Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (998.43 KB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN KHÁNH LINH

BẢO VỆ QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG LĨNH
VỰC BẢO HIỂM NHÂN THỌ THEO PHÁP LUẬT
VIỆT NAM HIỆN NAY
Chuyên ngành: Luật Kinh tế
Mã số: 60.38.01.07

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. Nguyễn Trọng Điệp

Hà Nội , 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Mọi số liệu,
dẫn chứng thể hiện trong luận văn là trung thực và được chú thích nguồn đầy đủ
theo đúng quy định.

Học viên

Nguyễn Khánh Linh



MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .....................................................................................................................1
Chương 1 .....................................................................................................................5
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ ......................................5
QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG LĨNH VỰC .......................................5
BẢO HIỂM NHÂN THỌ ...........................................................................................5
1.1. Những vấn đề chung về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực bảo
hiểm nhân thọ ..............................................................................................................5
1.2. Những vấn đề chung về pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh
vực bảo hiểm nhân thọ ..............................................................................................14
Chương 2 ...................................................................................................................30
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT BẢO VỆ QUYỀN LỢI ...........................................30
NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG LĨNH VỰC BẢO HIỂM NHÂN THỌ .................30
2.1. Thực trạng các quy định pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng ...............30
2.2. Thực tiễn thi hành pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực
bảo hiểm nhân thọ .....................................................................................................61
Chương 3 ...................................................................................................................73
ĐỀ XUẤT MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT BẢO VỆ
QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG LĨNH VỰC .....................................73
BẢO HIỂM NHÂN THỌ .........................................................................................73
3.1. Giải quyết mối quan hệ điều chỉnh giữa Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng,
Luật Kinh doanh bảo hiểm, Bộ luật dân sự ...............................................................73
3.2. Hoàn thiện các quy định về doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh bảo hiểm nhân thọ..74
3.3. Hoàn thiện các quy định về hợp đồng bảo hiểm ................................................76
3.4. Hoàn thiện các quy định về giám sát đối với hoạt động kinh doanh bảo hiểm
nhân thọ .....................................................................................................................79
KẾT LUẬN ...............................................................................................................81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................................82



DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BHNT

: Người tiêu dùng

BVQLNTD

: Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng

DNBHNT

: Doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ

HĐBHNT

: Hợp đồng bảo hiểm nhân thọ

KDBH

: Kinh doanh bảo hiểm

NTD

: Người tiêu dùng

NAIC

: Hiệp hội quốc gia các Ủy ban bảo hiểm Hoa
Kỳ


QLNTD

: Quyền lợi người tiêu dùng


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sau hơn 20 năm đổi mới và mở cửa thị trường bảo hiểm, ngành Bảo hiểm
Việt Nam đã có những bước phát triển mạnh mẽ. Cùng với sự lớn mạnh của ngành
bảo hiểm, Luật Kinh doanh bảo hiểm được Quốc hội thông qua đã tạo một nền tảng
pháp lý cho hoạt động bảo hiểm nói chung và đặc biệt là kinh doanh bảo hiểm nhân
thọ phát triển ở Việt Nam. Bên cạnh những kết quả tích cực từ hoạt động kinh
doanh bảo hiểm thì thực tiễn quyền lợi người tiêu dùng khi tham gia ký kết hợp
đồng bảo hiểm nhân thọ trong thời gian qua đặt ra nhiều vấn đề cần giải quyết, khi
mà quyền và lợi ích của họ chưa thực sự được bảo vệ một cách chính đáng, cụ thể:
Thứ nhất, DNBH thường đưa ra nhiều lý do và lợi dụng "sơ hở" của pháp
luật, sơ suất của người tham gia bảo hiểm để thoái thác nghĩa vụ chi trả bảo hiểm.
Thứ hai, để được thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm
phải trải qua rất nhiều thủ tục, giấy tờ theo yêu cầu của DNBH trong khi pháp luật
chưa có quy định cụ thể và HĐBH không có điều khoản thỏa thuận hoặc không rõ
ràng.
Thứ ba, người tham gia bảo hiểm không được cung cấp thông tin một cách
đầy đủ trước, trong và sau khi ký kết hợp đồng bảo hiểm, ảnh hưởng không nhỏ đến
quyền lợi khi tham gia bảo hiểm, đặc biệt khi có sự cố bảo hiểm xảy ra.
Thứ tư, bên cạnh bản chất tốt đẹp nhằm giúp người tham gia bảo hiểm đề
phòng rủi ro, hạn chế tổn thất thì lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ là lĩnh vực mới và khó
với nhiều thuật ngữ chuyên ngành, cần kiến thức chuyên môn, kỹ thuật, gây khó
khăn cho nhiều người khi tham gia bảo hiểm trong khi hoạt động kiểm tra, giám sát,
cấp phép của các cơ quan chức năng nhà nước chưa thống nhất và kĩ càng.

Từ thực tiễn giải quyết các tranh chấp và nghiên cứu về thực trạng trên, tôi
cho rằng một trong các nguyên nhân chính ảnh hưởng đến quyền lợi của người
được bảo hiểm đó là hệ thống pháp luật về kinh doanh bảo hiểm, về bảo vệ quyền
lợi người tham gia bảo hiểm chưa hoàn thiện, còn nhiều bất cập và mâu thuẫn phát
sinh. Chẳng hạn, quy định điều chỉnh quan hệ người tham gia bảo hiểm chưa rõ
ràng, đầy đủ; các quy định liên quan đến hợp đồng, cụ thể ở đây là hợp đồng theo
mẫu giữa Bộ luật Dân sự (luật gốc) và Luật KDBH (luật chuyên ngành) chưa thống
nhất, như khái niệm "đình chỉ hợp đồng" không được quy định trong Bộ luật Dân sự
hay Luật KDBH nhưng lại được sử dụng rất nhiều lần trong Luật KDBH; quy định
1


về quyền lợi có thể được bảo hiểm chưa hợp lý với bản chất của bảo hiểm nhân thọ;
cơ sở tính phí bảo hiểm do nguyên nhân khách quan hay chủ quan chưa có sự phân
biệt rõ ràng;...
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Qua việc rà soát các công trình nghiên cứu liên quan đến việc bảo vệ quyền,
lợi ích hợp pháp của người tiêu dùng trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ, ta có thể
nhận thấy rằng, các công trình nghiên cứu về mặt lý luận và tổng kết thực tiễn về
vấn đề BVQLNTD trong BHNT chưa nhiều. Đa số chỉ đề cập đến pháp luật kinh
doanh bảo hiểm, tập trung khai thác vấn đề về quản lý, kinh doanh của các doanh
nghiệp bảo hiểm, trong khi các bài nghiên cứu về cơ chế bảo vệ người tham gia bảo
hiểm mới chỉ là những đề cập sơ lược, những bài báo dù rằng tranh chấp này cũng
thường xuyên xảy ra.
Xuất phát từ những lý do trên, việc nghiên cứu, đề xuất phương hướng hoàn
thiện các quy định pháp luật liên quan đến BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT là hết
sức cần thiết để vừa đảm bảo lợi ích cho các bên khi tham gia bảo hiểm nói chung,
người tiêu dùng sản phẩm bảo hiểm nhân thọ nói riêng, vừa góp phần thúc đẩy thị
trường dịch vụ bảo hiểm ở Việt Nam phát triển, đẩy mạnh sự lớn mạnh của nền
kinh tế - xã hội. Bởi vậy theo tác giả, việc nghiên cứu đề tài "Bảo vệ quyền lợi

người tiêu dùng trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ theo pháp luật hiện nay" là rất
cần thiết.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu của luận văn là xây dựng cơ sở lý luận về pháp luật bảo
vệ quyền lợi người tiêu dùng trong bảo hiểm nhân thọ, dựa trên cơ sở lý luận đó để
đánh giá về thực trạng các quy định pháp luật hiện hành và đưa ra được những giải
pháp hoàn thiện pháp luật về bảo vệ quyền lợi người tham gia BHNT nhằm đáp ứng
yêu cầu của nền kinh tế và hội nhập quốc tế.
Với mục đích như trên, nhiệm vụ nghiên cứu của luận án là:
- Đánh giá về những quan điểm hiện hành và từ đó xây dựng nội dung lý
luận về pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong bảo hiểm nhân thọ như:
người tham gia bảo hiểm, quyền lợi của người tham gia bảo hiểm, cấu trúc nội dung
pháp luật,...
- Nghiên cứu thực trạng pháp luật hiện hành và các biện pháp BVQLNTD
trong bảo hiểm nhân thọ.
2


