Tải bản đầy đủ (.pdf) (89 trang)

Hòa thượng thích thiện hoa trong sự nghiệp hoằng pháp và đào tạo tăng tài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (731.49 KB, 89 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BÙI MINH NHỰT

HÕA THƢỢNG THÍCH THIỆN HOA
TRONG SỰ NGHIỆP HOẰNG PHÁP
VÀ ĐÀO TẠO TĂNG TÀI

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC

HÀ NỘI - 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

BÙI MINH NHỰT

HÕA THƢỢNG THÍCH THIỆN HOA
TRONG SỰ NGHIỆP HOẰNG PHÁP
VÀ ĐÀO TẠO TĂNG TÀI
Ngành: TÔN GIÁO HỌC
Mã số: 8.22.90.09

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. CHU VĂN TUẤN



HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các thông
tin, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chƣa từng đƣợc ai công bố
trong bất kỳ một công trình nào khác.
Tôi xin cam đoan rằng mọi sự giúp đỡ cho việc thực hiện luận văn này
đã đƣợc cảm ơn và các thông tin trích dẫn trong luận văn đã đƣợc chỉ rõ
nguồn gốc.
Tác giả luận văn

Bùi Minh Nhựt


LỜI CÁM ƠN
Tôi xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Chu Văn Tuấn,
ngƣời hƣớng dẫn và tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình nghiên cứu và hoàn
thành luận văn.
Tôi xin chân thành cám ơn đến Học viện khoa học xã hội, nhà trƣờng
đã tạo điều kiện thuận lợi về mọi mặt để tôi học tập và nghiên cứu tại đây.
Tôi xin chân thành cám ơn Ban lãnh đạo, trợ lý Khoa Tôn giáo học, tập
thể giảng viên những ngƣời đã giảng dạy, hƣớng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá
trình học tập và nghiên cứu.
Tôi cũng xin chân thành cám ơn đến Chƣ tôn đức Tăng, Ni và bạn bè
đồng nghiệp những ngƣời đã cổ vũ, khích lệ, tạo điều kiện và giúp đỡ tôi
trong quá trình học tập cũng nhƣ trong quá trình thực hiện luận văn tốt
nghiệp.

Mặc dù đã cố gắng rất nhiều nhƣng luận văn này không thể tránh khỏi
sai sót và hạn chế nhất định. Tôi rất mong nhận đƣợc những ý kiến đóng góp
của quý thầy cô và bạn bè đồng nghiệp để luận văn đƣợc hoàn thiện hơn.
Luận văn này là thành quả của quá trình học tập, nghiên cứu của học
viên tại Khoa Tôn giáo học - Học viện Khoa học Xã hội - Viện Hàn lâm Khoa
học xã hội Việt Nam.
Học viên

Bùi Minh Nhựt


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

Trang
1

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN VỀ HOẰNG PHÁP

7

VÀ ĐÀO TẠO TĂNG TÀI
1.1. Cơ sở lý thuyết

7

1.2. Quá trình hình thành và phát triển của công tác hoằng pháp 15
và đào tạo tăng tài ở Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Hòa
thƣợng Thích Thiện Hoa
1.3. Một số khái niệm đƣợc sử dụng trong luận văn


25

Chƣơng 2: CUỘC ĐỜI VÀ HOẠT ĐỘNG HOẰNG PHÁP, ĐÀO TẠO 28
TĂNG TÀI CỦA HÒA THƯỢNG THÍCH THIỆN HOA
2.1. Khái quát về cuộc đời và sự nghiệp

28

2.2. Hoạt động hoằng pháp

32

2.3. Hoạt động đào tạo tăng tài

39

Chƣơng 3: VAI TRÕ VÀ ĐÓNG GÓP CỦA HÕA THƢỢNG 48
THÍCH THIỆN HOA ĐỐI VỚI ĐẠO PHÁP VÀ MỘT
SỐ VẤN ĐỀ ĐẶT RA
3.1. Những đóng góp cho đạo pháp và dân tộc

48

3.2. Những đóng góp trong giáo dục, đào tạo tăng tài

53

3.3. Một số vấn đề đặt ra


56

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

72


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

STT

VIẾT TẮT

1

HT

2

PGVN

3

GHPGVN

4

PHĐNV


5

GHPGVNTN

6

GHTGNV

7

HVPG

NỘI DUNG CHỮ VIẾT TẮT
Hòa Thƣợng
Phật Giáo Việt Nam
Giáo hội Phật giáo Việt Nam
Phật học đƣờng Nam Việt
Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất
Giáo hội Tăng già Nam Việt
Học viện Phật giáo


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phật giáo du nhập vào Việt Nam từ rất sớm và trải qua không ít thăng
trầm. Theo dòng lịch sử, có những lúc Phật giáo trở thành nền tảng tinh thần
của cả dân tộc, là tôn giáo chính thức nhƣ triều đại Lý - Trần (1009-1400),
giai đoạn mà các vị vua quan hay nhân dân đều một lòng quy ngƣỡng và tu
tập sinh hoạt theo giáo lý và nếp sống nhà Phật.

Nhƣng cũng có thời điểm Phật giáo suy thoái bởi các nguyên nhân
khách quan. Nhƣ cuộc chiến tranh xâm lƣợc của nhà Minh đầu thế kỷ XV và
sự đề cao Nho giáo, sự ít chú trọng Phật giáo của triều đại Hậu Lê... Đến thời
kỳ cận đại, khi các đế quốc Tây Phƣơng nhƣ Pháp, Mỹ xâm lƣợc Việt Nam,
Phật giáo cũng chung cảnh với đất nƣớc bị các đế quốc đàn áp, nhất là thời kỳ
cuối triều nhà Nguyễn (1802 - 1945), khi đó “đạo Phật lại càng suy đồi, mất
hết cả những gì thuần túy, cao siêu, mà chỉ còn như là một thần đạo, mà
nhiệm vụ chính là lo việc cúng bái mà thôi” [20, tr.83].
Đứng trƣớc những sự thăng trầm của Phật giáo, các bậc cao tăng đều ra
sức hết lòng xây dựng lại tinh thần Phật giáo. Thời kỳ đầu có các vị nhƣ:
Thiền sƣ Vạn Hạnh (938 - 1025), Thiền Sƣ Khuông Việt (933-1011) thời Nhà
Lý (1009 - 1225); thời Nhà Trần (1225-1400) có Phật hoàng Trần Nhân Tông
(1258-1308)…
Trong thế kỷ XX, khi Phật giáo có sự suy thoái và sự lấn át của các tôn
giáo khác, Tăng sĩ Phật giáo suy đồi, thì các bậc cao tăng của Phật giáo đã
đứng lên chấn hƣng và xây dựng lại nền móng Phật giáo Việt Nam. Trong số
những vị tăng sỹ Phật giáo đó, phải kể đến Hòa thƣợng Thích Thiện Hoa,
ngƣời đã có những đóng góp to lớn, xây dựng lại nền móng vững mạnh cho
Phật giáo Việt Nam.
Hòa thƣợng Thích Thiện Hoa sinh năm 1918, mất 1973. Cả cuộc đời
Ngài là sự dấn thân, phụng sự, cống hiến không mệt mỏi cho Quốc gia, Dân tộc
và Đạo pháp. Quy y từ tuổi ấu niên với Tổ Phi Lai - Chí Thiền, sau theo học
1


