Tải bản đầy đủ (.pdf) (85 trang)

Thủ tục trong hoạt động thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh nam định

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (875.6 KB, 85 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

HỨA SỸ SƠN

THỦ TỤC TRONG HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
TỪ THỰC TIỄN TỈNH NAM ĐỊNH

Chuyên ngành: Luật Hiến pháp và Luật Hành chính
Mã số: 8.38.01.02

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC
TS. TRẦN KIM LIỄU

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của
riêng tôi. Các số liệu ghi trong luận văn là trung thực. Những kết
luận khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Tác giả luận văn

Hứa Sỹ Sơn


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1


Chương 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT VỀ THỦ TỤC
TRONG HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ…… ................................ 6
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa thủ tục trong hoạt động thi hành án dân sự. .6
1.2. Một số thủ tục trong hoạt động thi hành án dân sự……............................ 11
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến thực hiện thủ tục trong hoạt động thi hành án
dân sự ................................................................................................................ 34
Kết luận chương 1 ........................................................................................... ..39
Chương 2: THỰC TRẠNG THỦ TỤC TRONG HOẠT ĐỘNG THI HÀNH
ÁN DÂN SỰ QUA THỰC TIỄN TẠI TỈNH NAM ĐỊNH .......................... 41
2.1. Thực trạng pháp luật về thủ tục trong hoạt động thi hành án dân sự......... 41
2.2. Thực trạng thực hiện thủ tục trong hoạt động thi hành án dân sự qua thực
tiễn tại tỉnh Nam Định ....................................................................................... 53
2.3. Nguyên nhân của những hạn chế, bất cập thực hiện thủ tục trong hoạt động
thi hành án dân sự............................................................................................. .61
Kết luận chương 2 ............................................................................................ .66
Chương 3: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN THỦ TỤC
TRONG HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ ...................................... 67
3.1. Quan điểm về hoàn thiện thủ tục trong hoạt động thi hành án dân sự ...... 67
3.2. Giải pháp hoàn thiện thủ tục trong hoạt động thi hành án dân sự ............ .70
Kết luận chương 3 ............................................................................................ .75
KẾT LUẬN………… ..................................................................................... .77
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO .................................................... ...79


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT

BA, QĐ

:


Bản án, quyết định

BLTTDS

:

Bộ luật Tố tụng dân sự

CHV

:

Chấp hành viên

CQTHADS

:

Cơ quan thi hành án dân sự

LTHADS

:

Luật thi hành án dân sự

NHNN

:


Ngân hàng nhà nước

PLTHADS

:

Pháp lệnh thi hành án dân sự

TAND

:

Tòa án nhân dân

TCTD

:

Tổ chức tín dụng

THA

:

Thi hành án

THADS

:


Thi hành án dân sự

UBND

:

Ủy ban nhân dân

VKSND

:

Viện kiểm sát nhân dân

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Thi hành án dân sự có ý nghĩa quan trọng trong quá trình giải quyết vụ
án nói riêng và trong hoạt động tư pháp nói chung. Bản án, quyết định của
Tòa án sẽ chỉ là phán quyết trên giấy, nếu nó không được thực thi trên thực tế.
Hoạt động THA nói chung và THADS nói riêng có hiệu quả sẽ góp phần bảo
vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức và cá nhân đảm bảo tính
nghiêm minh của pháp luật.
Trong những năm qua, công tác thi hành án dân sự ở tỉnh Nam Định đã

đạt được những kết quả đáng ghi nhận; nhiều vụ việc phức tạp, tồn đọng lâu
năm đã được tổ chức thi hành dứt điểm; một số án lớn, tính chất phức tạp, ảnh
hưởng lớn về kinh tế, trật tự an toàn xã hội cũng đã được chính quyền các cấp
quan tâm chỉ đạo. Kết quả đạt được nói trên phản ánh sự cố gắng, nỗ lực của
đội ngũ cán bộ thi hành án dân sự nói riêng, sự quan tâm, chỉ đạo sát sao của
các cấp ủy Đảng, chính quyền địa phương; sự phối hợp chặt chẽ của các
ngành hữu quan trong việc thực hiện pháp luật thi hành án dân sự.
Tuy nhiên, bên cạnh những kết quả đã đạt được, cũng như nhiều huyện,
thành phố trên địa bàn tỉnh, thực trạng thực hiện pháp luật thi hành án dân sự
ở tỉnh Nam Định vẫn còn nhiều bức xúc, bộc lộ nhiều tồn tại, yếu kém, chưa
đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Lượng án tồn đọng qua
các năm vẫn còn nhiều. Nhiều bản án, quyết định về dân sự đã có hiệu lực
pháp luật nhưng chưa được tổ chức thi hành. Tình trạng trên có nhiều nguyên
nhân khác như: Pháp luật thi hành án dân sự hiện hành còn thiếu tính khả thi,
nhiều điểm còn chưa rõ ràng, bất cập, quy định của pháp luật không còn phù
hợp với thực tiễn, tạo ra trở lực cho quá trình thi hành án và chưa thực sự bảo
đảm quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Vì vậy Luật sửa đổi, bổ sung
Luật thi hành án dân sự 2008 đã có hiệu lực thi hành 01/7/2015, có nhiều
điểm mới về thủ tục thi hành án dân sự.

1


Chính vì lẽ đó mà tác giả lựa chọn đề tài “Thủ tục trong hoạt động thi
hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Nam Định” để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trước khi Luật thi hành án dân sự năm 2008, THADS đã được quan
tâm nghiên cứu trong các công trình như Luận văn Thạc sĩ “Hoàn thiện pháp
luật thi hành án dân sự” của tác giả Nguyễn Thanh Thủy năm 2001; Luận
văn Thạc sĩ “ Đổi mới thủ tục thi hành án dân sự ở Việt Nam” của tác giả Lê