- Nghiên cứu thực tiễn thi hành pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
trong bảo hiểm nhân thọ (áp dụng pháp luật của DNBHNT; cơ quan giám sát, quản
lý; cơ quan giải quyết tranh chấp…)
- Nghiên cứu các giải pháp hoàn thiện pháp luật và cơ chế thực thi pháp luật
để đảm bảo quyền lợi của người tham gia bảo hiểm.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Hệ thống quy định pháp luật hiện hành điều chỉnh
mối quan hệ giữa người tham gia bảo hiểm nhân thọ và DNBHNT kể từ khi có Luật
kinh doanh bảo hiểm năm 2000, Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 2010
cho đến hiện nay.
- Phạm vi nghiên cứu: Những nghiên cứu của luận văn hướng tới hệ thống
các quy định pháp luật và thực tiễn thi hành hoạt động kinh doanh bảo hiểm nhân

thọ nhìn từ góc độ bảo vệ quyền lợi tiêu dùng, không nghiên cứu các loại hình sản
phẩm bảo hiểm khác.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, tác giả áp dụng các phương pháp
nghiên cứu như:
- Phương pháp nghiên cứu tại chỗ: nghiên cứu chuyên đề, rà soát đánh giá hệ
thống văn bản pháp luật, nghiên cứu các tài liệu trong, ngoài nước về các vấn đề
thuộc nội dung nghiên cứu của đề tài
- Phương pháp so sánh, đối chiếu
- Phương pháp phân tích, tổng hợp
- Thu thập, thống kê số liệu, vụ việc tranh chấp
5. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Luận văn là công trình nghiên cứu hệ thống lý luận về pháp luật bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ từ quy định về tư cách
chủ thể của các bên tham gia hợp đồng, quy định về hợp đồng bảo hiểm đến những
vấn đề liên quan đến hoạt động giám sát kinh doanh bảo hiểm của các cơ quan chức
năng, từ đó đánh giá tương đối toàn diện thực trạng pháp luật hiện hành điều chỉnh
lĩnh vực này và thực tiễn thi hành các quy định đó trong thực tế. Do đó, luận văn sẽ
góp phần bổ sung tri thức trong ngành khoa học pháp lý nói chung và chuyên ngành
Luật kinh tế nói riêng về lĩnh vực bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực
bảo hiểm nhân thọ. Kết quả nghiên cứu của luận văn có tính ứng dụng thực tiễn.
Một là, luận văn đóng góp những căn cứ khoa học cho việc tiếp tục hoàn thiện pháp
3


luật về kinh doanh BHNT ở Việt Nam. Hai là, luận văn sẽ góp phần đóng góp vào
hệ thống kiến thức pháp lý để các cơ quan quản lý nhà nước, DNBHNT và người
tham gia bảo hiểm áp dụng các quy định của pháp luật một cách hiệu quả.
6. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, luận văn có 3 chương, cụ thể như sau:

Chương 1: Những vấn đề lý luận về pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu
dùng trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ
Chương 2: Thực trạng pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh
vực bảo hiểm nhân thọ
Chương 3: Đề xuất một số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật bảo vệ quyền
lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ

4


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ PHÁP LUẬT BẢO VỆ
QUYỀN LỢI NGƯỜI TIÊU DÙNG TRONG LĨNH VỰC
BẢO HIỂM NHÂN THỌ
1.1. Những vấn đề chung về bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực
bảo hiểm nhân thọ
1.1.1. Khái niệm người tiêu dùng trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ
Theo quy định tại Pháp lệnh Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng năm 1999 của
Ủy ban thường vụ Quốc hội và theo Luật Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng số
59/2010/QH12 thì: “Người tiêu dùng là người mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho
mục đích tiêu dùng, sinh hoạt cá nhân, gia đình, tổ chức”.
Hiện nay, có hai cách hiểu khác nhau về người tiêu dùng:
+ Theo nghĩa rộng, người tiêu dùng ngoài mục đích mua hàng hóa, sử dụng
dịch vụ để đáp ứng nhu cầu sinh hoạt thì còn có thể phục vụ cho mục đích tái sản
xuất kinh doanh (mua sản phẩm này để chế biến, sản xuất thành sản phẩm khác, ví
dụ như mua vải để may thành quần, áo và mang đi bán).
+ Theo nghĩa hẹp, người tiêu dùng là các cá nhân, hộ gia đình, tổ chức mua
hoặc sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích sinh hoạt, tiêu dùng của mình. Như
vậy, người tiêu dùng bao gồm cả người mua hàng hóa (mua lương thực, thực phẩm,
thuốc chữa bệnh, quần áo, thiết bị máy móc, đồ dùng sinh hoạt, phương tiện đi

lại,...) và người sử dụng dịch vụ (dịch vụ bảo hiểm, vận tải, vui chơi, giải trí, khám
chữa bệnh, sửa chữa, lắp đặt thiết bị,...)
Trên thế giới, pháp luật mỗi quốc gia có tiêu chí xác định và định nghĩa khác
nhau về người tiêu dùng (NTD). Tuy nhiên, đa số các quốc gia đều định nghĩa NTD
gắn liền với mục đích sinh hoạt tiêu dùng, không bao gồm mục đích thương mại
hoặc bán lại, như:
Luật Bảo vệ NTD của Pháp quy định: “Người tiêu dùng được hiểu là các cá
nhân trực tiếp mua hàng hóa, thụ hưởng các dịch vụ và trực tiếp tiêu thụ, không
bao gồm những người mua với mục đích bán lại" [29, tr.14]
Luật bảo vệ NTD Malaysia ban hành năm 1999 quy định NTD là người:
(a) nhận được hàng hóa và dịch vụ để sử dụng cho mục đích cá nhân, sử
dụng trong hộ gia đình, sử dụng hoặc tiêu dùng và
(b) không sử dụng hàng hóa và dịch vụ hoặc dùng hàng hóa dịch vụ vào mục
đích:
5


(i) cung cấp lại vì mục đích thương mại
(ii) tiêu dùng chúng vào quá trình sản xuất; hoặc
(iii) trong trường hợp hàng hóa, dịch vụ sửa chữa hoặc xử lý, các hàng hóa
và tài sản gắn liền với đất khác" [34]
Như vậy, không phải mọi hành vi mua hoặc sử dụng sản phẩm, dịch vụ đều
được coi là hành vi tiêu dùng. Các tổ chức, cá nhân, hộ gia đình thực hiện các hành
vi mua, sử dụng hàng hóa, dịch vụ cho mục đích sản xuất, kinh doanh hay còn gọi
là hành vi thương mại đều không thuộc phạm vi điều chỉnh của pháp luật về bảo vệ
quyền lợi người tiêu dùng (BVQLNTD).
Tại Việt Nam, khái niệm NTD cũng nghiêng về định nghĩa theo nghĩa hẹp,
tức là bao gồm (dẫn chiếu theo Điều 2 Nghị định số 69/2001/NĐ-CP ngày
02/10/2001):
+ Người mua là người sử dụng hàng hóa, dịch vụ đã mua cho chính bản thân