với Tổ Khánh Anh và tiếp tục tham học các trƣờng Phật học Lƣỡng Xuyên,
Báo Quốc tại đất Thần Kinh (Huế). Sau loạn lạc, Ngài cùng các vị trở về Nam,
từ đây Ngài ra sức dấn thân với các công tác giáo dục, hoằng pháp và công tác
giáo hội. Có thể nói, toàn bộ Phật sự ở miền Nam từ những năm 1950 đến
1972, đều đƣợc Hòa thƣợng trợ giúp trực tiếp hoặc gián tiếp mà thành tựu.

Không những thế, Hòa thƣợng còn là một nhà văn, một nhà viết sách
tài năng, một nhà phiên dịch kinh điển xuất sắc. Các tác phẩm của Hòa
thƣợng để lại nhƣ là một tấm gƣơng mẫu mực, một số tác phẩm để đời cho
hậu thế nhƣ Phật học phổ thông, Bản đồ tu Phật, Bài học ngàn vàng… Các
bộ kinh điển do Hòa thƣợng phiên dịch nhƣ Lăng Nghiêm, Viên Giác, Kim
Cang, Tâm Kinh… cũng vô cùng có giá trị.
Là ngƣời có nhiều đóng góp to lớn nhƣ vậy nhƣng sự đánh giá về công lao,
sự nghiệp của Hòa thƣợng lại chƣa nhiều, chƣa tƣơng xứng đƣợc với những thành
tựu to lớn mà Hòa thƣợng đã tạo dựng cho xã hội, cho Phật giáo. Tuy đã có một
số bài viết về Hòa thƣợng nhƣ “Tiểu sử cố hòa thƣợng Thích Thiện Hoa” - Môn
đồ Pháp Quyến; “Lƣợc thuật tiểu sử cố Hòa thƣợng Thích Thiện Hoa - Thiền viện
Thƣờng Chiếu”… nhƣng vẫn chƣa có những bài viết, những nghiên cứu chuyên
sâu một cách hệ thống và chi tiết về Hòa thƣợng, đặc biệt trên các phƣơng diện
mà Hòa thƣợng có công lao lớn nhất, đó là hoằng pháp và giáo dục.
Với những lý do trên, chúng tôi chọn đề tài: “Hòa thượng Thích Thiện
Hoa trong sự nghiệp hoằng pháp và đào tạo tăng tài” để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
2.1. Nhóm các công trình đề cập đến tình hình Phật giáo và bối cảnh
xã hội đương thời của Hòa thượng Thích Thiện Hoa
Đây là nhóm công trình đề cập đến tình hình Phật giáo và xã hội trong thời
điểm HT.Thích Thiện Hoa sinh sống nhƣ tác phẩm Việt Nam Phật giáo sử luận,
tập 3, của Nguyễn Lang. Công trình này đã đề cập đến toàn bộ quá trình diễn biến

2


của Phật giáo từ khởi nguyên đến lúc giáo hội thành lập, trong đó có trình bày khá
chi tiết về HT. Thích Thiện Hoa cũng nhƣ những diễn biến Phật giáo lúc đó.
Ngoài ra còn khá nhiều các tác phẩm viết về Phật giáo lúc này nhƣ Việt
Nam Phật giáo tranh đấu sử của tác giả Tuệ Giác, Phong trào Phật giáo 1963

do Lê Cung biên soạn hay các tạp chí trong thời kỳ này nhƣ Đuốc Tuệ, Viên
Âm, Từ Bi Âm, Duy Tâm, Tiến Hóa… các hội thảo liên quan nhƣ hội thảo 50
năm phong trào Phật giáo ở miền Nam (1963-2013), Nhìn lại phong trào
Phật giáo miền Nam năm 1963… đều có đề cập đến thời kỳ mà HT. Thích
Thiện Hoa sinh sống cũng nhƣ diễn biến xã hội và Phật giáo trong những thập
niên đầu thế kỷ 20.
2.2. Nhóm công trình đề cập đến cuộc đời, hoạt động của HT Thích
Thiện Hoa
Đầu tiên phải nói đến những bài viết về Tiểu sử Hòa thƣợng Thích
Thiện Hoa trên báo Giác Ngộ do Môn Đồ Pháp Quyến soạn: Tiểu sử Cố Hòa
thượng Thích Thiện Hoa (1918-1973), bài viết này tuy ngắn nhƣng khá chi
tiết và phần nào phản ảnh chân thực về Hòa thƣợng.
Bài viết Lược thuật tiểu sử Cố Hòa thượng Thích Thiện Hoa của Thiền
viện Thƣờng Chiếu, tác phẩm Tiểu sử danh tăng Việt Nam thế kỷ XX, tập I do
Thƣợng tọa Thích Đồng Bổn chủ biên, trong đó có đề cập đến cuộc đời và
hành trạng của HT.Thích Thiện Hoa. Tác phẩm Phước Hậu tôn thế ký của Đại
đức Thích Phƣớc Năng viết về các đời trụ trì tại chùa Phƣớc Hậu trong đó có
HT. Thích Thiện Hoa. Trực tiếp và quan trọng hơn cả là những dòng tự sự của
Hòa thƣợng trong bài viết: “Một sự nghiệp của đời tôi” trích từ phần phụ lục
bộ Phật Học Phổ Thông, Nxb Tôn giáo 2011 do chính Hòa thƣợng làm tác giả.
Bài viết đƣợc Hòa thƣợng viết ra sau khi hoàn thành bộ sách năm 1965, nói về
những đóng góp và hoàn thành của Hòa thƣợng về sự nghiệp giáo dục, hoằng

3


pháp, lợi sinh, thành lập giáo hội của Hòa thƣợng. Bài viết này đề cập khá chi
tiết về tiến trình hoạt động, mục đích và hƣớng đi của mình.
Thích Thiện Hữu trong tác phẩm Có Những Con Người, NXB Hồng
Đức xuât bản năm 2012 có một bài viết với tiêu để: Hoà thượng Thích Thiện

