Tải bản đầy đủ (.docx) (73 trang)

Trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (313.07 KB, 73 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN VĂN QUANG

TRÁCH NHIỆM DÂN SỰ TRONG VỤ ÁN HÌNH SỰ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH HẢI DƯƠNG
Ngành: Luật hình sự và tố tụng hình sự
Mã số: 8.38.01.04

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HÌNH SỰ VÀ TỐ TỤNG HÌNH SỰ

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS. TS. NGUYỄN TẤT VIỄN

HÀ NỘI - 2018


Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do tôi thực hiện dưới
sự hướng dẫn của PGS.TS. Nguyễn Tất Viễn.
Tôi xin chịu trách nhiệm về tính khoa học cũng như về nội dung
trích dẫn tài liệu của Luận văn này.
Hà Nội, ngày tháng năm 2018
Tác giả luận văn

Nguyễn Văn Quang


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT


BLHS :
BLTTHS :

Bộ luật Hình sự
Bộ luật Tố tụng hình sự

BLDS :

Bộ luật Dân sự

TNHS :

Trách nhiệm hình sự

TNDS :
TAND :
VKSND :

Trách nhiệm dân sự
Tòa án nhân dân
Viện kiểm sát nhân dân

VAHS :

Vụ án hình sự


Bảng 2.1: Số liệu về công tác giải quyết, xét xử sơ thẩm các loại án của



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hoạt động xét xử là hoạt động có tính đặc thù và chỉ do Tòa án thực hiện.
Yêu cầu đặt ra cho công tác xét xử là phải khách quan, toàn diện và đầy đủ; xét xử
đúng người, đúng tội, đúng pháp luật; không bỏ lọt tội phạm, không làm oan người
vô tội. Đồng thời với việc giải quyết vụ án hình sự (VAHS), pháp luật cho phép Tòa
án giải quyết cả vấn đề trách nhiệm dân sự (TNDS) liên quan đến tội phạm. Yêu cầu
xét xử đối với VAHS không chỉ là giải quyết tốt về mặt hình sự mà cần giải quyết tốt
cả vấn đề dân sự có liên quan.
Trong thực tế, việc giải quyết TNDS trong VAHS còn có những hạn chế nhất
định, thậm chí cách hiểu và áp dụng còn lúng túng từ các cơ quan xét xử. Các Tòa
án thường chú trọng đến phần hình sự mà ít chú trọng đến phần dân sự có liên quan
trong vụ án. Thực tiễn áp dụng quy định pháp luật về TNDS trong VAHS còn những
sai sót nhất định đòi hỏi phải được nghiên cứu, tổng kết để đưa ra các biện pháp
khắc phục. Trong khoa học luật tố tụng hình sự Việt Nam hiện nay, việc nghiên cứu
về nội dung TNDS trong VAHS tuy đã có những bài viết, luận văn nghiên cứu về
vấn đề này nhưng những nghiên cứu đó chưa thật sự sâu sắc, đầy đủ, chủ yếu chỉ
dừng lại ở các bài báo hoặc trong công trình nghiên cứu về hoạt động xét xử của Tòa
án. Nghị quyết số 48-NQ/TW ngày 25/4/2005 của Bộ Chính trị về ”Chiến lược xây
dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến
năm 2020" yêu cầu: “Hoàn thiện chế độ bảo hộ của Nhà nước đối với các quyền, lợi
ích hợp pháp của công dân, chế độ trách nhiệm của cơ quan nhà nước, nhất là toà
án trong việc bảo vệ các quyền đó...”[15]. Hoàn thiện các quy định pháp luật về
TNDS trong VAHS cũng là một nội dung quan trọng trong công tác hoàn thiện chính
sách pháp luật hình sự và thủ tục tố tụng tư pháp. Trên tinh thần đó, việc tiếp tục
nghiên cứu sâu sắc hơn nữa những vấn đề lý luận và đặc biệt là thực tiễn về TNDS
trong VAHS là rất cần thiết. Do đó, việc nghiên cứu, đánh giá từ thực tiễn áp dụng
nguyên tắc này tại tỉnh Hải Dương để đưa ra những kiến giải hoàn thiện pháp luật và
5



các giải pháp bảo đảm thực hiện các quy phạm về vấn đề này trong giai đoạn hiện
nay không những có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và pháp lý quan trọng, mà còn là vấn
đề mang tính cấp thiết. Đây cũng là lý do luận chứng cho việc học viên được giao đề
tài "Trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Hải Dương" làm luận
văn thạc sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Việc giải quyết TNDS trong VAHS đã được nghiên cứu ở nhiều phương diện,
phạm vi khác nhau nhằm làm sáng tỏ các vấn đề mang tính chất lý luận và thực tiễn
được công bố trong các công trình khoa học, giáo trình giảng dạy, bài viết, bài bình
luận trên các tạp chí như:
Cấp độ luận văn thạc sĩ luật học có đề tài "Nguyên tắc giải quyết vấn đề dân
sự trong vụ án hình sự" của Nguyễn Thị Thu Hương bảo vệ năm 2009 tại Khoa Luật
- Đại học Quốc gia Hà Nội; đề tài “Giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự và
thực tiễn áp dụng trên địa bàn tỉnh Hà Giang ” của Kim Sơn Trúc bảo vệ năm 2015
tại Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội. Tại Học viện Khoa học xã hội có các
Luận văn nghiên cứu liên quan đề tài này, đó là: Luận văn của tác giả Lê Mạnh
Hùng với đề tài: "Khía cạnh dân sự trong vụ án hình sự từ thực tiễn tỉnh Quảng
Nam" bảo vệ năm 2011; đề tài: "Vấn đề dân sự trong vụ án hình sự từ thực tiễn
huyện Phú Thiện, tỉnh Gia Lai" của tác giả Nguyễn Minh Hào bảo vệ năm 2013; đề
tài “Vấn đề dân sự trong vụ án hình sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội” của tác giả
Nguyễn Thanh Tùng bảo vệ năm 2016; đề tài “Trách nhiệm dân sự trong vụ án hình
sự từ thực tiễn tỉnh Hưng Yên ” của tác giả Nguyễn Hải Thanh bảo vệ năm 2017.
Ngoài ra, một số tác giả cũng đã công bố các bài báo khoa học đề cập đến
vấn đề TNDS trong VAHS như: Đinh Văn Quế, "Vấn đề kháng nghị giám đốc thẩm
về "dân sự" trong vụ án hình sự", Tạp chí Tòa án nhân dân, số 9, 2005; Đỗ Văn
Đại, "Bàn về việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự”, Tạp chí Kiểm sát,
số 9, 2007; Nguyễn Xuân Đang, "Giải quyết trách nhiệm dân sự trong vụ án hình
sự", Tạp chí Tòa án nhân dân, số 21, 2005; Nguyễn Văn Tuân, "Thủ tục giải quyết
6