Anh Tuấn năm 2004… Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường, “Một số vấn
đề về hoàn thiện pháp luật Thi hành án dân sự” của Trường Đại học Luật Hà
Nội năm 2004, Công trình nghiên cứu khoa học cấp bộ, “Bình luận
PLTHADS năm 2004” của Viện Khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp năm 2006…
và rất nhiều công trình nghiên cứu khác.
Từ khi Luật thi hành án dân sự năm 2008 có hiệu lực pháp luật đến nay,
việc nghiên cứu về THADS đã được quan tâm đáng kể hơn nữa. Năm 2011 có
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp trường về “Những điểm mới của Luật
THADS năm 2008” của Trường đại học Luật Hà Nội do Tiến sỹ Bùi Thị
Huyền làm chủ nhiệm. Ngoài ra trên sách báo pháp lý, các diễn đàn pháp luật
từ năm 2009 đến nay cũng có rất nhiều bài nghiên cứu, trao đổi về THADS,
trong đó có thủ tục thi hành án dân sự. Cũng có thể kể đến những nghiên cứu
khác như cuốn sách tham khảo “Một số vấn đề về hoàn thiện pháp luật
THADS Việt Nam” – tác giả Tiến sỹ Lê Thu Hà – học viện Tư pháp viết, xuất
bản năm 2011, hay các bài viết trên tạp chí Dân chủ và pháp luật số chuyên đề
về thi hành án dân sự các tháng 2/2012, tháng 4/2012, tháng 12/2012, tháng
03/2014; số chuyên đề tháng 6/2012 về thi THADS tồn đọng; số chuyên đề
tháng 12/2013 về thực hiện Luật Thi hành án dân sự…và rất nhiều các bài
viết khác trong các sách báo, tạp chí nghiên cứu về thủ tục thi hành án dân sự
như Tạp chí nghề luật của Học viện Tư pháp, Tạp chí nghiên cứu lập pháp…

2


Hiện nay, để đáp ứng nhu cầu cải cách tư pháp, Bộ Tư pháp đã ban hành dự
thảo Luật sửa đổi, bổ sung Luật Thi hành án dân sự 2008. Luật đã được Quốc hội
thảo luận, cho ý kiến tại kỳ họp thứ 7 (tháng 5/2014) và được biểu quyết thông
qua và kỳ họp thứ 8 ngày 25/11/2014 và có hiệu lực thi hành từ 01/7/2015.
Trên cơ sở các nghiên cứu trước đó, luận văn của tác giả sẽ tiếp thu
những vấn đề cần thiết đưa vào nội dung nghiên cứu và nghiên cứu sâu hơn

về thủ tục thi hành án dân sự, với việc đưa khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa và
đặc biệt là phân tích, đánh giá thực trạng áp dụng thủ tục thi hành án dân sự
tại tỉnh Nam Định từ khi Luật thi hành án dân sự năm 2008 ra đời cho đến
nay, chỉ ra những bất cập, đề xuất những đóng góp cho quá trình sửa đổi, bổ
sung Luật thi hành án dân sự hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Dựa trên kết quả nghiên cứu, mục đích của Luận văn là phân tích, đánh
giá một số thủ tục thi hành án dân sự, nêu ra những hạn chế, bất cập và đề
xuất quan điểm hoàn thiện pháp luật về thủ tục thi hành án dân sự:
- Phân tích được những vấn đề lý luận và thực tiễn của thủ tục THADS.
- Đánh giá thực trạng, hạn chế, vướng mắc trong việc thực hiện thủ tục
trong hoạt động thi hành án dân sự tỉnh Nam Định.
- Đưa ra các quan điểm cá nhân đánh giá Luật sửa đổi, bổ sung Luật
Thi hành án dân sự năm 2014 cũng như đề xuất các giải pháp có tính khả thi
cao nhằm bảo đảm việc thực thi pháp luật thi hành án, nâng cao hiệu quả công
tác THADS.
- Đưa ra các quan điểm cá nhân về việc sửa đổi, bổ sung pháp luật về
thủ tục thi hành án dân sự, góp ý về một số vấn đề liên quan đến thủ tục thi
hành án dân sự trong Luật thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014;
cũng như đề xuất các giải pháp có tính khả thi cao nhằm bảo đảm thực thi
pháp luật thi hành án dân sự, nâng cao hiệu quả công tác thi hành án dân sự.

3


4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Những vấn đề về thủ tục thi hành án dân sự, pháp luật về thi hành án
dân sự thực tiễn áp dụng thủ tục trong hoạt động thi hành án dân sự tại tỉnh
Nam Định hiện nay và các giải pháp hoàn thiện pháp luật.

4.2. Phạm vi nghiên cứu
Thủ tục thi hành án bao gồm rất nhiều thủ tục khác nhau, cho nên
phạm vi của đề tài rất rộng, với phạm vi của một luận văn thạc sỹ, tác giả
không đi sâu vào tìm hiểu hết tất cả các thủ tục thi hành án dân sự mà chỉ đi
sâu vào một số thủ tục cụ thể, nổi bật theo Luật thi hành án dân sự năm 2008
đã được sửa đổi, bổ sung năm 2014 đó là các thủ tục: Thủ tục ra quyết định
thi hành án theo đơn và thủ tục thi hành án chủ động của cơ quan thi hành án
dân sự; thủ tục xác minh thi hành án; thủ tục ủy thác thi hành án. Về phạm vi
địa giới: tỉnh Nam Định.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp nghiên cứu đề tài là chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy
vật lịch sử và phép biện chứng của chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhà nước và pháp luật.
Các phương pháp cụ thể được sử dụng kết hợp đó là: Phương pháp
nghiên cứu lịch sử, phương pháp so sách, phương pháp thống kê tổng hợp.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Về mặt lý luận: Luận văn góp phần làm sáng tỏ phương diện lý luận, làm
cơ sở cho việc tiếp tục hoàn thiện thủ tục trong hoạt động thi hành án dân sự.
Về mặt thực tiễn: Luận văn góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực
tiễn để giúp cho cơ quan có thẩm quyền tham khảo trong việc triển khai và
thực hiện có hiệu quả thủ tục thi hành án dân sự. Ngoài ra, những kiến thức
khoa học trong luận văn sẽ có giá trị làm tài liệu tham khảo cho cán bộ, chấp
hành viên tỉnh Nam Định vận dụng trong thực tiễn.

4


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục các tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:

Chương 1- Những vấn đề lý luận và pháp luật về thủ tục trong hoạt động
thi hành án dân sự
Chương 2- Thực trạng thủ tục trong hoạt động thi hành án dân sự qua
thực tiễn tại tỉnh Nam Định.
Chương 3- Quan điểm, giải pháp hoàn thiện thủ tục trong hoạt động
thi hành án dân sự từ thực tiễn tỉnh Nam Định.