mình,
+ Người mua hàng hóa, dịch vụ cho người khác, cho gia đình hoặc cho tổ
chức sử dụng,
+ Cá nhân, gia đình, tổ chức sử dụng hàng hóa, dịch vụ do người khác mua
hoặc được cho, tặng.
Trong hoạt động kinh doanh bảo hiểm (KDBH) nói chung và bảo hiểm nhân
thọ (BHNT) nói riêng, chưa có một quy định pháp luật nào định nghĩa về người tiêu
dùng trong lĩnh vực BHNT cả. Tuy nhiên, chúng ta có thể suy đoán ra từ khái niệm
người tiêu dùng nói chung và từ bản chất, đặc điểm của BHNT trong các văn bản
pháp luật có liên quan. BHNT thuộc nhóm bảo hiểm con người trong bảo hiểm
thương mại, là loại hình bảo hiểm mà người mua bảo hiểm sẽ định kỳ nộp một
khoản tiền nhỏ (gọi là phí bảo hiểm) cho doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ
(DNBHNT), theo đó DNBHNT có trách nhiệm trả một số tiền lớn (gọi là số tiền
bảo hiểm) cho người hưởng quyền lợi bảo hiểm như đã thỏa thuận từ trước khi xảy
ra các sự kiện bảo hiểm liên quan đến tuổi thọ, tính mạng của người được bảo hiểm.
Như vậy, người tiêu dùng trong BHNT (sau đây gọi tắt là người tiêu dùng) được
hiểu là một bên giao kết hợp đồng bảo hiểm nhân thọ (HĐBHNT), có thể có các tư
cách chủ thể sau:
- Là bên mua bảo hiểm: là cá nhân hoặc tổ chức có nhu cầu mua bảo hiểm,
giao kết HĐBHNT với doanh nghiệp bảo hiểm và đóng phí bảo hiểm. Bên mua bảo
6


hiểm có thể là người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng. Bên mua bảo hiểm chỉ
có thể mua bảo hiểm cho những người sau:
+ Bản thân bên mua bảo hiểm
+ Vợ, chồng, con, cha, mẹ của bên mua bảo hiểm
+ Anh, chị, em ruột; người có quan hệ nuôi dưỡng và cấp dưỡng
+ Người khác nếu bên mua bảo hiểm có quyền lợi có thể được bảo hiểm
- Là người được bảo hiểm: là người có tính mạng và sức khỏe là đối tượng

của hợp đồng bảo hiểm. Người được bảo hiểm có thể nhưng không nhất thiết là bên
mua bảo hiểm. Người được bảo hiểm có thể đồng thời là người thụ hưởng. Nếu
người được bảo hiểm không đồng thời là bên mua bảo hiểm thì bên mua bảo hiểm
phải có quyền lợi có thể được bảo hiểm. Vì độ tuổi là cơ sở kỹ thuật rất quan trọng
đối với nghiệp vụ BHNT nên pháp luật thường có yêu cầu người được bảo hiểm
phải khai đúng tuổi thực của mình.
- Là người thụ hưởng: là cá nhân hoặc tổ chức được bên mua bảo hiểm chỉ
định để nhận toàn bộ hoặc một phần các quyền lợi bảo hiểm theo HĐBHNT. Khái
niệm người thụ hưởng chỉ có trong bảo hiểm con người vì trong nhiều trường hợp,
đối tượng bảo hiểm gặp rủi ro đồng nghĩa với người được bảo hiểm chết nên người
được bảo hiểm không thể nhận tiền bảo hiểm. Pháp luật thường quy định bên mua
bảo hiểm có thể chỉ định nhiều người thụ hưởng theo một trật tự ưu tiên hoặc không
theo một trật tự ưu tiên nào và phải được sự đồng ý của người được bảo hiểm. Khác
với người được bảo hiểm phải bắt buộc được chỉ rõ, trong HĐBHNT không nhất
thiết phải chỉ định rõ người thụ hưởng.
1.1.2. Bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ
1.1.2.1. Khái niệm quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực bảo hiểm nhân
thọ
Kinh doanh bảo hiểm là kinh doanh dịch vụ tài chính. Do đó, người được
hưởng quyền lợi bảo hiểm là người có quyền lợi cần được pháp luật bảo hộ. Pháp
luật của các nước về kinh doanh bảo hiểm không có định nghĩa riêng thế nào là
quyền lợi của người được bảo hiểm. Tuy nhiên, quyền lợi của người được bảo hiểm
có thể được nhân diện qua suy đoán từ quyền lợi của người tiêu dùng hưởng dịch vụ
của nhà kinh doanh.
Theo như tác giả đã nói ở phần trên, người tiêu dùng trong lĩnh vực BHNT
có thể là bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng. Vậy
7


quyền lợi của người tiêu dùng (QLNTD) trong lĩnh vực BHNT chính là quyền lợi

của bên mua bảo hiểm, người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng.
Để làm rõ QLNTD khi tham gia BHNT, ta sẽ chia theo quyền lợi gắn liền
với các loại hình BHNT cơ bản:
(1) Bảo hiểm trong trường hợp sống: DNBHNT cam kết chi trả những khoản
tiền đều đặn trong một khoảng thời gian xác định hoặc trong suốt cuộc đời người
tham gia bảo hiểm nếu đến một thời điểm nào đó được ấn định trong hợp đồng mà
người được bảo hiểm vẫn còn sống. Trường hợp người được bảo hiểm chết trước
ngày đến hạn thanh toán thì sẽ không được chi trả bất kỳ một khoản tiền nào. Mục
đích của loại bảo hiểm này là đảm bảo thu nhập cố định sau khi về hưu hay tuổi cao
sức yếu, giảm bớt nhu cầu phụ thuộc vào phúc lợi xã hội hoặc con cái khi tuổi già.
Loại hình bảo hiểm này rất phù hợp với những người khi về hưu hoặc những người
không được hưởng tiền trợ cấp hưu trí từ bảo hiểm xã hội đến độ tuổi tương ứng với
tuổi về hưu đăng ký tham gia để được hưởng những khoản trợ cấp định kỳ hàng
tháng. Vậy nên các DNBHNT đặt tên cho loại hình BHNT này là “bảo hiểm tiền trợ
cấp hưu trí”, “bảo hiểm tiền hưu”, “niên kim nhân thọ”...
(2) Bảo hiểm trong trường hợp tử vong: được chia thành 2 nhóm:
(i) Bảo hiểm tử kỳ (còn được gọi là bảo hiểm tạm thời hay bảo hiểm sinh
mạng có thời hạn): DNBHNT có trách nhiệm thanh toán số tiền bảo hiểm cho người
thụ hưởng quyền lợi bảo hiểm được chỉ định nếu người được bảo hiểm tử vong
trong thời gian có hiệu lực của hợp đồng. Nếu cái chết không xảy ra trong thời gian
đó thì người được bảo hiểm không nhận được bất kỳ một khoản hoàn phí nào từ số
phí bảo hiểm đã đóng. Mục đích của loại bảo hiểm này là nhằm đảm bảo các chi phí
mai táng chôn cất, bảo trợ cho gia đình và người thân trong một thời gian ngắn hay
thanh toán các khoản nợ nần cho những khoản vay hoặc thế chấp của người được
bảo hiểm. Bảo hiểm tử kỳ còn được đa dạng hóa thành các dạng như bảo hiểm tử kỳ
cố định, bảo hiểm tử kỳ có thể tái tục, bảo hiểm tử kỳ có thể chuyển đổi, bảo hiểm
tử kỳ giảm dần, bảo hiểm tử kỳ tăng dần, bảo hiểm thu nhập gia đình, bảo hiểm tử
kỳ có điều kiện,… [21, tr.438-441]
(ii) BHNT trọn đời (bảo hiểm trường sinh): DNBHNT cam kết chi trả cho
người thụ hưởng bảo hiểm một số tiền bảo hiểm đã được ấn định trên hợp đồng khi

người được bảo hiểm chết vào bất cứ lúc nào kể từ ngày ký hợp đồng. Mục đích của
loại bảo hiểm này là nhằm đảm bảo các chi phí mai táng chôn cất, bảo đảm thu
nhập để ổn định cuộc sống gia đình hay giữ gìn tài sản, tạo dựng và khởi nghiệp
8