việc kiện dân sự trong vụ án hình sự", Tạp chí Dân chủ và pháp luật, số 9, 2011;
Hoàng Thị Sơn, "Việc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình sự", Tạp chí Luật
học, số 6, 1998; Trọng Tài, "Tòa án cấp sơ thẩm và Tòa án cấp phúc thẩm đều xác
định sai vấn đề dân sự trong vụ án hình sự", Tạp chí Tòa án nhân dân, số 6, 2006;
Nguyễn Ngọc Chí: "Bàn về nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong vụ án hình
sự'", Tạp chí Khoa học Đại học Quốc gia Hà Nội, Luật học số 26, 2010 v.v...
Qua các công trình trên cho thấy chưa có công trình nào nghiên cứu về
TNDS trong thực tiễn giải quyết các VAHS phát sinh trên địa bàn tỉnh Hải Dương.
Do vậy, việc giải quyết TNDS trong VAHS trên địa bàn một tỉnh cụ thể cần được
quan tâm nghiên cứu để góp phần giải quyết tốt hơn vấn đề dân sự trong các VAHS,
đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và pháp luật về TNDS trong VAHS,
phân tích thực tiễn áp dụng pháp luật từ thực tiễn tỉnh Hải Dương, đề xuất một số
giải pháp đảm bảo áp dụng đúng đắn các quy định pháp luật về TNDS trong VAHS.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Từ mục đích nghiên cứu nêu trên, luận văn có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
- Nghiên cứu các vấn đề lý luận về TNDS trong VAHS;
- Nghiên cứu các quy định về TNDS trong VAHS theo pháp luật tố tụng hình
sự Việt Nam; đánh giá thực tiễn áp dụng các quy định này trên địa
bàn tỉnh Hải Dương;
- Từ thực tiễn của tỉnh Hải Dương, đề xuất một số yêu cầu và giải pháp đảm
bảo áp dụng đúng các quy định pháp luật về TNDS trong VAHS trong thực tiễn.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về TNDS trong VAHS theo luật tố tụng hình sự Việt
Nam.


7


Phạm vi không gian: nghiên cứu TNDS trong VAHS từ thực tiễn của tỉnh Hải
Dương.
Phạm vi thời gian: Luận văn nghiên cứu việc giải quyết TNDS trong VAHS
tại tỉnh Hải Dương trong 5 năm từ năm 2013 đến năm 2017.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử; vận dụng một số nguyên lý, quy luật và cặp
phạm trù của chủ nghĩa duy vật biện chứng trong nghiên cứu nội dung của luận văn.
Các phương pháp nghiên cứu cụ thể được sử dụng trong luận văn gồm:
phương pháp phân tích, tổng hợp; phương pháp so sánh, đối chiếu; phương pháp
diễn dịch; phương pháp quy nạp; phương pháp thống kê, điều tra xã hội học để tổng
hợp các tri thức khoa học luật hình sự và luận chứng các vấn đề tương ứng được
nghiên cứu trong luận văn.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận: Luận văn là công trình nghiên cứu đầu tiên về thực tiễn áp
dụng pháp luật về TNDS trong VAHS tại tỉnh Hải Dương, góp phần làm rõ hơn
những căn cứ thực tiễn hoàn thiện chế định TNDS trong VAHS.
về mặt thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn là tài liệu tham khảo giúp
các cơ quan tiến hành tố tụng khi giải quyết TNDS trong VAHS.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự.
Chương 2: Quy định pháp luật về trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự và
thực tiễn áp dụng tại tỉnh Hải Dương.
Chương 3: Yêu cầu và giải pháp đảm bảo áp dụng đúng về trách nhiệm
dân sự trong vụ án hình sự.


8


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN
VỀ TRÁCH NHIỆM DÂN Sự TRONG VỤ ÁN HÌNH Sự
1.1. Khái niệm, đặc điểm, phạm vi, mối quan hệ và ý nghĩa về trách
nhiệm dân sự trong vụ án hình sự
1.1.1. Khái niệm trách nhiệm dân sự
Trách nhiệm pháp lý mang tính tài sản được áp dụng đối với người vi phạm
pháp luật dân sự nhằm bù đắp về tổn thất vật chất, tinh thần cho người bị thiệt hại.
Dựa vào căn cứ làm phát sinh nghĩa vụ mà các bên đã vi phạm, TNDS được
phân chia thành trách nhiệm ngoài hợp đồng và trách nhiệm do vi phạm nghĩa vụ từ
những cam kết, thỏa thuận.
Nếu nghĩa vụ được tạo lập do các bên cam kết, thỏa thuận mà người có nghĩa
vụ vi phạm thì trách nhiệm đó được coi là trách nhiệm theo hợp đồng. Nếu nghĩa vụ
được quy định bởi các quy định của pháp luật nói chung mà người có nghĩa vụ vi
phạm thì trách nhiệm đó được coi là trách nhiệm ngoài hợp đồng.
Trách nhiệm dân sự bao gồm buộc xin lỗi, cải chính công khai, buộc thực
hiện nghĩa vụ dân sự, buộc bồi thường thiệt hại, phạt vi phạm [55].
Trong Bộ luật Dân sự không đưa ra định nghĩa về TNDS nhưng về mặt khoa
học pháp lý có thể hiểu TNDS là hậu quả bất lợi mà cơ quan nhà nước có thẩm
quyền áp dụng đối với người có hành vi vi phạm pháp luật nói chung và vi phạm
nghĩa vụ nói riêng [29].
Trách nhiệm dân sự là một dạng trách nhiệm pháp lý, phát sinh do vi phạm
nghĩa vụ dân sự. Người chịu TNDS nếu không thực hiện đầy đủ hoặc thực hiện
không đúng nghĩa vụ đó thì phải chịu trách nhiệm đối với người bị hại và trước pháp
luật. TNDS là trách nhiệm bồi thường về vật chất và tinh thần. Trong đó, trách
nhiệm bồi thường về vật chất và tinh thần là trách nhiệm bồi thường những tổn thất

vật chất thực tế, tính được thành tiền do bên vi phạm nghĩa vụ dân sự gây ra bao


gồm tổn thất về tài sản, chi phí ngăn chặn thiệt hại, thu nhập thực tế bị giảm sút.
Người thiệt hại về tinh thần đối với người khác do xâm phạm đến tính mạng sức
khỏe, danh dự, uy tín của người khác thì ngoài việc chấm dứt hành vi vi phạm còn
phải bồi thường một khoản tiền cho người bị hại.
Trách nhiệm dân sự có những đặc điểm sau: 1) Là một biện pháp cưỡng chế
của pháp luật được thể hiện dưới dạng trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ dân sự và
trách nhiệm bồi thường thiệt hại nhằm đảm bảo quyền lợi cho bên bị hại; 2) Cùng
với các biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ dân sự, TNDS sẽ đem lại cho người
thực hiện nghĩa vụ dân sự những hậu quả bất lợi; 3) TNDS do các cơ quan có thẩm
quyền của nhà nước thực thi theo trình tự và thủ tục nhất định đối với những người
có hành vi trái pháp luật gây thiệt hại cho người khác.
Các yếu tố làm phát sinh TNDS gồm: 1) Có thiệt hại thực tế của bên bị hại;
2) Có lỗi của người gây ra thiệt hại; 3) Có mối quan hệ nhân quả giữa lỗi và thiệt hại
thực tế. TNDS bao gồm TNDS trong hợp đồng và ngoài hợp đồng. Bên cạnh một số
điểm chung, TNDS trong hợp đồng và ngoài hợp đồng còn có những điểm riêng.
Nếu như TNDS theo hợp đồng phát sinh trên các cơ sở những thỏa thuận giữa các
bên trong hợp đồng thì TNDS ngoài hợp đồng là các loại TNDS phát sinh bên ngoài,
không phụ thuộc vào hợp đồng, việc phát sinh TNDS thường là bất ngờ và không ai
có thể lường trước được. Căn cứ để xác định TNDS ngoài hợp đồng là hành vi vi
phạm những quy định pháp luật do Nhà nước ban hành dẫn đến thiệt hại, vì vậy đó
có thể là hành vi vi phạm những quy định pháp luật hình sự, hành chính. Đối với
TNDS ngoài hợp đồng thì về nguyên tắc bên gây thiệt hại phải bồi thường toàn bộ
và kịp thời, cả thiệt hại trực tiếp và thiệt hại gián tiếp.
1.1.2.