5


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ PHÁP LUẬT
VỀ THỦ TỤC TRONG HOẠT ĐỘNG THI HÀNH ÁN DÂN SỰ
1.1. Khái niệm, đặc điểm, ý nghĩa thủ tục trong hoạt động thi hành
án dân sự
Thủ tục thi hành án dân sự là phương thức, cách thức giải quyết công
việc theo một trình tự nhất định, một thể lệ thống nhất, gồm một loạt nhiệm vụ
liên quan chặt chẽ với nhau nhằm thi hành các BA, QĐ về dân sự, hôn nhân
và gia đình, lao động, quyết định về tài sản trong bản án, quyết định về hình
sự, hành chính và quyết định khác do cơ quan, tổ chức THADS thực hiện theo
quy định pháp luật.
“Thủ tục” xét về mặt ngôn ngữ có nghĩa là “những việc cụ thể phải làm
theo một trình tự đã được quy định, để tiến hành một công việc có tính chất chính
thức” [14, tr.905]. Trình tự là “sự sắp xếp thứ tự trước sau” [14, tr.934].
“Thi hành án” Trong khoa học pháp lý được hiểu là việc đưa các BA,
QĐ của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật ra thi hành trên thực tế. Bản án,
Quyết định của Tòa án là văn bản pháp lý của Tòa án nhân danh Nhà nước
tuyên tại phiên tòa, giải quyết về các vấn đề trong vụ án hình sự, dân sự, hôn
nhân và gia đình, lao động, kinh tế, hành chính… Có thể nói, THA được coi
là một trong những hoạt động quan trọng của Nhà nước. Bởi lẽ, thi hành án

một mặt bảo đảm việc thực hiện quyền lực của Nhà nước, mặt khác lại là
công cụ hữu hiệu để đảm bảo quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, tổ chức
khi bị xâm hại. Trong các công trình nghiên cứu khoa học về thi hành án, có
rất nhiều quan điểm khác nhau về khái niệm THA:
Có quan điểm xem thi hành án là một giai đoạn tố tụng, đây là giai đoạn
tiếp theo của quá trình xét xử không thể thiếu trong quá trình bảo vệ quyền lợi của
đương sự. Quan điểm cho rằng thi hành án là giai đoạn kết thúc của tố tụng mà

6


trong đó cơ quan thi hành án đưa các Bản án, Quyết định đã có hiệu lực thi hành
ra thi hành nhằm bảo vệ quyền lợi của cá nhân, cơ quan, tổ chức.
Có quan điểm lại cho rằng thi hành án là một hoạt động mang tính chấp
hành và điều hành Quyết định của Tòa án – cơ quan tư pháp – mang tính chất
của hoạt động quản lý hành chính – tư pháp. Hoạt động thi hành án là hoạt
động đặc thù mà chủ thể thực thi không phải là Tòa án. Các thủ tục trong quá
trình thi hành án mang tính hành chính – tư pháp hơn (đặc biệt là trong thi
hành án kinh tế, tuyên bố phá sản doanh nghiệp, lao động và một phần của thi
hành án hình sự đối với loại hình phạt không phải hình phạt tù…).
Quan điểm của tác giả đồng nhất với quan điểm cho rằng:“Thi hành án là
thủ tục tố tụng tư pháp do cơ quan, tổ chức, người có thẩm quyền tiến hành để thi
hành Bản án, Quyết định của Tòa án hoặc Quyết định của cơ quan Nhà nước, tổ
chức khác do pháp luật quy định, nhằm bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của cả các cơ quan, tổ chức và cá nhân.” [25, tr.14].
Thi hành án bao gồm thi hành án hình sự và thi hành án dân sự. Trong
phạm vi nghiên cứu của Luận văn về thủ tục thi hành án dân sự, các quan
điểm trên về thi hành án đều có những điểm hợp lý, song dù theo quan điểm
nào thì thủ tục thi hành án dân sự có đặc điểm sau:
Thi hành án dân sự là cách thức, trình tự tổ chức thi hành BA, QĐ dân sự

có hiệu lực thi hành được pháp luật quy định, bao gồm nhiều thủ tục khác nhau.
Thủ tục thi hành án dân sự do pháp luật quy định, quá trình THADS
thực hiện thông qua nhiều thủ tục và theo một trình tự nhất định. Thủ tục thi
hành án dân sự bao gồm nhiều bước để đưa một Bản án, Quyết định của Tòa
án ra thi hành.
Đầu tiên là thủ tục cấp Bản án, Quyết định của Tòa án cho đương sự và
chuyển giao cho cơ quan thi hành án dân sự để thi hành; tiếp theo đến thủ tục
yêu cầu thi hành án của đương sự, nộp đơn yêu cầu thi hành án, thủ tục nhận
hoặc từ chối nhận đơn của cơ quan thi hành án dân sự; thủ tục ra Quyết định

7


thi hành án của thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, trong quá trình thi
hành án có thể phát sinh các thủ tục như xác minh… cho đến chuyển giao
quyền và nghĩa vụ thi hành án, nộp phí thi hành án…rồi cuối cùng kết thúc thi
hành án. Trong quá trình thi hành án dân sự, ở mỗi giai đoạn thực hiện từng
thủ tục là khác nhau và các thủ tục này liên kết toàn bộ quá trình thi hành án
dân sự.
Thủ tục trong hoạt động thi hành án dân sự là thủ tục nhằm thi hành
phán quyết của các cơ quan như Tòa án, Trọng tài, Hội đồng xử lý vụ việc
cạnh tranh. Thi hành án dân sự gắn liền với hoạt động xét xử, xét xử chính là
tiền đề của THADS. Hoạt động thi hành án được tiến hành dựa trên nội dung
bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án, trọng tài, Hội đồng xử
lý vụ việc cạnh tranh. Nói cách khác, căn cứ pháp lý để thi hành án là bản án,
quyết định của các cơ quan nói trên đã có hiệu lực pháp luật. Ngược lại,
THADS tiếp nối với xét xử làm bản án, quyết định được thực hiện trên thực
tế. Sau khi có bản án, quyết định của tòa án, trọng tài, hội đồng xử lý vụ việc
cạnh tranh trên cơ sở của bản án, quyết định do tòa án và các cơ quan này
chuyển giao hoặc đơn yêu cầu THA của đương sự, cơ quan thi hành án dân sự

ra quyết định thi hành và thụ lý, tổ chức việc thực hiện thi hành án. Tuy nhiên
THA lại có tính độc lập tương đối thể hiện ở chỗ hoạt động này được bắt đầu
bằng quyết định của Thủ trưởng cơ quan THADS đối với THADS. Những
quyết định này mang tính bắt buộc chấp hành đối với tất cả các chủ thể có
trách nhiệm và nghĩa vụ liên quan đến việc THA. Các cơ quan, tổ chức, công
dân trong phạm vi trách nhiệm của mình có nghĩa vụ chấp hành và phối hợp
thực hiện để thi hành án đạt hiệu quả. Nhằm bảo đảm hiệu lực thi hành của
các bản án, quyết định của các cơ quan Tòa án, Trọng tài, Hội đồng xử lý vụ
việc cạnh tranh, hiện nay nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan này được
quy định tại các Điều từ Điều 465 đến 467 Bộ luật TTDS năm 2015, Điều 66
và 67 Luật trọng tài thương mại, từ Điều 134 đến Điều 135 Nghị định số