kinh doanh cho thế hệ sau. Hiện nay, loại hình bảo hiểm này thường có các loại hợp
đồng như BHNT trọn đời phi lợi nhuận (khi thanh toán số tiền bảo hiểm cho người
thụ hưởng không có khoản lợi nhuận được chia); BHNT trọn đời có tham gia chia
lợi nhuận (khi thanh toán số tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng quyền lợi thì họ
được chia một phần lợi nhuận như đã thỏa thuận trong hợp đồng); BHNT trọn đời
đóng phí liên tục; BHNT trọn đời phí đóng một lần; BHNT trọn đời quy định số lần
đóng phí bảo hiểm.
(3) BHNT hỗn hợp: DNBHNT sẽ thanh toán số tiền bảo hiểm cả trong
trường hợp người được bảo hiểm bị tử vong hay còn sống. Yếu tố tiết kiệm và rủi ro
đan xen nhau. Thời hạn bảo hiểm xác định thường là 5 năm, 10 năm, 20 năm... Phí
đóng bảo hiểm định kỳ và không thay đổi trong suốt thời hạn bảo hiểm và người thụ
hưởng sẽ có thể được chia lãi thông qua đầu tư phí bảo hiểm và người tham gia bảo
hiểm cũng có thể được hoàn phí khi không có điều kiện tiếp tục tham gia. Mục đích
của loại bảo hiểm này là nhằm đảm bảo ổn định cuộc sống gia đình và người thân,
tạo lập quỹ giáo dục, hưu trí hay trả nợ, có thể sử dụng làm vật thế chấp vay vốn
hoặc khởi nghiệp kinh doanh,....
Hiện nay chưa có một bộ tiêu chí nào ở trong nước, ở nước ngoài được công
bố về tiêu chí đánh giá QLNTD trong lĩnh vực BHNT được bảo đảm hay chưa. Dựa
vào đặc điểm của HĐBHNT, dựa vào quyền và nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm
(Điều 18 Luật KDBH) mà ta xác định một cách tương đối các tiêu chí sau đây:
Thứ nhất, khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra thì người tiêu dùng sẽ nhận được
quyền lợi bảo hiểm phù hợp với quy định của pháp luật và cam kết trong HĐBH đã
được ký.
Thứ hai, khi có sự kiện bảo hiểm xảy ra thì người tiêu dùng nhận được đầy

đủ quyền lợi bảo hiểm trong thời hạn mà pháp luật quy định và cam kết trong
HĐBH sau khi đã thực hiện đúng nghĩa vụ của mình. Quyền lợi bảo hiểm là lợi ích
vật chất thể hiện bằng tiền, do đó nếu doanh nghiệp bảo hiểm chậm trễ trong việc
thanh toán bảo hiểm thì rõ rang quyền lợi của người được bảo hiểm không được bảo
vệ. Pháp luật Việt Nam cũng như các nước đều quy định về thời hạn mà DNBHNT
phải trả tiền bảo hiểm kể từ ngày nhận được đầy đủ hồ sơ hợp lệ về yêu cầu trả tiền
bảo hiểm.
Thứ ba, quá trình tiến hành thủ tục yêu cầu trả tiền bảo hiểm, người tiêu
dùng được tạo điều kiện thuận lợi từ các chủ thể có liên quan (DNBHNT; các tổ
chức, cá nhân liên quan đến việc giám định bảo hiểm, trả tiền bảo hiểm).
9


Tóm lại, QLNTD trong lĩnh vực BHNT xét đến cùng là khả năng số tiền bảo
hiểm sẽ được trả khi người được bảo hiểm đạt đến một độ tuổi nhất định hoặc được
ấn định trong hợp đồng (bảo hiểm trong trường hợp sống – bảo hiểm sinh kỳ) hoặc
là số tiền bảo hiểm sẽ được trả cho người thụ hưởng khi người được bảo hiểm
không may qua đời, ngay cả khi họ mới tiết kiệm được một khoản tiền rất nhỏ qua
việc đóng phí bảo hiểm (bảo hiểm trong trường hợp tử vong – bảo hiểm tử kỳ và
bảo hiểm trường sinh) hoặc là số tiền bảo hiểm sẽ được trả khi hết hạn hợp đồng
hoặc người được bảo hiểm bị tử vong trong thời hạn bảo hiểm (bảo hiểm cả trong
trường hợp sống hay tử vong – bảo hiểm hỗn hợp).
1.1.2.2. Sự cần thiết phải bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực
bảo hiểm nhân thọ
Người tham gia BHNT hay người tiêu dùng trong lĩnh vực BHNT là người
mua bảo hiểm, người được bảo hiểm hoặc người thụ hưởng, tức là những chủ thể
mà quyền lợi và nghĩa vụ gắn liền với HĐBH do DNBHNT cung cấp. Trong pháp
luật Việt Nam cũng như thông lệ quốc tế, bên cạnh nguyên tắc bảo vệ quyền lợi
chính đáng của tất cả các bên tham gia hợp đồng, người tham gia bảo hiểm luôn là
chủ thể được chú ý bảo vệ quyền lợi vì những lý do sau đây:

Thứ nhất, Hợp đồng bảo hiểm nói chung và HĐBHNT nói riêng rất phức tạp,
gồm nhiều nội dung và thuật ngữ có tính chuyên môn cao, không dễ dàng đối với
những cá nhân có nhận thức bình thường. Hơn nữa, xuất phát từ tính may rủi của
HĐBHNT, các DNBHNT phải đưa ra nhiều tình huống giả định (nếu thế này thì...,
nếu thế kia thì..., ngoại trừ...) và miêu tả chúng ở mức độ khái quát cao. Điều này
cũng làm cho câu văn sử dụng để diễn đạt luôn phức tạp.
Thậm chí ở Việt Nam, việc chuẩn hóa và thống nhất về các thuật ngữ bảo
hiểm hiện vẫn còn là một tiến trình dài đối với Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam, do đó
không có gì lạ nếu những người nhận thức bình thường không hiểu đúng về những
thuật ngữ này. Chính vì vậy, nếu quyền và nghĩa vụ đối với người tiêu dùng được
họ nhận thức không thấu đáo, có thể dẫn đến việc các chủ thể thực hiện không đúng
nghĩa vụ, hoặc không bảo vệ được quyền lợi của mình một cách thỏa đáng. Do đó,
pháp luật cần phải có quy định để đảm bảo cho người tiêu dùng có khả năng nhận
thức về những điều khoản bảo hiểm và đồng thời họ được bảo vệ khi DNBHNT lợi
dụng vị thế là người am hiểu chuyên môn để đưa ra những ràng buộc bất lợi đối với
người tham gia bảo hiểm.
10


Thứ hai, theo thông lệ ở Việt Nam cũng như các quốc gia trên thế giới, phần
lớn nội dung của HĐBHNT là do DNBHNT soạn thảo và ban hành, thường được
gọi là hợp đồng theo mẫu với những điều khoản có sẵn, chứ không hình thành qua
quá trình đàm phán trực tiếp của các bên. Bên tham gia bảo hiểm chỉ có thể chấp
nhận hoặc không chấp nhận mà không có quyền sửa đổi khi giao kết hợp đồng.
Điều này được lý giải bởi tính tiện tích, đảm bảo nguyên tắc công bằng, minh bạch
[26, tr.25-33]. Song song với những ưu điểm đó thì hợp đồng theo mẫu vẫn tồn tại
nhiều nhược điểm, bất lợi khiến phát sinh nhiều tranh chấp trong giao dịch, trong đó
phổ biến nhất có thể nói đến là sự bất cân xứng về vị thế và thông tin trước và trong
của các bên trong giao dịch. Cụ thể, người tiêu dùng bị yếu thế trong việc tiếp cận,
xử lý và hiểu các thông tin về HĐBHNT trong quan hệ mua bán, trao đổi (vấn đề