Hoa-Bức Bích Hoạ Phật Học Phổ Thông Vĩ Đại. Bài viết đã viết về Hòa
thƣợng Thích Thiện Hoa cũng nhƣ tác phẩm Phật học phổ thông.
Nói chung các tài liệu liên quan gián tiếp, trực tiếp đến HT.Thích Thiện
Hoa khá nhiều, sở dĩ nhƣ vậy là do Hòa thƣợng là một trong những vị cao tăng,
giữ nhiều trọng trách của Phật giáo Việt Nam, luôn tích cực đóng góp và có vai trò
quan trọng trong các công tác Phật sự lúc bấy giờ. Nhƣng nhìn lại thì không có
một tác phẩm nào chuyên biệt phân tích về vai trò của Hòa thƣợng trong việc
hoằng pháp và đào tạo tăng tài, nếu có thì chỉ là những bài viết tản mạn, vì vậy
không phản ánh đƣợc một cách có hệ thống về cuộc đời, đạo nghiệp của Hòa
thƣợng để lại, do đó cần phải có một công trình nghiên cứu hầu làm sáng tỏ những
vấn đề vừa nêu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu
Nghiên cứu, làm rõ những đóng góp, vai trò của Hòa thƣợng Thích
Thiện Hoa, một tăng sỹ có uy tín và vị trí quan trọng trong Phật giáo Việt Nam
thế kỷ XX, trên hai phƣơng diện chủ yếu là hoằng pháp và đào tạo tăng tài, từ
đó góp phần làm rõ vai trò của Hòa thƣợng đối với đạo pháp và dân tộc.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Khái lƣợc vai trò của hoằng pháp và đào tạo tăng tài đƣợc đề cập
trong Tam tạng kinh điển.
+ Phân tích những đóng góp của Hòa thƣợng Thiện Hoa trên các
phƣơng diện hoằng pháp và giáo dục qua từng giai đoạn.
+ Chỉ ra vai trò của Hòa thƣợng đối với đạo pháp, giáo dục và dân tộc.

4


4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu là hoạt động hoằng pháp và đào tạo tăng tài của
HT.Thích Thiện Hoa.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung trình bày những vấn đề liên quan đến cuộc đời, sự
nghiệp hoằng pháp và đào tạo tăng tài của HT. Thích Thiện Hoa giai đoạn
chấn hưng Phật giáo Việt Nam từ 1920 đến khi Hòa thượng viên tịch với
phạm vi không gian miền Nam Việt Nam.
5. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Luận văn vận dụng cách tiếp cận sử học và tôn giáo học để giải quyết
các nội dung của luận văn. Cách tiếp cận sử học giúp luận văn làm rõ cuộc
đời, sự nghiệp của Hòa thƣợng Thích Thiện Hoa qua các giai đoạn lịch sử,
gắn với bối cảnh lịch sử của đất nƣớc, cũng nhƣ của Phật giáo Việt Nam.
Cách tiếp cận tôn giáo học góp phần làm rõ hoạt động hoằng pháp và đào tạo
tăng tài là hai trong số các hoạt động thuần túy của Phật giáo.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Nội dung của luận văn có liên quan đến nhiều ngành khoa học khác
nhau nhƣ ngành tôn giáo học, ngành xã hội học, ngành sử học, vv…nên
chúng tôi chọn phƣơng pháp liên ngành, nhất là phƣơng pháp sử học - tôn
giáo học, …. trong suốt quá trình nghiên cứu luận văn.
Ngoài ra, luận văn sử dụng các phƣơng pháp nghiên cứu tài liệu thứ
cấp, phƣơng pháp phân tích, tổng hợp, so sánh, v.v..
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn (đóng góp mới)
6.1. Ý nghĩa lý luận
Đóng góp cho lĩnh vực nghiên cứu Tôn giáo học một công trình nghiên
cứu khá chuyên sâu về một nhân vật lịch sử, một vị cao tăng của Phật giáo

5



Việt Nam là HT.Thích Thiện Hoa trên hai phƣơng diện là hoằng pháp và đào
tạo tăng tài. Chỉ ra vai trò, những đóng góp của HT Thích Thiện Hoa đối với
đạo pháp và dân tộc. Đồng thời, qua luận văn này sẽ góp phần cung cấp thêm
những thông tin, tƣ liệu về lịch sử Phật giáo giai đoạn HT Thích Thiện Hoa
sống.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Cung cấp tài liệu một cách hệ thống, rõ ràng, chi tiết về vai trò hoằng
pháp và giáo dục của HT.Thích Thiện Hoa, qua đó giúp hiểu thêm về phong
trào chấn hƣng Phật giáo Việt Nam thế kỷ 20.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, tìm hiểu
về cuộc đời, sự nghiệp HT Thích Thiện Hoa nói riêng, phong trào chấn hƣng
Phật giáo và lịch sử Phật giáo Việt Nam giai đoạn những năm giữa thế kỷ XX
nói chung.
7. Kết cấu của luận văn
Đề tài gồm: Mở đầu, Nội dung, Kết luận. Trong đó, Nội dung bao gồm
những chƣơng mục nhƣ sau:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết và thực tiễn về hoằng pháp và đào tạo tăng tài
Chương 2: Cuộc đời và hoạt động hoằng pháp, đào tạo tăng tài của
HT.Thích Thiện Hoa
Chương 3: Vai trò và đóng góp của HT. Thích Thiện Hoa đối với đạo
pháp và một số vấn đề đặt ra

6


Chƣơng 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN VỀ HOẰNG PHÁP VÀ ĐÀO
TẠO TĂNG TÀI
1.1. Cơ sở lý thuyết
1.1.1. Tam tạng đề cập đến hoằng pháp và đào tạo tăng tài

1.1.1.1. Kinh, Luật, đề cập đến hoằng pháp và đào tạo tăng tài
Đạo Phật ra đời cách đây hơn 25 thế kỷ, nhƣng những lời dạy của Đức
Phật, cho đến ngày nay vẫn là kim chỉ nam hƣớng dẫn con ngƣời và xã hội
loài ngƣời giải quyết các vấn đề của cuộc sống.
Đặc biệt, vào thời đại hiện nay đƣợc coi là thời kỳ đỉnh cao của văn
minh nhân loại, giáo lý của Đức Phật lại càng sáng rực hơn, ngay cả ở các
nƣớc tiến bộ phƣơng Tây, vì đã mở ra cho con ngƣời một phƣơng hƣớng thoát
khỏi sự khủng hoảng, bế tắc do chính họ gây ra.
Có thể khẳng định cách giáo hóa của Đức Phật là vì ngƣời, làm lợi ích cho
ngƣời. Trƣớc khi đi giáo hóa, Đức Phật nhập định, nghĩa là Ngài suy nghĩ xem
nên đến nơi nào và làm gì, để giúp ai. Ngài có suy nghĩ, có định hƣớng trong
việc độ sanh và biết việc thật chính xác, biết rõ tâm tƣ, nguyện vọng, năng lực
của đối tƣợng mà Ngài đến tiếp độ và tìm ra cách giải quyết tốt. Bấy giờ, Ngài
mới đến với họ, khai thông bế tắc, đƣa họ trở về nếp sống thánh thiện.
Phƣơng hƣớng mà Đức Phật truyền bá đạo pháp mang lại lợi ích thiết
thực và cũng thể hiện trí tuệ vô lƣợng, hoàn toàn khác hẳn với cách nói suông,
viển vông của hàng ngoại đạo thời ấy.
Khi hoàn tất công việc độ sanh, Ngài trở về tịnh xá và lại nhập định;
nói cách khác là suy nghĩ, tự xét lại những việc vừa làm. Sau đó Ngài xả định,
thuyết pháp cho đại chúng, để họ nhận ra giá trị của bài pháp sống mà họ vừa
đƣợc chứng kiến khi theo Phật và lấy đó làm kinh nghiệm tu hành.

