản lý thuế GTGT ở Việt Nam hiện nay.
Bài viết của tác giả Trần Thị Trinh viết về “Thuế thu nhập cá nhân hiện hành Những vấn đề cần tháo gỡ” được đăng trên Tạp chí khoa học và công nghệ, Đại học Đà
Nẵng - số 6 năm 2010 đề cập đến luật thuế thu nhập cá nhân kể từ khi áp dụng chính
thức ngày 01/01/2009 đến nay đã xuất hiện nhiều vướng mắc cần tháo gỡ. Thông qua
bài viết này, tác giả mong muốn đóng góp một số ý kiến nhằm hoàn chỉnh hơn luật thuế
đang rất còn mới mẻ này ở nước ta.

7


Luận văn Thạc sĩ Kinh tế của tác giả Nguyễn Trọng Nghĩa với đề tài “Chính sách
thuế bất động sản ở Việt Nam” được thực hiện năm 2009. Trong luận văn, tác giả đã

trình bày những chính sách thuế liên quan đến bất động sản nói chung, đưa ra định
hướng cải cách chính sách thuế để từ đó đề xuất những giải pháp hỗ trợ thực hiện cải
cách chính sách thuế bất động sản cho phù hợp.
Các luận văn này tập trung nghiên cứu và đề xuất các giải pháp nhằm hỗ trợ, cải
cách các chính sách thuế giá trị gia tăng, thuế bất động sản, nhưng vấn đề pháp luật
thuế đối với doanh nghiệp trên phương diện tổng quát thì còn rất ít. Đặc biệt là các giải
pháp hoàn thiện pháp luật về thuế đối với doanh nghiệp ở vùng có tốc độ đô thị hóa
nhanh như thành phố Hà Nội hiện nay.
Dựa trên những tài liệu đã nghiên cứu trước đây, trong luận văn này, tác giả sẽ
trình bày lý luận về pháp luật kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp và thực trạng thực
hiện pháp luật kiểm tra thuế của doanh nghiệp từ thực tiễn hoạt động kiểm tra thuế trên
địa bàn thành phố Hà Nội.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.

Mục đích nghiên cứu

Đề tài được nghiên cứu hướng đến mục đích làm rõ thực trạng quy định của pháp
luật và thực hiện pháp luật kiểm tra thuế của doanh nghiệp, từ đó đề xuất một số giải
pháp hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật.
3.2.

Nhiệm vụ nghiên cứu

Mục đích trên được cụ thể trong việc khái quát những nhiệm vụ chính của luận văn
là:
Làm rõ một số vấn đề lý luận về pháp luật kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp; về
quản lý thuế; công tác kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp.
Phân tích, đánh giá để làm rõ thực trạng quy định của pháp luật kiểm tra thuế đối
với doanh nghiệp; những khó khăn, vướng mắc trong thực hiện pháp luật kiểm tra thuế

đối với doanh nghiệp ở thành phố Hà Nội.
Đề xuất kiến nghị hoàn thiện pháp luật kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp và đưa
ra giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp
ở thành phố Hà Nội.

8


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1.

Đối tượng nghiên cứu

Pháp luật kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp và các quy định khác có liên quan.
Ngoài ra, luận văn nghiên cứu cả thực tiễn thực hiện pháp luật về lĩnh vực này qua
trường hợp thành phố Hà Nội.
4.2.

Phạm vi nghiên cứu

Tác giả nghiên cứu hoạt động thực hiện pháp luật kiểm tra thuế của doanh
nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình tìm hiểu và nghiên cứu đề tài, luận văn sử dụng phương pháp
biện chứng duy vật của chủ nghĩa Mác-Lê Nin, các học thuyết kinh tế về thuế, về kinh
tế thị trường, cũng như quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng Cộng sản Việt Nam
và Nhà nước ta về thuế, kinh tế thị trường, về vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế
thị trường.
Trong từng nội dung cụ thể, luận văn sử dụng phương pháp tiếp cận liên ngành
cùng các phương pháp khác một cách có hệ thống và nhất quán nhằm làm sáng tỏ vấn

đề cần nghiên cứu như sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, hệ thống hóa, so
sánh. Ngoài ra, luận văn sẽ sử dụng các số liệu thứ cấp để minh chứng và phân tích
thực trạng vấn đề.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1.

Ý nghĩa lý luận

Luận văn đã phân tích, hệ thống hóa một số vấn đề lý luận về pháp luật kiểm tra
thuế đối với doanh nghiệp. Kết quả nghiên cứu lý luận của luận văn góp phần bổ sung
một số vấn đề lý luận cơ bản về pháp luật kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp.
6.2.

Ý nghĩa thực tiễn

Qua phân tích và khảo sát thực trạng thực hiện pháp luật kiểm tra thuế đối với
doanh nghiệp từ thực tiễn ở thành phố Hà Nội. Luận văn đã nêu được những ưu điểm,
hạn chế và chỉ ra nguyên nhân dẫn đến những hạn chế đó. Từ kết quả nghiên cứu lý
luận và thực tiễn luận văn nêu nên các nguyên tắc đề xuất biện pháp và đưa ra một số
giải pháp để nâng cao hiệu quả thực hiện pháp luật kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp
qua thực tiễn ở thành phố Hà Nội.

9


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và khuyến nghị, tài liệu tham khảo, phục lục. Nội
dung chính của luận văn được chia làm ba chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật kiểm tra thuế đối với doanh
nghiệp.

Chương 2: Thực trạng pháp luật kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp qua thực
tiễn thực hiện công tác kiểm tra thuế ở Cục thuế thành phố Hà Nội.
Chương 3: Giải pháp hoàn thiện pháp luật kiểm tra thuế đối với doanh
nghiệp trên địa bàn thành phố Hà Nội.

1
0


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT KIỂM TRA THUẾ
ĐỐI VỚI DOANH NGHIỆP
1.1.

Khái quát về kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp

1.1.1.