thông tin bất cân xứng). PGS.TS. Phạm Duy Nghĩa nhận xét “…thông tin bất cân
xứng ngày càng trở thành một lĩnh vực cần được quan tâm, đặc biệt trong những
hợp đồng giữa thương nhân và người tiêu dùng" [35, tr.40]. Từ đó dẫn tới người
tiêu dùng bị yếu thế trong việc đàm phán, thiết lập hợp đồng khi quan hệ với nhà
kinh doanh chuyên nghiệp trên thị trường. Và nếu có tranh chấp xảy ra thì người
tiêu dùng cũng yếu thế hơn về khả năng chịu rủi ro do tiềm lực tài chính có hạn.
Thứ ba, xuất phát từ đặc thù của hoạt động kinh doanh bảo hiểm hay là tính
lệ thuộc của người tham gia bảo hiểm vào DNBHNT có thể dẫn đến hành vi không
công bằng khi thực hiện hợp đồng của DNBHNT. Khi DNBHNT nhận phí bảo
hiểm do bên bảo hiểm đóng thì họ không chuyển giao tài sản hay một loại sản phẩm
hữu hình mà người mua bảo hiểm chỉ nhận được cam kết từ phía DNBHNT. Sau
khi nộp phí bảo hiểm, người tham gia bảo hiểm đã hoàn tất nghĩa vụ của mình, nếu
sự kiện bảo hiểm xảy ra thì họ có quyền lợi theo HĐBHNT. Chính vì sự lệ thuộc
này mà DNBHNT có thể đưa ra các thỏa thuận, hoặc có những hành vi làm ảnh
hưởng đến quyền lợi chính đáng của người tham gia bảo hiểm, ví dụ như những đòi
hỏi quá mức trong các thủ tục khai báo, hoặc chậm trễ trong việc quyết định trả tiền
bảo hiểm,...
Bên cạnh đó, do HĐBHNT thường có thời gian bảo hiểm dài (từ 5 năm trở
lên) nên những thiệt hại do HĐBHNT bị chấm dứt trước hạn là rất lớn đối với
người tiêu dùng. Chính vì người tiêu dùng luôn có nhu cầu tiếp tục duy trì hợp đồng
nên DNBHNT sẽ có lợi thế trong khi thực hiện HĐBHNT. Chẳng hạn một người
đàn ông 58 tuổi mua bảo hiểm tử kỳ, nếu bị chấm dứt hợp đồng vì bất cứ lý do gì,
thậm chí là khi DNBHNT bị phá sản thì người đó cũng rất khó có khả năng mua
11


được sản phẩm thay thế hoặc thậm chí có thể bị từ chối nếu vượt quá một ngưỡng
tuổi nhất định (thường là 65 tuổi).
Thứ tư, kinh doanh BHNT tại Việt Nam mặc dù đã xuất hiện từ những năm
1996 nhưng phải đến gần đây mới thực sự phát triển. Do vậy nhận thức của người

dân về bảo hiểm còn nhiều hạn chế mà việc tuyên truyền, phổ biến pháp luật bảo
hiểm cho người dân chưa được quan tâm đúng mức. Chính vì thế nên người tiêu
dùng thường dễ bị thiệt thòi khi giao kết HĐBHNT với các DNBHNT.
Thứ năm, trên cơ sở nội luật hóa, luật pháp quốc tế trở thành một nguồn của
luật pháp quốc gia. Pháp luật quốc tế rất quan tâm đến vấn đề BVQLNTD trong đó
có quyền lợi khi giao kết HĐBHNT, bởi vậy Việt Nam khi gia nhập thị trường
thương mại thế giới cũng phải đề cao đến vấn đề này.
Thứ sáu, DNBHNT không thể chỉ nhận phí bảo hiểm và chờ bồi thường hay
trả tiền mà DNBHNT còn sử dụng các nguồn vốn và dự phòng phí nhàn rỗi để thực
hiện đầu tư làm gia tang khả năng thanh toán cũng như lợi nhuận. Tuy nhiên trong
quá trình đầu tư không thể lường hết được những rủi ro có thể xảy ra. Bởi thế, nếu
có những quy định pháp lý nhằm đảm bảo khả năng thanh toán của DNBHNT thì sẽ
đảm bảo cho quyền lợi của người tham gia bảo hiểm. Từ đó, người tiêu dùng trong
lĩnh vực BHNT sẽ tin tưởng hơn vào các cam kết của DNBHNT, duy trì niềm tin
của người dân đối với ngành kinh doanh bảo hiểm nói riêng và hướng tới sự phát
triển bền vững, công bằng, bình đẳng của nền kinh tế nói chung.
Như vậy, khi có quan hệ với DNBHNT, rõ ràng người tiêu dùng ở vị thế
tương đối yếu, phân tán, sức tập hợp kém, phần lớn không có khả năng, tiềm lực về
kinh tế để có thể tự bảo vệ quyền lợi của mình. Do vậy, vấn đề bảo vệ quyền và lợi
ích hợp pháp của người tiêu dùng phải được ưu tiên và quan tâm mọi lúc, mọi nơi
bằng nhiều công cụ bảo vệ khác nhau.
1.1.3. Các hình thức bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực bảo
hiểm nhân thọ
1.1.3.1. Người tiêu dùng tự bảo vệ mình trong quá trình đàm phán
Để bảo vệ quyền lợi của mình, người tiêu dùng sẽ phải trở thành “người tiêu
dùng thông thái”, và để trở thành người tiêu dùng thông thái đòi hỏi bản thân người
tiêu dung phải nhận thức được vị trí và sức mạnh của mình, phải nhận thức được
rằng nếu không có sự ủng hộ của họ thì bất kỳ doanh nghiệp nào cũng không thể
thành công. Họ cần có nhận thức như vậy để có thể tự tin trong các tình huống giao
dịch với các DNBHNT. Ngoài ra, người tiêu dùng cần hiểu biết sâu sắc về các

12


quyền của mình, có kiến thức và sự tìm hiểu, am hiểu về sản phẩm mà mình muốn
mua và có năng lực để đối phó với những tranh chấp có thể xuất hiện trước, trong
và sau quá trình thực hiện hợp đồng.
Trong quan hệ với DNBHNT, người tiêu dùng hiểu hơn ai hết về nhu cầu
của chính bản thân mình khi tham gia vào các giao dịch. Người tiêu dùng có quyền
lựa chọn sản phẩm phù hợp với nhu cầu và năng lực; yêu cầu được cung cấp thêm
thông tin hoặc thay đổi điều khoản giao dịch; quyết định tham gia hoặc không tham
gia HĐBHNT. Tuy vậy, cũng phải thừa nhận một thực tế rằng, người tiêu dùng ở
Việt Nam còn có những hạn chế nhất định như sự hiểu biết trong quan hệ tiêu dùng
nói chung và quan hệ kinh doanh BHNT nói riêng còn chưa đầy đủ. Vậy, để bảo vệ
quyền lợi của mình, người tiêu dùng cần biết liên kết, tự bảo vệ mình trước khi cần
đến sự giúp đỡ của các cơ quan chức năng hay sự trợ giúp của pháp luật.
1.1.3.2. Được bảo vệ thông qua pháp luật Nhà nước
Nếu như người tiêu dùng là “người tiêu dùng thông thái” còn các DNBHNT
thực hiện đầy đủ các trách nhiệm của mình đối với người tiêu dùng và xã hội thì có
lẽ chúng ta sẽ không phải bàn luận nhiều về vấn đề này. Tuy nhiên, hằng ngày, hằng
giờ, người tiêu dùng vẫn đang bị xâm hại quyền lợi chính đáng bằng nhiều cách. Vì
nhiều lý do khác nhau, hiểu biết hay không hiểu biết đều ngại khiếu nại, tố cáo. Vì
vậy, trách nhiệm bảo vệ người tiêu dùng sẽ do Nhà nước đảm nhân, điều này hoàn
toàn phù hợp với chức năng của Nhà nước trong việc bảo đảm quyền con người
được thực thi trên thực tế. Để bảo vệ QLNTD trong nhà nước pháp quyền, pháp luật
và thực thi pháp luật đóng vai trò là phương tiện để người tiêu dùng trong lĩnh vực
BHNT tự bảo vệ mình, là công cụ để nhà nước bảo vệ quyền lợi chính đáng của
người tham gia bảo hiểm, duy trì trật tự xã hội.
1.1.3.3. Các tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
Để bảo vệ những quyền lợi hợp pháp và chính đáng của bản thân, người
tham gia BHNT có thể nhờ cậy đến các tổ chức xã hội tham gia bảo vệ quyền lợi

người tiêu dùng. Vai trò của các tổ chức xã hội này đã được xã hội hóa trong Luật
BVQLNTD năm 2010 và Nghị định số 99/2011/NĐ-CP. Các tổ chức xã hội này sẽ
hướng dẫn, giúp đỡ và tư vấn cho người tiêu dùng khi được yêu cầu, đại diện cho
người tiêu dùng khởi kiện hoặc tự mình khởi kiện vì lợi ích công cộng,... Tuy nhiên
hiện nay, những Hội bảo vệ QLNTD hiện là tổ chức xã hội tự nguyện, không có
ngân sách hoạt động, không có nguồn thu cố định nên hoạt động của các Hội còn
gặp nhiều khó khăn, hạn chế.
13