7


Đức Phật giáo hóa trong khi du hành nhƣ vậy, rất phù hợp với thực tế
cuộc sống. Bƣớc chân Ngài đã dạo khắp các vùng Ấn độ, dù là chốn đô hội
thị thành hay các miền thôn dã, tùy phƣơng tiện mà hóa độ khắp tất cả chúng
sinh bình đẳng không phân biệt, dù cao sang quyền quý hay nghèo cùng khốn
khổ. Đây cũng là điểm đặc thù nhất trong Phật giáo. Ý này cũng đƣợc diễn tả

trong kinh Pháp hoa phẩm Dược thảo dụ: “Giáo pháp của Ngài như trận mưa
lớn, tất cả các loại cỏ cây đều được thấm nhuần [31,tr.289].
Vì lẽ đó, ngƣời xuất gia hay tại gia nói chung phải có bổn phận chuyển vận
bánh xe chánh pháp để hóa độ chúng sanh, Kinh Tƣơng Ƣng tập I có nói: “Hỡi
các Tỷ kheo! Hãy đi vì lợi ích cho nhiều người, vì hạnh phúc của số đông, vì lòng
thương tưởng cho đời, vì hạnh phúc cho chư thiên và loài người” [7,tr.148].
Thời đức Phật ngoài giờ đi khất thực và thiền định, chƣ Tăng tỏa ra
khắp nơi để hoạt động hoằng pháp, đức Phật thƣờng dạy các đệ tử: “hãy ra đi,
các Tỷ kheo, đem lại sự tốt đẹp cho nhiều người. Vì lòng từ bi hãy đem lại sự
tốt đẹp, lợi ích và hạnh phúc cho chư thiên và nhân loại. Mỗi người hãy đi
một ngả. Này hỡi các Tỷ Kheo, hãy hoằng dương giáo pháp hoàn toàn ở đoạn
đầu, toàn hỏa ở đoạn giữa, toàn hỏa ở đoạn cuối, toàn hỏa cả hai, nghĩa lý và
văn tự” [8,tr.574].
Cũng vậy, nói về hoạt động hoằng pháp, đức Phật đã chỉ ra thế nào là một
vị trƣỡng lão đƣợc ái mộ, ƣa thích, tôn trọng, noi gƣơng để hoằng pháp: Đạt
được nghĩa vô ngại pháp, pháp vô ngại giải, đối với các sự việc, các vị đồng
phạm hạnh cần phải làm, hoặc lớn, hoặc nhỏ vị ấy thiện xảo, không có biếng
nhác, thành tựu trí phương tiện, ở đây vừa đủ để làm để khiến người làm.
Hai đối tƣợng cơ bản của hoằng pháp là ngƣời hoằng pháp và ngƣời đƣợc
hoằng pháp cũng đƣợc đức Phật chỉ ra những điều thiết yếu. Với ngƣời giảng
pháp, trong bài Hoằng pháp là phải hướng dẫn Pháp hành của Thích Thiện Bảo,
trích trong Kinh Tăng chi, đức Phật dạy rằng với tinh thần hoằng pháp, cần phải
8


có và thông hiểu năm phận sự của mình [2]. Ngƣời giảng pháp thiếu một trong
năm chi phần này xem nhƣ là nhiệm vụ ngƣời hoằng pháp không hoàn hảo.
Về phƣơng tiện hoằng pháp, Đức Phật thƣờng sử dụng hai phƣơng tiện
đó là: đi bộ và thần thông.
Để trang bị khả năng hoằng pháp, trong kinh điển đức Phật còn dạy cho

chúng đệ tử Tỷ kheo về giáo lý Ngũ minh: 1. Nội minh, 2. Nhân minh, 3.
Thanh minh, 4. Công xảo minh, 5. Y phương minh. Đây là giáo lý đƣợc xem
nhƣ là một trong những phƣơng pháp tối ƣu nhằm hoàn thiện những nhà
hoằng pháp ở cả hai phƣơng diện Phật học và thế học.
Bên cạnh Kinh, Luật nói về hoạt động hoằng pháp cũng có những công
trình Luận nói về hoằng pháp.
1.1.1.2. Luận đề cập đến hoằng pháp và đào tạo tăng tài
Theo sách Đại Sử Ký (Mahavamsa) của Tích Lan, năm 325 trƣớc Công
nguyên, đại hội kết tập kinh điển lần thứ ba diễn ra tại thành Pataliputta (Hoa
Thị), nƣớc Mahada (Ma kiệt Đà), do Hoàng đế Asoka (A Dục) đề xƣớng bảo
trợ, Đại lão Hòa thƣợng Moggaliputta Tissa (Mục Kiền Liên Tử Đế Tu) làm
chủ tọa. Sau Đại hội này, có cử 9 phái đoàn đi hoằng pháp khắp các nơi trong
nƣớc Ấn Độ và các nƣớc bên ngoài Ấn Độ. Sự hoằng pháp thời vua A Dục
trong và ngoài Ấn Độ diễn ra trong khoảng thời gian từ năm 325 đến năm 258
trƣớc Công Nguyên, tƣơng ứng với thời Hùng Vƣơng ở nƣớc ta và trùng hợp
với các sử liệu về Phật giáo ghi trong ngọc phả Hùng Vƣơng, chuyện Chử
Đồng Tử, Giao Châu Ký của Lƣu Hân Kỳ và Thủy Kinh Chú của Lệ Đạo
Nguyên. Nhƣ vậy, có thể khẳng định, Phật giáo truyền vào nƣớc ta vào thời
Hùng Vƣơng [3, tr.30-31].
Cuốn Lịch sử đức Phật Thích Ca của Thích Minh Châu khi giới thiệu
về quá trình hoằng pháp của Phật Thích Ca đã đề cập đến hệ thống đệ tử đầu
tiên của Phật và bài thuyết pháp đầu tiên. Lớp đệ tử đầu tiên là năm tu sĩ, bạn
9


