Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Cưỡng chế thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh nam định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.71 MB, 102 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LƯƠNG NGỌC HƯNG

CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN
TỈNH NAM ĐỊNH

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LƯƠNG NGỌC HƯNG

CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC TIỄN
TỈNH NAM ĐỊNH

Chuyên ngành
Mã số

: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
: 60 38 01 02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học:


PGS.TS. Lương Thanh Cường

Hà Nội – 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu ghi
trong luận văn là trung thực. Những kết luận khoa học của luận văn không trùng lặp
với các công trình nghiên cứu có liên quan đã được công bố.
Tác giả luận văn

Lương Ngọc Hưng


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến Phó Giáo sư, Tiến sĩ Lương Thanh
Cường là người hướng dẫn trực tiếp cho tôi cùng các thầy cô giáo đã giảng dạy
cho tôi trong suốt thời gian học tập tại Học viện Khoa học Xã hội; xin cảm ơn các
anh, chị, bạn bè, đồng nghiệp và gia đình đã động viên, khuyến khích, giúp đỡ và
đóng góp ý kiến trao đổi để tôi hoàn thành Luận văn này.
Lương Ngọc Hưng


MỤC LỤC

MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ CƯỠNG
CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ...................................................................... 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của cưỡng chế thi hành án dân sự ....... 6
1.2. Thẩm quyền, thủ tục cưỡng chế thi hành án dân sự ............................ 11

1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến cưỡng chế thi hành án dân sự .................... 14
Chương 2: THỰC TRẠNG CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
VÀ CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN
DÂN SỰ Ở TỈNH NAM ĐỊNH ...................................................................... 21
2.1. Tình hình thực tiễn cưỡng chế thi hành án dân sự ở tỉnh Nam Định ... 21
2.2. Thực trạng pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự và các yếu
tố ảnh hưởng đến cưỡng chế thi hành án dân sự ở tỉnh Nam Định. ........... 34
2.3. Nhận xét về cưỡng chế thi hành án dân sự ở tỉnh Nam Định .............. 59
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP BẢO ĐẢM HIỆU LỰC,
HIỆU QUẢ CƯỠNG CHẾ THI HÀNH ÁN DÂN SỰ TỪ THỰC
TIỄN TỈNH NAM ĐỊNH .............................................................................. 63
3.1. Phương hướng bảo đảm hiệu lực, hiệu quả cưỡng chế thi hành án
dân sự từ thực tiễn tỉnh Nam Định .............................................................. 63
3.2. Giải pháp bảo đảm hiệu lực, hiệu quả cưỡng chế thi hành án dân sự
từ thực tiễn tỉnh Nam Định ......................................................................... 65
KẾT LUẬN .................................................................................................... 74
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
CHV

: Chấp hành viên

LTHADS

: Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được
sửa đổi, bổ sung một số điều năm 2014


TAND

: Tòa án nhân dân

THA

: Thi hành án

THADS

: Thi hành án dân sự

VKSND

: Viện Kiểm sát nhân dân


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành án dân sự là một trong những hoạt động quan trọng của Nhà nước
trong việc góp phần đảm bảo hiệu lực thi hành bản án, Quyết định dân sự của Tòa án
và quyết định của Trọng tài thương mại, Hội đồng xử lý vụ việc canh tranh. Đây là
công đoạn cuối cùng của hoạt động tố tụng, bảo đảm cho Bản án, Quyết định của Tòa
án được thi hành nghiêm chỉnh, thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật trong bảo vệ
quyền, lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân và Nhà nước. Để hiện thực hóa các
quyền, nghĩa vụ đã ghi nhận trong Bản án, Quyết định của Tòa án cũng như quyết định
của cơ quan, tổ chức có thẩm quyền được thi hành theo thủ tục thi hành án dân sự thì
bên cạnh việc thuyết phục đương sự tự nguyện thi hành án, trong nhiều trường hợp cần
áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự.
Cưỡng chế thi hành án dân sự là một trong những biện pháp được áp dụng trong

thi hành án dân sự và ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả công tác thi hành án. Trước
đây, các Pháp lệnh thi hành án dân sự các năm 1989,1993 và 2004 đều có quy định về
cưỡng chế thi hành án dân sự nhưng chưa đầy đủ, thiếu tính cụ thể và hệ thống. Trên
cơ sở kế thừa và phát triển các quy định về cưỡng chế thi hành án dân sự trong các văn
bản trước đây, Luật Thi hành án dân sự năm 2008 được sửa đổi, bổ sung năm 2014
(gọi chung là Luật Thi hành án dân sự) đã có những quy định chi tiết, cụ thể hơn về
cưỡng chế thi hành án dân sự. Tuy nhiên, thực tiễn thực hiện các quy định về cưỡng
chế thi hành án dân sự cho thấy các quy định này còn nhiều hạn chế, khó khăn, vướng
mắc và tồn tại khi áp dụng pháp luật là một trong những nguyên nhân dẫn đến tình
trạng án tồn đọng, chưa đáp ứng được yêu cầu bảo vệ một cách kịp thời và hiệu quả
quyền, lợi ích hợp pháp của người được thi hành án và quyền lợi ích hợp pháp của cá
nhân, tổ chức khác trong thi hành án dân sự.
Mặt khác, cưỡng chế thi hành án dân sự tác động trực tiếp đến quyền về tài sản,
quyền về nhân thân của người phải thi hành án và những người có liên quan, làm phát
sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền và nghĩa vụ của các chủ thể. Do vậy, các quy định
về cưỡng chế thi hành án dân sự cần phải đảm bảo hiệu quả việc thi hành án, chống lại

1


hành vi trốn tránh, cản trở, chống đối, trì hoãn, đồng thời bảo đảm tôn trọng quyền và
lợi ích hợp pháp của các chủ thể có liên quan.
Với tất cả những lý do đã nêu trên, việc chọn đề tài “Cưỡng chế thi hành án
dân sự từ thực tiễn tỉnh Nam Định” làm luận văn thạc sĩ luật học là cấp thiết và có ý
nghĩa thực tiễn. Việc nghiên cứu về vấn đề cưỡng chế thi hành án dân sự góp phần đem
lại quyền và lợi ích thực tế cho cá nhân, tổ chức, góp phần xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa công bằng, văn minh.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Những năm vừa qua, trước những đòi hỏi khách quan của công tác THADS, đã
có một số công trình khoa học nghiên cứu về vấn đề THADS, cụ thể là:

- Đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ "Những cơ sở lý luận và thực tiễn về chế
định Thừa phát lại", mã số 95-98-114/ĐT do Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý - Bộ
Tư pháp và Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh chủ trì thực hiện;
- Đề tài nghiên cứu cấp Bộ: "Mô hình quản lý thống nhất công tác thi hành án",
mã số 96-98- 027/ĐT do Cục THADS - Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện;
- Đề tài cấp Nhà nước: "Luận cứ khoa học của việc đổi mới tổ chức và hoạt
động thi hành án ở Việt Nam trong giai đoạn mới" do Bộ Tư pháp chủ trì;
- Đề tài: " Thi hành án dân sự, thực trạng và hướng hoàn thiện của Dự án
VIE/98/001" do Bộ Tư pháp chủ trì thực hiện dự án.
- Đề tài khoa học cấp cơ sở: “Triển khai áp dụng Luật thi hành án dân sự trong
công tác đào tạo nghiệp vụ thi hành án”, Học viện Tư pháp, 2010.
Một số luận án và công trình nghiên cứu khác như:
- Luận án Tiến sĩ Luật Học “Hoàn thiện pháp luật thi hành án dân sự ở nước ta
hiện nay” của tác giả Nguyễn Thanh Thủy, Hà Nội, năm 2008;
- Luận án Tiến sĩ Luật học “Pháp chế XHCN trong hoạt động THADS ở Việt
Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Quang Thái, Hà Nội năm 2008;
- Luận án Tiến sĩ Luật học “Hiệu quả áp dụng pháp luật trong thi hành án dân
sự ở Việt Nam” của tác giả Đặng Đình Quyền, Hà Nội năm 2012;
- Luận án Tiến sĩ Luật học “Hoàn thiện pháp luật về xử lý vi phạm pháp luật trong
thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay” của tác giả Nguyễn Tuấn An, Hà Nội, 2014;

2


- Luận án Tiến sĩ Luật học “Giám sát thi hành án dân sự ở Việt Nam hiện nay”
của tác giả Hoàng Thế Anh, Hà Nội, 2015;
- Luận án Tiến sĩ Luật học “Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về cưỡng chế thi
hành án dân sự ở Việt Nam” của tác giả Lê Anh Tuấn, Hà Nội, 2017;
- Luận văn Thạc sĩ Luật học: "Các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, thực
tiễn áp dụng và hướng hoàn thiện", của tác giả Nguyễn Công Long, Hà Nội, 2000;

- Luận văn Thạc sĩ Luật học: “Thi hành án hành chính ở Việt Nam” của tác giả
Nguyễn Văn Vạn, Hà Nội, 2013;
- Luận văn Thạc sĩ Luật học: "Biện pháp cưỡng chế kê biên tài sản để thi hành
án dân sự", của tác giả Trần Công Thịnh, Hà Nội, 2007;
- Luận văn Thạc sĩ Luật học "Biện pháp cưỡng chế thi hành nghĩa vụ trả tiền
theo pháp luật thi hành án dân sự từ thực tiễn thành phố Hà Nội" của tác giả Vũ Thu
Huyền, Hà Nội, 2017.
Bên cạnh đó là một số bài viết đăng trên các tạp chí Dân chủ và pháp luật, Tạp
chí Luật học, Tạp chí Nhà nước và pháp luật…
Những công trình nêu trên đã có nội dung nghiên cứu về thi hành án dân sự ở
nhiều khía cạnh, góc độ và mức độ khác nhau. Trong một số công trình cũng đã đề cập
đến việc áp dụng một biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự ở một số địa phương cụ
thể, nhưng chưa có công trình nào nghiên cứu về các biện pháp cưỡng chế THADS
được áp dụng từ thực tiễn tỉnh Nam Định.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Trên cơ sở nghiên cứu phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận và pháp lý cơ bản
về cưỡng chế thi hành án dân sự, khái quát lịch sử hình thành và phát triển của pháp
luật về thi hành án dân sự, nêu thực trạng áp dụng các biện pháp cưỡng chế từ thực tiễn
tỉnh Nam Định để đề xuất một số giải pháp cụ thể góp phần cho việc bảo đảm hiệu lực,
hiệu quả cưỡng chế thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Nam Định.
3.2. Nhiệm vụ
Thứ nhất, phân tích, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản và pháp lý về cưỡng
chế thi hành án dân sự.

3


Thứ hai, đánh giá chân thực và toàn diện thực trạng cưỡng chế THADS và các
yếu tố ảnh hưởng đến cưỡng chế thi hành án dân sự ở tỉnh Nam Định, từ đó phân tích

những kết quả đã đạt được và những hạn chế, tồn đọng trong việc áp dụng các biện
pháp cưỡng chế trên địa bàn tỉnh Nam Định từ thực tiễn.
Thứ ba, đề xuất phương hướng, giải pháp bảo đảm hiệu lực, hiệu quả cưỡng chế
THADS từ thực tiễn tỉnh Nam Định.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của luận văn tập trung vào những vấn đề cơ bản như sau:
- Những vấn đề lý luận và pháp lý cơ bản về cưỡng chế thi hành án dân sự,
gồm: “Khái niệm, đặc điểm, phân loại cưỡng chế thi hành án dân sự; mối quan hệ
giữa cưỡng chế THADS với các biện pháp cưỡng chế khác của nhà nước; căn cứ,
thẩm quyền, thủ tục cưỡng chế thi hành án dân sự; mức độ hoàn thiện pháp luật về thi
hành án dân sự và các yếu tố ảnh hưởng đến cưỡng chế THADS”.
- Các quy định của pháp luật hiện hành về cưỡng chế thi hành án dân sự và các
văn bản pháp luật khác có liên quan đến cưỡng chế thi hành án dân sự.
- Thực tiễn áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự trên địa bàn
tỉnh Nam Định thông qua các số liệu cụ thể.
4.2. Phạm vi nghiên cứu:
Phạm vi nghiên cứu của luận văn tập trung vào những vấn đề lý luận và pháp
lý cơ bản về cưỡng chế THADS và thực tiễn áp dụng pháp luật về cưỡng chế THADS
trên địa bàn tỉnh Nam Định, cụ thể như sau:
- Nghiên cứu khái niệm, đặc điểm, phân loại cưỡng chế thi hành án dân sự;
mối quan hệ giữa cưỡng chế THADS với các biện pháp cưỡng chế khác của nhà
nước; căn cứ, thẩm quyền, thủ tục cưỡng chế thi hành án dân sự; mức độ hoàn thiện
pháp luật về thi hành án dân sự và các yếu tố ảnh hưởng đến cưỡng chế THADS”.
- Đánh giá thực trạng áp dụng các biện pháp cưỡng chế THADS trên địa bàn
tỉnh Nam Định để đề xuất phương hướng, giải pháp bảo đảm hiệu lực, hiệu quả
cưỡng chế thi hành án dân sự.