1.1.3.4. Cục quản lý, giám sát bảo hiểm
Nhiệm vụ BVQLNTD trong BHNT của các cơ quan quản lý nhà nước theo
nghĩa rộng được hiểu là nhiệm vụ của tất cả các cơ quan tỏng bộ máy nhà nước từ
cơ quan lập pháp, cơ quan hành pháp đến cơ quan tư pháp. Theo nghĩa hẹp, hoạt
động BVQLNTD trong BHNT của cơ quan quản lý nhà nước thuộc trách nhiệm chủ
yếu của cơ quan hành pháp, cụ thể là Cục quản lý, giám sát bảo hiểm. Đây là cơ
quan thuộc Bộ tài chính, có chức năng thực hiện quản lý nhà nước đối với lĩnh vực
kinh doanh bảo hiểm; trực tiếp quản lý, giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Cục này sẽ thực hiện chức năng BVQLNTD bằng những hoạt động như: Giải quyết
khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm hành chính trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm
theo quy định của pháp luật; Kiểm tra và giám sát hoạt động của doanh nghiệp bảo
hiểm; Tiếp nhận, kiểm tra hồ sơ để cấp, gia hạn, thu hồi giấy phép thành lập và hoạt
động của doanh nghiệp bảo hiểm; Tổ chức thực hiện, tuyên truyền về bảo hiểm; phổ
biến và hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện chiến lược, quy hoạch, kế hoạch và các
văn bản quy phạm pháp luật về kinh doanh bảo hiểm...
1.1.3.5. Con đường tài phán
Thông thường tranh chấp phát sinh từ giao kết HĐBHNT đều xuất phát từ
hành vi vi phạm hợp đồng của một hoặc cả hai bên ký kết với lỗi cố ý hoặc vô ý nên
đã làm trái với các điều khoản được cam kết trong hợp đồng. Trong trường hợp
người tham gia bảo hiểm nhận thấy mình bị xâm hại về quyền lợi chính đáng thì có

quyền yêu cầu giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại hoặc Tòa án. Trọng
tài thương mại và Tòa án với tư cách là bên thứ ba độc lập nhằm giải quyết mâu
thuẫn tranh chấp bằng việc đưa ra phán quyết có giá trị bắt buộc các bên phải thi
hành.
1.2. Những vấn đề chung về pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong
lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ
1.2.1. Khái niệm pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực
bảo hiểm nhân thọ
BVQLNTD là nhu cầu khách quan của kinh tế thị trường, bởi xung đột về lợi
ích giữa DNBHNT và người tiêu dùng luôn xuất hiện cùng với sự phát triển không
ngừng của nền kinh tế thị trường. Đây đồng thời cũng là nguyện vọng của người
tiêu dùng, lực lượng đông đảo đóng vai trò là động lực phát triển của sản xuất, kinh
doanh cũng như của cả nền kinh tế - xã hội. Dưới góc độ pháp lý, BVQLNTD trong
lĩnh vực BHNT được hiểu là tổng thể các biện pháp pháp luật, kinh tế, văn hóa, xã
14


hội được Nhà nước quy định và áp dụng trên thực tế để bảo vệ quyền và lợi ích hợp
pháp của người tiêu dùng, bảo đảm cho các quyền của người tiêu dùng được tôn
trọng và thực thi có hiệu quả. Trong đó, pháp luật được coi là phương tiện quan
trọng, chủ yếu và hữu hiệu nhất để bảo vệ QLNTD bởi sức mạnh cưỡng chế của
Nhà nước.
Pháp luật BVQLNTD là một công trình hệ thống, đề cập đến việc lập pháp
nhiều mặt như quan hệ xã hội, dân sự, hành chính, kinh tế, hình sự, trình tự tố tụng
có liên quan đến đời sống tiêu dùng cá nhân. Vì thế pháp luật BVQLNTD trong lĩnh
vực BHNT là hệ thống các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành hoặc thừa
nhận nhằm điều chỉnh quan hệ tiêu dùng phát sinh khi giao kết HĐBHNT. Bản chất
của quan hệ tiêu dùng hay mua – bán trong lĩnh vực BHNT là một loại quan hệ dân
sự, được thực hiện dựa trên cơ sở HĐBHNT giữa người tiêu dùng và DNBHNT
chuyên nghiệp. Bởi vậy, quan hệ tiêu dùng trong lĩnh vực BHNT trước hết được

điều chỉnh chung bằng các quy phạm của Bộ luật dân sự. Ngoài ra còn có các luật
chuyên ngành như Luật KDBH điều chỉnh hành vi của DNBHNT, các quy phạm
của Luật hành chính, Luật hình sự nhằm xử lý hành vi vi phạm quyền lợi người tiêu
dùng trên thị trường.
Như vậy, pháp luật BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT theo nghĩa chung nhất
là những quy tắc xử sự chung do Nhà nước ban hành và được đảm bảo thực hiện
bằng các biện pháp cưỡng chế nhằm điều chỉnh những hành vi xâm hại tới quyền và
lợi ích chính đáng của người tiêu dùng.
1.2.2. Đặc điểm pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực
bảo hiểm nhân thọ
Một nền pháp chế văn minh phải ưu tiên bảo vệ kẻ yếu [37, tr.10]. Có lẽ vì
thế, pháp luật về quyền của người tiêu dùng luôn là một bộ phận không thể thiếu
trong hệ thống pháp luật thương mại của các quốc gia phát triển và đã trở thành vấn
đề pháp lý quốc tế. Về phương pháp luận, trước hết ta phải khẳng định pháp luật
BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT là một bộ phận của pháp Luật KDBH. Trong
quan hệ kinh doanh bảo hiểm, ngoài lợi ích chung của nhà nước, của xã hội thì còn
có quan hệ lợi ích trực tiếp giữa doanh nghiệp bảo hiểm và người tiêu dùng. Chính
vì vậy, vấn đề xác định nền tảng của pháp luật về BVQLNTD cần làm rõ những tư
tưởng mang tính nguyên tắc:
Thứ nhất, pháp luật phải thực hiện đúng chức năng công cụ của công quyền
với đúng nghĩa là sự bảo đảm của nhà nước trong một trật tự xã hội, trong đó các
15


chủ thể bình đẳng với nhau về quyền và nghĩa vụ, nội dung là sự phản ánh nhu cầu
của xã hội và pháp luật phải bảo đảm cân bằng lợi ích giữa quyền tự do kinh doanh
của DNBHNT với QLNTD. Đây là vấn đề có tính hai mặt bởi nếu chỉ chú trọng đến
QLNTD thì có thể dẫn tới tình trạng hạn chế quyền tự do kinh doanh của
DNBHNT; ngược lại, nếu tuyệt đối hóa quyền tự do kinh doanh của DNBHNT có
thể dẫn tới tình trạng không bảo đảm được quyền lợi của người được bảo hiểm.