đồng tu khổ hạnh với Thái Tử Tất Đạt Đa ở Uruvela, bài thuyết pháp đầu tiên
là Tứ Diệu Đế. Tiếp theo là thuyết pháp cho Yasa con trai một triệu phú, sách
viết Yasa xin Phật xuất gia và chứng quả A La Hán. Năm vị tu sĩ đắc quả A
La Hán cùng với Yasa, cha của Yasa nghe Phật thuyết pháp xin quy y và trở
thành ngƣời Phật tử tại gia đầu tiên trong cuộc hoằng pháp của Đức Phật. Sau

này, hơn năm mƣơi ngƣời bạn của Yasa xin xuất gia đắc quả vị A La Hán.
Phật có sáu mƣơi A La Hán và hình thành đoàn tăng sĩ thuyết pháp đầu tiên.
Cuốn sách đã cho thấy, hoằng pháp hình thành từ thời Đức Phật với hai cấp
độ tu sĩ xuất gia và Phật tử tại gia. Đây là một vấn đề lịch sử. Khi nghiên cứu
về hoằng pháp của Giáo hội Phật giáo Việt Nam hiện nay chúng tôi rất hy
vọng có thể tìm những tài liệu đề cập đến các hoạt động hoằng pháp trong các
giai đoạn lịch sử khác nhau, tuy nhiên cuốn sách chƣa đáp ứng đƣợc mong
muốn này, nhƣng sự trình bày của cuốn sách là nguồn tƣ liệu quý giá cho luận
văn để làm sáng tỏ tiến trình hình thành và phát triển của hoằng pháp.
Trong cuốn sách Đức Phật và Phật Pháp của Narada, tác giả có nói
đến quá trình hoằng pháp truyền bá của đạo Phật thời kỳ đầu. Tác giả cũng
dành một phần nói về đời sống hằng ngày của đức Phật. Qua đây, có thể nhận
biết đƣợc cuộc sống xuất gia thời kỳ đầu và sinh hoạt Tăng đoàn thời kỳ đầu.
Cuốn sách góp phần làm rõ phƣơng thức và mục đích hoạt động hoằng pháp
của Tăng đoàn giai đoạn đầu.
Trong cuốn Thích Ca Mâu Ni của Tinh Vân Đại Sƣ đã đề cập về cuộc
đời của đức Phật Thích Ca Mâu Ni và quá trình hoằng pháp của Đức Phật.
Toàn bộ cuốn sách có 48 mục, trong đó có nhiều mục nói về các đệ tử đầu tiên
nhƣ mục 22 thành lập tập đoàn Giáo hội sơ chuyển pháp luân, mục 23 cư sĩ và
tín nữ đầu tiên. Cụ thể, tác giả đã trình bày quá trình Phật truyền đạo cho năm
đệ tử đầu tiên tại vƣờn Lộc Uyển ngay sau khi Phật thành đạo. Sau khi nghe
Phật thuyết pháp về giáo lý Tứ Đế, năm ông đã tình nguyện xin quy y làm đệ
10


tử Phật. Khi đó Phật nói: “Từ nay trở đi, các con sẽ làm đệ tử của ta, gọi là Tỷ
kheo Tăng”. Từ đó năm vị theo Phật đi hoằng pháp. Đó đƣợc coi là những
bƣớc hoằng pháp truyền đạo đầu tiên của Phật giáo. Nhìn chung, cuốn sách
đem lại những kiến thức cơ bản về những bƣớc chân hoằng pháp đầu tiên.
Cuốn Quan điểm của tôi về cuộc đời đức Phật Thích Ca Mâu Ni của

Daisaku Ikeda là cuốn sách chú trọng vào khoảng thời gian tu hành đắc đạo
và hoằng pháp của đức Phật. Thời kỳ này, số lƣợng các Tỷ Kheo tăng nhiều
và có nhiều trung tâm hoạt động Phật giáo đƣợc mở ra. Vấn đề giới luật cũng
đã đƣợc đề cập. Tuy nhiên, thời kỳ này giới luật bắt buộc của các thành viên
Tăng đoàn là bày tỏ sự kính trọng nhất cái đƣợc gọi là Tam Bảo tức là Đức
Phật, Pháp Phật và Tăng Già. Nói chung, đây là cuốn sách cần thiết để tìm
hiểu về tổ chức hoằng pháp trong giai đoạn đầu.
Bài viết Vai trò hoằng pháp hiện nay của Thích Thiện Bảo đã bàn cụ
thể vào một vấn đề quan trọng của Giáo hội hiện nay là vấn đề hoằng pháp.
Đức Phật ra đời là để hoằng pháp. Theo chân đức Phật, nhiệm vụ chính của
những ngƣời con Phật là đem giáo pháp của Đức Phật truyền bá rộng khắp.
Đó cũng là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của PGVN nói chung hay
GHPGVN nói riêng. Bài viết trƣớc tiên đã tổng kết lại những thành tựu đã đạt
đƣợc kể từ khi thành lập và đƣa ra một số kiến nghị. Kiến nghị xoay quanh
hai vấn đề chính: một là, tạo dựng đội ngũ lãnh đạo Giáo hội, đội ngũ giảng
sƣ trẻ có năng khiếu, có trình độ chuyên môn cao, đồng thời nên mở một số
lớp chính thức dành cho Phật tử đào tạo theo cấp và giáo trình thống nhất của
Giáo hội; hai là, thúc đẩy công tác hoằng pháp tại vùng sâu vùng xa.
Bài Về đường hướng phát triển PGVN trong thế kỷ XXI của Thích Thiện
Hữu là một trong số ít bài viết đề cập đến những vấn đề GHPGVN cần thực
hiện trong sự nghiệp hoằng pháp và phát triển Giáo hội trong thế kỷ XXI. Tác

11


giả xoay quanh những vấn đề: cần có chƣơng trình dài hạn giáo dục đào tạo
Tăng Ni, đối với Phật tử cũng nên có những chƣơng trình đào tạo dài hạn, mở
rộng mạng lƣới Phật pháp và PGVN trên siêu xa lộ thông tin; thành lập thêm
các tờ báo Phật giáo; mở rộng phạm vi xã hội của đạo Phật; truyền bá Phật giáo
vào các vùng sâu, vùng xa và cuối cùng là phát động một đạo Phật xanh.