Khái niệm, đặc điểm về trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự


Trong VAHS, hành vi phạm tội xảy ra không chỉ xâm hại đến những quan hệ
xã hội được pháp luật hình sự bảo vệ mà còn xâm hại đến các quan hệ dân sự, nên có
hai loại trách nhiệm được đặt ra khi giải quyết VAHS, đó là: TNHS và TNDS. Có
nghĩa là, khi giải quyết VAHS mà tội phạm xâm hại đến tính mạng, sức khỏe, danh


dự, nhân phẩm, tài sản... của cá nhân, tổ chức thì ngoài việc điều tra, truy tố, xét xử
về hình sự, áp dụng, thi hành hình phạt đối với người phạm tội, các cơ quan tiến
hành tố tụng còn phải chứng minh và giải quyết phần TNDS trong vụ án một cách
chính xác, khách quan, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức.
Đây là vấn đề phức tạp trong lý luận và thực tiễn hiện nay có nhiều ý kiến
khác nhau. Ý kiến cho rằng, "trách nhiệm dân sự" trong VAHS chỉ bao gồm những
khoản tiền hoặc tài sản có liên quan đến việc trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi
thường thiệt hại được quy định tại Điều 48 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm
2017), hay nói cách khác là "trách nhiệm dân sự" trong VAHS chỉ trong phạm vi
"trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng" theo tinh thần và nội dung
Chương XX BLDS năm 2015. Trong khi đó, tác giả Dương Văn Thắng cho rằng,
vấn đề bồi thường thiệt hại trong VAHS không phải là vấn đề dân sự thuần túy, mà
vấn đề này có ảnh hưởng đến mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội, thủ tục tố
tụng về bồi thường trong trường hợp này cũng có những đặc điểm riêng. Do vậy, vấn
đề bồi thường phải được quy định trong BLHS làm căn cứ cho việc giải quyết vấn
đề dân sự trong VAHS [28]. Tác giả Đinh Văn Quế lại cho rằng, "dân sự" trong
VAHS chỉ bao gồm những khoản tiền hoặc tài sản có liên quan đến việc trả lại tài
sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại quy định tại Điều 42 BLHS năm 1999 (sửa
đổi, bổ sung năm 2009), hay nói cách khác là "dân sự" trong VAHS chỉ trong phạm
vi "trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng" theo quy định tại Chương V
BLDS năm 1995 (nay là Chương XX BLDS năm 2015) [14]. Đó là những quan hệ
bồi thường thiệt hại phát sinh do tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, tài sản
của tổ chức, cá nhân bị tội phạm xâm hại. Về vấn đề này, quan điểm của Tòa án
nhân dân tối cao thể hiện trong Công văn số 121/2003/KHXX ngày 19/9/2003 về

việc giải quyết vấn đề liên quan đến tài sản, bồi thường thiệt hại trong VAHS, thì
phần dân sự trong VAHS chỉ bao gồm việc đòi trả lại tài sản bị chiếm đoạt, đòi bồi
thường giá trị tài sản do bị can, bị cáo chiếm đoạt nhưng bị mất, hoặc bị hủy hoại,
buộc phải sửa chữa tài sản bị hư hỏng, đòi bồi thường thiệt hại về lợi ích gắn liền với


việc sử dụng, khai thác tài sản, chi phí hợp lý để ngăn chặn, khắc phục thiệt hại do
tài sản bị chiếm đoạt; đòi bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh thần do tính mạng,
sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm phạm. Nói cách khác, vấn đề dân sự
trong VAHS chỉ được xác định trong phạm vi “Trách nhiệm bồi thường thiệt hại
ngoài hợp đồng”.
Như vậy, TNDS trong VAHS được thể hiện bằng một quy định của Điều 30
BLTTHS năm 2015 thông qua khái niệm "vấn đề dân sự trong vụ án hình sự". Đây
là một khái niệm rộng và khó xác định nội hàm. Vì Điều 30 BLTTHS năm 2015
không xác định rõ giải quyết "vấn đề dân sự" là giải quyết những nội dung gì? Điều
30 BLTTHS có đoạn quy định: "... Trường hợp VAHS phải giải quyết vấn đề bồi
thường thiệt hại, bồi hoàn mà chưa có điều kiện chứng minh và không ảnh hưởng
đến việc giải quyết VAHS thì vấn đề dân sự có thể tách ra để giải quyết theo thủ tục
tố tụng dân sự" [16]. Do đó có thể hiểu "vấn đề dân sự" trong VAHS gồm không chỉ
là bồi thường mà cả bồi hoàn. Theo tinh thần của Điều 30 BLTTHS thì "vấn đề dân
sự" có thể được giải quyết cùng VAHS và cũng có thể giải quyết riêng theo thủ tục
tố tụng dân sự. Về vấn đề này, tác giả Đinh Văn Quế cho rằng, "dân sự" trong VAHS
không phải là tất cả những gì có liên quan đến tiền hoặc tài sản mà Tòa án xét xử và
quyết định, vì trong quá trình giải quyết vụ án, các cơ quan tiến hành tố tụng còn áp
dụng một số biện pháp tư pháp có liên quan đến tiền hoặc tài sản như: tịch thu công
cụ, phương tiện dùng vào việc phạm tội; tịch thu vật hoặc tiền do phạm tội hoặc do
mua bán, đổi chác những thứ ấy mà có; tịch thu vật thuộc loại nhà nước cấm lưu
hành; tịch thu hoặc trả lại vật, tiền bị người phạm tội chiếm đoạt hoặc sử dụng trái
phép; tịch thu hoặc trả lại vật, tiền của người khác mà người phạm tội đã sử dụng
vào việc thực hiện tội phạm... Các quyết định này tuy có liên quan đến tài sản nhưng

không phải là quan hệ dân sự giữa những người tham gia tố tụng trong VAHS và
được giải quyết theo luật hình sự và tố tụng hình sự [14]. Vì vậy, "vấn đề dân sự"
không thể được quy định trong BLHS và không thể là căn cứ để giải quyết vấn đề về
trách nhiệm bồi thường thiệt hại do tội phạm gây ra, mà nó phải được quy định trong