4



- Thực tiễn áp dụng các biện pháp cưỡng chế THADS trên địa bàn tỉnh Nam Định
được nghiên cứu và lấy số liệu cụ thể trong khoảng thời gian từ năm 2013 đến năm 2017.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật
lịch sử và phép biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước và pháp luật. Các phương pháp cụ thể được sử dụng kết hợp, đó là: Phương pháp
nghiên cứu lịch sử, phương pháp phân tích, phương pháp thống kê, tổng hợp. Cụ thể
qua các chương như sau:
Chương 1: Luận văn sử dụng phương pháp tiếp cận hệ thống, phân tích, tổng
hợp những vấn đề lý luận và pháp lý về cưỡng chế thi hành án dân sự.
Chương 2: Luận văn sử dụng phương pháp thống kê, phân tích, tổng hợp để đánh
giá khách quan và toàn diện thực tiễn cưỡng chế THADS trên địa bàn tỉnh Nam Định.
Chương 3: Luận văn sử dụng phương pháp phân tích và tổng hợp, kết hợp lý
luận cơ bản ở chương 1 và thực tiễn áp dụng ở chương 2 để đề xuất phương hướng,
giải pháp bảo đảm hiệu lực, hiệu quả cưỡng chế THADS từ thực tiễn tỉnh Nam Định.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về lý luận, luận văn đã nghiên cứu tổng hợp, phân tích một cách có hệ thống
các văn bản pháp luật hiện hành về cưỡng chế thi hành án dân sự.
Về thực tiễn, luận văn đã đánh giá được thực trạng cưỡng chế thi hành án dân
sự và các yếu tố ảnh hưởng đến cưỡng chế thi hành án dân sự ở tỉnh Nam Định. Các đề
xuất của Luận văn góp phần tháo gỡ những khó khăn vướng mắc từ thực tiễn thi hành
pháp luật về cưỡng chế thi hành án dân sự.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận và pháp lý về cưỡng chế thi hành án dân sự.
Chương 2: Thực trạng cưỡng chế thi hành án dân sự và các yếu tố ảnh hưởng
đến cưỡng chế thi hành án dân sự ở tỉnh Nam Định.
Chương 3: Phương hướng, giải pháp bảo đảm hiệu lực, hiệu quả cưỡng chế thi

hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Nam Định.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LÝ VỀ CƯỠNG CHẾ
THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm và vai trò của cưỡng chế thi hành án dân sự
1.1.1. Khái niệm
Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp thi hành án dân sự dùng
quyền lực của Nhà nước buộc người phải thi hành án thực hiện nghĩa vụ thi hành án
dân sự của họ, do chấp hành viên áp dụng trong trường hợp người phải thi hành án có
điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án. [31. Tr 195]
1.1.2. Đặc điểm của cưỡng chế thi hành án dân sự
Thứ nhất, biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự thể hiện quyền năng đặc biệt
của Nhà nước và được đảm bảo thực hiện bằng sức mạnh của Nhà nước. [31. Tr 195]
Thứ hai, biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự được chấp hành viên áp dụng
trong trường hợp người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án nhằm buộc họ
phải thực hiện nghĩa vụ của mình theo bản án, quyết định của tòa án. [31. Tr 196]
Thứ ba, đối tượng của biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự là tài sản hoặc
hành vi của người phải thi hành án. [31. Tr 197]
Thứ tư, khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, người bị áp dụng
ngoài việc phải thực hiện các nghĩa vụ trong bản án, quyết định do tòa án tuyên họ còn
phải chịu mọi chi phí cưỡng chế thi hành án dân sự.[31.Tr 197]
Thứ năm, các biện pháp cưỡng chế được chấp hành viên quyết định áp dụng
không những có hiệu lực đối với người phải thi hành án dân sự mà còn có hiệu lực cả
đối với các cá nhân, cơ quan, tổ chức có liên quan. [31.Tr 198]
1.1.3. Phân loại cưỡng chế thi hành án dân sự
Điều 71 Luật THADS năm 2008 (sửa đổi bổ sung năm 2014) đã quy định 06

biện pháp cưỡng chế THADS gồm:
- Khấu trừ tiền trong tài khoản; thu hồi, xử lý tiền, giấy tờ có giá của người phải
thi hành án.

6


- Trừ vào thu nhập của người phải thi hành án.
- Kê biên, xử lý tài sản của người phải thi hành án, kể cả tài sản đang do người
thứ ba giữ.
- Khai thác tài sản của người phải thi hành án.
- Buộc chuyển giao vật, chuyển giao quyền tài sản, giấy tờ.
- Buộc người phải thi hành án thực hiện hoặc không được thực hiện công việc
nhất định.
Trên cơ sở 06 biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự, Luật THADS đã chia
thành các nhóm tài sản cưỡng chế và hành vi cưỡng chế gồm:
+ Cưỡng chế thi hành án với tài sản là tiền;
+ Cưỡng chế thi hành án với tài sản là giấy tờ có giá;
+ Cưỡng chế thi hành án với tài sản là quyền sở hữu trí tuệ;
+ Cưỡng chế thi hành án với tài sản là vật;
+ Cưỡng chế khai thác đối với tài sản;
+ Cưỡng chế trả vật, giấy tờ, chuyển quyền sử dụng đất;
+ Cưỡng chế thi hành nghĩa vụ buộc phải thực hiện hoặc không thực hiện công
việc định.
Chấp hành viên phải căn cứ vào nghĩa vụ của người phải thi hành án và biên
bản xác minh điều kiện thi hành án lựa chọn biện pháp cưỡng chế thi hành án.
1.1.4. Mối quan hệ giữa cưỡng chế thi hành án dân sự với các biện pháp
cưỡng chế khác của nhà nước
Cưỡng chế nhà nước xã hội chủ nghĩa là cưỡng chế của đa số đối với thiểu số và
được áp dụng trong giới hạn do pháp luật quy định một cách chặt chẽ. Đó là bạo lực dựa

trên cơ sở pháp luật, vừa đảm bảo việc tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật, kỉ luật nhà nước
đồng thời đảm bảo quyền lợi chính đáng của công dân, cơ quan, tổ chức có liên quan.
Có 4 loại cưỡng chế nhà nước bao gồm:
Cưỡng chế hình sự: Là các biện pháp mà cơ quan tư pháp (Toà án) áp dụng đối
với cá nhân thực hiện hành vi được pháp luật quy định là tội phạm hình sự, người thực