Cùng chủ đề bàn về hƣớng đi của GHPGVN trong thế kỷ XXI, Thích Nữ
Tịnh Thƣờng với bài viết Phát triển GHPGVN trong thế kỷ XXI lại nhấn mạnh
vào công tác đào tạo tăng tài, giáo dục Tăng Ni và cách sử dụng những Tăng Ni
đƣợc đào tạo căn bản nhƣ thế nào để có thể phát huy đƣợc hoạt động hoằng pháp
thiết thực của GHPGVN. Tác giả cho rằng, đào tạo Tăng Ni tài đức, đáp ứng đƣợc
lợi ích thiết thực của quần chúng, tạo đƣợc lòng tin yêu mến đến mọi ngƣời.
1.1.2. Các hình thức yêu cầu của Phật giáo về hoằng pháp và đào tạo
tăng tài ở Việt Nam hiện nay
Trong giai đoạn hiện nay, xã hội đòi hỏi một hình thức hoằng pháp
rộng rãi hơn. Cho thấy không thể áp dụng những phƣơng tiện nhỏ hẹp, mà
cần phải mở rộng phạm vi của hoằng pháp; ngƣời Phật tử cần phải y lời Phật
dạy, học Ngũ minh để hoằng pháp:
Nội minh: Trƣớc tiên, ngƣời hoằng pháp phải cần có nội minh, nghĩa
là phải có kiến thức về kinh điển Phật giáo. Muốn hoằng pháp, nghĩa là muốn
đem giáo pháp truyền bá trong quần chúng để mọi ngƣời đều hƣởng sự lợi
ích, thì trƣớc tiên mình phải tự tìm hiểu giáo lý của đạo Phật
Nhân minh: Am tƣờng giáo lý chƣa đủ. Muốn trình bày giáo lý ấy một
cách rõ ràng, khúc chiết, muốn lập thuyết vững vàng, ngƣời hoằng pháp cần
phải dựa trên một phƣơng pháp luận lý; phƣơng pháp luận lý ấy gọi là nhân
minh. Thanh minh: Đây là môn học về ngôn ngữ văn tự, về âm thanh và về
văn học. Công xảo minh: Đây là môn học về công nghệ và kỹ thuật. Trong

12


công cuộc hoằng pháp, công nghệ và kỹ thuật mỗi ngày mỗi thêm tiến bộ,
ngƣời Phật tử cần phải học tập để có những phƣơng tiện hành đạo rộng rãi
trong phạm vi xã hội nhân sinh. Y phƣơng minh: Đây là môn học về các
phƣơng pháp chữa bệnh. Các đức Phật là những ngành lƣơng y, trị cả tâm
bệnh và cả thân bệnh cho chúng sinh.

Hơn nữa để hoằng pháp có hiệu lực thì cần có phƣơng tiện lực để hỗ
trợ cho mục đích cứu cánh, đó là: Khế cơ, khế lý, khế thời Khế cơ: Trong
xã hội ngày nay, sống trong thế kỷ văn minh, khoa học và tâm linh, hƣớng
tới hội nhập toàn cầu hóa. Vậy muốn hoằng pháp đạt đƣợc kết quả thì
không thể không quán chiếu căn cơ trình độ, kiến thức lứa tuổi, quốc độ
vùng miền của thính chúng để truyền bá với những chuẩn mực khác nhau.
Khế lý: Khi hiểu rõ căn cơ trình độ chúng sanh trong hội chúng thì việc
quán chiếu và sử dụng ngôn ngữ biểu đạt, diệu dụng của mỗi pháp môn để
đƣa giáo lý muốn truyền trao đến cuộc sống nhân sinh, xã hội đang sống.
Khế thời: Yếu tố tâm lý thính chúng tác động một phần nhờ vào hoàn cảnh
không gian, thời gian. Học hạnh của Phật ngày xƣa chƣa đúng thời, chƣa
đủ duyên Ngài không thuyết pháp. Chờ cơ duyên hội đủ mới hoằng pháp.
Ngƣời hoằng pháp dù hoàn cảnh, địa vị nào phải biết tùy duyên dấn thân
mới lợi ích chúng sanh và dân tộc “Thị pháp trụ pháp vị, Thế gian tƣớng
thƣờng trú” là vậy. Trên cơ sở đó, tạm có khái niệm về tinh thần và nội
dung của công tác hoạt động hoằng pháp.
Ngày nay, với công nghệ kỹ thuật hiện đại ngƣời ta có thể dễ dàng ngồi
một chỗ để tra cứu và tìm hiểu kinh điển, học lời Phật dạy cũng nhƣ tìm kiếm
các thông tin có liên quan đến Phật pháp. Chỉ cần vào Google là ngƣời ta có
thể tìm thấy nhiều điều để học hỏi. Bên cạnh, bằng các phƣơng tiện nhƣ máy
bay, điện thoại, internet, máy ghi âm, v.v.. việc hoằng pháp ngày nay đƣợc

13


thuận tiện, nhanh chóng và rút ngắn thời gian rất nhiều. Điều này là một lợi
thế và là hạnh phúc lớn cho tất cả mọi ngƣời. Hoằng pháp ngày nay đƣợc xem
nhƣ là “đa phương hóa, đa dạng hóa”; và ngƣời hoằng pháp cần phải vận
dụng một cách trí tuệ những phƣơng tiện hiện đại cho việc truyền bá Chánh
pháp. Ngoài ra còn có một số hình thức hoạt động cụ thể nhƣ:

Tụng kinh, thiền định: Ngày nay đa số các chùa Phật tử đến tụng kinh
rất đông, thậm chí tụng tam tạng. Việc làm đó không ngoài mục đích để ngƣời
Phật tử thấm nhuần chánh pháp sau mỗi ngày tụng kinh. Ngƣời tổ chức cũng
là ngƣời hoạt động hoằng pháp.
Viết sách, dịch kinh: Là hoạt động hoằng pháp lợi ích lớn và có giá trị
cao, kinh sách để đầu giƣờng nghiền ngẫm, giúp Phật tử dễ chiêm nghiệm và
thực hành chánh pháp hơn. Một quyển kinh và một tác phẩm thiền là một
món quà tinh thần, có khả năng chuyển đổi đời sống nội tâm của ngƣời Phật
tử. Ấn tống, biếu tặng một quyển kinh cũng là nghệ thuật hoằng pháp.
Xây chùa: mái chùa che chở hồn dân tộc, mái chùa là bài pháp vô ngôn.
Lễ nghi trong đời sống nhƣ: đám ma, đám cƣới, đám giỗ đều cung
thỉnh Chƣ tăng đến tụng kinh cầu nguyện và ban phúc lành, hình thức lễ nghi
nhƣ vậy cũng là hoạt động hoằng pháp.
Tổ chức giảng pháp: Thƣờng những lễ nghi có tổ chức thuyết giảng
Phật pháp để thí chủ tròn đủ tài thí, vật thí và pháp thí. Nhƣ đám ma là một
nghi lễ để giảng giải Phật pháp trong tang quyến có hiệu quả thiết thực. Vừa
tụng kinh vừa giảng giáo lý vô thƣờng để chỉ cho tang quyến thấy đƣợc sự
tạm bợ của thế gian, nhằm nhàm chán để tu hành.
Hoạt động hoằng pháp xƣa và nay tuy hình thức khác biệt theo biến
thiên của thời gian và sự tiến bộ văn minh của con ngƣời, nhƣng mục đích
đều hƣớng dẫn đại chúng thâm nhập và liễu ngộ Chánh Pháp của Phật Đà.

