Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề thành phố hà nội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (902.44 KB, 95 trang )

BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


PHẠM THÚY HÒA

NGUỒN LỰC ĐẤT ĐAI
CHO PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ THÀNH
PHỐ HÀ NỘI
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI - 2013


BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


PHẠM THÚY HÒA

NGUỒN LỰC ĐẤT ĐAI
CHO PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ
THÀNH PHỐ HÀ NỘI
Chuyên ngành: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
Mã số:

60 31 01 02

Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS TRƯƠNG TUẤN BIỂU

Hµ NéI -2013




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1

Trang
3
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGUỒN
LỰC ĐẤT ĐAI CHO PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ
TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI

10

1.1

Những vấn đề chung về nguồn lực đất đai cho phát triển
10

1.2

làng nghề
Thực trạng huy động và sử dụng nguồn lực đất đai

29

Chương 2

cho phát triển làng nghề Thành phố Hà Nội
QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP KHAI THÁC, SỬ

DỤNG HIỆU QUẢ NGUỒN LỰC ĐẤT ĐAI CHO
PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ THÀNH PHỐ HÀ

48

2.1

NỘI TRONG THỜI GIAN TỚI
Quan điểm khai thác, sử dụng có hiệu quả nguồn lực

48

2.2

đất đai cho phát triển làng nghề ở Hà Nội
Giải pháp sử dụng hiệu quả nguồn lực đất đai cho
phát triển làng nghề ở Thủ đô Hà Nội

59
76
78
82

KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT


CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ

VIẾT TẮT

1.

Cụm Công nghiệp làng nghề

CCNLN

2.

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNH, HĐH

3.

Cụm công nghiệp

CCN

4.

Công nghiệp – Tiểu thủ công nghiệp

CN-TTCN

5.


Chủ nghĩa xã hội

CNXH

6.

Giải phóng mặt bằng

GPMB

7.

Hội đồng nhân dân

HĐND

8.

Kinh tế - xã hội

KT-XH

9.

Làng nghề truyền thống

LNTT

10


Trọng điểm Bắc Bộ

TĐBB

.
11. Ủy ban nhân dân

UBND

12

XĐGN

.

Xóa đói giảm nghèo


3
MỞ ĐẦU
1. Lý do lựa chọn đề tài
Đất đai là nguồn tài nguyên vô cùng quý giá của mọi quốc gia, là tư
liệu sản xuất đặc biệt, là nguồn lực quan trọng để sản xuất ra của cải vật chất
cho sự tồn tại và phát triển của mỗi quốc gia nói chung và mỗi ngành kinh tế
nói riêng. Đất đai là cũng là tài nguyên có hạn về số lượng nên cần được quản
lý, khai thác và sử dụng một cách chặt chẽ, tiết kiệm và hiệu quả.
Thủ đô Hà Nội sau khi điều chỉnh địa giới hành chính có diện tích
3.344,6 km2, với điều kiện tự nhiên phong phú, đa dạng, có nền văn hoá lâu
đời, đặc biệt là nơi hội tụ nhiều làng nghề thủ công truyền thống nhất cả nước
với bề dày phát triển hàng trăm năm đã sản xuất ra nhiều sản phẩm có giá trị

kinh tế, nghệ thuật, mỹ thuật cao phục vụ tiêu dùng trong nước và xuất khẩu.
Với 1.350 làng nghề và làng có nghề, chiếm khoảng 67% số làng nghề hiện
có của cả nước, Hà Nội tự hào là Thành phố có nhiều nghề thủ công nhất thế
giới. Trong những năm qua, ngành CN - TTCN của Thành phố Hà Nội ngày
càng đổi mới và đạt được những thành tựu nhất định. Các cấp, các ngành, các
tổ chức chính trị - xã hội, các hội, hiệp hội ngành nghề đã quan tâm đến sự
phát triển của nghề, làng nghề với sự năng động sáng tạo của nhân dân, nên
nhiều nghề, làng nghề được khôi phục, củng cố và phát triển. Quá trình hình
thành và phát triển của nghề, làng nghề truyền thống gắn liền với quá trình
phát triển CN - TTCN ở nông thôn đã góp phần tích cực vào sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hóa, nông nghiệp, nông thôn trên địa bàn Thành phố; đời
sống của người lao động được nâng cao, giảm sự khác biệt giữa thành thị và
nông thôn, giữ vững trật tự an ninh xã hội, giảm tỷ lệ hộ nghèo, góp phần phát
triển kinh tế - xã hội ở địa phương, hạn chế di dân tự do và bảo tồn các giá trị
văn hoá truyền thống của dân tộc.