8


116/NĐ-CP quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật cạnh tranh và các
Điều 26, 27, 28, 48, 49 và 179 Luật THADS sửa đổi, bổ sung năm 2014.
Thi hành án dân sự ở Việt Nam giao cho cơ quan thi hành án dân sự
thuộc Bộ Tư pháp thực hiện.
Mặc dù có sự lệ thuộc và chịu sự chi phối vào giai đoạn xét xử, nhưng
THA cũng mang tính độc lập. Ở giai đoạn THA, tính chất tố tụng đã chấm
dứt, bởi vì khi Bản án, Quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật thì có
nghĩa là chức năng xét xử đã hoàn thành, có tội hay vô tội, đúng hay sai đã
được phân xử rõ ràng. Để đảm bảo hiệu quả của THADS thì cơ quan THADS
và chấp hành viên phải thực hiện thủ tục THA một cách độc lập và không cá
nhân, cơ quan, tổ chức nào được can thiệp trái pháp luật vào quá trình thi
hành án dân sự. Cơ quan, tổ chức THA phải tuân thủ đúng thủ tục THA trong
quá trình tổ chức việc THA.
Cơ sở của hoạt động THA là các Bản án, quyết định có hiệu lực thi hành;
bản án, quyết định do các cơ quan như Tòa án, Trọng tài, Hội đồng xử lý vụ việc

cạnh tranh sau khi được tuyên sẽ được cơ quan THADS thi hành. Ở Việt Nam,
ngoài cơ quan THADS của Nhà nước còn có tổ chức Thừa phát lại thực hiện thí
điểm tại TP Hồ Chí Minh và hiện nay được nhân rộng ra phạm vi các nước theo
Nghị định số 107 ngày 26/11/2015, thì một số thủ tục THADS do Văn phòng
thừa phát lại thực hiện như: Thực hiện việc tống đạt theo yêu cầu của Tòa án
hoặc cơ quan THADS; xác minh điều kiện THA theo yêu cầu của đương sự; trực
tiếp tổ chức THA các bản án, quyết định của Tòa án theo yêu cầu của đương sự.
Thừa phát lại không tổ chức THA các Bản án, quyết định thuộc diện Thủ trưởng
cơ quan THADS chủ động ra quyết định THA.
Tòa án có trách nhiệm gửi bản án, quyết định tới cơ quan THADS và
Viện kiểm sát cùng cấp với Tòa án đã xét xử sơ thẩm. Thủ tục THA do cơ
quan THADS thực hiện từ việc ra quyết định thi hành án, hoãn, tạm đình chỉ
THA, việc cưỡng chế THA, …cho đến khi kết thúc THA. Cơ quan THA là cơ

9


quan chuyên trách để thực thi các Bản án, quyết định có hiệu lực thi hành trên
thực tế. Việc ra quyết định THA để đảm bảo quyền lợi và nghĩa vụ của đương
sự do Thủ trưởng cơ quan THADS

đảm nhiệm. Trước đây, pháp lệnh

THADS 1989 việc ra quyết định THA còn do Chánh án Tòa án sơ thẩm xét
xử vụ án, điều này dẫn đến việc chồng chéo và gánh nặng cho Tòa án, từ pháp
lệnh năm 1993, pháp lệnh THADS 2004 và Luật THADS năm 2008 hiện nay,
việc THA chỉ do cơ quan chuyên trách thi hành án thực hiện, đảm bảo tính
công bằng, khách quan.
Ý nghĩa của việc xây dựng thủ tục thi hành án dân sự.
Thứ nhất, thủ tục THADS là cơ sở pháp lý đảm bảo thi hành BA, QĐ

có hiệu lực thi hành và thể hiện tính nghiêm minh của pháp luật.
Kết quả của quá trình xét xử là giải quyết các tranh chấp và đưa ra các
BA, QĐ có hiệu lực thi hành. Nhưng những bản án, quyết định đó, nếu không
được đưa ra thi hành thì chỉ là phán quyết trên giấy tờ, không có giá trị pháp lý
ràng buộc các bên trong quan hệ THADS, không đảm bảo quyền và lợi ích hợp
pháp cho các đơn sự. Cho nên pháp luật quy định về thủ tục THADS là cần thiết
và đảm bảo cho việc thực thi các bản án, quyết định trên thực tế, thể hiện sự tôn
trọng các phán quyết của tòa án, sự nghiêm minh của pháp luật. Vì nếu không
thực thi các phán quyết trên thực tế thì quá trình xét xử, giải quyết của Tòa án,
Trọng tài cũng như Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh là vô nghĩa.
Thứ hai, thủ tục thi hành án còn là cơ sở bảo đảm cho hoạt động THA
được tuân thủ đúng pháp luật.
Thủ tục thi hành án dân sự có ý nghĩa quan trọng trong việc bảo đảm
việc thi hành án của chấp hành viên, cán bộ cơ quan thi hành án dân sự theo
đúng pháp luật, hạn chế tình trạng lạm quyền để thi hành những bản án, quyết
định không thuộc thẩm quyền thi hành của mình, đồng thời ngăn chặn việc cơ
quan thi hành án dân sự từ chối, đùn đẩy trách nhiệm thi hành bản án những
bản án, quyết định mà cơ quan mình có trách nhiệm phải thi hánh án. Bên

10


cạnh đó, việc luật hóa các thủ tục thi hành án trong pháp luật THADS còn là
cơ sở pháp lý cho chấp hành viên, cán bộ cơ quan thi hành án căn cứ vào đó
để thực hiện, bảo vệ quá trình thi hành án, bảo vệ quan điểm cũng như uy tín,
danh dự của chính mình. Nếu làm được như vậy mới tạo được niềm tin của
nhân dân vào Đảng, vào pháp luật, vào nhà nước.
Thứ ba, thủ tục THADS cơ sở bảo đảm lợi ích của Nhà nước, quyền và
lợi ích hợp pháp của các đương sự.
Việc thực hiện THA đúng thủ tục do pháp luật quy định, đảm bảo bản