Khái niệm, đặc điểm kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp

Bất cứ một sự quản lý nào, công hay tư, thuộc lĩnh vực nào cũng cần có kiểm
tra, đây là một khâu không thể thiếu trong hoạt động quản lý.
Quản lý nhà nước, hơn đâu hết lại càng cần có kiểm tra. Chỉ nói riêng sự kiểm
tra đối với các quyết định hành chính và hành vi hành chính cũng bao gồm một phạm
vi rất rộng: Kiểm tra tính hợp hiến, kiểm tra tính hợp pháp, kiểm tra của cấp trên đối
với cấp dưới; kiểm tra của các cơ quan xét xử...
Hoạt động quản lý nhà nước và trong quá trình thực hiện các quyền lập pháp,
hành pháp và tư pháp đều phải chịu sự kiểm tra, thanh tra, giám sát. Một cơ quan nắm
trọn quyền hạn, thẩm quyền trong thực hiện quyền lực nhà nước mà không được kiểm
tra thì dễ phát sinh lộng quyền, cửa quyền, lạm quyền, vì động cơ mục đích cá nhân,

cục bộ bản vị ngành, địa phương. Tùy theo bản chất, đối tượng, chủ thể tổ chức thực
hiện, chúng ta đã dùng những thuật ngữ khác nhau để chỉ sự kiểm tra: giám sát, kiểm
sát, thanh tra, kiểm tra. Cơ cấu tổ chức và cơ chế kiểm tra của Nhà nước ta gồm đủ các
loại hình kiểm tra nói trên.
Giám sát, tiếng Anh là supervision hoặc overseer để chỉ một hoạt động xem xét
có tính bao quát của chủ thể bên ngoài hệ thống đối với khách thể thuộc hệ thống khác,
tức là giữa cơ quan giám sát và cơ quan chịu sự giám sát không nằm trong một hệ
thống trực thuộc nhau theo chiều dọc. Trong bộ máy nhà nước ta, giám sát thường thể
hiện chức năng của các cơ quan quyền lực nhà nước đối với hoạt động của bộ máy nhà
nước hoặc của Toà án nhân dân, các tổ chức xã hội và công dân đối với hoạt động quản
lý nhằm bảo đảm sự tuân thủ pháp luật, kỷ luật trong quản lý nhà nước. Quốc hội là cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam,
“Quốc hội thực hiện quyền giám sát tối cao đối với toàn bộ hoạt động của Nhà nước”,
“.thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của
Quốc hội” (Điều 83, 84 của Hiến pháp 1992). Nếu xét tính quyền lực cao nhất của
Quốc hội thì ngoài việc lập hiến, lập pháp, bầu Chính phủ, thành lập các cơ quan tối


cao của đất nước, chức năng giám sát cũng thể hiện tính hơn trội, tính bao quát từ phía
quyền lập pháp đến việc giám sát các hoạt động của các cơ quan do Quốc hội thành lập.
Ở nước ta còn một loại hình giám sát nữa là giám sát của các tổ chức xã hội.
Với tư cách là một thành tố của hệ thống chính trị, hoạt động giám sát của các tổ chức
xã hội là một bộ phận không thể thiếu được nhằm củng cố kỷ luật, nâng cao hiệu quả
quản lý nhà nước (Điều 9, 10 Hiến pháp 1992). Tuy nhiên, hoạt động này không mang
tính quyền lực nhà nước, các chủ thể giám sát không có quyền áp dụng trực tiếp các
biện pháp cưỡng chế nhà nước. Kết quả giám sát của các tổ chức xã hội chỉ dừng lại ở
mức “kiến nghị, đề nghị”, tức là áp dụng các biện pháp tác động, mang tính xã hội vào
hoạt động của đối tượng bị giám sát (sự lên án, phê bình từ phía xã hội), từ đó đối
tượng bị giám sát tự chấn chỉnh, rút kinh nghiệm trong quá trình hoạt động của mình.
Mở rộng hình thức giám sát của các tổ chức xã hội là sự giám sát của công dân, một nội

dung đặc thù chỉ có ở chế độ xã hội chủ nghĩa, một loại hình dân chủ cao của xã hội
phát triển.
Kiểm sát là khái niệm được sử dụng trong thực tiễn tổ chức bộ máy và khoa học
pháp lý (investigate) để chỉ hoạt động bảo đảm pháp chế của Viện Kiểm sát nhân dân
các cấp nhằm kiểm sát việc tuân theo pháp luật (kiểm sát chung), vai trò công tố (bảo
vệ quyền và lợi ích của Nhà nước, tập thể và cá nhân). Kiểm sát việc tuân theo pháp
luật là nhằm bảo đảm tính hợp pháp của các quyết định quản lý nhà nước từ cấp bộ trở
xuống (Điều 137 Hiến pháp 1992 và các Điều 2, 3 và 4 của Luật tổ chức Viện Kiểm sát
nhân). Trong quá trình kiểm sát công tác điều tra, Viện Kiểm sát có quyền: “phê chuẩn,
không phê chuẩn các quyết định của cơ quan điều tra theo quy định của pháp luật,
quyết định áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ các quyết định trái pháp luật của cơ quan
điều tra” và “quyết định truy tố bị can; quyết định đình chỉ hoặc tạm đình chỉ điều tra”.
Việc kiểm sát chung không tự làm đình chỉ các quyết định quản lý của các cơ quan nhà
nước trái pháp luật. Chỉ có trường hợp duy nhất là Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân
tối cao có quyền ra quyết định đình chỉ và buộc phải sửa chữa những hành vi vi phạm
pháp luật có thể gây ra hậu quả nghiêm trọng (khoản 2 Điều 10 Luật Tổ chức Viện
Kiểm sát nhân dân). Trong hoạt động kiểm sát, Viện Kiểm sát không có quyền áp dụng
các biện pháp kỷ luật. Khi cần thiết, Viện Kiểm sát có quyền yêu cầu các cơ quan hữu
quan áp dụng các biện pháp kỷ luật, hoặc gửi kiến nghị, ra quyết định khởi tố. Mặt
khác, tính chất thường xuyên trong hoạt động kiểm sát cũng bị hạn chế, chỉ “kiểm sát


việc chấp hành pháp luật khi phát hiện có vi phạm pháp luật.. (Điều 8 Luật tổ chức
Viện Kiểm sát nhân dân) hoặc khi kiểm sát việc tuân theo pháp luật, Viện Kiểm sát
“trực tiếp kiểm sát việc tuân theo pháp luật tại cơ quan, tổ chức, đơn vị khi phát hiện có
vi phạm pháp luật hoặc khi các yêu cầu của Viện Kiểm sát nhân dân. không được thực
hiện hoặc đã được thực hiện nhưng chưa đáp ứng yêu cầu.”.
Hoạt động kiểm sát hiện nay là một trong những vấn đề đang được tranh luận
sôi nổi tại các diễn đàn khoa học, đặc biệt là vấn đề kiểm sát chung, vai trò công tố của
Viện Kiểm sát và pháp luật của Việt Nam về vấn đề này. Tuy nhiên, so với các hoạt