Quyền tự do kinh doanh thuộc lĩnh vực quyền dân sự của tổ chức, cá nhân.
Về nguyên lý, tôn trọng và bảo vệ quyền tự do kinh doanh là việc nhà nước thể chế
hóa pháp luật và bảo đảm bằng nhà nước với tư tưởng “tổ chức, cá nhân được làm
tất cả những gì pháp luật không cấm”. Tuy nhiên, bảo đảm quyền tự do kinh doanh
của DNBHNT với việc bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro kinh doanh là hai mặt cần
phải giải quyết xung đột đối với loại doanh nghiệp này. Bởi vì, đây là chủ thể kinh
doanh trong lĩnh vực tài chính tiềm ẩn nguy cơ rủi ro cao.
Thứ hai, về phía người được bảo hiểm, pháp luật phải bảo đảm:
- Quyền được đảm bảo nguyên tắc bình đẳng trong giao kết và thực hiện
HĐBHNT. Mặc thù nội dung này đã được pháp luật ghi nhận, nhưng do đặc thù của
quan hệ bảo hiểm, nhất là đối với BHNT khi người tham gia bảo hiểm thường là
từng cá nhân riêng lẻ thì DNBHNT thường có vị thế mạnh hơn khi giao kết và thực
hiện hợp đồng
- Quyền được giải thích, hướng dẫn để hiểu đúng và đầy đủ nội dung của
HĐBHNT. Bởi vì, hoạt động kinh doanh BHNT gồm các tác nghiệp mang tính kỹ
thuật kinh tế rất cao, đòi hỏi người mua bảo hiểm phải có nhận thức tối thiểu về bảo
hiểm. Nếu không hiểu rõ, người tham gia bảo hiểm sẽ có thể thực hiện không đúng
thỏa thuận, dẫn đến những bất lợi, thậm chí có thể không được trả tiền bảo hiểm khi
xảy ra sự kiện bảo hiểm.
- Quyền được trả tiền bảo hiểm theo đúng thỏa thuận. Đây là quyền lợi quan
trọng nhất của người được bảo hiểm, vì nó là mục đích của việc tham gia bảo hiểm
của bên mua bảo hiểm.
- Ngoài ra còn có các quyền như quyền được an toàn, được lựa chọn, được
lắng nghe, được khiếu nại, được đền bù…
Thứ ba, pháp luật về BVQLNTD còn phải đảm bảo ràng buộc trách nhiệm
của các cơ quan, đơn vị, cá nhân trong mối quan hệ với người tiêu dùng; có chứa
các quy định, chế tài xử lý có đủ sức răn đe, xóa bỏ được những bất cập vốn có, huy
động được sức mạnh của toàn xã hội để bảo vệ người tiêu dùng.
16



Do đó, pháp luật BVQLNTD cần chứa các yếu tố: cân bằng lợi ích xã hội,
lợi ích giữa DNBHNT và người tiêu dùng; bảo đảm môi trường kinh doanh lành
mạnh, bền vững; thông qua hoạt động bảo vệ người tiêu dùng nhằm đảm bảo trật tự
công; nâng cao trách nhiệm của DNBHNT với người tiêu dùng; bảo đảm các quyền
lợi của doanh nghiệp, tránh tình trạng người tiêu dùng lợi dụng chính sách để gây
thiệt hại cho DNBHNT (trục lợi bảo hiểm)…
Tóm lại, mô hình pháp luật về bảo vệ quyền lợi của người tham gia bảo hiểm
cần có là tổng hợp các quy phạm pháp luật quy định về tư cách pháp lý, quyền và
nghĩa vụ của các bên giao kết HĐBHNT, cơ chế kiểm soát, giám sát đối với hoạt
động kinh doanh bảo hiểm nhằm mục tiêu bảo đảm người tiêu dùng được thụ hưởng
quyền lợi bảo hiểm theo HĐBH hoặc quy định của pháp luật.
1.2.3. Vai trò và vị trí của pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng trong
lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ trong hệ thống pháp luật
Theo PGS. TS Nguyễn Như Phát (2010): "Những kẻ có thế và lực mạnh hơn
thường hành xử theo xu hướng lạm dụng quyền lực trong quan hệ với kẻ yếu. Thêm
vào đó, nếu cứ có 300% lợi nhuận thì các nhà tư bản sẵn sàng treo cổ mình lên và
vì vậy, họ cũng sẵn sàng "khuyến mãi" cho khách hàng và người tiêu dùng những
cạm bẫy pháp lý và kỹ thuật và thậm chí cả những thứ độc hại". [38] NTD trong
quan hệ giao dịch với DNBHNT luôn là ở vị trí yếu thế hơn bởi tính nhỏ lẻ, thiếu
hiểu biết, thiếu thông tin của mình và luôn cần "một hệ thống thể chế nhằm khắc
phục vị thế bất cân xứng" đó. Trên tinh thần đó, pháp luật BVQLNTD không điều
chỉnh nội dung của giao dịch mà chỉ là công cụ để đảm bảo hiệu chỉnh, khắc phục
vị thế bất cân xứng trong mối quan hệ giữa NTD với tổ chức, cá nhân kinh doanh
hàng hóa, dịch vụ. Trước năm 1999, vấn đề BVQLNTD đã được pháp luật Việt
Nam đề cập đến tuy nhiên còn tản mạn và chưa thống nhất trong nhiều văn bản
pháp luật khác nhau như Điều 28 Hiến pháp năm 1992, Pháp lệnh Đo lường năm
1990, Pháp lệnh Chất lượng hàng hóa năm 1990, Bộ Luật Dân sự 1995, Luật
Thương mại năm 1997... Pháp luật BVQLNTD tại Việt nam chỉ thật sự được quan
tâm và được tổng hợp thành một văn bản pháp luật kể từ khi Pháp lệnh BVQLNTD

được thông qua và có hiệu lực từ 01/10/1999. Việc bảo vệ quyền lợi của người
tham gia BHNT thời gian này cũng chịu sự điều chỉnh của pháp lệnh này với những
ghi nhận rõ ràng về quyền và trách nhiệm của người tiêu dùng; trách nhiệm của các
cơ quan chính quyền cũng như của các tổ chức, cá nhân kinh doanh. Sau đó, sự điều
chỉnh pháp luật BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT tiếp tục được quy định tại các
17


văn bản pháp luật khác nhau như Bộ luật hình sự năm 1999, Luật KDBH năm 2000
(sửa đổi, bổ sung năm 2010), Luật BVQLNTD năm 2010, Bộ luật dân sự năm
2015, Nghị định số 45/2007/NĐ-CP ngày 7/3/2007 của Chính phủ quy định chi tiết
thi hành một số điều của Luật KDBH; Nghị định số 123/2011/NĐ-CP ngày
28/12/2011 quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật KDBH và sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số
45/2007/NĐ-CP; Nghị định số 68/2014/NĐ-CP ngày 09/7/2014 sửa đổi, bổ sung
một số điều của Nghị định số 45/2007/NĐ-CP; Thông tư 194/2014/TT-BTC, Nghị
định 73/2016/NĐ-CP, Thông tư 50/2017/TT-BTC, … Những văn bản pháp luật liên
quan đến bảo vệ quyền lợi người tham gia bảo hiểm này đã và đang có tác động
trực tiếp và tích cực đến nền kinh tế xã hội, đến nhận thức của các DNBHNT và bản
thân người tiêu dùng trong giao kết, thực hiện HĐBH nói riêng và trong vấn đề
BVQLNTD nói chung.
BVQLNTD nói chung và quyền lợi người tiêu dùng trong lĩnh vực BHNT
nói riêng được coi là một trong những chính sách quan trọng của Đảng và Nhà nước
ta nhằm thực hiện hóa mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng,
văn minh”. Pháp luật về BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT đã thực sự trở thành một
lĩnh vực pháp luật độc lập, có vị trí đáng kể trong hệ thống pháp luật Việt Nam,
cùng với những cấu trúc pháp luật khác góp phần tạo nên một môi trường kinh
doanh hiện đại, pháp quyền và công bằng.
1.2.4. Cấu trúc nội dung pháp luật bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng
trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ

Cấu trúc pháp luật BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT có thể được nhìn nhận
từ nhiều giác độ khác nhau với những mục tiêu khác nhau. Theo NAIC (National
Association of Insurance Commissioners) – Hiệp hội quốc gia các Ủy ban bảo hiểm
Hoa Kỳ thì mục tiêu của pháp Luật KDBH là để bảo vệ người tiêu dùng và đảm bảo
những cam kết bảo hiểm của DNBHNT phải được thực hiện [50]. Do đó, các bộ
phận chính của pháp luật về BVQLNTD trong lĩnh vực BHNT bao gồm các quy
định về cấp phép cho DNBHNT, cấp phép cho dịch vụ bảo hiểm, quy định về quy
chế tài chính, quy định về sản phẩm bảo hiểm và HĐBH, quy định về trách nhiệm
sản phẩm và trách nhiệm của người bán sản phẩm, quy định về bồi thường thiệt hại
cho người tham gia bảo hiểm, quy định về giải quyết tranh chấp giữa người tiêu
dùng và DNBHNT,…
18