7


hiện hành vi phạm tội có thể bị phạt tiền, phạt tù hoặc bị áp dụng các chế tài (biện pháp
xử lý) hình sự khác. [40]
Cưỡng chế dân sự: Là biện pháp cưỡng chế nhà nước mà cơ quan tư pháp (Tòa
án dân sự) áp dụng đối với cá nhân hay tổ chức có hành vi vi phạm pháp luật dân sự,
gây thiệt hại cho Nhà nước hoặc công dân. Toà án có thẩm quyền quyết định các biện
pháp cưỡng chế dân sự (như buộc bồi thường thiệt hại). [40]
Cưỡng chế kỷ luật: Là biện pháp cưỡng chế nhà nước do cơ quan quản lý áp
dụng đối với cán bộ, công chức, viên chức có hành vi vi phạm kỷ luật lao động. Các
biện pháp cưỡng chế kỷ luật là khiển trách, cảnh cáo, cách chức, hạ ngạch, buộc thôi
việc... [40]
Cưỡng chế hành chính: Là biện pháp cưỡng chế do các cơ quan, người có thẩm
quyền áp dụng đối với tổ chức, cá nhân có hành vi vi phạm hành chính. Cưỡng chế
hành chính bao gồm các hình thức xử phạt hành chính như cảnh cáo, phạt tiền, tịch thu
tang vật vi phạm, các biện pháp ngăn chặn như tạm giữ người, tạm giữ tang vật, khám
nơi cất giấu tang vật vi phạm... Các biện pháp xử lý hành chính khác như đưa vào
trường giáo dưỡng, đưa vào cơ sở giáo dục, đưa vào cơ sở chữa bệnh.... [40]
Trong hoạt động quản lý hành chính nhà nước, biện pháp cưỡng chế được các
chủ thể quản lý sử dụng là các biện pháp cưỡng chế hành chính và cưỡng chế kỷ luật.
Các biện pháp cưỡng chế hình sự và cưỡng chế dân sự không thuộc thẩm quyền áp
dụng của cơ quan quản lý hành chính nhà nước. Về cơ bản, các biện pháp cưỡng chế
nhà nước đều có nội dung cụ thể như sau:

Một là, chủ thể áp dụng các biện pháp cưỡng chế nhà nước phải là cơ quan nhà
nước, người có thẩm quyền theo quy định của pháp luật như: cơ quan công an, ủy ban
nhân dân…[40]
Hai là, đối tượng bị áp dụng của các biện pháp cưỡng chế nhà nước là cá nhân,
tổ chức nhất định trong những trường hợp pháp luật quy định như: cá nhân, tổ chức vi
phạm hành chính. [40]
Ba là, biểu hiện của các biện pháp cưỡng chế nhà nước là buộc cá nhân, tổ chức
phải chấp hành các quyết định đơn phương của chủ thể quản lý. Cụ thể là buộc cá

8


nhân, tổ chức phải thực hiện hay không thực hiện những hành vi nhất định hoặc phải
phục tùng những hạn chế nhất định về mặt tài sản của cá nhân, tổ chức hoặc tự do thân
thể của cá nhân. [40]
Cưỡng chế thi hành án dân sự có mối quan hệ mật thiết đối với các biện pháp
cưỡng chế nhà nước khác. Cụ thể như sau:
Đối với cưỡng chế hình sự: Theo Điều 126 Bộ luật Tố tụng hình sự năm
2015 thì một trong những biện pháp cưỡng chế gồm có: “Áp giải, dẫn giải, kê
biên tài sản, phong tỏa tài khoản”. Trong bốn biện pháp cưỡng chế hình sự thì có
02 biện pháp là kê biên tài sản và phong tỏa tài khoản có liên quan đến thủ tục thi
hành án dân sự.
Đối với cưỡng chế dân sự: Cơ quan thi hành án dân sự với chức năng tổ chức
thi hành các bản án, quyết định dân sự theo quy định của pháp luật (Điều 2 Luật Thi
hành án dân sự hiện hành) nên các biện pháp cưỡng chế mà tòa án áp dụng đối với cá
nhân hay tổ chức có hành vi vi phạm pháp luật dân sự mà đặc biệt là các biện pháp
khẩn cấp tạm thời mà tòa án có quyền áp dụng (được quy định cụ thể tại Chương 3 các
điều 111, điều 112, điều 113 và điều 114 Luật Tố tụng dân sự năm 2015) phải được thi
hành ngay mặc dù có thể bị kháng cáo, kháng nghị.
Đối với cưỡng chế kỷ luật: Hoạt động của các cơ quan thi hành án dân sự chịu

sự quản lý, chỉ đạo tập trung, thống nhất của Chính phủ và Bộ tư pháp theo ngành dọc
(cụ thể quy định tại Chương 2 từ điều 13 đến điều 16 Luật Thi hành án dân sự hiện
hành) và bảo đảm sự chỉ đạo của Ủy ban nhân dân cùng cấp (cụ thể quy định tại Điều
173 và 174 Luật Thi hành án dân sự hiện hành). Các biện pháp cưỡng chế kỷ luật luôn
được áp dụng đối với các cán bộ công chức trong ngành thi hành án dân sự có hành vi
vi phạm pháp luật và kỷ luật lao động.
Đối với cưỡng chế hành chính: Theo khoản 2 Điều 86 Luật Xử lý vi phạm hành
chính năm 2012 thì các biện pháp cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt hành chính
bao gồm:
“a) Khấu trừ một phần lương hoặc một phần thu nhập, khấu trừ tiền từ tài khoản
của cá nhân, tổ chức vi phạm;

9


b) Kê biên tài sản có giá trị tương ứng với số tiền phạt để bán đấu giá;
c) Thu tiền, tài sản khác của đối tượng bị cưỡng chế thi hành quyết định xử phạt
vi phạm hành chính do cá nhân, tổ chức khác đang giữ trong trường hợp cá nhân, tổ
chức sau khi vi phạm cố tình tẩu tán tài sản.
d) Buộc thực hiện biện pháp khắc phục hậu quả quy định tại khoản 1 Điều 28
của Luật Xử lý vi phạm hành chính.”
Cưỡng chế thi hành án dân sự là biện pháp cưỡng chế do Chấp hành viên quyết
định theo thẩm quyền nhằm buộc đương sự (người phải thi hành án) phải thực hiện
những hành vi hoặc nghĩa vụ về tài sản theo bản án, quyết định của Tòa án, được áp
dụng trong trường hợp người phải thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự
nguyện thi hành trong thời hạn do Chấp hành viên ấn định, hoặc trong trường hợp cần
ngăn chặn người phải thi hành án tẩu tán, hủy hoại tài sản.
Quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự là một trong những quyết định nằm
trong thủ tục thi hành án dân sự trong quá trình giải quyết việc thi hành án nên có tính
chất đặc thù riêng. Trường hợp người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan đến quyết