động khác như thanh tra, kiểm tra thì phạm vi hoạt động của kiểm sát hẹp hơn. Mặt
khác, chức năng công tố (procutator) cũng là vấn đề còn đang bàn, song để giải quyết
vấn đề này, nên chăng có một cơ chế phối hợp hoạt động giữa 3 loại quyền: lập pháp,
hành pháp và tư pháp.
Thanh tra (inspect) xuất phát từ gốc La-tinh (in-spectare) có nghĩa là “nhìn vào
bên trong” chỉ một sự xem xét từ bên ngoài vào hoạt động của một đối tượng nhất định:
“là sự kiểm soát đối với đối tượng bị thanh tra” trên cơ sở thẩm quyền (quyền hạn và
nghĩa vụ) được giao, nhằm đạt được mục đích nhất định. Tính chất của thanh tra mang
tính thường xuyên, tính quyền lực, do đó hệ quả của thanh tra thường là “phát hiện,
ngăn chặn những gì trái với quy định”. Thanh tra là hoạt động xem xét, kiểm tra của cơ
quan nhà nước cấp trên hoặc theo sự uỷ quyền của cơ quan nhà nước cấp trên đối với
cơ quan nhà nước cấp dưới (mang tính trực thuộc) và là một bộ phận của hoạt động
hành pháp.
Kiểm tra là “xem xét tình hình thực tế để đánh giá, nhận xét” [Từ điển pháp luật
Anh - Việt. NXB Khoa học xã hội, Hà Nội 1994, tr.203], để chỉ hoạt động của chủ thể
tác động vào đối tượng kiểm tra (có thể trực thuộc hoặc không trực thuộc). Tuy nhiên,
khái niệm kiểm tra (control) có thể được hiểu theo 2 nghĩa: Theo nghĩa rộng, để chỉ
hoạt động của các tổ chức xã hội, các đoàn thể và của công dân kiểm tra hoạt động bộ
máy của nhà nước. Theo nghĩa này, tính quyền lực nhà nước trong kiểm tra bị hạn chế
vì các chủ thể thực hiện kiểm tra không có quyền áp dụng trực tiếp những biện pháp
cưỡng chế nhà nước. Theo nghĩa hẹp hơn, kiểm tra là hoạt động của chủ thể nhằm tiến
hành xem xét, xác định một việc gì đó của đối tượng bị quản lý xem có phù hợp hay
không phù hợp với trạng thái định trước (kiểm tra mang tính nội bộ của người đứng
đầu cơ quan, kiểm tra phương tiện giao thông...). Theo nghĩa này, chủ thể kiểm tra có


thể áp dụng một chế tài pháp lý nhất định như áp dụng các hình thức kỷ luật, xử phạt vi
phạm hành chính hoặc buộc phải thực hiện một số biện pháp ngăn chặn hành chính. Ở
nghĩa này, khái niệm kiểm tra nằm trong khái niệm thanh tra “tổ chức Thanh tra là
công cụ đắc lực của Đảng, của chính quyền trong việc kiểm tra sự chấp hành đường

lối, chính sách của Đảng, pháp luật, kế hoạch của Nhà nước”[Chỉ thị số 38/CT ngày
20/02/1984 của Ban Bí thư Trung ương Đảng về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối
với công tác thanh tra].
Xét về chủ thể thì phạm vi chủ thể tiến hành hoạt động kiểm tra đa dạng hơn
thanh tra rất nhiều. Chủ thể tiến hành kiểm tra có thể là Nhà nước hoặc cũng có thể là
một chủ thể phi Nhà nước, chẳng hạn như hoạt động kiểm tra của một tổ chức chính trị,
tổ chức chính trị - xã hội (Đảng, Công đoàn, Mặt trận, Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ.),
hoạt động kiểm tra trong nội bộ một doanh nghiệp: kiểm tra của Giám đốc đối với các
phòng, ban, kiểm tra của Quản đốc đối với người lao động. Trên một bình diện rộng
hơn nữa, kiểm tra có thể là sự xem xét thực tế để đánh giá, nhận xét của bất kỳ một cá
nhân nào trong xã hội trong bất cứ một hoạt động nào. Khi con người biết lao động một
cách có ý thức thì đã xuất hiện yêu cầu tất yếu là phải kiểm tra. Ăng ghen đã nói “mỗi
hoạt động có ý thức, có tổ chức của con người đều chứa đựng trong đó những yếu tố
của kiểm tra” và “đối với mỗi con người tự nhiên, mỗi cộng đồng nguyên thuỷ, kiểm
tra được xem như là phương thức hành động để thực hiện mục đích”. Như vậy, kiểm tra
cũng xuất hiện trước thanh tra và xuất hiện trước khi có sự ra đời của Nhà nước đầu
tiên trong lịch sử. Có thể nói, kiểm tra sẽ tồn tại cùng với loài người. Khi Nhà nước tự
tiêu vong, thanh tra sẽ mất đi như đã nói ở trên, nhưng kiểm tra thì vẫn còn tồn tại cùng
với “chức năng quản lý đơn thuần là chăm lo đến lợi ích của xã hội” như Ăng ghen đã
chỉ ra.
Kiểm tra gắn liền với công việc của một tổ chức, một cán bộ, công chức nhất
định và thường theo một số hướng sau: Theo dõi để cho hoạt động của tổ chức phù hợp
với chức năng, nhiệm vụ và sự phân công giữa các đơn vị; Quan sát để đảm bảo rằng
nhiệm vụ được giao có đủ điều kiện thực hiện, phù hợp với thực tế. Hướng dẫn và điều
chỉnh kịp thời để đảm bảo hiệu suất công việc của từng đơn vị; Kiểm tra kết quả cuối
cùng, đánh giá hiệu quả thực tế của các hoạt động theo kế hoạch đặt ra.
Trong quản lý hành chính nhà nước, kiểm tra có mục tiêu là tìm kiếm động cơ,
nguyên nhân cán bộ làm tốt (hay không làm tốt) nhiệm vụ được giao. Một sự kiểm tra