4
Mặc dù đã đạt được những thành tựu to lớn nhưng sự phát triển làng
nghề Thành phố Hà Nội vẫn chưa thực sự tương xứng với tiềm năng, lợi thế,
chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Phát triển nghề, làng nghề vẫn mang
tính tự phát và gặp phải không ít những khó khăn như: thiếu mặt bằng để sản
xuất tập trung, thiếu đội ngũ lao động có tay nghề cao, thiếu vốn để đầu tư đổi
mới công nghệ, thiết bị máy móc nhằm nâng cao sản lượng, chất lượng sản
phẩm, khả năng cạnh tranh thấp, nguồn nguyên liệu không ổn định, chưa tạo
nhiều thương hiệu hàng hoá, sức tiêu thụ sản phẩm còn hạn chế, một số sản
phẩm truyền thống bị mai một, suy giảm. Cơ sở hạ tầng nhất là đường giao
thông, thông tin liên lạc chưa đồng bộ, môi trường làng nghề bị ô nhiễm
nghiêm trọng, chưa có biện pháp khắc phục triệt để. Nói cách khác, sự phát
triển các làng nghề của thành phố Hà Nội chưa thực sự bền vững.

Nguyên nhân của tình trạng đó một phần do các nguồn lực, trong đó
có nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề chưa được khai thác và sử
dụng có hiệu quả. Thực tế tại các làng nghề cho thấy, công tác quản lý nhà
nước về đất đai còn nhiều hạn chế, nhất là trong quy hoạch sử dụng đất,
định giá đất, bồi thường, giải phóng mặt bằng, thủ tục hành chính; sử dụng
đất còn lãng phí, hiệu quả thấp,... nên nguồn lực đất đai chưa được phát
huy đầy đủ để trở thành nội lực quan trọng phục vụ phát triển làng nghề.
Trong khi đó, Thành phố Hà Nội sau khi điều chỉnh địa giới hành chính
năm 2008 có quỹ đất tự nhiên tăng lên rất lớn, đây là nguồn lực hết sức to
lớn và quan trọng mà Thành phố Hà Nội phải tận dụng khai thác cho phát
triển kinh tế - xã hội nói chung, phát triển các làng nghề của Thành phố nói
riêng. Với lý do đó, tác giả lựa chọn vấn đề: “Nguồn lực đất đai cho phát
triển làng nghề ở Hà Nội” làm đề tài luận văn thạc sỹ kinh tế - chuyên
ngành kinh tế chính trị và sự nghiên cứu này có tính cấp thiết cả về lý luận
lẫn thực tiễn.


5
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Khai thác, sử dụng hiệu quả đất đai cho phát triển kinh tế - xã hội nói
chung và cho phát triển làng nghề nói riêng là chủ trương lớn của Đảng và
Nhà nước ta, vì vậy đã có rất nhiều cơ quan nhà nước, các chuyên gia quan
tâm nghiên cứu dưới nhiều hình thức.
Dưới dạng sách nghiên cứu, hội thảo, bài viết tham luận tại các hội thảo
chuyên đề có các công trình:
Công trình "Những biện pháp chủ yếu thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện
đại hóa nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng" của Giáo sư,
Tiến sĩ Nguyễn Đình Phan, Phó Giáo sư, Tiến sĩ Trần Minh Đạo, NXB Chính
trị quốc gia, Hà Nội, năm 2002, đã phân tích làm rõ thực trạng quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, đề xuất hệ thống cơ chế chính sách về chuyển đổi