BLDS, bởi lẽ nó là "vấn đề dân sự" chứ không phải là "vấn đề hình sự", mặc dù nó
có quan hệ nhất định đến VAHS. Tuy nhiên không phải tất cả những quy định của
Chương XX BLDS năm 2015 về trách nhiệm bồi thường ngoài hợp đồng đều là "vấn
đề dân sự" trong VAHS. Chỉ có những thiệt hại nào do tội phạm gây ra và trách
nhiệm bồi thường thiệt hại đó mới là "vấn đề dân sự" trong VAHS hay nói một cách
chính xác hơn đây là việc kiện dân sự đòi bồi thường thiệt hại do tội phạm gây ra.
Căn cứ để xác định trách nhiệm bồi thường thiệt hại bao gồm các yếu tố: Có tội
phạm xảy ra, có thiệt hại, có quan hệ nhân quả giữa tội phạm và thiệt hại.
Từ những phân tích trên, học viên đưa ra khái niệm TNDS trong VAHS như
sau: TNDS trong VAHS là việc bồi thường những thiệt hại do tội phạm gây ra.
Từ khái niệm trên, có thể đưa ra những đặc điểm của TNDS trong VAHS như
sau:
Một là: Giải quyết TNDS trong VAHS là một nguyên tắc cơ bản của luật tố
tụng hình sự, thể hiện chính sách pháp luật của Nhà nước ta về việc giải quyết vấn
đề bồi thường thiệt hại trong VAHS. Về nguyên tắc, "phần dân sự" thì đương sự có
quyền tự định đoạt, do đó vấn đề dân sự trong VAHS đương sự có quyền có thể khởi
kiện vụ án dân sự riêng biệt với VAHS tại Tòa dân sự. Tuy nhiên, phần dân sự của
vụ án sẽ chưa được xét xử chừng nào phần hình sự của vụ án chưa được xét xử
xong. Nếu đã khởi tố hình sự, tức là một khi cơ quan tiến hành tố tụng đã khởi tố
VAHS thì phải xem xét giải quyết xong vấn đề hình sự rồi mới xem xét TNDS. Do
đó, để thể hiện tính nhân đạo trong pháp luật của nhà nước ta, BLTTHS năm 2015
xác định việc giải quyết TNDS được tiến hành cùng với việc giải quyết VAHS. Nếu
trong VAHS phải giải quyết vấn đề bồi thường thiệt hại, bồi hoàn mà chưa có điều
kiện chứng minh và không ảnh hưởng đến việc giải quyết VAHS thì vấn đề dân sự

có thể tách ra để giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
Hai là: Giải quyết TNDS trong VAHS chỉ có phạm vi áp dụng đối với những
quan hệ về đòi bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng phát sinh do việc thực hiện tội
phạm. Trên thực tế, có nhiều vấn đề dân sự phát sinh do việc thực hiện tội phạm gây


thiệt hại cho các quan hệ dân sự, bao gồm: Hành vi phạm tội xâm hại đến sức khỏe,
tính mạng, danh dự, nhân phẩm, tài sản thì ngoài việc làm phát sinh TNHS còn làm
phát sinh TNDS của những người tham gia tố tụng. Hoặc những vấn đề có liên quan
đến tiền và tài sản như: tang vật, án phí, tịch thu vật, tiền hoặc tài sản do phạm tội
mà có, đòi lại tài sản, đòi bồi thường thiệt hại... Tuy nhiên, không phải tất cả vấn đề
dân sự nào liên quan đến tiền hoặc tài sản mà cơ quan tiến hành tố tụng giải quyết
cũng đều nằm trong phạm vi điều chỉnh của quy định tại Điều 30 BLTTHS. Bởi lẽ,
việc Tòa án áp dụng việc trả lại tài sản, sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại theo quy
định tại Điều 48 BLHS và xử lý vật chứng theo quy định tại Điều 106 BLTTHS tuy
có liên quan đến tài sản nhưng không phải là quan hệ dân sự giữa những người tham
gia tố tụng trong VAHS và được giải quyết theo luật hình sự, tố tụng hình sự và trách
nhiệm giải quyết thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng. Nói cách khác, TNDS trong
VAHS bao gồm không chỉ vấn đề bồi thường mà cả bồi hoàn và được xác định trong
phạm vi "trách nhiệm bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng" theo quy định tại
Chương XX BLDS năm 2015 và đó là những quan hệ bồi thường thiệt hại phát sinh
do tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của tổ chức, cá nhân bị
tội phạm xâm hại.
Ba là: Trách nhiệm dân sự trong VAHS được giải quyết cùng với việc giải
quyết vấn đề hình sự sau khi khởi tố VAHS. Quyết định khởi tố VAHS là văn bản
pháp lý xác định có sự việc phạm tội, làm cơ sở cho các hoạt động điều tra. Do đó,
khi VAHS có vấn đề dân sự phát sinh do việc thực hiện tội phạm bị khởi tố thì việc
dân sự đó được xem xét và giải quyết mà không cần phải khởi kiện riêng bằng một
thủ tục khác nữa. Theo thủ tục tố tụng dân sự thì vụ án dân sự chỉ được đặt ra và
xem xét giải quyết khi có đơn khởi kiện của cá nhân, tổ chức. Trong VAHS, khi

VAHS đã khởi tố vụ án mà có vấn đề dân sự liên quan đến việc thực hiện tội phạm
thì các cơ quan tiến hành tố tụng sẽ xem xét giải quyết TNDS, chứng minh có thiệt
hại về vật chất, tài sản... là việc giải quyết phần hình sự của vụ án đồng thời cũng
chính là việc chứng minh mức độ thiệt hại, giá trị tài sản cần được bồi thường cho


người bị hại. Còn đối với trường hợp cá nhân, cơ quan, tổ chức bị thiệt hại do tội
phạm gây ra được xác định là nguyên đơn dân sự trong VAHS thì trong quá trình
giải quyết VAHS người tiến hành tố tụng, cơ quan tiến hành tố tụng phải tuân theo
nguyên tắc quyền quyết định và tự định đoạt của đương sự, đó là việc nguyên đơn có
quyền yêu cầu hoặc không yêu cầu đòi bồi thường thiệt hại. Trong trường hợp này,
BLTTHS năm 2015 quy định vấn đề dân sự chỉ được giải quyết cùng VAHS khi họ
có đơn yêu cầu bồi thường thiệt hại.
Bốn là: Quá trình giải quyết TNDS trong VAHS có sự tham gia của cơ quan
tiến hành tố tụng trong việc chứng minh, xác định mức độ thiệt hại do hành vi phạm
tội gây ra. Trong vụ án dân sự bình thường, về nguyên tắc thì nghĩa vụ chứng minh
cho yêu cầu của mình thuộc trách nhiệm của đương sự, trách nhiệm của bên đi kiện.
Việc giải quyết TNDS trong VAHS cũng không phải ngoại lệ. Tuy nhiên, trong
trường hợp TNDS được giải quyết trong VAHS, ở đây được hiểu là giải quyết việc
tranh tụng dân sự trong VAHS và do Tòa hình sự giải quyết, về nguyên tắc vì là
được giải quyết bởi Tòa hình sự nên khi xem xét giải quyết vụ án Tòa án phải áp
dụng các quy định, trình tự, thủ tục của luật tố tụng hình sự để giải quyết. Tuy nhiên,
việc giải quyết TNDS trong cùng VAHS về bản chất vẫn là giải quyết mối quan hệ
dân sự, do đó không thể áp dụng thủ tục hình sự để giải quyết TNDS mà phải áp
dụng thủ tục tố tụng dân sự để giải quyết. Hay nói cách khác, TNDS trong VAHS
phải được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự nằm trong thủ tục tố tụng hình sự
nói chung. Nếu vấn đề TNDS trong VAHS được tách ra để giải quyết theo thủ tục tố
tụng dân sự thông thường thì quá trình giải quyết vụ việc đương nhiên áp dụng thủ
tục tố tụng dân sự. Tuy nhiên, việc giải quyết đó chỉ được tiến hành khi đã có bản án
hình sự.