án, quyết định có hiệu lực thi hành theo thủ tục THADS kịp thời thì lợi ích
của cá nhân và tổ chức sẽ được bảo vệ, kỉ cương phép nước được tôn trọng,
trật tự xã hội được củng cố. Thủ tục thi hành án dân sự không được quy định
hoặc quy định không rõ ràng, thiếu khoa học sẽ không có căn cứ pháp lí hoặc
dẫn đến áp dụng pháp luật không đúng, không đầy đủ, làm phức tạp quá trình
thi hành án, gây tốn kém kinh phí, không đáp ứng kịp thời hoặc không bảo
đảm được lợi ích của nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của đương sự.
1.2. Một số thủ tục trong hoạt động thi hành án dân sự
1.2.1. Thủ tục thi hành án dân sự theo đơn yêu cầu
Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 đã đưa ra các quy
định về thi hành án dân sự theo đơn yêu cầu chuyển lên trước quy định về thi
hành án dân sự chủ động nhằm thể hiện rõ sự tôn trọng và đảm bảo quyền con
người, quyền cơ bản của công dân theo Hiến pháp năm 2013. Với thủ tục này,
thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự sẽ ra Quyết định thi hành án theo đơn
yêu cầu của đương sự nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp cho cá nhân
người được thi hành án. Quy định này xuất phát từ việc người được thi hành
án muốn buộc người phải thi hành án thi hành cho mình hoặc người phải thi
hành án muốn được tự nguyện thi hành nghĩa vụ thông qua cơ quan thi hành
án dân sự thì phải yêu cầu thi hành án. Theo đó, khi đã có Bản án, Quyết định
thì người được hưởng quyền và lợi ích theo Bản án, Quyết định hoàn toàn có

11


thể quyết định có làm đơn yêu cầu thi hành án hay không, yêu cầu thi hành án
vào thời điểm nào, yêu cầu thi hành những gì, đã có những thỏa thuận gì với
bên phải thi hành án,… Cho nên pháp luật giành quyền quyết định cho người
được thi hành án thể hiện ý chí của mình bằng việc yêu cầu thi hành án.
Ngoài ra, để khuyến khích tính tự giác chấp hành nghĩa vụ trong Bản án,
Quyết định của người phải thi hành án, nhằm bảo đảm quyền lợi của họ,

không chỉ người được thi hành án mà cả người phải thi hành án cũng có
quyền làm đơn yêu cầu thi hành án.Trong thi hành án theo yêu cầu, thủ tục
bao gồm:
Thủ tục nhận đơn yêu cầu thì hành án dân sự
Khi nhận đơn yêu cầu thi hành án của đương sự, cơ quan thi hành án
dân sự phải kiểm tra nội dung của đơn và các tài liệu kèm theo. Quy định tại
khoản 1 Điều 31 Luật Thi hành án dân sự 2008 về đơn yêu cầu thi hành án
phải có “thông tin về tài sản hoặc điều kiện thi hành án của người phải thi
hành án”, và nếu đơn yêu cầu thi hành án không có đầy đủ các nội dung quy
định và người được thi hành án không yêu cầu xác minh thì cơ quan thi hành
án dân sự thực hiện theo khoản 2 Điều 4 Nghị định 58/2009/NĐ-CP ngày 13
tháng 7 năm 2009 của Chính phủ “thông báo để đương sự bổ sung nội dung
đơn yêu cầu thi hành án trước khi ra quyết định thi hành án”. Khoản 2 Điều
4 Nghị định 125/2013/NĐ-CP sửa đổi bổ sung một số điều của Nghị định
58/2009/NĐ-CP còn bổ sung thêm quy định: “trong thời hạn 15 ngày, kể từ
ngày nhận được thông báo, nếu người được thi hành án không bổ sung hoặc
không đúng nội dung quy định tại Điều 31 Luật Thi hành án dân sự thì cơ
quan thi hành án dân sự không thụ lý đơn yêu cầu thi hành án và có văn bản
trả lời cho đương sự biết, trừ trường hợp do sự kiện bất khả kháng hoặc trở
ngại khách quan”. Quy định này đã gây ra không ít trở ngại, khó khăn cho
người được thi hành án. Chính vì vậy, Khoản 2 Điều 31 Luật sửa đổi, bổ sung
Luật Thi hành án đã sửa lại một trong các nội dung của đơn yêu cầu thi hành

12


án là: “thông tin về tài sản hoặc điều kiện thi hành án của người phải thi
hành án, nếu có”. Đây là một trong những điểm mới tháo gỡ những vướng
mắc, gây khó khăn, bất lợi cho các đương sự nhiều năm qua. Bởi việc có
thông tin về tài sản hoặc điều kiện của người phải thi hành án để đưa vào nội

dung đơn yêu cầu thi hành án là điều không dễ dàng trong nhiều trường hợp.
Theo quy định tại Khoản 4 Điều 31 Luật sửa đổi bổ sung: “ khi tiếp
nhận yêu cầu thi hành án, cơ quan thi hành án dân sự phải kiểm tra nội dung
yêu cầu và các tài liệu kèm theo, vào sổ nhận yêu cầu thi hành án và thông
báo bằng văn bản cho người yêu cầu”. Ngay sau khi nhận được đơn thì cơ
quan thi hành án dân sự phải cấp hoặc gửi bằng đường bưu điện giấy biên
nhận cho người nộp đơn. Luật sửa đổi, bổ sung năm 2014 còn quy định rõ
việc cơ quan THADS phải thông báo bằng văn bản về việc tiếp nhận yêu cầu;
việc từ chối yêu cầu thi hành án cho người yêu cầu.
Thủ tục từ chối nhận đơn yêu cầu thi hành án dân sự
Luật Thi hành án dân sự năm 2008 đã bổ sung quy định về việc từ chối
nhận đơn yêu cầu thi hành án so với pháp lệnh thi hành án dân sự năm 2004.
Theo khoản 1 Điều 34 Luật Thi hành án dân sự cơ quan thi hành án dân sự có
thẩm quyền từ chối nhận đơn yêu cầu thi hành án. Đó là những trường hợp
việc yêu cầu thi hành án không đáp ứng đủ những điều kiện yêu cầu thi hành
án: người yêu cầu thi hành án không có quyền yêu cầu thi hành án; nội dung
đơn yêu cầu thi hành án không liên quan đến nội dung Bản án, Quyết định; cơ
quan thi hành án dân sự được yêu cầu không có thẩm quyền thi hành án; thời
hiệu yêu cầu thi hành án đã hết.
Luật Thi hành án dân sự sửa đổi bổ sung năm 2014 đã gộp thủ tục từ
chối nhận đơn yêu cầu thi hành án vào Điều 31 quy định về tiếp nhận và từ
chối yêu cầu thi hành án. Thêm nữa, tại khoản 5 Điều 31 Luật sửa đổi bổ sung
Luật Thi hành án dân sự bổ sung thêm quy định về thời hạn thông báo bằng
văn bản cho người yêu cầu nếu cơ quan thi hành án dân sự từ chối yêu cầu thi