mục đích sử dụng đất từ đất sản xuất nông nghiệp sang phát triển công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ để thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại
hóa nông nghiệp, nông thôn vùng đồng bằng sông Hồng, trong đó có Thủ đô
Hà Nội.
Công trình "Phát triển bền vững nông thôn đồng bằng Bắc Bộ trong
quá trình phát triển các khu công nghiệp: Thực trang và giải pháp" của Tiến
sỹ Đỗ Đức Quân, đề tài nghiên cứu khoa học cấp Bộ, Học viện Chính trị Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, năm 2008, đã làm rõ những vấn
đề cơ bản về phát triển nông nghiệp, nông thôn; đề xuất giải pháp phát triển
các cụm công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, làng nghề bên cạnh việc phát triển
các khu công nghiệp tập trung.
Tạp chí Tài chính, số 10 năm 2012 chuyên đề về khai thác, quản lý và
sử dụng nguồn lực đất đai đã tập hợp hơn 10 bài viết nghiên cứu chuyên đề
của nhiều tác giả nổi tiếng như Giáo sư, Tiến sỹ Đặng Hùng Võ, Giáo sư, Tiến
sỹ Vương Đình Huệ,... tập trung phân tích, đánh giá hiện trạng và đề xuất


6
những giải pháp về cơ chế, chính sách nhằm khai thác, sử dụng, quản lý có
hiệu quả nguồn lực đất đai cho phát triển kinh tế - xã hội chung của đất nước
và một số địa phương điển hình, trong đó có Thủ đô Hà Nội.
Dưới dạng luận văn, đề tài nghiên cứu khoa học có một số công trình:
Luận án tiến sỹ kinh tế của Trần Minh Yến, năm 2003 "Phát triển làng
nghề truyền thống ở nông thôn Việt Nam trong quá trình công nghiệp hóa,
hiện đại hóa". Luận án Tiến sỹ Kinh tế của Bạch Thị Lan Anh, năm 2011
"Phát triển bền vững làng nghề truyền thống vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ".
Các đề tài luận án này đã tập trung nghiên cứu đánh giá hiện trạng phát triển
làng nghề, đề xuất quan điểm, giải pháp phát triển bền vững làng nghề, làng
nghề truyền thống ở phạm vi cả nước và vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ,
trong đó nguồn lực đất đai được xem xét như một yếu tố nguồn lực để phát
triển bền vững các làng nghề.

Luận văn Thạc sỹ kinh tế của tác giả Nguyễn Thanh Tùng, năm 2010,
“Khai thác và sử dụng nguồn lực tài chính từ đất đai để phát triển kinh tế - xã
hội ở Hà Nội” tập trung đánh giá kết quả khai thác và sử dụng nguồn lực tài
chính từ đất đai cho phát triển kinh tế - xã hội của Thành phố. Đối tượng
nghiên cứu là quan hệ tài chính về đất đai giữa một bên là chính quyền Thành
phố - đại diện chủ sở hữu về đất đai - với một bên là các đối tượng sử dụng
đất bao gồm: Các tổ chức, cá nhân trong nước và nước ngoài được Thành phố
giao đất, cho thuê đất; được bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước
thu hồi đất; các loại thuế liên quan đến đất; biểu hiện ra bên ngoài của mối
quan hệ này là việc Nhà nước được hưởng lợi bằng tiền, bằng sự ổn định,
phát triển kinh tế - xã hội của đất nước và Thủ đô.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu về làng nghề về nguồn lực đất
đai đều đã tiếp cận về cơ sở lý luận và thực tiễn dưới nhiều góc độ khác nhau.
Tuy nhiên, các công trình nghiên cứu trên phạm vi tương đối rộng ở cấp độ