Năm là: Trong quá trình giải quyết TNDS trong VAHS, Tòa án không bắt
buộc phải mở các phiên hòa giải giữa các đương sự như trong tố tụng dân sự. Thủ
tục mở phiên hòa giải không phải là thủ tục bắt buộc mà Tòa án phải thực hiện khi
chuẩn bị xét xử phiên tòa sơ thẩm TNDS trong VAHS. Tại phiên tòa, Hội đồng xét


xử cũng không bắt buộc phải tiến hành hòa giải giữa các đương sự. Trong thực tiễn
xét xử, các cơ quan tiến hành tố tụng vẫn tạo điều kiện cho các bên tự thỏa thuận với
nhau về việc giải quyết TNDS trong VAHS. Trường hợp các đương sự tự nguyện
thỏa thuận được với nhau thì Tòa án công nhận việc thỏa thuận này. Tuy nhiên, Tòa
án không ra quyết định công nhận sự thỏa thuận của các đương sự mà chỉ ghi nhận
sự thỏa thuận này vào phần quyết định của bản án hình sự. Đây là điểm khác biệt lớn
so với tố tụng dân sự vì trong tố tụng dân sự, Tòa án cấp sơ thẩm bắt buộc phải tiến
hành mở các phiên hòa giải giữa các đương sự và việc hòa giải được tiến hành trước
và tại phiên tòa. Nếu các đương sự thỏa thuận được với nhau thì Tòa án ra quyết
định công nhận sự thỏa thuận của đương sự.
1.1.3.

Phạm vi giải quyết trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự

Tôn trọng và bảo vệ các quyền cơ bản của công dân là một trong những
nguyên tắc quan trọng trong tố tụng hình sự và được ghi nhận trong Hiến pháp.
Điều 20 Hiến pháp năm 2013 quy định: "Mọi người có quyền bất khả xâm
phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về sức khỏe, danh dự và nhân phẩm" [35].
Nguyên tắc này thể hiện tính dân chủ trong hoạt động tố tụng hình sự, luôn đề cao và
tôn trọng quyền con người. Cùng với nhiệm vụ đấu tranh chống tội phạm, không để
lọt tội phạm, các cơ quan tiến hành tố tụng còn bảo đảm các quyền cơ bản của công
dân không bị xâm phạm, không vì mục đích tìm ra tội phạm mà có những hành vi
trái pháp luật, xâm phạm đến quyền của con người.
Điều 48 BLHS năm 2015 (sửa đổi, bổ sung năm 2017) quy định các loại biện

pháp tư pháp liên quan với thiệt hại mà tội phạm gây ra, đó là: biện pháp tư pháp trả
lại tài sản; biện pháp tư pháp sửa chữa hoặc bồi thường thiệt hại và biện pháp tư
pháp buộc công khai xin lỗi. Việc quy định các biện pháp tư pháp này là nhằm bảo
vệ quyền sở hữu cũng như quyền bất khả xâm phạm tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm của con người đã được Hiến pháp quy định.
Khi một hành vi phạm tội xảy ra, đồng thời với quan hệ pháp luật hình sự
phát sinh giữa Nhà nước và người phạm tội thì cũng phát sinh quan hệ dân sự giữa


người phạm tội và người bị hại. Vì vậy, song song với việc giải quyết vấn đề TNHS
của người phạm tội thì việc giải quyết vấn đề TNDS, để khắc phục hậu quả do hành
vi phạm tội gây ra cũng được BLHS quy định. Việc quy định các biện pháp tư pháp
trả lại tài sản, sửa chữa, bồi thường thiệt hại; buộc công khai xin lỗi là để bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của người bị hại.
Khoản 1 Điều 48 BLHS quy định các nghĩa vụ của người phạm tội liên quan
đến thiệt hại về vật chất, đó là các nghĩa vụ sau:
- Trả lại tài sản chiếm đoạt cho chủ sở hữu hoặc người quản lý hợp pháp:
Người phạm tội phải trả lại vật, tiền đã chiếm đoạt cho chủ tài sản hoặc người quản
lý hợp pháp, khi vật, tiền đó còn nguyên và được thu giữ, quản lý trong quá trình
điều tra hoặc người phạm tội đang cất giữ và không thuộc loại Nhà nước cấm tàng
trữ, sử dụng, lưu hành.
- Sửa chữa thiệt hại vật chất đã được xác định do hành vi phạm tội gây ra:
Trong trường hợp tài sản của chủ tài sản bị hư hỏng do người phạm tội gây ra thì họ
phải sửa chữa thiệt hại gây ra khi có thể sửa chữa được. Việc sửa chữa thiệt hại có
thể bằng cách người phạm tội sửa chữa trước khi trả lại hoặc thỏa thuận trả tiền chi
phí sửa chữa cho chủ tài sản hoặc người quản lý hợp pháp tài sản để họ tự mình hoặc
thuê người sửa chữa.
- Bồi thường thiệt hại vật chất đã được xác định do hành vi phạm tội gây ra:
Đây là bồi thường thiệt hại ngoài hợp đồng. Nếu tài sản bị hủy hoại hoặc hư hỏng
đến mức không thể sửa chữa được hoặc việc hoàn trả lại tài sản không thể thực hiện