14


1.2. Quá trình hình thành và phát triển của công tác hoằng pháp và
đào tạo tăng tài ở Việt Nam gắn liền với tên tuổi của Hòa thƣợng Thích
Thiện Hoa
1.2.1. Về công tác hoằng pháp
- Giai đoạn đầu

Ngày 19 tháng chạp hàng năm tại Tổ đình Ấn Quang, quận 10, Thành
phố Hồ Chí Minh, Ban Hoằng pháp Trung ƣơng Giáo hội Phật giáo và các
Tỉnh, Thành hội họp mặt truyền thống. Cũng ngày này cách đây hơn 40 năm,
HT. Thích Thiện Hoa, ngƣời khởi xƣớng việc hoằng pháp, đào tạo tăng tài
một cách sâu rộng đến với tất cả vùng miền trong cả nƣớc và mọi tầng lớp
nhân dân đã viên tịch.
Trong phong trào chấn hƣng Phật giáo Việt Nam, từ năm 1935 đến năm
1945, Hòa thƣợng Thích Thiện Hoa phối hợp cùng Thích Trí Tịnh khai giảng
Phật học đƣờng Phật Quang tại rạch Bang Chang, xã Thiện Mỹ, Trà Ôn. Số
Tăng sinh đến học trên ba mƣơi vị.
Năm 1950, Giáo hội Tăng già Nam Việt thành lập và năm 1953 cử
Ngài giữ chức Trƣởng ban Giáo dục và Trƣởng ban Hoằng pháp Giáo hội
Tăng già Nam Việt kiêm Đốc giáo Phật học đƣờng Nam Việt tại chùa Ấn
Quang, Sài Gòn.
Năm 1957, Ngài lại chủ xƣớng mở những khóa huấn luyện Trụ trì lấy
tên là “Nhƣ Lai Sứ giả”. Những vị tốt nghiệp các khóa này đƣợc bổ về chùa
khắp lục tỉnh tập sự Hoằng pháp. Với trách nhiệm Trƣởng ban Giáo dục trong
Giáo hội Tăng già Nam Việt, Ngài đã khuyến khích, hỗ trợ mở Trƣờng Phật
học tại khắp các tỉnh miền Tây và chính Ngài giảng dạy khắp nơi để động
viên các Trƣờng. Đồng thời, với trách nhiệm Trƣởng Ban Hoằng pháp Giáo
hội Tăng già Nam Việt, đích thân Ngài huấn luyện Tăng Ni thành những
giảng viên thực thụ có thể đi diễn giảng các nơi. Ngài còn huấn luyện hàng cƣ
15


sĩ theo học có khả năng truyền đạt lại cho các lớp học sau. Ngài đã mở các lớp
giáo lý Phật học phổ thông do Ngài chủ trƣơng tại các chùa Ấn Quang, Phƣớc
Hòa, Xá Lợi, Giác Tâm, Dƣợc Sƣ… để giảng dạy cho Phật tử, làm cho phong
trào học Phật miền Nam trỗi dậy mạnh mẽ, ngƣời ngƣời hăng say tu học.
Năm 1964, Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất ra đời, Ngài nhận

chức Đệ nhất Phó Viện trƣởng Viện Hóa Đạo và Trụ trì Việt Nam Quốc Tự.
Năm 1966, Ngài đảm nhận chức Viện trƣởng Viện Hóa Đạo Giáo hội Phật giáo
Việt Nam Thống nhất cho đến ngày viên tịch. Trong giai đoạn này, mặc dù có
nhiều sóng gió, nhƣng Ngài vẫn vững vàng chèo chống, lấy sự tồn tại của đạo
pháp trong sự tồn tại của dân tộc và nhân loại làm đƣờng lối lãnh đạo [1].
Trong bài viết, “Những vấn đề hoằng pháp”, Hòa thƣợng đã đƣa ra
những yếu chỉ căn bản của giảng sƣ và hoạt động của giảng sƣ trong công tác
hoằng pháp nhƣ sau (32,tr.15-16]: ( Xem Phụ lục 2).
- Giai đoạn sau
Năm 2003, trên cơ sở kế thừa những di sản giáo lý và định hƣớng hoạt
động trong ngành hoằng pháp cũng nhƣ giáo dục của Hòa thƣợng Thích
Thiện Hoa để lại, GHPGVN đã lập ra Ban Hoằng pháp từ cấp Trung ƣơng
đến địa phƣơng, với tôn chỉ, nội quy hoạt động rõ ràng: hoằng truyền Chánh
pháp và Giáo dục tăng tài phù hợp với tình hình thời đại mới (Xem Phụ lục1).
1.2.2. Về đào tạo tăng tài
Cả cuộc đời Hòa thƣợng Thiện Hoa luôn dành tâm nguyện cho công tác
hoằng pháp và giáo dục, đào tạo tăng tài. Trên cơ sở khế lý, khế cơ, khế thời,
khế xứ, Ngài cũng đƣa ra tiêu chí về đào tạo mà cho đến nay vẫn thể hiện tầm
nhìn xa trông rộng của Ngài [32, tr.16-18].
1.2.2.1. Vấn đề giáo dục học tăng
Hòa thƣợng đƣa ra những đƣờng nét chính trong bản dự án về chƣơng
trình đại cƣơng Giáo dục của các Phật học đƣờng.