7
vùng hoặc liên vùng, một số nghiên cứu phạm vi hẹp hơn, giới hạn trên địa
bàn Thành phố Hà Nội nhưng thời gian nghiên cứu trước khi Thành phố điều
chỉnh địa giới hành chính năm 2008 nên không còn nhiều tính cập nhật, thời
sự. Những công trình này đối tượng nghiên cứu là phát triển làng nghề, nguồn
lực đất đai chỉ được xem xét như một giải pháp để phát triển làng nghề. Một
số công trình nghiên cứu về nguồn lực đất đai hầu hết chỉ tập trung nghiên
cứu về nguồn tài chính từ đất đai cho phát triển kinh tế - xã hội hoặc quản lý
nhà nước về đất đai.
Tóm lại, sau khi tìm kiếm và nghiên cứu các công trình của nhiều tác
giả liên quan đến phát triển làng nghề trên địa bàn từ sau khi có Nghị quyết
số 15NQ-QH/2008 ngày 29/5/2008 của Quốc hội về điều chỉnh địa giới hành
chính hành phố Hà Nội chưa có công trình nào nghiên cứu một cách có hệ
thống về nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề. Do vậy, học viên lựa

chọn đề tài: "Nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề thành phố Hà
Nội" để nghiên cứu dưới góc độ kinh tế chính trị là hoàn toàn mới, không
trùng lặp với bất kỳ công trình nghiên cứu hoàn chỉnh nào đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích
Phân tích, hệ thống hóa những vấn đề lý luận, thực tiễn về nguồn lực
đất đai để phát triển làng nghề Thành phố Hà Nội hiện nay. Trên cơ sở đó đề
xuất các quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực đất đai
cho phát triển làng nghề Thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
* Nhiệm vụ
Phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn về nguồn lực đất đai cho phát triển
làng nghề.
Phân tích, thực trạng về huy động, sử dụng nguồn lực đất đai cho phát
triển làng nghề Thành phố Hà Nội.


8
Đề xuất quan điểm, giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn lực đất
đai cho phát triển làng Thành phố Hà Nội trong thời gian tới.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề Thành
phố Hà Nội trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông
thôn Thủ đô và được tiếp cận dưới hai góc độ:
- Đất đai là tư liệu sản xuất, là yếu tố tạo dựng mặt bằng cho sản xuất
tại các làng nghề;
- Đất đai là yếu tố vốn, là nguồn lực tài chính khai thác từ đất đai tạo
nguồn vốn cho phát triển làng nghề.
* Phạm vi nghiên cứu của đề tài
Về không gian nghiên cứu chủ yếu là các làng nghề tại huyện ngoại

thành của Thành phố Hà Nội.
Về thời gian nghiên cứu từ năm 2000 đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và
Nhà nước có liên quan; đồng thời sử dụng những lý thuyết kinh tế chính trị
học về vai trò của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường; kế thừa có chọn lọc
những công trình nghiên cứu trước có liên quan đến đề tài luận văn.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp như: Phương pháp duy vật biện
chứng, duy vật lịch sử, phương pháp trừu tượng hóa khoa học, phương pháp
phân tích - tổng hợp, phương pháp thống kê so sánh, phương pháp logíc lịch
sử, tổng kết thực tiễn và phương pháp chuyên gia.


9
6. Ý nghĩa của đề tài
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu để các
cơ quan quản lý nhà nước, các làng nghề tham khảo phục vụ cho công tác quy
hoạch, xây dựng các cơ chế, chính sách phát triển nghề và làng nghề Thành
phố Hà Nội.
- Làm tài liệu tham khảo trong giảng dạy kinh tế chính trị ở các trường
cao đẳng, đại học.
7. Kết cấu của đề tài.
Ngoài mở đầu, nội dung chính của luận văn được kết cấu thành 2
chương, 4 tiết, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.