được do tài sản đã bị mất, bị tiêu dùng... thì người phạm tội phải bồi thường thiệt hại
vật chất đã gây ra. Thiệt hại vật chất do hành vi phạm tội gây ra theo quy định tại
Điều 589 BLDS, bao gồm: Tài sản bị mất, bị huỷ hoại hoặc bị hư hỏng; lợi ích gắn
liền với việc sử dụng, khai thác tài sản bị mất, bị giảm sút; chi phí hợp lý để ngăn
chặn, hạn chế và khắc phục thiệt hại; thiệt hại khác do luật quy định.
Nếu thiệt hại gây ra là thiệt hại về sức khỏe thì người phạm tội phải bồi
thường toàn bộ chi phí cho việc cứu chữa, bồi dưỡng, phục hồi sức khoẻ và chức


năng bị mất, bị giảm sút của người bị thiệt hại; thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm
sút của người bị thiệt hại; chi phí phần thu nhập thực tế bị mất của người chăm sóc
người bị thiệt hại trong thời gian điều trị; nếu người bị thiệt hại mất khả năng lao
động và cần phải có người thường xuyên chăm sóc thì thiệt hại bao gồm cả chi phí
hợp lý cho việc chăm sóc người bị thiệt hại; thiệt hại khác do luật quy định. Ngoài
ra, người phạm tội phải bồi thường một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về tinh
thần mà người bị hại gánh chịu
(Điều 590 BLDS).
Nếu thiệt hại gây ra là thiệt hại về tính mạng thì người phạm tội phải bồi
thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm phạm như nêu trên; chi phí hợp lý cho việc mai
táng; tiền cấp dưỡng cho những người mà người bị thiệt hại có nghĩa vụ cấp dưỡng.
Ngoài ra, người phạm tội phải bồi thường một khoản tiền khác để bù đắp tổn thất về
tinh thần cho những người thân thích thuộc hàng thừa kế thứ nhất của người bị thiệt
hại hoặc người mà người bị thiệt hại đã trực tiếp nuôi dưỡng hoặc người đã trực tiếp
nuôi dưỡng người bị thiệt hại (Điều 591 BLDS).
Khoản 2 Điều 48 BLHS quy định biện pháp buộc công khai xin lỗi. Theo
điều luật, người phạm tội gây thiệt hại về tinh thần có nghĩa vụ bồi thường về vật
chất và phải công khai xin lỗi người bị hại. Để đảm bảo thật sự phát huy tác dụng
của biện pháp này, thì việc công khai xin lỗi được thực hiện tại phiên tòa trước sự
chứng kiến của hội đồng xét xử và những người tham dự phiên tòa và được ghi trong
biên bản phiên tòa.

Biện pháp tư pháp buộc công khai xin lỗi thường được áp dụng đối với người
phạm các tội xâm phạm nhân phẩm, danh dự của con người [26].
Như vậy, TNDS có liên quan đến tội phạm đã được quy định, đề cập đến
trong cả BLHS và BLDS.
Trong tố tụng hình sự, luật pháp cho phép khi xét xử VAHS thì giải quyết
luôn cả vấn đề dân sự. Việc xác định mức độ thiệt hại do tội phạm gây ra có ý nghĩa
không chỉ trong việc giải quyết TNDS mà còn có ý nghĩa trong cả giải quyết vấn đề


hình sự, vì trong nhiều trường hợp mức độ thiệt hại đó là tình tiết để định tội, xác
định mức độ lỗi và mức hình phạt cho bị cáo. Vì vậy, xem xét vấn đề dân sự trong
VAHS có tác dụng làm cho việc xét xử vụ án về mặt hình sự cũng như về mặt dân sự
được đầy đủ, toàn diện. Mặt khác, xem xét vấn đề dân sự trong VAHS tiết kiệm thời
gian và chi phí cho việc xét xử vụ án, bởi vì cùng một vụ việc không phải tiến hành
giải quyết hai lần: lần thứ nhất buộc tội bị cáo, lần thứ hai liên quan đến TNDS.
Đồng thời, giải quyết TNDS trong VAHS tạo điều kiện cho người bị hại chứng minh
là có thiệt hại và mức độ thiệt hại do tội phạm gây ra. Người bị thiệt hại có nhiều
điều kiện thuận lợi hơn cho việc bảo vệ quyền lợi của mình. Tuy nhiên, việc bồi
thường thiệt hại do tội phạm gây ra sẽ giải quyết như thế nào, phạm vi đến đâu và
theo thủ tục nào thì Điều 30 BLTTHS chưa quy định rõ.
Như ở phần trên đã phân tích, chỉ có những thiệt hại nào do tội phạm gây ra
và có trách nhiệm bồi thường thiệt hại đó mới là "trách nhiệm dân sự" trong VAHS
hay nói một cách chính xác hơn, giải quyết TNDS trong VAHS là việc kiện dân sự
đòi bồi thường thiệt hại do tội phạm gây ra. Căn cứ để xác định trách nhiệm bồi
thường thiệt hại bao gồm các yếu tố: Có tội phạm xảy ra, có thiệt hại, có quan hệ
nhân quả giữa tội phạm và thiệt hại.
Theo Công văn số 121/2003/KHXX thì chỉ được tách để giải quyết phần hay
một phần dân sự trong VAHS khi có yêu cầu, nếu phần dân sự được tách ra không
liên quan đến việc xác định cấu thành tội phạm, đến việc xem xét tăng nặng, giảm
nhẹ TNHS của bị cáo và thuộc một trong các trường hợp sau đây:

(i) Chưa tìm được, chưa xác định được người bị hại hoặc nguyên đơn dân sự.
(ii) Người bị hại hoặc nguyên đơn dân sự chưa có yêu cầu.
(iii) Người bị hại hoặc nguyên đơn dân sự đã có yêu cầu, nhưng không cung
cấp hoặc cung cấp không đầy đủ chứng cứ chứng minh theo yêu cầu của cơ quan
tiến hành tố tụng nói chung hoặc Tòa án nói riêng.
(iv) Người bị hại, nguyên đơn dân sự, bị đơn dân sự vắng mặt tại phiên tòa
và sự vắng mặt của họ thật sự trở ngại cho việc giải quyết phần dân sự.


Vấn đề đặt ra là khái niệm "phần dân sự" có liên quan hoặc không liên quan
đến việc xác định cấu thành tội phạm, đến việc xem xét tăng nặng, giảm nhẹ TNHS
của bị can, bị cáo.
Về "phần dân sự" có liên quan đến việc xác định cấu thành tội phạm của bị
can, bị cáo, Công văn số 121/2003/KHXX có đưa ra ví dụ sau:
Nguyễn Văn A chưa bị xử lý kỷ luật về hành vi cố ý làm trái quy định của
nhà nước về quản lý kinh tế, đã lợi dụng chức vụ, quyền hạn thực hiện năm hành vi
cố ý làm trái quy định của nhà nước về quản lý kinh tế. Cơ quan điều tra đã xác
minh làm rõ năm hành vi này, nhưng chưa chứng minh thiệt hại do mỗi hành vi cụ
thể gây ra và tổng thiệt hại do năm hành vi gây ra đã đến một trăm triệu đồng hay
chưa mà chỉ căn cứ vào lời khai của nguyên đơn dân sự là tổng thiệt hại là một trăm
linh năm triệu đồng. Nguyễn Văn A khai và chứng minh rằng thiệt hại không đến
bảy mươi triệu đồng. Trong trường hợp này, việc xác định thiệt hại thực tế do năm
hành vi cố ý làm trái của Nguyễn Văn A gây ra là rất quan trọng đối với việc xác
định cấu thành tội phạm, tức là để kết luận Nguyễn Văn A có phạm tội hay không
[49].
Trong ví dụ này, vấn đề xác định mức độ thiệt hại có ý nghĩa quan trọng đối
với việc xác định cấu thành tội phạm. Tuy nhiên, việc xác định đó phải thuộc nhiệm
vụ của cơ quan tiến hành tố tụng, bởi họ là người có trách nhiệm chứng minh có hay
không có hành vi phạm tội. Đây là "vấn đề hình sự" chứ không phải là "vấn đề dân
sự" thuần túy. TNDS chỉ phát sinh sau khi xác định được TNHS, hay nói một cách

khác, TNHS là cơ sở để xác minh TNDS. Trong VAHS, mức độ thiệt hại được xác
định và nó có ý nghĩa cho việc xác định cấu thành tội phạm, cho việc xác định
TNHS. Vì thế đến lượt mình, việc xác định TNDS sẽ thuận lợi hơn, vì nó được căn
cứ vào kết quả của việc giải quyết vấn đề hình sự. Trong trường hợp này, người bị
thiệt hại không cần phải chứng minh mức độ thiệt hại do tội phạm gây ra. Đây chính
là một trong những thuận lợi khi giải quyết TNDS trong VAHS.