13


hành án của họ là 05 ngày làm việc. Thời hạn này đã được quy định tại khoản
3 Điều 4 Nghị định 58/2009/NĐ-CP ngày 13 tháng 7 năm 2009 của Chính

phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Thi hành án
dân sự về thủ tục thi hành án dân sự, tuy nhiên đến nay được quy định chi tiết
và rõ ràng trong Luật, nhằm bảo vệ quyền lợi cho người dân, đặc biệt là người
có quyền yêu cầu thi hành án. Luật sửa đổi, bổ sung cũng bổ sung một căn cứ
mới để từ chối nhận đơn yêu cầu thi hành án tại điểm a, khoản 5, Điều 31: “…
Bản án, Quyết định không làm phát sinh quyền và nghĩa vụ của các đương sự
theo quy định của Luật này” vì thực tiễn thi hành án cho thấy có trường hợp
Bản án, Quyết định của Tòa án được yêu cầu thi hành không xác định được
nội dung cần thi hành là gì.
Thủ tục thi hành án theo đơn thì chủ thể yêu cầu là ai? Chủ thể yêu
cầu thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ chức có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan
đến thi hành án. Người làm đơn yêu cầu thi hành án có thể là người phải
THA, người được thi hành án. Người phải thi hành án là cá nhân, cơ quan, tổ
chức phải thực hiện các nghĩa vụ còn người được thi hành án là cá nhân, cơ
quan, tổ chức được hưởng quyền, lợi ích theo nội dung quyết định bản án có
hiệu lực pháp luật. Do đó dưới góc độ của mỗi chủ thể làm đơn yêu cầu thi
hành án thì có ý nghĩa khác nhau trong quá trình tổ chức thi hành án. Chủ thể
là người phải thi hành án có đơn yêu cầu thì thủ tục thi hành án dứt điểm bản
án thuận lợi rất nhiều gồm các thủ tục chính sau: Kiểm tra nội dung yêu cầu
có phù hợp với nội dung bản án, nếu phù hợp thì ra quyết định thi hành án
theo đơn yêu cầu và yêu cầu người có đơn phải thực hiện các nghĩa vụ theo
đơn, báo gọi người được thi hành án lên chi trả hoặc giao nhận như vậy hồ sơ
thi hành án kết thúc. Chủ thể là người được THA có đơn yêu cầu thi hành án
ngoài thủ tục kiểm tra nội dung đơn, bản án…ấn định thời gian tự nguyện,
xác minh điều kiện thi hành án nếu có điều kiện mà không tự nguyện thi hành
án thì Chấp hành viên xây dựng phương án cưỡng chế, báo cáo Ban chỉ đạo

14



thi hành án, gửi phương án cưỡng chế đến Viện kiểm sát nhân dân, Công an
cùng cấp, Công an xây dựng phương án bảo vệ cưỡng chế…thủ tục thi hành
án nói chung trong đó thủ tục thi hành án theo đơn, bị chi phối bởi nhiều yếu
tố như: Người phải thi hành án chây ỳ; không hợp tác với cơ quan thi hành
án; chống đối quyết liệt, tẩu tán tài sản; chế tài chưa đủ sức răn đe đối với
người phải thi hành án; khi tổ chức cưỡng chế cơ quan THADS không chủ
động làm được mà phụ thuộc rất nhiều sự phối hợp của các cơ quan khác, mất
nhiều thời gian, tiền của nhiều khi không đạt kết quả.
1.2.2. Thủ tục thi hành án dân sự chủ động
Chủ động ra quyết định thi hành án là trường hợp sau khi nhận được
Bản án, Quyết định do Tòa án chuyển giao thì cơ quan thi hành án dân sự tự
mình ra quyết định thi hành án mà không cần phải chờ có đơn yêu cầu của
đương sự. Theo quy định của pháp luật thi hành án dân sự thì cơ quan
THADS chủ động ra quyết định THADS đối với phần Bản án, Quyết định mà
việc thi hành án mang lại lợi ích cho Nhà nước và cá nhân. Cụ thể, theo khoản
2 Điều 36 Luật THADS năm 2014 thì Thủ trưởng cơ quan THADS có thẩm
quyền chủ động ra quyết định thi hành án đối với phần Bản án, Quyết định
hình phạt tiền, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí, lệ phí Tòa án; trả
lại tiền, tài sản cho đương sự, tịch thu sung quỹ Nhà nước; tịch thu tiêu hủy
vật chứng tài sản; các khoản thu khác cho Nhà nước; thu hồi quyền sử dụng
đất và tài sản khác thuộc diện sung quỹ Nhà nước; quyết định áp dụng biện
pháp khẩn cấp tạm thời và quyết định của Tòa án giải quyết phá sản.
Sở dĩ những vụ việc này được pháp luật cho phép cơ quan thi hành án
dân sự ra quyết định chủ động thi hành là bởi vì:
Một phần đây là những loại việc mà Bản án, Quyết định tuyên người
được hưởng quyền lợi là Nhà nước nên cơ quan thi hành án phải có trách nhiệm
quan tâm, bảo vệ bằng cách chủ động đưa ra thi hành sớm để thu hồi lại tài sản,
đảm bảo tài sản cho Nhà nước, cũng nhằm mục đích đảm bảo quyền và lợi ích
công, lợi ích của Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.


15


Bên cạnh đó, quy định về những khoản của Bản án, Quyết định tuyên
trả lại tiền, tài sản cho đương sự cũng thuộc diện cơ quan thi hành chủ động
thi hành bởi xuất phát từ quan niệm rằng, việc tạm giữ, thu giữ những tài sản
đó là do cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện trước đó với mục đích phục vụ
cho việc điều tra, truy tố, xét xử, bảo đảm thi hành án, nay theo quy định của
pháp luật được tuyên trả lại cho chủ sở hữu hợp pháp thì Nhà nước phải chủ
động trả lại mà không đợi đương sự phải yêu cầu, hoặc khoản vật chứng, tài
sản bị Tòa án tuyên tịch thu tiêu hủy thì không còn phụ thuộc quyền quyết
định của đương sự nên cũng giao cơ quan thi hành án chủ động thực hiện việc
tiêu hủy.
Ngoài ra, việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời cũng là nhằm mục
đích đảm bảo tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của người được thi hành án,
đảm bảo hiệu quả của việc thi hành án, cao hơn thế, là đảm bảo hiệu lực của
Bản án, Quyết định của Tòa án, của pháp luật và do tính chất khẩn cấp của
việc áp dụng mà nhà nước cần chủ động thực hiện để phù hợp với mục đích
của việc ban hành quyết định đó. Luật sửa đổi bổ sung năm 2014 bổ sung
thêm trường hợp để cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án chủ
động đó là “quyết định của Tòa án giải quyết phá sản”, quy định này nhằm
bảo vệ quyền lợi của các chủ nợ, cũng chính là những người được thi hành án.
Bản chất của quyết định chủ động thi hành án là việc cơ quan thi hành
án dân sự tự đưa ra Bản án, Quyết định dân sự đã có hiệu lực pháp luật ra thi
hành mà không cần có đơn yêu cầu của đương sự.
Luật sửa đổi, bổ sung năm 2014 đã quy định thời hạn ra quyết định thi
hành án và phân công Chấp hành viên tổ chức thi hành đối với một số trường
hợp cụ thể: Đối với quyết định về biện pháp khẩn cấp tạm thời thì cơ quan thi
hành án dân sự phải ra ngay quyết định thi hành án; đối với quyết định của
Tòa án giải quyết phá sản thì cơ quan thi hành án dân sự phải ra quyết định thi

hành án trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định;