10
Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ NGUỒN LỰC ĐẤT ĐAI CHO
PHÁT TRIỂN LÀNG NGHỀ TRÊN ĐỊA BÀN THÀNH PHỐ HÀ NỘI
1.1. Những vấn đề chung về nguồn lực đất đai cho
phát triển làng nghề
1.1.1. Làng nghề và vai trò của làng nghề trong phát triển kinh tế xã hội ở Thủ đô Hà Nội
* Làng nghề:
Theo quan điểm của Chính phủ và một số bộ, ngành liên quan khái
niệm về nghề và các loại hình làng nghề như sau:
Làng nghề là một hoặc nhiều cụm dân cư ấp, thôn, bản làng, buôn,
phun sóc, hoặc các điểm dân cư tương tự trên địa bàn một xã, thị trấn có các
hoạt động ngành nghề nông thôn, sản xuất ra một hoặc nhiều loại sản phẩm
khác nhau.
Để được công nhận làng nghề phải đạt được các tiêu chí: Có tối thiểu
30% tổng số hộ trên địa bàn tham gia các hoạt động ngành nghề nông thôn;
hoạt động sản xuất kinh doanh ổn định tối thiểu 2 năm tính đến thời điểm đề
nghị công nhận; chấp hành tốt chính sách pháp luật của Nhà nước.
* Làng nghề truyền thống: Là làng nghề có nghề truyền thống. Làng
nghề truyền thống phải đạt tiêu chí làng nghề và có ít nhất 1 nghề truyền thống
theo quy định tại Thông tư số 116/2006/TT-BNN. Đối với những làng chưa đạt
tối thiểu 30% tổng số hộ và 2 năm sản xuất kinh doanh làng nghề ổn định
nhưng có ít nhất 1 nghề truyền thống được công nhận theo quy định của Thông
tư số 116/2006/TT-BNN thì cũng được công nhận làng nghề truyền thống.
Để được công nhận làng nghề truyền thống, các làng nghề phải đạt
được những tiêu chuẩn: (1) Về thời gian: Là làng có nghề được hình thành
trên 50 năm tính đến ngày làng được đề nghị xét danh hiệu làng nghề truyền


11
thống; (2) Về kinh tế: Có giá trị sản xuất từ ngành nghề nông thôn của làng
chiếm tỷ trọng từ 50% trở lên so với tổng giá trị sản xuất của làng; (3) Về sử

dụng lao động: Có tối thiểu 30% số hộ trên địa bàn tham gia hoạt động ngành
nghề nông thôn; (4) Bảo đảm vệ sinh môi trường và an toàn lao động theo các
quy định hiện hành; (5) Chấp hành tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước, các quy định của Thành phố và địa phương; (6)
Sản phẩm làm ra phải mang bản sắc văn hoá dân tộc, phải gắn với tên tuổi của
làng; (7) Đối với những làng nghề chưa đáp ứng tiêu chuẩn của môi trường
theo quy định tại điểm 4 vẫn được xem xét công nhận danh hiệu làng nghề
truyền thống khi đã có các đề án, dự án nghiên cứu đánh giá tác động môi
trường và đề ra các biện pháp xử lý khắc phục ô nhiễm môi trường.
* Làng nghề mới: Là làng nghề được hình thành cùng với sự phát triển
của nền kinh tế, chủ yếu do sự lan toả của làng nghề truyền thống, có những
điều kiện nhất định để hình thành và phát triển.
* Nghề truyền thống: Là nghề được hình thành từ lâu đời, tạo ra sản
phẩm độc đáo có tính riêng biệt, được lưu truyền và phát triển đến ngày nay
hoặc có nguy cơ bị mai một, thất truyền.
Nghề được công nhận là nghề truyền thống phải đạt 3 tiêu chí: (1)
Nghề đã xuất hiện tại địa phương từ 50 năm tính đến thời điểm công
nhận; (2) Nghề tạo ra những sản phẩm mang bản sắc văn hoá dân tộc; (3)
Nghề gắn với tên tuổi của 1 hay nhiều nghệ nhân hoặc tên tuổi làng nghề.
* Làng có nghề: Là làng được hình thành cùng với sự phát triển của
nền kinh tế chủ yếu do sự lan toả của làng nghề truyền thống, có những điều
kiện thuận lợi để phát triển. Trong đó làng có số hộ, số lao động sản xuất công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp ít nhất từ 10% trở lên.
Với tiêu chí như trên, đến nay Thành phố Hà Nội đã công nhận 277
làng đạt tiêu chuẩn làng nghề chiếm 20,52% tổng số làng có nghề của Thành