Về "phần dân sự" có liên quan đến việc xem xét tăng nặng, giảm nhẹ TNHS,
Công văn số 121/2003/KHXX cũng đưa ra ví dụ sau:
Trần N dùng vũ lực chiếm đoạt tài sản gồm 1000 USD, một xe máy, một
đồng hồ đeo tay và một số tài sản khác của anh V với tổng số tài sản bị chiếm đoạt
theo lời khai của người bị hại là 53 triệu đồng. Cơ quan điều tra chưa chứng minh lời
khai của người bị hại có căn cứ hay không, giá trị chiếm đoạt của mỗi loại tài sản và
tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt thực tế là bao nhiêu. Trần N bị truy tố theo điểm e
khoản 2 Điều 133 BLHS. Trong trường hợp này, việc điều tra chứng minh tổng giá
trị tài sản bị chiếm đoạt thực tế là bao nhiêu là rất cần thiết vì đó là căn cứ để kết
luận Trần N phạm tội cướp tài sản theo khoản nào của Điều 133 BLHS [49].
Cũng như ví dụ trên, việc xác định tổng giá trị tài sản bị chiếm đoạt thuộc
trách nhiệm của cơ quan tiến hành tố tụng và là cơ sở cho việc định tội. Vì thế,
không thể xem đây là "phần dân sự" trong VAHS, mặc dù nó là vấn đề tài sản. Trong
VAHS, vấn đề đầu tiên là việc xác định TNHS. TNDS chỉ được xem xét giải quyết
sau khi vấn đề hình sự đã được giải quyết hay nói một cách khác là TNHS là cơ sở
để xem xét TNDS. Giải quyết TNDS trong VAHS về bản chất là giải quyết việc kiện
dân sự, là xác định TNDS trong VAHS.
Tuy nhiên, không phải tất cả những gì mà phần hình sự đã giải quyết là căn
cứ đầy đủ cho việc giải quyết "vấn đề dân sự", vấn đề bồi thường thiệt hại do tội
phạm gây ra. Qua ví dụ sau đây, trong Công văn số 121/2003/KHXX về phần dân sự
không liên quan đến việc xác định cấu thành tội phạm, đến việc xem xét tăng nặng,
giảm nhẹ TNHS đối với bị can, bị cáo, cụ thể:

Lê B cố ý gây thương tích cho chị C với tỷ lệ thương tật 40% (có kết luận
giám định). Trong hồ sơ vụ án mới chỉ làm rõ chị C phải điều trị tại bệnh viện 30
ngày. Chị C đòi bồi thường thiệt hại do sức khỏe bị xâm hại với số tiền là 100 triệu
đồng, nhưng không nêu từng khoản cụ thể, không cung cấp các chứng cứ chứng
minh cho yêu cầu của mình (ngoài việc cung cấp mấy đơn thuốc). Trong trường hợp


này, phần dân sự không liên quan gì đến việc xác định cấu thành tội phạm, đến việc
xem xét tăng nặng, giảm nhẹ TNHS đối với Lê B [49].
Trong vụ án này, cơ quan tiến hành tố tụng mới chỉ xác định được chị C bị
gây thương tích với tỷ lệ thương tật là 40% là đủ cơ sở truy cứu TNHS đối với Lê B.
Tuy nhiên, để bồi thường thiệt hại cho chị C, thì chị C cần phải chứng minh mức độ
thiệt hại do tội phạm gây ra, trong đó có những thiệt hại mà cơ quan tiến hành tố
tụng không thể và không có trách nhiệm chứng minh.
Trong một vụ án dân sự bình thường, về nguyên tắc, thì nghĩa vụ chứng minh
cho yêu cầu của mình thuộc trách nhiệm của đương sự, trách nhiệm của bên đi kiện.
Việc kiện dân sự trong VAHS cũng vậy. Tuy nhiên, việc kiện dân sự trong VAHS có
những thuận lợi hơn khi việc chứng minh đó (có trường hợp chỉ là một phần) đã
được cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện. Còn trong VAHS, trách nhiệm xác định
thiệt hại hoặc giá trị tài sản bị xâm phạm có liên quan đến cấu thành tội phạm hoặc
TNHS thuộc cơ quan tiến hành tố tụng. Dù có giải quyết TNDS trong VAHS hay
không thì trách nhiệm chứng minh nói trên vẫn thuộc về cơ quan tiến hành tố tụng,
không thể và không được tách riêng ra vì nó liên quan đến tội phạm, đến TNHS, nó
là "phần hình sự" của VAHS. Khi xem xét giải quyết TNDS (kiện dân sự) trong
VAHS thì mức độ thiệt hại và giá trị tài sản được xác định là cơ sở cho việc xác định
TNDS. Người yêu cầu bồi thường thiệt hại được sử dụng kết quả đó của cơ quan tiến
hành tố tụng hình sự mà không cần phải chứng minh mức độ thiệt hại hoặc giá trị tài
sản. Đây chính là ưu điểm và là đặc thù của việc giải quyết việc kiện dân sự trong
VAHS. Ở đây cần xác định giải quyết TNDS trong VAHS chính là việc kiện dân sự
trong VAHS chứ không phải là TNDS một cách chung chung.

1.1.4.