định cưỡng chế thi hành án cho rằng quyết định đó là trái pháp luật thì theo quy định tại
khoản 1 Điều 140, khoản 1 Điều 160 Luật thi hành án dân sự hiện hành, họ có quyền
khiếu nại quyết định, hành vi của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành
viên. Viện Kiểm sát có quyền kháng nghị đối với quyết định, hành vi của Thủ trưởng
cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự. Việc giải quyết
khiếu nại, kháng nghị được thực hiện theo quy định của Luật thi hành án dân sự. Khi
giải quyết tranh chấp quyền sở hữu liên quan đến tài sản bị cưỡng chế để thi hành án,
Tòa án không có quyền hủy quyết định cưỡng chế thi hành án như một quyết định cá
biệt của cơ quan, tổ chức. Theo khoản 12 Điều 26 Bộ luật tố tụng dân sự năm 2015 và
Điều 75 Luật thi hành án dân sự hiện hành thì Tòa án chỉ xem xét giải quyết tranh chấp
liên quan đến tài sản bị cưỡng chế thi hành án; Tòa án không giải quyết việc cưỡng chế
thi hành án đúng hay sai.
Như vậy, cưỡng chế THADS là một loại cưỡng chế hành chính đặc thù (không
phải xuất phát từ vi phạm hành chính) nhằm bảo đảm cho các quyết định, bản án dân

10


sự được thực hiện khi người phải thi hành án không tự nguyện thi hành án trong thời
gian do pháp luật quy định.
1.2. Thẩm quyền, thủ tục cưỡng chế thi hành án dân sự
1.2.1. Thẩm quyền cưỡng chế thi hành án dân sự
Theo Điều 17 Luật THADS quy định: Chấp hành viên là người được nhà nước
giao nhiệm vụ thi hành các bản án, quyết định tại Điều 2 Luật THADS. Trong quá trình
tổ chức thi hành án dân sự, Chấp hành viên thực hiện các nhiệm vụ quyền hạn theo
Điều 20 của Luật này, theo đó tại khoản 5 Điều này xác định Chấp hành viên là người
có thẩm quyền cưỡng chế thi hành án dân sự.
1.2.2. Thủ tục cưỡng chế thi hành án dân sự
Biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự được áp dụng trong trường hợp người
phải thi hành án chây ỳ, chống đối, trốn tránh nghĩa vụ thi hành bản án, quyết định của

cơ quan có thẩm quyền. Do việc cưỡng chế thi hành án ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích
vật chất, nhân thân của người phải thi hành án nên cơ quan thi hành án dân sự phải tuân
thủ trình tự thủ tục chặt chẽ. Trước khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án dân sự
thì phải trải qua các thủ tục chung của công tác thi hành án. Trong phạm vi đề tài, chỉ
nêu khái quát các bước khi tổ chức một vụ cưỡng chế thi hành án dân sự:
Bước 1: Ra quyết định cưỡng chế thi hành án
Dựa trên những nội dung phải thi hành án trong Bản án, Quyết định của tòa án,
cơ quan thi hành án dân sự đã tiến hành các thủ tục từ ra quyết định thi hành án đến
thông báo hợp lệ Quyết định thi hành án cho đương sự nhưng người phải thi hành án
không đến làm việc, chây ỳ chống đối cơ quan thi hành án. Khi tiến hành xác minh chính
xác cụ thể việc người phải thi hành án có điều kiện nhưng không tự nguyện, cơ quan thi
hành án dân sự ra quyết định cưỡng chế thi hành án dân sự theo Điều 46 Luật Thi hành
án dân sự hiện hành “hết thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 45 của Luật này, người phải
thi hành án có điều kiện thi hành án mà không tự nguyện thi hành án thì bị cưỡng chế”
Bước 2: Xác minh trước khi tổ chức cưỡng chế thi hành án
Trước khi tổ chức việc cưỡng chế, Chấp hành viên phải tiến hành việc xác minh
rõ các vấn đề:

11


- Về nhân thân và thân nhân của người phải thi hành án: Trình độ nhận thức,
hiểu biết pháp luật, tiền án tiền sự, nghề nghiệp … của người phải thi hành án; thái độ
của thành viên trong gia đình, họ hàng của người phải thi hành án để có căn cứ dự liệu
thành phần tham gia cưỡng chế.
- Xác minh về quan hệ, quan điểm của địa phương và thái độ của dư luận đối
với việc cưỡng chế thi hành án.
- Xác minh điều kiện, địa hình và giao thông nới có tài sản cưỡng chế.
Việc xác minh trước khi tổ chức cưỡng chế nhằm xây dựng kế hoạch cưỡng chế
có tính sát thực với thực tế. Do đó, đây là công việc hết sức cần thiết, không thể thiếu,

nhất là đối với những vụ việc phức tạp có sự chống đối cần huy động lực lượng bảo vệ
cưỡng chế.
Bước 3: Xây dựng kế hoạch cưỡng chế thi hành án:
Trước khi tiến hành cưỡng chế thi hành án dân sự, người có thẩm quyền thi
hành án phải xây dựng kế hoạch cưỡng chế, trừ trường hợp phải cưỡng chế ngay. Việc
xây dựng kế hoạch cưỡng chế thi hành án dân sự được quy định tại Điều 72 Luật Thi
hành án dân sự :
“1. Chấp hành viên lập kế hoạch cưỡng chế thi hành án trong trường hợp cần
huy động lực lượng.
2. Kế hoạch cưỡng chế thi hành án có các nội dung chính sau đây:
a) Tên người bị áp dụng biện pháp cưỡng chế;
b) Biện pháp cưỡng chế cần áp dụng;
c) Thời gian, địa điểm cưỡng chế;
d) Phương án tiến hành cưỡng chế;
đ) Yêu cầu về lực lượng tham gia bảo vệ cưỡng chế;
e) Dự trù chi phí cưỡng chế.
3. Kế hoạch cưỡng chế phải được gửi ngay cho Viện kiểm sát nhân dân, cơ
quan Công an cùng cấp, Ủy ban nhân dân cấp xã nơi tổ chức cưỡng chế và cơ quan, tổ
chức, cá nhân có liên quan đến việc cưỡng chế thi hành án. Cơ quan, tổ chức, cá nhân
có liên quan có trách nhiệm thực hiện theo kế hoạch, yêu cầu của Chấp hành viên.