16


* Thanh thiếu niên tăng, ni
Theo Hòa thƣợng, đây là rƣờng cột của Phật giáo ngày mai, cho nên
cần đặc biệt chú ý đến vấn đề giáo dục của họ. Hòa thƣợng chỉ ra, trong quá
khứ và hiện tại chúng ta đã và đang cố gắng đào tạo những vị Tăng, Ni có đầy

đủ trí đức, nhƣng vì hoàn cảnh khó khăn và phƣơng tiện thiếu thốn, chúng ta
chƣa thực hiện đƣợc nhƣ ý nguyện của chúng ta, ý nguyện ấy là đào tạo cho
Tăng, Ni sau khi tốt nghiệp ở các Phật học viện, phải có một trình độ kiến
thức ngoài đời ngang hàng với cử nhân hay ít ra là tú tài và trong đạo phải
thông hiểu một cách chu đáo những giáo lý căn bản của tôn phái, và đủ sức để
tự mình nghiên cứu các kinh điển.
Đây là nói về phẩm, còn về số lƣợng, chúng ta mong muốn làm sao
mỗi năm số học tăng tốt nghiệp các Phật học viện cũng vào khoảng 20 vị trở
lên. Vì có nhƣ thế mới cung cấp đủ cho những nhu cầu hoằng pháp hiện tại và
tƣơng lai. Muốn thực hiện đƣợc nguyện vọng trên chúng ta phải chú ý đến
những điểm sau này:
A. Về chƣơng trình học: Soạn thảo một chƣơng trình học, cả đời lẫn
đạo, tiếp tục trong khoảng từ 10 đến 12 năm. Chúng tôi đề nghị tạm lấy
chƣơng trình của Phật học đƣờng Nam Việt soạn thảo.
B. Về chuyển ngữ: Nên dùng kinh điển hoàn toàn bằng tiếng Việt từ
Tiểu học đến hết Trung học, để lợi thì từ giờ cho học sinh Tăng học và thích
hợp với hoàn cảnh chung của nƣớc nhà. Lên Đại học, cần có một cái vốn chữ
Hán khá để có thể nghiên cứu đƣợc các kinh sách nhƣng chuyển ngữ vẫn là
tiếng Việt, trừ trƣờng hợp những kinh luận chƣa dịch xong.
C. Về trƣờng ốc: Thành lập ở mỗi tỉnh ít ra một Phật học đƣờng cấp
Tiểu học (có cả chƣơng trình ngoài đời lẫn trong đạo). Thành lập trong mỗi
vùng ba hoặc bốn tỉnh một Phật học đƣờng cấp Trung học (có cả chƣơng trình
ngoài đời lẫn trong đạo). Trong toàn quốc thành lập một Phật học viện cấp
17


Đại học (chƣơng trình đại học về đạo, học ở trong, còn chƣơng trình học
ngoài đời theo các lớp đại học ở ngoài).
D. Về sức khỏe. Phải đặc biệt chú ý đến vấn đề sức khỏe cho học sinh
Tăng, Ni: chỗ ở hợp vệ sinh, ăn uống đủ chất bổ, thời gian khóa biểu không

quá nặng nề, phải có giờ vận động giải trí.
E. Về vấn đề lựa chọn học sinh Tăng, Ni. Phải có những điều kiện sau:
có sức khỏe, do bác sĩ lựa, hạnh kiểm tốt, thông minh, cam đoan tuân theo kỉ
luật và khi thành tài là ngƣời của Giáo hội và phục vụ cho Giáo hội.
* Lão thành tăng, ni và các vị trung niên xuất gia
Hạng này vì đã lớn tuổi và hiện đang gánh vác những Phật sự tại chùa hay
hội, nên không thể theo chƣơng trình thanh thiếu niên học tăng đƣợc. Đối với họ,
hàng năm phải có những khóa huấn luyện ít ra là ba tháng (có thể mở trong mùa
an cƣ kiết hạ) Chƣơng trình chuyên về đạo nhiều và một ít phổ thông và Việt
văn. Các môn học dùng chuyển ngữ bằng Tiếng Việt, chỉ xen một ít chữ Hán ở
những chuyên môn cần thiết. Chƣơng trình này có thể tạm dùng chƣơng trình
huấn luyện Trụ trì hay các khóa sứ giả của Giáo hội Tăng già Nam Việt.
* Thanh niên nam, nữ có học lực ở đời khá dự bị xuất gia
Hiện nay có một số thanh niên nam, nữ học lực ở ngoài đời vào trình
độ tú tài hay Trung học đệ nhất cấp muốn xuất gia. Đối với hạng này, chúng
ta cũng phải có một chƣơng trình tu học riêng. Về học đời, họ đã có, nay chỉ
cần dạy Giáo lý cho họ. Nhƣ vậy chúng ta có thể học theo Phật pháp ở các lớp
Trung học của Phật học đƣờng, và dạy cho họ thêm chữ Hán để có thể nghiên
cứu kinh điển.
1.2.2.2. Về chương trình tăng học
Hòa thƣợng Thích Thiện Hoa cho ấn hành bản đại cƣơng một chƣơng
trình Tăng học chi tiết, đầy đủ và thông tuệ.

18


CHƢƠNG TRÌNH ĐỀ NGHỊ
(Chƣơng trình này đã do ban Giáo dục Phật học đƣờng Nam - Việt cải
đổi và ấn định thi hành vào năm 1953 cho riêng Nam phần).
A. Thời hạn: Chƣơng trình học tập tại Phật học đƣờng: Mƣời năm.

B. Cấp bực. Có ba cấp: Cấp Tiểu học bốn năm, cấp Trung học ba năm,
cấp Đại học ba năm, học Tăng qua thời gian đó tốt nghiệp mới ra trƣờng.
C. Học thừa: Trong tình trạng văn hóa Phật giáo hiện tại, về môn Phật
pháp là môn học chính, chỉ có hai cấp Tiểu học và Trung học bằng Việt ngữ.
Trong ba năm Đại học phải dùng Hán ngữ.
D. Đặc tính từng cấp bực: Mỗi học Tăng vào năm thứ nhất Tiểu học ít
nhất phải có trình độ tƣơng đƣơng với bằng Tiểu học thế gian. Năm thứ nhất
này có thể gọi là tƣơng đƣơng với lớp đệ thất Trung học Phổ thông. Trong hai
cấp Tiểu và Trung học Phật giáo, học tăng đƣợc đào luyện về cả hai mặt tri
thức: Tri thức Phật giáo và tri thức phổ thông. Cuối năm thứ bảy, có trình độ
tƣơng đƣơng với lớp đệ nhất Trung học chuyên khoa và có thể thi tú tài toàn
phần (tú tài văn chƣơng cổ điển).
Phật pháp trong bảy năm này, đƣợc dạy hoàn toàn bằng Tiếng Việt.
Cuối năm thứ tƣ, học Tăng phải thi lên năm thứ năm, chuyển từ Tiểu
học lên Trung học.
Cuối năm thứ bảy, học Tăng phải thi lên năm thứ tám, chuyển từ cấp Trung
học lên Đại học, học Tăng có thể thi tú tài. Hoặc đậu hoặc không, miễn đủ năm và
đậu chƣơng trình Phật pháp cũng đƣợc lên lớp cả. Trong ba năm Đại học, học
Tăng đều phải thi lên lớp mỗi năm. Kỳ thi tốt nghiệp cuối cùng sẽ cấp bằng Đại
học Phật pháp bằng Hán văn và Triết lý văn chƣơng Đông Tây bằng Việt văn.
E. Giờ học và các môn học: (số giờ hàng tuần)
Tiểu học Năm thứ nhất:
Phật pháp và Hán tự 10 giờ
19


×