như vậy có thể được thực hiện trong nội bộ của bộ máy quản lý, nhưng cũng có thể ở
ngoài hệ thống đó mà người ta có thể gọi là kiểm soát ngoại lai.
Ở nước ta, trong các nghị quyết của Đảng, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp
năm 1992 cũng xem thanh tra và kiểm tra như là những mặt, phương diện của quản lý
nhà nước, có chung mục đích đều là những chức năng thiết yếu của cơ quan quản lý
nhà nước. Hiến pháp năm 1980, khi đề cập đến nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ,
quy định: “Chính phủ tổ chức và lãnh đạo công tác kiểm kê...; công tác thanh tra và
kiểm tra nhà nước; chống quan liêu, tham nhũng trong bộ máy nhà nước; công tác giải
quyết khiếu nại, tố cáo của công dân” (khoản 15 Điều 107). Thông báo Hội nghị lần
thứ 8 Ban chấp hành Trung ương Đảng (khoá VIII) chỉ rõ: “tăng cường công tác thanh
tra, kiểm tra để mọi thành phần kinh tế kinh doanh đúng pháp luật”.
Như vậy, về cơ bản, thanh tra, kiểm tra và giám sát có nghĩa như nhau, tính chất
như nhau, nhưng khác nhau về chủ thể thực hiện và khác nhau về phạm vi - tức đối
tượng thanh tra, kiểm tra, giám sát.
Tóm lại, kiểm tra là một hoạt động thường xuyên, do tính chất này mà chúng ta
không thể nói là đã có một hệ thống hay cơ chế kiểm tra hữu hiệu nếu chỉ có những
người lãnh đạo tổ chức và những cán bộ, tổ chức chuyên trách tham gia vào hoạt động
kiểm tra. Điều quan trọng là phải thiết lập được hệ thống tự kiểm tra và một nề nếp
kiểm tra lẫn nhau trong nội bộ tổ chức, giữa hai nhân tố chủ quan và khách quan trong
tổ chức hoặc hai nhân tố khác nhau trong cùng một công việc.
Hiểu một cách chung nhất, kiểm tra là loại hoạt động mà chủ thể kiểm tra tiến
hành xem xét tình hình thực tế của đối tượng kiểm tra để đưa ra những đánh giá, nhận
xét, kiến nghị, xử lý.
Kiểm tra là một hoạt động thường xuyên. Do tính chất này mà chúng ta không
thể nói là đã có một hệ thống kiểm tra hữu hiệu nếu chỉ có những người lãnh đạo tổ
chức và những cán bộ tổ chức chuyên trách tham gia vào hoạt động kiểm tra công việc.
Điều quan trọng là phải thiết lập được hệ thống tự kiểm tra và một nề nếp kiểm tra lẫn
nhau trong nội bộ tổ chức và giữa các đơn vị phối hợp. Cơ sở của kiểm tra là sự kết hợp
chặt chẽ giữa hai nhân tố chủ quan và khách quan trong tổ chức hoặc hai nhân tố khác
nhau trong cùng một công việc.

Quản lý nhà nước nói chung, quản lý thuế nói riêng là sự tác động có định
hướng của chủ thể quản lý (cơ quan thuế) đến đối tượng quản lý (người nộp thuế -


NNT) nhằm động viên một phần thu nhập quốc dân vào ngân sách nhà nước (NSNN).
Kiểm tra thuế chính là một công đoạn và là một yếu tố cấu thành của hoạt động quản lý
nhà nước của cơ quan thuế. Nói cụ thể hơn, kiểm tra thuế là hoạt động giám sát của cơ
quan thuế đối với các hoạt động, giao dịch liên quan đến phát sinh nghĩa vụ thuế và
tình hình thực hiện thủ tục hành chính thuế, chấp hành nghĩa vụ nộp thuế nhằm đảm
bảo pháp luật thuế được thực hiện nghiêm chỉnh trong đời sống kinh tế - xã hội. Kiểm
tra thuế thực hiện trên cơ sở phân tích thông tin, dữ liệu liên quan đến người nộp thuế,
đánh giá việc chấp hành pháp luật của người nộp thuế, xác minh và thu thập chứng cứ
để xác định hành vi vi phạm pháp luật về thuế [Luật quản lý thuế năm 2006]. Kiểm tra
thuế là một trong bốn chức năng cơ bản, giữ vị trí trung tâm trong hoạt động quản lý
thuế, có vai trò quyết định đến hiệu quả thực thi pháp luật thuế của NNT.
Theo pháp luật quản lý của nước ta, kiểm tra thuế là công việc thường xuyên,
liên tục, là một yêu cầu nhiệm vụ của cơ quan quản lý thuế được thực hiện tại trụ sở cơ
quan thuế dựa trên hồ sơ kê khai của NNT hoặc kiểm tra tại trụ sở của NNT theo kết
quả của phân tích rủi ro. Nội dung kiểm tra thuế là kiểm tra tính đầy đủ, chính xác của
các thông tin, tài liệu trong hồ sơ thuế nhằm đánh giá sự tuân thủ của NNT trong việc
kê khai, thực hiện nghĩa vụ thuế.
Nói một cách khái quát: Kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp là hoạt động của cơ
quan thuế trong việc xem xét tình hình thực tế của doanh nghiệp - đối tượng kiểm tra,
từ đó đối chiếu với chức năng, nhiệm vụ, yêu cầu đặt ra đối với đối tượng kiểm tra để
có những nhận xét, đánh giá và kiến nghị những giải pháp khắc phục.
1.1.2.

Nguyên tắc kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp

Trong công tác quản lý thuế, cùng với việc tôn trọng kết quả tự tính, tự khai, tự

nộp thuế của NNT, cơ quan thuế còn thực hiện các biện pháp giám sát hiệu quả nhằm
khuyến khích sự tự nguyện tuân thủ đồng thời đảm bảo phát hiện, ngăn ngừa các vi
phạm pháp luật thuế, cảnh báo NNT về việc luôn có một hệ thống giám sát kịp thời
ngăn chặn các hành vi vi phạm của họ. Bên cạnh việc ngăn ngừa vi phạm của NNT,
công tác kiểm tra thuế cũng góp phần phát huy các nhân tố tích cực, góp phần hoàn
thiện chính sách thuế, tăng cường pháp chế XHCN. Để thực hiện được các mục đích
đó, công tác kiểm tra thuế cần tuân thủ các nguyên tắc sau:
I. 1.21. Nguyên tắc tuân thủ pháp luật


Kiểm tra thuế phải tuân thủ các quy định của Luật quản lý thuế và các quy định
khác của pháp luật có liên quan. Kiểm tra thuế là hoạt động của cơ quan quản lý
chuyên ngành nên vừa có những đặc điểm của công tác kiểm tra nói chung vừa có tính
đặc thù của công tác quản lý thuế. Bởi vậy, nguyên tắc áp dụng pháp luật trong kiểm tra
thuế là ưu tiên áp dụng các quy định của Luật quản lý thuế đồng thời tuân thủ các quy
định khác của pháp luật khi kiểm tra, thanh tra.
Trong quá trình kiểm tra phải tuân thủ đúng những quy định pháp luật, bảo đảm
tính độc lập, nghiêm túc khi thực hiện những thủ tục cần thiết và trong phạm vi thẩm
quyền cho phép. Cơ quan thuế nằm trong tổ chức của bộ máy hành chính nhà nước, do
vậy, trong tổ chức và hoạt động của mình, cơ quan thuế cũng chịu sự điều chỉnh của
phương pháp mệnh lệnh quyền uy, phục tùng mệnh lệnh cấp trên. Nguyên tắc tuân theo
pháp luật là nguyên tắc chung được thể hiện ở trong tất cả các giai đoạn của hoạt động
kiểm tra. Mục đích của nguyên tắc này là nhằm đảm bảo tính pháp chế xuyên suốt
trong hoạt động kiểm tra.
Nguyên tắc tuân theo pháp luật cũng thể hiện trong việc tuân thủ đúng thời hạn
ghi trong quyết định kiểm tra; tuân thủ thời hạn báo cáo kết quả kiểm tra; tuân thủ về
thời hạn ra kết luận kiểm tra. Khi kết thúc kiểm tra, Đoàn kiểm tra phải thông báo với
NNT về việc kết thúc kiểm tra.
II. 2.2. Nguyên tắc chính xác, khách quan, trung thực, công khai, dân chủ
Kiểm tra thuế phải đảm bảo chính xác, khách quan, công khai, dân chủ, kịp thời.