12


4. Trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được kế hoạch cưỡng chế
của cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp, cơ quan Công an có trách nhiệm xây dựng kế
hoạch và lập phương án bảo vệ cưỡng chế.
Cơ quan Công an có trách nhiệm bố trí lực lượng, phương tiện cần thiết để giữ
gìn trật tự, bảo vệ hiện trường, kịp thời ngăn chặn, xử lý hành vi tẩu tán tài sản, cản trở,
chống đối việc thi hành án, tạm giữ người chống đối, khởi tố vụ án hình sự khi có dấu

hiệu phạm tội.”
Bước 4: Thực hiện cưỡng chế
- Trước khi đến địa điểm cưỡng chế: Đối với những vụ việc phức tạp có huy
động lực lượng bảo vệ, phải tổ chức tập trung lực lượng tại địa điểm phù hợp (như: trụ
sở UBND, Công an cấp xã hoặc nhà văn hóa của xã nơi tổ chức cưỡng chế) để nắm bắt
thêm tình hình từ phía người phải thi hành án, kiểm tra thành phần tham gia cưỡng chế
và thống nhất nhiệm vụ của các đơn vị, thành viên tham gia cưỡng chế rồi mới di
chuyển ra địa điểm cưỡng chế theo Kế hoạch.
- Tại địa điểm cưỡng chế thi hành án:
Tiến hành cưỡng chế tại nơi có tài sản hoặc đối tượng cần cưỡng chế. Trước khi
thực hiện việc cưỡng chế theo kế hoạch và quyết định cưỡng chế đã ấn định, người có
thẩm quyền thi hành án chủ trì phổ biến toàn bộ kế hoạch, phân công nhiệm vụ cụ thể
của từng đơn vị, từng người, nêu các tình huống có thể xảy ra và biện pháp xử lý các
tình huống đó.
Chuẩn bị đầy đủ các biên bản, văn bản cần sử dụng trước khi tiến hành cưỡng
chế. Chuẩn bị đầy đủ các phương tiện, điều kiện liên quan đã dự kiến phục vụ tốt cho
việc cưỡng chế.
Người có thẩm quyền thi hành án chủ trì điều hành toàn bộ quá trình cưỡng chế,
kịp thời xử lý mọi tình huống đã dự kiến trong kế hoạch và tình huống phát sinh diễn ra
trong quá trình cưỡng chế cho đến khi kết thúc việc cưỡng chế.
Các công tác chuẩn bị khác
Để tổ chức cưỡng chế thành công, ngoài việc xây dựng kế hoạch cưỡng chế, cần
phải thực hiện một số các công việc khác như: Họp bàn cưỡng chế; thông qua kế hoạch

13


cưỡng chế; họp thông qua phương án bảo vệ cưỡng chế; Thông báo việc cưỡng chế;
phân công nhiệm vụ cho các thành viên trong cơ quan thi hành án dân sự tham gia
cưỡng chế; chuẩn bị các phương tiện, thiết bị, văn bản, biên bản… cần thiết cho việc

cưỡng chế. Ngoài ra cần phải chuẩn bị trước việc ký hợp đồng với một số chủ thể khác
trong việc bốc dỡ, vận chuyển, trông coi bảo quản tài sản…
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến cưỡng chế thi hành án dân sự
1.3.1. Năng lực tổ chức thực hiện cưỡng chế thi hành án dân sự
Hoạt động của cơ quan thi hành án dân sự được thực hiện chủ yếu thông qua
hoạt động của đội ngũ chấp hành viên, về bản chất, là hoạt động áp dụng pháp luật; do
đó, các hoạt động tác nghiệp của đội ngũ chấp hành viên phải tuân thủ theo đúng các
quy định của pháp luật về nguyên tắc, trình tự, thủ tục thi hành án dân sự. Năng lực
chuyên môn, nghiệp vụ của chấp hành viên thi hành án dân sự, về cơ bản, bao gồm các
yếu tố như trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật; ý thức pháp luật nghề nghiệp; kỹ
năng nghiệp vụ công tác; phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống...
Trước hết, để có kỹ năng nghiệp vụ công tác thi hành án dân sự thì chấp hành viên,
ngoài trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật, phải có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
Trình độ chuyên môn, nghiệp vụ là những kiến thức chuyên sâu về một lĩnh vực hoạt động
nghề nghiệp nào đó, được thể hiện qua những trình độ như sơ cấp, trung cấp, cao cấp...
Đây là những kiến thức bắt buộc phải có đối với đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước nói
chung, đội ngũ chấp hành viên nói riêng khi thực hiện các chức trách, nhiệm vụ được giao.
Kỹ năng nghiệp vụ công tác của chấp hành viên là khả năng vận dụng thành thạo
và khéo léo tất cả những kiến thức và kinh nghiệm mà mình có được vào việc thực hiện
chức trách, nhiệm vụ tổ chức thi hành án dân sự nhằm đạt được hiệu quả cao nhất với
mức chi phí thấp nhất cả về thời gian, công sức và kinh tế. Kỹ năng nghiệp vụ của chấp
hành viên được biểu hiện cụ thể trên nhiều mặt, như kỹ năng soạn thảo văn bản và các
quyết định về thi hành án; kỹ năng xây dựng kế hoạch tổ chức thi hành án, kỹ năng độc
lập tổ chức thực hiện công việc được giao; kỹ năng vận động, thuyết phục người phải thi
hành án tự nguyện thi hành án; kỹ năng hòa giải những mâu thuẫn giữa các bên đương
sự; kỹ năng phối kết hợp với các đồng nghiệp và cơ quan hữu quan trong việc giải quyết