Để phân tích cấu trúc pháp luật bảo vệ quyền lợi người tham BHNT, cách
thuận lợi nhất là xuất phát từ “cái gốc” của hiện tượng xã hội, đó là các quan hệ xã
hội cơ bản có thể phát sinh từ hoạt động kinh doanh BHNT. Với cách tiếp cận trên
đây, pháp luật bảo vệ quyền lợi của người tham gia BHNT cần điều chỉnh những
nhóm quan hệ xã hội sau:
Thứ nhất, pháp luật cần điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội định hình tư cách
chủ thể của các bên trong HĐBHNT.
Bộ phận pháp luật này nhằm xác định địa vị pháp lý của người tiêu dùng, của
DNBHNT với những quyền và nghĩa vụ phù hợp với chức năng của nó trong mối
tương quan với các chủ thể khác của nền kinh tế. Với năng lực chủ thể được pháp
luật quy định, DNBHNT kinh doanh BHNT sẽ có cơ sở pháp lý để tiến hành các
hoạt động kinh doanh với tư cách là một chủ thể độc lập. Bộ phận pháp luật này
thông thường bao gồm những quy định về việc thành lập và hoạt động của
DNBHNT, những quy định về cơ cấu, tổ chức cùng với những quyền và nghĩa vụ
của DNBHNT khi hoạt động, trong đó quyền và nghĩa vụ khi thực hiện hoạt động
kinh doanh BHNT là những quy định quan trọng, đặc trưng nhất.

Thứ hai, pháp luật cần điều chỉnh nhóm quan hệ hợp đồng giữa DNBHNT
với người tham gia bảo hiểm.
DNBHNT với tư cách chủ thể kinh doanh sản phẩm BHNT, sẽ tiến hành
“bán” các sản phẩm của mình thông qua một giao dịch hợp đồng. Do sản phẩm
BHNT là dịch vụ, nên khác với sản phẩm hàng hóa, HĐBHNT cần phải mô tả rõ về
nội dung dịch vụ đó với những quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng.
Chính vì vậy, pháp luật điều chỉnh đối với HĐBHNT luôn được coi là một bộ phận
pháp luật quan trọng đối với hoạt động kinh doanh BHNT.
Thứ ba, pháp luật cần điều chỉnh nhóm quan hệ xã hội là các cơ quan có
thẩm quyền giám sát và giải quyết tranh chấp, xử lý vi phạm khi có khiếu nại, tố
cáo của người tham gia bảo hiểm hoặc DNBHNT nhằm mục đích bảo vệ QLNTD.
DNBHNT với tư cách là một chủ thể kinh doanh phải chịu sự giám sát của
cơ quan quản lý nhà nước và các chủ thể khác có thẩm quyền. Quan hệ pháp luật
phát sinh giữa cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền với DNBHNT chủ yếu là
quan hệ pháp luật hành chính, dựa trên nguyên tắc mệnh lệnh giữa một bên là chủ
thể quản lý và một bên là chủ thể chịu quản lý. Những quy định của bộ phận pháp
luật này xác định những quyền hạn của cơ quan quản lý nhà nước và các chủ thể
khác có thẩm quyền trong hoạt động giám sát, đồng thời cũng xác định những nghĩa
19


vụ mà DNBHNT cần phải tuân thủ và thực hiện để đảm bảo sự minh bạch, công
bằng trên thị trường bảo hiểm tự do cạnh tranh và đảm bảo nguyên tắc bảo vệ người
tham gia bảo hiểm.
1.2.4.1. Quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên
a) Quyền và nghĩa vụ của người tham gia BHNT
Người tiêu dùng có 8 quyền như Bản hướng dẫn của Liên hợp quốc về bảo
vệ người tiêu dùng [49] và được cụ thể trong Điều 8 của Luật bảo vệ quyền lợi
người tiêu dùng, đó là: Quyền được thỏa mãn những nhu cầu cơ bản, Quyền được
an toàn, Quyền được thông tin, Quyền được lựa chọn, Quyền được lắng nghe,

Quyền được khiếu nại và bồi thường, Quyền được giáo dục, đào tạo và tiêu dùng và
Quyền được có môi trường sống lành mạnh và bền vững. Bên cạnh đó, người tiêu
dùng có 4 nghĩa vụ theo Quốc tế người tiêu dùng là Biết phê bình, Hành động, Có ý
thức cộng đồng và xã hội, Hiểu biết về tiêu dùng và môi trường.
Người tham gia bảo hiểm bên cạnh các quyền và nghĩa vụ như trên thì được
công nhận các quyền và nghĩa vụ cụ thể theo Điều 18 Luật KDBH là:
Bên mua bảo hiểm có quyền:
- Lựa chọn doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động tại Việt Nam để mua bảo
hiểm;
- Yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm giải thích các điều kiện, điều khoản bảo
hiểm; cấp giấy chứng nhận bảo hiểm hoặc đơn bảo hiểm;
- Đơn phương đình chỉ thực hiện HĐBHNT theo quy định tại khoản 3 Điều
19, khoản 1 Điều 20 của Luật KDBH;
- Yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng
hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm theo thỏa thuận trong HĐBHNT khi xảy
ra sự kiện bảo hiểm;
- Chuyển nhượng HĐBH theo thỏa thuận trong HĐBHNT hoặctheo quy định
của pháp luật;
- Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
Bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ:
- Đóng phí bảo hiểm đầy đủ, theo thời hạn và phương thức đã thỏa thuận
trong HĐBH;
- Kê khai đầy đủ, trung thực mọi chi tiết có liên quan đến HĐBH theoyêu
cầu của doanh nghiệp bảo hiểm;
20


- Thông báo những trường hợp có thể làm tăng rủi ro hoặc làm phát sinh
thêm tráchnhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm trong quá trình thực hiện HĐBH theo
yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm;

- Thông báo cho doanh nghiệp bảo hiểm về việc xảy ra sự kiện bảo hiểm
theo thỏa thuận trong HĐBHNT;
- Áp dụng các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn thất theo quy định của Luật
KDBH và các quy định khác của pháp luật có liên quan;
- Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
b) Quyền và nghĩa vụ của DNBHNT
Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền:
- Thu phí bảo hiểm theo thỏa thuận trong HĐBHNT;
- Yêu cầu bên mua bảo hiểm cung cấp đầy đủ trung thực thông tin liên quan
đếnviệc giao kết và thực hiện HĐBHNT;
- Đơn phương đình chỉ thực hiện HĐBH theo quy định tại khoản 2 Điều19,
khoản 2 Điều 20, khoản 2 Điều 35 và khoản 3 Điều 50 của Luật KDBH;
- Từ chối trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc từ chối bồi thường cho
người được bảo hiểm trong trường hợp không thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm
hoặc trường hợp loại trừ trách nhiệm bảo hiểm theo thỏa thuận trong HĐBHNT;
- Yêu cầu bên mua bảo hiểm áp dụng các biện pháp đề phòng, hạn chế tổn
thất theo quy định và các quy định khác của pháp luật có liên quan;
- Các quyền khác theo quy định của pháp luật.
Doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ:
- Giải thích cho bên mua bảo hiểm về các điều kiện, điều khoản bảo hiểm;
quyền, nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm;
- Cấp cho bên mua bảo hiểm giấy chứng nhận bảo hiểm, đơn bảo hiểm ngay
sau khi giao kết HĐBHNT;
- Trả tiền bảo hiểm kịp thời cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người
đượcbảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm;
- Giải thích bằng văn bản lý do từ chối trả tiền bảo hiểm hoặc từ chối bồi
thường;
- Các nghĩa vụ khác theo quy định của pháp luật.
Trong các quyền và nghĩa vụ của hai bên giao kết HĐBHNT, vai trò của
minh bạch thông tin là hết sức quan trọng nhằm đảm bảo cho HĐBHNT được thực

hiện. DNBHNT có trách nhiệm đảm bảo cho bên mua bảo hiểm hoàn toàn hiểu rõ
21


×