Trong hoạt động kiểm tra phải đảm bảo tôn trọng sự thật, đánh giá đúng sự vật, hiện
tượng như nó vốn có, không được tùy tiện, chủ quan, khi kết luận một vấn đề phải có
chứng lý, không được suy diễn. Trong quá trình kiểm tra phải tranh thủ sự đồng tình,
ủng hộ của quần chúng, phát huy dân chủ, động viên quần chúng tham gia cung cấp
thông tin tài liệu cho cơ quan thuế. Nghiêm cấm việc cán bộ kiểm tra cố ý làm sai lệch
nội dung vụ việc, mở rộng nội dung kiểm tra, lợi dụng quyền hạn để sách nhiễu, gây
phiền hà cho NNT hoặc bao che cho hành vi vi phạm.
Nguyên tắc chính xác: Trong giai đoạn tiến hành kiểm tra, nguyên tắc chính xác
được thể hiện rõ nét nhất là trong việc áp dụng các văn bản pháp luật vào việc nhận
định, đánh giá thông tin, tài liệu thu thập được.
Nguyên tắc này cũng thể hiện ở việc báo cáo, dự thảo kết luận kiểm tra đầy đủ
và chính xác các nội dung: tài liệu, chứng cứ, kết quả kiểm tra, chế tài xử lý, căn cứ


pháp luật áp dụng để kết luận, kiến nghị. Bảo đảm tính chính xác trong việc đánh giá
việc thực hiện chính sách, pháp luật, nhiệm vụ của NNT; kết luận về nội dung được
kiểm tra; xác định rõ tính chất, mức độ vi phạm, nguyên nhân, trách nhiệm của NNT có
hành vi vi phạm; các biện pháp xử lý theo thẩm quyền đã áp dụng; kiến nghị các biện
pháp xử lý trong dự thảo kết luận kiểm tra.
Nguyên tắc khách quan, trung thực: khách quan, trung thực là vấn đề có tính
nguyên tắc cao, nó đảm bảo phản ánh đúng sự thật, không thiên lệch và bóp méo sự
thật. Nếu như tính chính xác nhấn mạnh đến khả năng, năng lực chuyên môn của hoạt
động kiểm tra thì tính khách quan, trung thực đòi hỏi người làm công tác kiểm tra phải
có quan điểm và thái độ đúng đắn.
Trước khi kết thúc kiểm tra tại đơn vị, Đoàn kiểm tra cần đánh giá tình hình hết
sức công tâm, rõ ràng về những vấn đề đã kiểm tra và những vấn đề chưa làm rõ để xác
định thời điểm kết thúc kiểm tra, hay cần tiếp tục gia hạn thời gian kiểm tra, cần tránh
việc cố tình kéo dài cuộc kiểm tra vì sự chủ quan, duy ý chí.
Các báo cáo kiểm tra phải nêu đầy đủ những tài liệu, những vấn đề, những
thông tin mà trong quá trình kiểm tra Đoàn kiểm tra thu thập hay phát hiện; Đoàn kiểm

tra cần báo cáo đầy đủ, rành mạch, chi tiết, cụ thể kể cả những suy nghĩ của mình về
những vấn đề phát hiện trong quá trình tiến hành kiểm tra với lãnh đạo cơ quan, đơn vị.
Nguyên tắc công khai: khi tiến hành kiểm tra, Đoàn kiểm tra phải thông báo đầy
đủ nội dung kiểm tra cho NNT biết; công khai trong việc thu thập hồ sơ, tài liệu (việc
cung cấp thông tin, tài liệu được thể hiện bằng văn bản của cơ quan, tổ chức, cá nhân
cung cấp hoặc Đoàn kiểm tra lập biên bản về việc cung cấp thông tin, tài liệu); công
khai khi tiếp xúc với đối tượng kiểm tra và những người có liên quan ở nơi có hoạt
động kiểm tra.
Đoàn kiểm tra thông báo kết thúc việc kiểm tra tại trụ sở NNT; công khai về
những đánh giá, kết luận của đoàn sau khi kết thúc kiểm tra NNT có cơ hội giải trình,
bổ sung thông tin, tài liệu, chứng cứ.
Việc bảo đảm nguyên tắc này sẽ tạo một môi trường làm việc chuyên nghiệp, có
trách nhiệm với một đội ngũ cán bộ có chất lượng và trách nhiệm nghề nghiệp cao hơn.
Nhóm nguyên tắc này là cách thức để cán bộ, công chức thuế tự hoàn thiện mình, kết
quả cuối cùng là chất lượng, hiệu quả hoạt động kiểm tra được nâng cao.


Nguyên tắc dân chủ: Được thể hiện trong mối quan hệ giữa các thành viên Đoàn
kiểm tra với nhau và giữa Đoàn kiểm tra với NNT khi đưa ra kết luận kiểm tra. Đó là
việc các thành viên Đoàn kiểm tra thảo luận, đưa ra ý kiến của mình về từng vấn đề cụ
thể khi xây dựng báo cáo kết quả kiểm tra, dự thảo kết luận kiểm tra; ý kiến khác nhau
giữa thành viên Đoàn kiểm tra với Trưởng đoàn kiểm tra về nội dung báo cáo kết quả
kiểm tra. Với đối tượng kiểm tra, họ có quyền đưa ra quan điểm của mình về những
đánh giá, kết luận của Đoàn kiểm tra dựa trên những thông tin, tài liệu, chứng cứ, quy
định của pháp luật và những ý kiến của đối tượng kiểm tra phải được thảo luận, xem
xét một cách khách quan, dân chủ.
1.1.2.3. Nguyên tắc tuân thủ đúng quy trình kiểm tra thuế
Kiểm tra thuế phải tuân thủ đúng quy trình của ngành đã quy định, việc tiến
hành kiểm tra phải thực hiện theo kế hoạch và đề cương đã được duyệt. Trong quá trình
kiểm tra phải đảm bảo không cản trở hoạt động bình thường của NNT.