14



thi hành án dân sự; kỹ năng lập kế hoạch và phương án cưỡng chế thi hành án, tổ chức
cưỡng chế và chỉ huy lực lượng cưỡng chế thi hành án; kỹ năng tham mưu cho thủ
trưởng đơn vị cũng như Ban chỉ đạo thi hành án địa phương trong công tác thi hành án
dân sự... Trong số những kỹ năng nghiệp vụ cụ thể nêu trên thì chấp hành viên ít nhất
phải thuần thục hai kỹ năng chính là: Kỹ năng thuyết phục, vận động người phải thi hành
án tự nguyện thi hành án và kỹ năng lập kế hoạch, tổ chức cưỡng chế thi hành án.
Chấp hành viên là người đưa các bản án, quyết định của Tòa án từ chỗ được
“ghi nhận trên giấy tờ” trở thành được “thực hiện trong thực tiễn”, chấp hành viên là
người đưa ra quyết định tạo cơ hội cho người phải thi hành án tự nguyện thi hành án
trong thời gian luật định hoặc quyết định áp dụng biện pháp cưỡng chế thi hành án biện pháp cứng rắn và cương quyết nhất để xử lý tài sản của người phải thi hành án,
buộc họ phải thi hành bản án, quyết định của Tòa án. Điều đó có ảnh hưởng rất lớn đến
tâm lý, cuộc sống, uy tín, danh dự... của người phải thi hành án. Vì lẽ đó, khả năng
hành động khéo léo, mạnh mẽ, dứt khoát, triệt để là tố chất cần thiết mà chấp hành viên
phải có trong kỹ năng cưỡng chế thi hành án. Khi áp dụng biện pháp cưỡng chế thi
hành án có huy động lực lượng khác phối hợp, chấp hành viên phải lên phương án huy
động lực lượng bảo vệ và yêu cầu cơ quan công an cùng cấp lập kế hoạch tham gia bảo
vệ hoạt động cưỡng chế. Bởi vậy, “có khả năng phối hợp tốt với các cơ quan hữu quan
trong việc thi hành án” là một yêu cầu đối với năng lực của đội ngũ chấp hành viên.
Để có được các kỹ năng nghiệp vụ trong công tác thi hành án, chấp hành viên
phải luôn có ý thức học tập, không ngừng nâng cao trình độ về mọi mặt: Rèn luyện
phong cách tư duy khoa học, xây dựng cho mình phương pháp làm việc khoa học, có
kế hoạch, có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về mọi mặt; luôn cầu thị thông qua trao đổi, học hỏi
kinh nghiệm thực tiễn từ các đồng nghiệp... Chỉ khi đó, chấp hành viên mới có khả
năng hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ được giao. Chấp hành viên, ngoài chức năng,
nhiệm vụ chính là tổ chức thi hành các bản án, quyết định của Toà án, còn phải thực
hiện những nhiệm vụ khác theo sự phân công của thủ trưởng đơn vị, như tổng hợp, báo
cáo, xây dựng các văn bản, tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa phương về công tác
thi hành án dân sự, tiếp đương sự, giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo liên quan đến

15



việc thi hành án dân sự của đơn vị, tiếp nhận, xử lý tang vật... Nếu không thường xuyên
trau dồi, nâng cao trình độ kiến thức, hiểu biết pháp luật, tri thức và kỹ năng nghiệp vụ
công tác thi hành án dân sự thì chấp hành viên sẽ gặp nhiều khó khăn, vướng mắc trong
công tác, ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng và hiệu quả công việc.
1.3.2. Chất lượng bản án, quyết định của tòa án
Bản án, Quyết định của Tòa án là một trong những căn cứ pháp lý để cơ quan
thi hành án dân sự ban hành quyết định thi hành án và tổ chức thi hành trên thực tế, bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên theo bản án, quyết định. Khi bản án, quyết
định được thi hành đồng nghĩa với nó là sẽ làm phát sinh, thay đổi, hoặc chấm dứt các
quyền và nghĩa vụ pháp lý của các bên có liên quan theo quy định của bản án, quyết
định. Bản án, quyết định trong quá trình tổ chức thi hành có thể bị khiếu nại, tố cáo
hoặc có thể bị hoãn, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ theo quy định của pháp luật. Do vậy,
chất lượng Bản án, quyết định của Tòa án có ý nghĩa, vai trò quan trọng, bảo đảm độ
chắc chắn của quá trình tổ chức thi hành án và hạn chế những sai sót nghiêm trọng phát
sinh (nếu có), đặc biệt là những vi phạm từ những nguyên nhân khách quan dẫn đến
trách nhiệm bồi thường theo quy định của Luật Trách nhiệm bồi thường của Nhà nước,
ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của các bên có liên quan, của nhân dân và
của Nhà nước.
Trong tiến trình cải cách Tư pháp, ngành Tòa án nhân dân đã có nhiều giải pháp
để nâng cao chất lượng Bản án, quyết định của Tòa án, song cũng còn xảy ra tình trạng
Bản án tuyên không rõ có sai sót, tuyên khó thi hành. Theo thống kê đến cuối năm
2016, kết quả rà soát, lập danh sách các bản án, quyết định của tòa án tuyên không rõ,
có sai sót do Tổng cục Thi hành án, Bộ Tư pháp thực hiện cho thấy vẫn còn đến hơn
500 bản án, quyết định của Tòa án tuyên không rõ, khó thi hành. Điều này không
những gây khó khăn cho cơ quan THADS mà còn làm ảnh hưởng đến quyền và lợi ích
hợp pháp của các bên, dễ phát sinh khiếu nại và trì hoãn việc thi hành.
Chỉ thị số 05/2017/CT-CA ngày 16 tháng 10 năm 2017 của Chánh án Tòa án
nhân dân Tối cao về việc giải quyết bản án, quyết định tuyên không rõ, khó thi hành đã

nhận định “Công tác xem xét, xác định và xử lý, khắc phục các bản án, quyết định

16


tuyên không rõ, khó thi hành của các Tòa án vẫn còn nhiều hạn chế; như: số lượng các
bản án, quyết định tuyên không rõ, khó thi hành vẫn còn nhiều; trong đó còn nhiều
trường hợp cơ quan thi hành án có công văn kiến nghị đã lâu nhưng chưa được giải
quyết; việc giải thích, đính chính bản án của Tòa án trong một số vụ án còn chưa phù
hợp với nội dung vụ việc; nhiều đơn vị chưa coi việc rà soát kiến nghị của cơ quan thi
hành án để xử lý, khắc phục các bản án, quyết định tuyên không rõ, khó thi hành là
nhiệm vụ thường xuyên mà chỉ thực hiện khi có yêu cầu của Tòa án nhân dân tối cao;
chế độ báo cáo thống kê về các bản án, quyết định tuyên không rõ, khó thi hành chưa
được thực hiện nghiêm túc theo quy định tại Thông tư liên tịch số 06/2016; việc phối
hợp giữa Tòa án nhân dân với cơ quan thi hành án tại một số địa phương còn chưa
tiến hành thường xuyên, hiệu quả chưa cao...”
Trên cơ sở đó, để khắc phục thực trạng này, Tòa án nhân dân các cấp cần phải:
Thực hiện nghiêm túc việc lập báo cáo thống kê theo quy định tại Thông tư liên tịch số
06/2016/TTLT-BTP-VKSNDTC-TANDTC ngày 31/5/2016 của Bộ Tư pháp, Viện
kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn phối hợp trong thống
kê thi hành án dân sự. Cập nhật trên hệ thống phần mềm của Tòa án nhân dân tối cao
Biểu mẫu thống kê thụ lý, giải quyết các vụ việc cơ quan thi hành án yêu cầu sửa chữa,
giải thích, kiến nghị giám đốc thẩm, tái thẩm. Đối với các yêu cầu giải thích, sửa chữa
về số liệu, lỗi chính tả, các đơn vị cần khẩn trương giải quyết, khắc phục ngay sau khi
nhận được văn bản yêu cầu của cơ quan thi hành án.
Đối với các trường hợp đã có văn bản giải thích, đính chính nhưng cơ quan thi
hành án dân sự cho rằng việc giải thích, đính chính bản án là chưa phù hợp với nội
dung vụ việc, chưa đúng với bản án; hoặc các trường hợp không thống nhất được
hướng giải quyết thì phải có văn bản đề nghị Cơ quan thi hành án dân sự và Viện kiểm
sát nhân dân cấp tỉnh (khu vực địa hạt xét xử phúc thẩm theo thẩm quyền) báo cáo Bộ