16


đối với các quyết định còn lại thì thời hạn vẫn là 05 ngày làm việc. Thêm nữa,
Luật còn bổ sung khoản 3, 4 Điều 36: “3. Quyết định thi hành án phải ghi rõ
họ, tên, chức vụ của người ra quyết định; số, ngày, tháng, năm, tên cơ quan,
tổ chức ban hành Bản án, Quyết định; tên, địa chỉ của người phải thi hành
án, người được thi hành án; phần nghĩa vụ phải thi hành án; thời hạn tự
nguyện thi hành án; 4. Chính phủ quy định chi tiết Điều này”.
Tại khoản 1, 2, 3 Điều 6 Nghị định 62/2015/NĐ-CP hướng dẫn chi tiết
một số điều Luật Thi hành án dân sự quy định: Thủ trưởng cơ quan thi hành
án dân sự ra một quyết định thi hành án chung cho các khoản thuộc diện chủ
động thi hành trong một Bản án, Quyết định, trừ trường hợp:
Một là: Trong một Bản án, Quyết định có khoản chủ động về trả lại tiền,
tài sản thì ra một quyết định thi hành đối với mỗi người được thi hành án;
Hai là: Trong một Bản án, Quyết định có nhiều người phải thi hành
nhiều khoản chủ động khác nhau thì ra một quyết định thi hành án chung cho
các khoản thuộc diện chủ động thi hành án đối với mỗi người phải thi hành
án. Trường hợp thi hành quyền, nghĩa vụ liên đới thì thủ trưởng cơ quan thi
hành án dân sự ra một quyết định thi hành án chung cho những người có
quyền, nghĩa vụ liên đới.
Bên cạnh đó, các khoản thu khác cho Nhà nước quy định tại điểm c
khoản 2 Điều 36 Luật THADS thuộc diện chủ động ra quyết định THA bao
gồm khoản truy thu thuế; khoản viện trợ cho Nhà nước và các khoản bồi
thường cho Nhà nước trong các vụ án xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, tham
nhũng thuộc loại tội phạm đặc biệt nghiêm trọng; các khoản thu khác nộp trực
tiếp vào Ngân sách nhà nước.
1.2.3. Thủ tục xác minh thi hành án dân sự

Việc xác minh tài sản, điều kiện thi hành án của người phải thi hành án
và những người liên quan là cơ sở pháp lý để Chấp hành viên tổ chức thi
hành, áp dụng các biện pháp cưỡng chế thi hành án hoặc kiến nghị lãnh đạo ra

17


các quyết định về việc tiếp tục tổ chức thi hành án, ủy thác, hoãn, tạm đình
chỉ, đình chỉ thi hành án… và là cơ sở để phân loại án nên tính xác thực, chi
tiết, tính pháp lý là yêu cầu bắt buộc trong công tác xác minh điều kiện thi
hành án của đương sự. Như vậy, có thể thấy, đây là một trong những công
việc phức tạp và khó thực hiện nhất, vì việc xác minh tài sản của người phải
thi hành án mất nhiều thời gian, chi phí…
Thứ nhất, về trách nhiệm tiến hành việc xác minh điều kiện thi hành án,
trước đây, theo quy định tại khoản 4 Điều 4 PLTHADS và Điều 8 Nghị định số
173/2004/NĐ-CP quy định về thủ tục, cưỡng chế và xử phạt vi phạm hành chính
trong THADS thì trong mọi trường hợp trách nhiệm xác minh thuộc về CHV.
Theo Luật Thi hành án dân sự năm 2008 thì trách nhiệm xác minh thi
hành án được chuyển sang người được thi hành án. Tại Điều 44 Luật Thi hành
án dân sự năm 2008, đối với trường hợp thi hành án theo đơn yêu cầu thì
người được thi hành án phải tự tiến hành xác minh điều kiện thi hành án của
người phải thi hành án. Chấp hành viên chỉ tiến hành xác minh khi người
được thi hành án có yêu cầu và trong trường hợp thi hành quyết định thi hành
án chủ động. Trong trường hợp người được thi hành án yêu cầu Chấp hành
viên tiến hành xác minh thì yêu cầu này phải đáp ứng đủ hai điều kiện: được
lập thành văn bản và ghi rõ các biện pháp đã được áp dụng nhưng không có
kết quả, kèm theo tài liệu chứng minh.
Quy định người được THA phải tự tiến hành xác minh nhằm tháo gỡ
bớt gánh nặng xác minh cho CHV. Tuy nhiên, mặt bằng am hiểu pháp luật
của đại bộ phận người dân nước ta còn thấp cho nên khả năng tự mình thực

hiện nghĩa vụ xác minh điều kiện THA của người THA là hạn chế. Bên cạnh
đó, việc tự tiến hành xác minh của người được THA cũng gặp không ít trở
ngại, khóa khăn khi không có sự phối hợp, giúp đỡ giữa các cơ quan, tổ chức
cũng như người phải THA. Để phù hợp với thực tiễn, Luật sửa đổi, bổ xung
Luật THADS lại sửa đổi quay về theo hướng chuyển việc xác minh điều kiện