Việc thực hiện nguyên tắc này trong giai đoạn tiến hành kiểm tra được hiểu là:
tuân thủ về trình tự, thủ tục; tuân thủ về thời hạn kiểm tra; tuân thủ việc sử dụng đúng
quyền của cán bộ kiểm tra trong quá trình kiểm tra ...
Để không làm cản trở hoạt động bình thường của NNT thì Đoàn kiểm tra phải
có kế hoạch rõ ràng, trao đổi cụ thể với NNT về nội dung, thời gian làm việc; kế hoạch
làm việc với những người có trách nhiệm phải giải trình với Đoàn thanh tra; có kế
hoạch làm việc với những tổ chức, đơn vị có liên quan đến nội dung kiểm tra để tiến
hành xác minh thông tin, tài liệu... để NNT chuẩn bị, sắp xếp chương trình làm việc với
Đoàn kiểm tra trên nguyên tắc thảo luận bình đẳng để không làm cản trở đến hoạt động
bình thường của đối tượng kiểm tra.
1.1.24. Nguyên tắc bảo vệ bí mật
Kiểm tra thuế phải đảm bảo bí mật các thông tin về NNT vì trong quá trình
kiểm tra, bộ phận kiểm tra được NNT cung cấp nhiều hồ sơ tài liệu, có những hồ sơ tài
liệu nếu phổ biến ra ngoài sẽ ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
(DN), gây thiệt hại cho NNT và còn có thể ảnh hưởng đến các lợi ích quốc gia. Ngoài
ra, theo quy định tại quy trình kiểm tra thuế, cán bộ thuế còn phải đảm bảo bí mật các
thông tin về kết quả kiểm tra thuế trừ các trường hợp công khai thông tin vi phạm pháp
luật về thuế của NNT theo quy định tại Điều 73, Điều 74 Luật Quản lý thuế và Điều 72
Luật xử lý vi phạm hành chính số 15/2012/QH13 ngày 20/6/2012.


1.1.2.5. Nguyên tắc hiệu quả
Kiểm tra thuế được thực hiện trên cơ sở phân tích thông tin, dữ liệu liên quan
đến NNT, đánh giá việc chấp hành pháp luật của NNT, xác minh và thu thập chứng cứ
để xác định hành vi vi phạm pháp luật về thuế. Việc lựa chọn đối tượng để kiểm tra dựa
trên căn cứ khách quan là phân tích nguồn cơ sở dữ liệu thông tin liên quan đến NNT,
đánh giá thông tin theo phương pháp đánh giá rủi ro, xác định, lựa chọn đúng đối tượng
có mức độ rủi ro cao nhất để tiến hành kiểm tra. Trên cơ sở phân tích, đánh giá thông
tin về NNT, cơ quan quản lý thuế sẽ xác định tiến hành về hình thức, quy mô và phạm
vi kiểm tra. Điểm cần lưu tâm trong công tác kiểm tra là kiểm tra không dàn trải mà

chủ yếu tập trung vào những đối tượng có vấn đề về rủi ro. Đối tượng cần kiểm tra chủ
yếu được xác định qua việc phân tích thông tin về NNT và các thông tin có liên quan
khác. Từ phân tích thông tin về NNT, cơ quan quản lý thuế sẽ điều chỉnh cơ cấu cuộc
kiểm tra như: tăng thời gian phân tích, kiểm tra hồ sơ tại cơ quan thuế, giảm thời gian
trực tiếp kiểm tra tại trụ sở NNT; tránh phiền hà cho doanh nghiệp nhưng tăng tỉ lệ số
đối tượng vi phạm được phát hiện.
Thực hiện nguyên tắc này mới đảm bảo cho kiểm tra thuế đạt được mục đích
của nó. Nguyên tắc này đòi hỏi kiểm tra thuế phải đảm bảo tính hiểu quả, nghĩa là phải
có tác dụng đề phòng, ngăn ngừa những thiếu sót, vi phạm; phải đảm bảo giúp các đối
tượng kiểm tra thực hiện đúng chính sách thuế. Mặt khác nguyên tắc hiệu quả trong
kiểm tra thuế còn phải thể hiện ở chỗ chi phí phục vụ cho công tác kiểm tra thuế nhỏ
nhất trên một đơn vị số thu do kết quả kiểm tra mang lại.
1.1.26. Nguyên tắc trách nghiệm tập thể
Kiểm tra thuế là một dạng hoạt động nhân danh quyền lực nhà nước, nói đến
công tác kiểm tra thuế nói đến trách nhiệm của cán bộ kiểm tra thuế trong việc hỗ trợ
NNT thực hiện quyền và nghĩa vụ theo pháp luật thuế. Trong quá trình kiểm tra, người
kiểm tra tự ý thức về quyền và nhiệm vụ được phân công cũng như bổn phận phải thực
hiện các quyền và nhiệm vụ đó. Tính hiệu lực, hiệu quả trong kiểm tra thuế đều dựa
trên cơ sở đề cao tính trách nhiệm, với tinh thần tận tụy, mẫn cán và làm tròn bổn phận
của người kiểm tra. Theo đó, trong quá trình thực hiện kiểm tra thuế các thành viên và
từng thành viên đoàn kiểm tra vừa phải chịu trách nhiệm cá nhân và trách nhiệm tập thể
đối với kết luận kiểm tra. Thành viên đoàn kiểm tra nếu có ý kiến khác với ý kiến của
đoàn kiểm tra thì có thể bảo lưu ý kiến của mình và ghi vào biên bản.


1.1.3.

Nội dung kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp

1.1.3.1.


Kiểm tra hồ sơ khai thuế tại trụ sở cơ quan thuế

a. Kiểm tra đăng kỷ thuế
Đăng ký kinh doanh và đăng ký thuế là quyền và nghĩa vụ của đối tượng kinh
doanh. Thông qua việc đăng ký, Nhà nước quản lý được mọi hoạt động sản xuất kinh
doanh của cơ sở ngay từ khi bắt đầu hoạt động, tạo điều kiện thuận lợi cho công tác kế
hoạch hóa nguồn thu ngân sách.
Nội dung kiểm tra đăng ký kinh doanh là xem xét trên từng địa bàn, trong từng
loại ngành nghề có bao nhiêu doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh; số lượng
đơn vị đã đăng ký và chưa đăng ký thuế.
Đối với mỗi doanh nghiệp, khi kiểm tra, cần đi sâu xem xét tính pháp lý của
đăng ký thuế, kiểm tra tính trung thực của các tài liệu, số liệu kê khai trong đăng ký
kinh doanh và đăng ký thuế về vốn và địa điểm, ngành nghề kinh doanh, thời gian thực
tế kinh doanh, hình thức kế toán áp dụng, tài khoản giao dịch ... nhằm phát hiện và xử
lý những gian lận trong kê khai đăng ký thuế.
b. Kiểm tra hồ sơ khai thuế và việc chấp hành chế độ kế toán, sổ sách, chứng
từ, hóa đơn
Theo quy định của pháp luật Việt Nam (Luật Doanh Nghiệp, Luật Kế toán...),
tất cả các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, các tổ chức, cơ quan đoàn thể
làm kinh tế đều phải chấp hành chế độ kế toán thống kê.
Việc thực hiện chế độ kế toán, sổ sách, chứng từ, hóa đơn có liên quan mật thiết
đến việc tính thuế, nộp thuế và công tác quản lý của Nhà nước. Nội dung kiểm tra trong
lĩnh vực này bao gồm những vấn đề cơ bản sau đây:
Thứ nhất, kiểm tra việc tổ chức thực hiện Luật Kế toán của các cơ sở kinh
doanh; kiểm tra việc mở sổ sách kế toán; việc quản lý và sử dụng các loại chứng từ,
hóa đơn theo chế độ quy định; hình thức hạch toán; chế độ ghi chép cập nhật sổ sách...
Thứ hai, kiểm tra việc lập và sử dụng các loại chứng từ, hóa đơn có liên quan
đến việc tính thuế. Nội dung của kiểm tra chứng từ, hóa đơn là xác định tính hợp pháp,
hợp lý, tính trung thực của từng loại chứng từ, hóa đơn có liên quan như: hóa đơn bán