Mối quan hệ giữa nguyên tắc giải quyết trách nhiệm dân sự trong vụ

án hình sự với các nguyên tắc khác
Trách nhiệm dân sự được giải quyết đồng thời với TNHS trong cùng VAHS
và được quy định là một nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự. Cách thức này
không những quy định việc giải quyết TNDS trong VAHS mà còn coi đó là một


nguyên tắc cơ bản của luật tố tụng hình sự. Theo đó, khi giải quyết VAHS mà tội
phạm xâm hại đến tính mạng, sức khoẻ, danh dự, nhân phẩm, tài sản... của cá nhân,
tổ chức thì ngoài việc điều tra, truy tố, xét xử về hình sự, áp dụng hình phạt đối với
người phạm tội, các cơ quan tiến hành tố tụng còn phải giải quyết vấn đề bồi thường
thiệt hại về vật chất và tinh thần cho cá nhân, tổ chức bị thiệt hại theo quy định pháp
luật.
Nguyên tắc này có mối quan hệ mật thiết với các nguyên tắc sau:
Thứ nhất, mối quan hệ với nguyên tắc bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự,
nhân phẩm, tài sản của cá nhân; danh dự, uy tín, tài sản của pháp nhân (Điều 11
BLTTHS).
Thực hiện nguyên tắc bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy
tín, tài sản của công dân và pháp nhân là tiền đề cho việc thực hiện nguyên tắc giải
quyết TNDS trong VAHS. Mọi hành vi xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, danh
dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của công dân và pháp nhân được luật hình sự bảo vệ
ngoài việc làm phát sinh TNHS đối với người phạm tội còn làm phát sinh TNDS.
Nếu cá nhân, pháp nhân bị tội phạm xâm hại đến sức khoẻ, tính mạng, danh dự,
nhân phẩm, uy tín, tài sản... thì họ sẽ được bồi thường thiệt hại về vật chất và tinh
thần. Việc bồi thường thiệt hại khi hành vi phạm tội xâm hại đến tính mạng, sức
khoẻ, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của công dân phải được giải quyết theo
một nguyên tắc nhất định. Đó là nguyên tắc giải quyết TNDS trong VAHS. Nguyên

tắc giải quyết TNDS trong VAHS được đặt ra nhằm mục đích bảo hộ tính mạng, sức
khỏe, danh dự, uy tín, nhân phẩm, tài sản của công dân và pháp nhân. Việc giải
quyết đúng đắn vấn đề bồi thường thiệt hại trong VAHS sẽ đảm bảo cho việc thực
hiện tốt nguyên tắc bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản
của công dân và pháp nhân. Như vậy, có thể thấy giữa nguyên tắc giải quyết TNDS
trong VAHS và nguyên tắc bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín,
tài sản của công dân và pháp nhân có mối quan hệ chặt chẽ nhất, gần gũi nhất bởi vì
việc giải quyết TNDS trong VAHS trực tiếp liên quan đến việc xác định mức độ bồi


thường thiệt hại khi tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của cá
nhân, tổ chức bị tội phạm xâm hại. Hơn nữa, tội phạm đã xảy ra, tính mạng, sức
khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản của công dân và pháp nhân đã bị xâm hại
thì việc Nhà nước bảo hộ tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm, uy tín, tài sản
được thực hiện và thể hiện rõ nét nhất thông qua việc giải quyết vấn đề bồi thường
thiệt hại, bồi hoàn cho người bị thiệt hại.
Thứ hai, mối quan hệ với nguyên tắc xác định sự thật của vụ án (Điều 15
BLTTHS)
Việc áp dụng đúng đắn, đầy đủ nguyên tắc xác định sự thật của vụ án là cơ sở
để thực hiện tốt nguyên tắc giải quyết TNDS trong VAHS. Với tư cách là một phần
của VAHS, khi xác định sự thật của vụ án thì các cơ quan có thẩm quyền tiến hành
tố tụng cũng đồng thời phải làm rõ được TNDS trong vụ án đó.
Thứ ba, mối quan hệ với các nguyên tắc trách nhiệm của cơ quan, người có
thẩm quyền tiến hành tố tụng; nguyên tắc trách nhiệm khởi tố và xử lý VAHS (Điều
17 và Điều 18 BLTTHS)
Thực hiện đúng nguyên tắc khởi tố và xử lý VAHS, nguyên tắc trách nhiệm
của cơ quan, người có thẩm quyền tiến hành tố tụng là cơ sở để nguyên tắc giải
quyết TNDS trong VAHS được thực hiện. Chỉ khi có quyết định khởi tố VAHS thì
các cơ quan tiến hành tố tụng mới có cơ sở để giải quyết TNDS và áp dụng nguyên
tắc giải quyết vấn đề dân sự trong VAHS. Trong giai đoạn điều tra và truy tố, bên

cạnh việc điều tra về vấn đề TNHS, các cơ quan tiến hành tố tụng và người tiến hành
tố tụng còn phải có trách nhiệm điều tra, thu thập chứng cứ liên quan đến vấn đề
TNDS trong VAHS.
Thứ tư, mối quan hệ với nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm
(Điều 26 BLTTHS)
Thực hiện nguyên tắc tranh tụng trong xét xử là một cơ sở để đảm bảo cho
nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong VAHS được thực hiện tốt. Khi các đương
sự được bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ, được cung cấp chứng cứ và tranh


tụng công khai, dân chủ trước Tòa án thì họ sẽ có khả năng bảo vệ tốt nhất cho
quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đồng thời sẽ làm sáng tỏ được sự thật khách
quan của vụ án nói chung và phần TNDS của bị cáo hoặc bị đơn dân sự nói riêng.
Thông qua đó, Tòa án có cơ sở để đưa ra phán quyết đúng đắn về mức hình phạt
cũng như mức bồi thường thiệt hại đối với bị cáo và những người tham gia tố tụng
trong vụ án. Thực hiện đúng và đầy đủ nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong
VAHS cũng đồng thời thực hiện được nguyên tắc tranh tụng trong xét xử. Bản chất
của quan hệ pháp luật dân sự là sự bình đẳng giữa các bên đương sự khi tham gia tố
tụng và thực chất vấn đề dân sự trong VAHS chính là quan hệ pháp luật dân sự về
việc đòi tài sản, bồi thường thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra. Khi giải quyết vấn
đề dân sự thì nguyên tắc bình đẳng thỏa thuận giữa các đương sự là nguyên tắc bao
trùm, theo đó các đương sự được bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ. Do vậy,
bản thân nguyên tắc giải quyết vấn đề dân sự trong VAHS đã thể hiện được nguyên
tắc bảo đảm quyền bình đẳng trước Tòa án.
1.1.5.

Ý nghĩa giải quyết trách nhiệm dân sự trong vụ án hình sự

Việc quy định giải quyết TNDS trong VAHS có ý nghĩa hết sức quan trọng về
mặt pháp lý và chính trị - xã hội nhìn từ chức năng tố tụng, bảo vệ lợi ích của người

bị thiệt hại do tội phạm gây ra và từ góc độ quyền con người. Về thực tiễn, chế định
này góp phần vào việc bảo đảm cho quá trình tiến hành tố tụng được thực hiện một
cách thống nhất; là cơ sở quan trọng cho việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của
công dân khi tham gia tố tụng hình sự, bảo đảm mọi hành vi gây thiệt hại đến tính
mạng, sức khỏe hoặc tài sản của công dân, cơ quan nhà nước, tổ chức xã hội đều
phải bồi thường và xử lý kịp thời; góp phần vào việc động viên, giáo dục và tạo điều
kiện để các cơ quan, tổ chức và mọi công dân có ý thức tuân thủ pháp luật và tích
cực tham gia vào việc đấu tranh phòng chống tội phạm và dân chủ hóa quá trình tố
tụng; có ý nghĩa cho việc định hướng xây dựng pháp luật tố tụng hình sự [18, tr.45].
Việc quy định giải quyết TNDS trong VAHS có ý nghĩa đối với việc bảo đảm
tôn trọng các quyền cơ bản của công dân. Theo quy định của Hiến pháp và pháp luật


×