18


thi hành án từ nghĩa vụ của người được THA thành trách nhiêm của chấp
hành viên. Điều này được quy định tại khoản 1, Điều 44 Luật sửa đổi, bổ
sung: “Trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày hết thời hạn tự nguyện thi hành án
mà người phải thi hành án không tự nguyện thi hành thì Chấp hành viên tiến
hành xác minh;trường hợp quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời
thì phải tiến hành xác minh ngay". Theo luật sửa đổi, bổ sung thì nghĩa vụ xác
minh điều kiện của người được THA chuyển hóa thảnh quyền tự mình hoặc
ủy quyền cho người khác xác minh điều kiện THA, cung cấp thông tin về tài
sàn, thu nhập, điều kiện THA của người phải THA cho CQTHA.
Thứ hai, về phí xác minh THA, theo quy định tại khoản 1 Điều 31
Nghị định số 58/NĐ-CP/2009 người được THA phải chịu chi phí xác minh
(ngoài việc phải nộp phí THA). Tuy nhiên lại không có quy định nào về
việc thu phí xác minh là bao nhiêu? Thu theo tính chất của việc cần xác
minh là khó hay dễ, tiền này được thu nộp và sử dụng như thế nào?.. Luật
sửa đối, bổ sung năm 2014 cũng đã tháo gỡ vướng mắc này bằng việc quy
định tại điểm c, khoản 3, Điều 73 “chi phí xác minh điều kiện thi hành án”
do Ngân sách Nhà nước trả.
Thứ ba, về thời gian xác minh: phần 1, khoản 1, Điều 44 Luật Thi
hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 xác định rõ thời hạn Chấp hành
viên phải tiến hành xác minh điều kiện THA, cụ thể là: “trong thời hạn 10
ngày kể từ ngày hết thời hạn tự nguyện thi hành án mà người phải thi hành

án không tự nguyện thi hành thì Chấp hành viên tiến hành xác minh;
trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì
phải tiến hành xác minh ngay”.
Thứ tư, trách nhiệm của người phải THA: phần 2, khoản 1, Điều 44
Luật Thi hành án dân sự sửa đổi, bổ sung năm 2014 xác định cụ thể trách
nhiệm của người phải THA, mặc dù tính khả thi của quy định này không
cao nhưng vẫn là quy phạm có tính nguyên tắc: “Người phải thi hành án

19


phải kê khai trung thực, cung cấp đầy đủ thông tin về tài sản, thu nhập,
điều kiện thi hành án với cơ quan thi hành án dân sự và phải chịu trách
nhiệm về việc kê khai của mình”
Thứ năm, những quy định liên quan đến thủ tục xác minh THA:
Để khắc phục tình trạng lỏng lẻo của công tác xác minh THA, đảm bảo
hiệu quả công tác phối hợp trong THADS, Luật sửa đổi, bổ sung đã bổ sung
quy định yêu cầu CHV phải xuất trình thẻ CHV; CHV được quyền yêu cầu cơ
quan chuyên môn hoặc mời, thuê chuyên gia để làm rõ các nội dung cần xác
minh trong trường hợp cần thiết; được trực tiếp xem xét tài sản, sổ sách quản
lý vốn, tài sản, xác minh tại cơ quan, tổ chức khác có liên quan đang quản lý,
bảo quản, luôn giữ thông tin về tài sản, tài khoản của người phải THA. Các cơ
quan, tổ chức, cá nhân có liên quan trong việc xác minh điều kiện THA phải
thực hiện yêu cầu của CHV và phải chịu trách nhiệm về các nội dung thông
tin đã cung cấp. Trường hợp từ chối cung cấp thì phải có văn bản trả lời và
nêu rõ lý do. Xác định cụ thể và hợp lý hơn về trách nhiệm xác nhận biên bản
xác minh; xác nhận của ủy ban nhân dân hoặc công an cấp xã, hoặc cơ quan,
tổ chức nơi tiến hành xác minh.
Tại khoản 1, Điều 9, Nghị định 62/2015 quy định rõ: Khi tiến hành xác
minh, CHV yêu cầu người phải THA kê khai trung thực, cung cấp đầy đủ

thông tin về tài sản, thu nhập, điều kiện THA. Nội dung kê khai phải nêu rõ
loại, số lượng tiền, tài sản hoặc quyền tài sản; tiền mặt, tiền trong tài khoản,
tiền đang cho vay, mượn; giá trị ước tính và tình trạng của từng loại tài sản;
mức thu nhập định kỳ, không định kỳ, nơi trả thu nhập; địa chỉ, nơi cư trú của
người chưa thành niên được giao cho người khác nuôi dưỡng; khả năng và
điều kiện thực hiện nghĩa vụ THA.
Chấp hành viên phải nêu rõ trong biên bản xác minh điều kiện thi hành
án về việc đương sự kê khai hoặc không kê khai tài sàn, thu nhập, điều kiện
thi hành án.

20


Luật cũng khẳng định rõ vai trò của các công chức Tư pháp - Hộ tịch,
địa chính - xây dựng - đô thị và môi trường, cán bộ công chức cấp xã nói
riêng và trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan khác nói
chung trong việc thực hiện yêu cầu cung cấp thông tin cho CHV và phải chịu
trách nhiệm về các nôi dung thông tin đã cung cấp; quy định rõ thời hạn phải
thực hiện yêu cầu của CHV. Cụ thể: Bảo hiềm xã hội, ngân hàng, tổ chức tín
dụng khác, văn phòng đãng ký quyền sừ dụng đất, cơ quan đăng ký giao dịch
bảo đảm, công chứng và các cơ quan, tồ chức, cá nhân khác đang nắm giữ
thông tin hoặc quản lý tài sản, tài khoản của người phải THA có trách nhiệm
cung cấp thông tin về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án; ký vào
biên bản trong trường hợp CHV xác minh trực tiếp hoặc trả lời bằng văn bản
trong thời hạn 03 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được văn bản yêu cầu của
Chấp hành viên, đối với thông tin về tài khoản thì phải cung cấp ngay; Cơ
quan, tổ chức, cá nhân đang nắm giữ thông tin hoặc quản lý tài sản, tài khoản
của người phải thi hành án có trách nhiệm cung cấp thông tin khi người được
thi hành án hoặc người đại diện theo ủy quyền của người được thi hành án có
yêu cầu trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được yêu cầu, trừ

trường hợp do sự kiện bất khả kháng hoặc trở ngại khách quan. Trường hợp
cơ quan, tổ chức, cá nhân từ chối cung cấp thì phải có văn bản trả lời và nêu
rõ lý do.
Trách nhiệm của người được THA, các cơ quan, tổ chức trong trường
hợp không hợp tác cung cấp thông tin điều kiện THA: Trường hợp người
được thi hành án, cơ quan, tổ chức, cá nhân không cung cấp hoặc cung cấp
thông tin sai sự thật về điều kiện thi hành án của người phải thi hành án thì
phải chịu trách nhiệm trước pháp luật, thanh toán các chi phí phát sinh, trường
hợp gây ra thiệt hại thì phải bồi thường. Khoản 1, Điều 9 Nghị định 62/2015
quy định cụ thể và rõ ràng: Trường hợp người phải thi hành án không kê khai
hoặc phát hiện việc kê khai không trung thực thì tùy theo mức độ vi phạm,

21


×