hàng, phiếu xuất kho, chứng từ thu chi.


Qua kiểm tra việc chấp hành chế độ kế toán, sổ sách, chứng từ, hóa đơn đảm
bảo chính xác các căn cứ tính thuế, ngăn chặn kịp thời việc hạch toán sai để trốn lậu
thuế. Do vậy, nội dung kiểm tra này cần được tiến hành thường xuyên.
c. Kiểm tra việc kê khai, tính thuế và nộp thuế
Việc kê khai, tính thuế, nộp thuế là nghĩa vụ của các doanh nghiệp đối với nhà
nước. Nội dung công tác kiểm tra việc kê khai, tính thuế, nộp thuế bao gồm:
Thứ nhất, kiểm tra căn cứ tính thuế. Kiểm tra căn cứ tính thuế nhằm xác định
đúng số thuế phải nộp, số thuế đã nộp, số thuế được miễn, giảm, số thuế được hoàn
trong kỳ của doanh nghiệp. Việc kiểm tra căn cứ tính thuế được thực hiện trên cơ sở
kiểm tra sổ sách kế toán, chứng từ hóa đơn và các tài liệu có liên quan. Thông qua việc
kiểm tra, đối chiếu số liệu trên các tờ khai, bản kê, quyết toán thuế doanh nghiệp đã kê
khai với số liệu kiểm tra trên sổ sách kế toán và tình hình thực tế của doanh nghiệp để
phát hiện số thuế đơn vị kê khai thiếu, số thuế ẩn lậu...
Thứ hai, kiểm tra việc chấp hành nộp thuế của doanh nghiệp. Yêu cầu của nội
dung này là xác định xem doanh nghiệp có thực hiện nghiêm túc quy định về thời hạn
nộp thuế của các luật thuế không, có dây dưa nộp chậm tiền thuế để chiếm dụng ngân
sách Nhà nước làm vốn kinh doanh không, có nợ đọng thuế không. Để đạt yêu cầu trên,
cần đối chiếu thời hạn nộp thuế theo quy định của các Luật thuế với thời gian nộp thuế
của doanh nghiệp qua các chứng từ nộp thuế như giấy nộp tiền vào Kho bạc, biên lai
thuế.
1.1.3.2.

Kiểm tra tại trụ sở người nộp thuế

- Nội dung kiểm tra tại trụ sở người nộp thuế cho từng trường hợp cụ thể như
sau:
a Trường hợp kiểm tra từ hồ sơ khai thuế là các khoản mục người nộp thuế

không giải trình hoặc không khai bổ sung sau thời hạn thông báo của cơ quan thuế;
b. Trường hợp kiểm tra hoàn thuế là số thuế đề nghị hoàn hoặc số thuế đã được
hoàn theo quyết định của cơ quan thuế;
c. Trường hợp kiểm tra theo dấu hiệu vi phạm là các nội dung, khoản mục có
dấu hiệu vi phạm pháp luật thuế;
d. Trường hợp kiểm tra theo kế hoạch, chuyên đề là nội dung có dấu hiệu rủi ro
qua phân tích chuyên sâu hồ sơ khai thuế (tối thiểu là một năm) của người nộp thuế;


e. Đối với trường hợp kiểm tra người nộp thuế chia tách, sáp nhập, hợp nhất,
giải thể, phá sản, cổ phần hóa, đóng mã số thuế, chuyển địa điểm kinh doanh và các
trường hợp kiểm tra đột xuất, kiểm tra theo chỉ đạo của cấp có thẩm quyền là nội dung
kiểm tra việc chấp hành pháp luật thuế.
I. 1.4. Phương pháp kiểm tra thuế
II. 4.1. Phương pháp kiểm tra cơ bản
Có các phương pháp kiểm tra thuế cơ bản như sau:
Thứ nhất: Phương pháp đối chiếu, so sánh
Sử dụng nhằm kiểm tra đối chiếu số liệu giữa hồ sơ khai thuế với sổ sách kế
toán, giữa số liệu kế toán tổng hợp và kế toán chi tiết, đối chiếu với các quy định văn
bản pháp luật về thuế, nhằm phát hiện gian lận.
- Đối chiếu với các quy định của các văn bản pháp luật về thuế.
- Đối chiếu các chỉ tiêu trong tờ khai thuế với các tài liệu kèm theo.
-

Đối chiếu các chỉ tiêu phản ánh trong tờ khai thuế, các tài liệu kèm theo tờ
khai thuế với tờ khai thuế, các tài liệu kèm theo tờ khai thuế tháng trước,
quý trước, năm trước.

-


Đối chiếu với các dữ liệu của NNT có quy mô kinh doanh tương đương, có
cùng ngành nghề, mặt hàng đăng ký kinh doanh.
- Đối chiếu với các thông tin, tài liệu thu thập được từ các nguồn khác.
Đối với các hồ sơ khai thuế qua đối chiếu, so sánh, phân tích xét thấy có nội

dung khai chưa đúng, số liệu khai không chính xác hoặc có những nội dung cần xác
minh liên quan đến số tiền thuế phải nộp, số tiền thuế được miễn, số tiền thuế được
giảm, số tiền thuế được hoàn... công chức kiểm tra thuế phải báo cáo trưởng bộ phận
kiểm tra trình Thủ trưởng cơ quan thuế ra thông báo bằng văn bản đề nghị NNT giải
trình hoặc bổ sung thông tin tài liệu.
Thứ hai: Phương pháp kiểm tra từ tổng hợp đến chi tiết
Đây là phương pháp tối ưu để kiểm tra số liệu kế toán, việc kiểm tra được thực
hiện từ số liệu tổng hợp đến chi tiết, tức là từ các báo cáo tổng hợp (BCTC, báo cáo
thuế, ...) đến sổ sách kế toán (sổ tổng hợp), sổ nhật ký chứng từ, sổ chi tiết và cho đến
cuối cùng là chứng từ gốc. Phương pháp này cho phép rút ra các vấn đề tổng quát để
định hướng những vấn đề cần đi sâu chi tiết.
Thứ ba: Phương pháp kiểm tra chứng từ gốc