Tư pháp để Bộ Tư pháp phối hợp với Viện kiểm sát nhân dân tối cao và Tòa án nhân
dân tối cao xem xét, thống nhất hướng giải quyết.

17


1.3.3. Các yếu tố xã hội
Trong quá trình tổ chức cưỡng chế, các yếu tố xã hội ảnh hưởng đến thi hành án
dân sự gồm:
1.3.3.1. Về nhận thức của người dân và chính quyền địa phương
Để hoạt động thi hành án dân sự nói chung và hoạt động cưỡng chế thi hành
hành án nói riêng đạt hiệu quả, sự nhận thức pháp luật của người dân và sự phối hợp
của chính quyền địa phương trong việc thi hành án dân sự đóng vai trò quyết định.
Trong hoạt động thi hành án dân sự, nhà nước luôn khuyến khích việc tự nguyện thi
hành án dân sự kể cả trong giai đoạn bắt đầu tổ chức cưỡng chế mà đương sự tự
nguyện thi hành án. Việc giáo dục thuyết phục đương sự tự nguyện thi hành án rất cần
sự chung tay phối hợp của chính quyền địa phương với cơ quan thi hành án dân sự.
Luật thi hành án dân sự hiện hành đã quy định cụ thể về nhiệm vụ quyền hạn
của Ủy ban nhân dân cấp xã đối với công tác thi hành án dân sự, song đối với một số
trường hợp, việc thực hiện phối hợp trong công tác thi hành án của công chức của cơ sở
cũng như các cơ quan liên quan chưa quyết liệt nên hiệu quả hoạt động thi hành án dân
sự còn có phần thụ động. Để tổ chức cưỡng chế một việc thi hành án dân sự phức tạp,
chấp hành viên phải thực hiện rất nhiều thủ tục từ ra quyết định, xác minh, chuẩn bị
cưỡng chế ..v..v.. Chỉ một khâu phối hợp thực hiện chưa đạt yêu cầu, sẽ ảnh hưởng đến
toàn bộ quá trình thi hành án, làm ảnh hưởng đến hiệu quả cưỡng chế thi hành án. Vì
vậy, chấp hành viên và cơ quan thi hành án dân sự rất cần sự phối hợp cao hơn nữa của
chính quyền địa phương, các tổ chức đoàn thể trong hệ thống chính trị để hoạt động thi
hành án dân sự đem lại hiệu quả cao nhất, đáp ứng các yêu cầu nhiệm vụ và sự mong
đợi của toàn xã hội.
1.3.3.2. Về phong tục, tập quán

Các quốc gia, dân tộc trên toàn thế giới đều có những phong tục, tập quán nhất
định. Việt Nam luôn tôn trọng các phong tục tập quán truyền thống của dân tộc nên
ngoài việc tuân thủ các quy định của pháp luật nói chung và pháp luật về cưỡng chế thi
hành án dân sự nói riêng cần tôn trọng yếu tố phong tục tập quán. Theo khoản 2 Điều
13 Nghị định số 62/2015/NĐ-CP ngày 18 tháng 7 năm 2015 của Chính phủ quy định

18


chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án dân sự quy định:
“Ngoài những trường hợp không tổ chức cưỡng chế thi hành án do Luật thi hành án
dân sự quy định, cơ quan thi hành án dân sự không tổ chức cưỡng chế thi hành án có
huy động lực lượng trong thời gian 15 ngày trước và sau tết Nguyên đán; các ngày
truyền thống đối với các đối tượng chính sách, nếu họ là người phải thi hành án; các
trường hợp đặc biệt khác ảnh hưởng nghiêm trọng đến an ninh, chính trị, trật tự an toàn
xã hội, phong tục tập quán tại địa phương.”
1.3.3.3. Về tín ngưỡng, tôn giáo
Đối với cơ quan thi hành án dân sự, yếu tố vùng miền và tôn giáo ảnh hưởng
không nhỏ đến hoạt động thi hành án dân sự và nhất là cưỡng chế thi hành án dân
sự. Như đã nêu ở yếu tố nhận thức của người dân và chính quyền địa phương, biện
pháp giáo dục thuyết phục đương sự tự nguyện thi hành án luôn là biện pháp ưu tiên
hàng đầu trong hoạt động thi hành án dân sự. Trong nhiều trường hợp cơ quan thi
hành án dân sự cùng chính quyền địa phương không thể giáo dục thuyết phục
đương sự tự nguyện thi hành án thì các chức sắc tôn giáo tại địa phương như Già
làng, Trưởng bản, Linh mục …v..v… có vai trò quan trọng trong việc tác động về
mặt tinh thần, tư tưởng, nhằm nêu cao ý thức chấp hành pháp luật làm cho đương
sự, gia đình và người thân của đương sự nhận thức được quyền nghĩa vụ của mình
và tự nguyện thi hành án. Những người có chức sắc tôn giáo ở địa phương luôn
được nhân dân địa phương tôn trọng và tín nhiệm. Tuy nhiên, ở một số địa phương
mà tình hình an ninh chính trị bất ổn, các thế lực thù địch lợi dụng các chức sắc tôn

giáo để kích động, chống phá Nhà nước thì hoạt động thi hành án dân sự ở những
địa phương này gặp nhiều khó khăn, vướng mắc. Cơ quan thi hành án dân sự phải
phải thận trọng, linh hoạt áp dụng các quy định của pháp luật về cưỡng chế thi hành
án phù hợp với điều kiện cụ thể mới đảm bảo hiệu quả.

19


×