Phương pháp này thực hiện ngược lại phương pháp trên, tức là đi trực tiếp vào
nội dung chi tiết, bắt đầu từ các chứng từ gốc, rồi kiểm tra đến bảng kê, sổ nhật ký, sổ
cái và cuối cùng là các báo cáo tổng hợp.
Có các cách kiểm tra chứng từ gốc như: Kiểm tra theo trình tự thời gian; Kiểm
tra theo phân loại nghiệp vụ; Kiểm tra chọn mẫu ...
Thứ tư: Các phương pháp kiểm tra bổ trợ
- Phương pháp quan sát, phỏng vấn: Phương pháp này thường được dùng để
phỏng vấn doanh nghiệp để tìm hiểu về cách thức kinh doanh, mua bán, giá cả; quy
trình sản xuất, thời gian làm việc, công suất thực tế của máy móc thiết bị; điều lệ, chế
độ, mức trả lương, thưởng cho cán bộ công nhân viên, ...
- Phương pháp xác minh: Thường đươc sử dụng khi có sự nghi vấn về hàng

hóa, chi phí mua vào của doanh nghiệp có dấu hiệu sử dụng hóa đơn bất hợp pháp hoặc
xác minh tính có thực của nghiệp vụ kinh tế phát sinh như nguồn gốc hàng hóa mua
vào, tình hình chấp hành pháp luật thuế của các doanh nghiệp, vv...
- Phương pháp kiểm kê: Được áp dụng để kiểm tra đột xuất, kiểm kê hàng tồn
kho thực tế, đối chiếu với sổ kế toán để phát hiện gian lận, đồng thời xử lý kịp thời
hành vi sai phạm.
1.1.4.2.

Phương pháp kiểm tra theo kỹ thuật quản lý rủi ro

Quản lý rủi ro là một phương pháp quản lý khoa học và hiệu quả trong điều kiện
số lượng NNT ngày càng tăng lên nhanh chóng hiện nay, đồng thời mức độ quản lý
ngày càng phức tạp do trình độ của NNT ngày càng cao, các hoạt động kinh tế phát
sinh ngày càng đa dạng và phong phú dẫn đến khối lượng công việc của công tác quản
lý thuế tăng lên, vượt quá khả năng của các cơ quan thuế trong khi nguồn lực của các
cơ quan thuế đang bị hạn chế nhất định. Theo kinh nghiệm quốc tế, cơ quan thuế cần
phân chia DN thành các nhóm theo các cấp độ tuân thủ, khi đó mới có biện pháp quản
lý, giám sát phù hợp và hiệu quả. Việc phân định, phân chia DN thành các nhóm theo
các cấp độ tuân thủ sẽ giúp cơ quan thuế tối ưu hóa chi phí quản lý cũng như phân bố
các nguồn lực một cách hiệu quả, tránh lãng phí.
Kiểm tra thuế trên cơ sở áp dụng quản lý rủi ro đã được nhiều nước trên thế giới
áp dụng. Quản lý rủi ro trong quản lý thuế nói chung và kiểm tra - thanh tra thuế nói
riêng với mục tiêu để cơ quan thuế đánh giá việc tuân thủ pháp luật thuế đối với doanh
nghiệp trong các nghiệp vụ quản lý thuế (bao gồm đăng ký thuế; khai thuế; nộp thuế;


nợ thuế; hoàn thuế; kiểm tra; thanh tra thuế..) đã chính thức được luật hóa tại Luật sửa
đổi, bổ sung một số điều của Luật Quản lý thuế năm 2012, Nghị định số 83/2013/NĐCP, Thông tư số 204/2015/TT-BTC và một số văn bản hướng dẫn có liên quan.
Theo quy định tại Thông tư số 204/2015/TT-BTC ngày 21/12/2015 của Bộ Tài
chính quy định về áp dụng quản lý rủi ro trong quản lý thuế, các biện pháp, kỹ thuật

quản lý rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ của cơ quan thuế, bao gồm:
- Áp dụng tiêu chí quản lý rủi ro.
- Thu thập, xây dựng hệ thống thông tin dữ liệu liên quan đến NNT (NNT); xây
dựng ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý rủi ro.
- Đánh giá việc tuân thủ pháp luật về thuế, đánh giá xếp hạng mức độ rủi ro đối
với NNT.
- Phân tích rủi ro, xác định trọng điểm rủi ro trong hoạt động nghiệp vụ QLT.
- Quản lý hồ sơ rủi ro đối với NNT phải giám sát trọng điểm trong công tác
QLT có nguy cơ không tuân thủ pháp luật về thuế, gian lận thuế.
- Xây dựng, quản lý áp dụng danh sách NNT rủi ro.
- Ứng dụng hệ thống thông tin nghiệp vụ để xác định hình thức, mức độ quản
lý, đôn đốc, kiểm tra.
- Đo lường, đánh giá tuân thủ pháp luật thuế trong hoạt động nghiệp vụ QLT.
- Theo dõi, đôn đốc, kiểm tra đánh giá hiệu lực, hiệu quả thực hiện các biện
pháp đôn đốc, kiểm tra và các biện pháp nghiệp vụ khác trong QLT đối với NNT.
I. 1.5. Quy trình kiểm tra thuế đối với doanh nghiệp
II. 5.1. Kiểm tra tại trụ sở cơ quan thuế
Được thực hiện theo 2 phương pháp:
Thứ nhất: Kiểm tra bằng phương pháp thủ công
- Lựa chọn danh sách NNT để kiểm tra hồ sơ khai thuế tại trụ sở cơ quan thuế
tối thiểu là 20% số lượng doanh nghiệp hoạt động đang quản lý thuế như sau:
+ Từ 15% số lượng NNT trở lên lựa chọn bằng ứng dụng lập kế hoạch thanh tra,
kiểm tra thuế theo rủi ro (TPR);
+ Từ 5 % số lượng NNT trở lên lựa chọn qua thực tiễn quản lý thuế tại địa
phương có rủi ro cao, có dấu hiệu trốn thuế, gian lận thuế, khai sai số thuế phải nộp.
Danh sách NNT được lựa chọn theo rủi ro nêu trên để kiểm tra hồ sơ khai thuế
tại trụ sở cơ quan thuế không trùng lắp với danh sách kế hoạch thanh tra và kế hoạch



×