12
phố, trong đó có 244 làng nghề truyền thống. Huyện Thanh Oai có 51 làng,
Thường Tín có 44 làng, Phú Xuyên 39 làng, Chương Mỹ 33 làng, Ứng Hoà 20

làng, Ba Vì 14 làng, Quốc Oai 15 làng, Hoài Đức 12 làng, quận Hà Đông 6
làng, Phúc Thọ 5 làng, Gia Lâm 5 làng, thị xã Sơn Tây 2 làng, Sóc Sơn 2 làng,
Từ Liêm 2 làng, Thanh Trì 2 làng, quận Long Biên 1 làng và Mê Linh 1 làng.
Phân theo ngành nghề gồm: Ngành mây tre đan có 83 làng, chiếm tới
30% số làng nghề; ngành nghề chế biến nông sản thực phẩm 44 làng, chiếm
15,88%; nghề thêu ren 28 làng; nghề dệt may 25 làng; nghề chế biến lâm sản
23 làng; nghề nón mũ lá 20 làng; nghề cơ kim khí 13 làng; nghề sơn mài khảm trai 11 làng; nghề da giầy, khâu bóng 8 làng; nghề chạm điêu khắc 6
làng; nghề gốm sứ 3 làng; nghề đan tơ lưới 4 làng; nghề sinh vật cảnh 2 làng;
nghề dát vàng bạc quý 1 làng và nghề khác 6 làng.
Nghề có nhiều làng nghề nhất là: ngành nghề mây tre giang đan có 83
làng, trong đó huyện Chương Mỹ 29 làng, Phú Xuyên 11 làng, Quốc Oai 11
làng, Ứng Hoà 11 làng, Thanh Oai 8 làng... Ít nhất là ngành dát vàng, bạc quý
(Gia Lâm) với 01 làng, rắn Lệ Mật (Long Biên) 01 làng... [29, tr.2].
Quy mô làng nghề ngày càng phát triển, số hộ tham gia sản xuất công
nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ tăng, số hộ thuần nông giảm dần. Cơ cấu
lao động ở nông thôn ngoại thành chuyển dịch nhanh sang làm công nghiệp và
dịch vụ. Các huyện có nhiều hộ sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp là:
Thanh Oai, Chương Mỹ, Hoài Đức, Thường Tín từ 13.000 hộ đến 22.000 hộ.
Một số huyện có số hộ tham gia sản xuất tiểu thủ công nghiệp thấp hơn như Từ
Liêm, Sóc Sơn, Thanh Trì, Đông Anh, Mê Linh, thị xã Sơn Tây từ 500 - 700 hộ.
* Vai trò của làng nghề trong phát triển kinh tế - xã hội Thủ đô Hà Nội
Thứ nhất, tạo việc làm cho người lao động.
Các cơ sở sản xuất làng nghề từ các hộ gia đình đến các thành phần
kinh tế trong làng nghề đã thu hút một số lượng lớn lao động trong sản xuất


13
phi nông nghiệp, hạn chế số lao động di dời nông thôn ra thành thị tìm việc
làm. Ngành nghề đã thu hút từ 30 đến 70% số hộ và từ 50 đến 90% số lao
động tham gia sản xuất nghề với trên 300.000 lao động thường xuyên. Ngoài

ra còn thu hút hàng nghìn lao động nơi khác đến làm thuê như nghề gốm sứ
Bát Tràng (Gia Lâm), làng dệt kim La Phù (Hoài Đức), đan cỏ tế xã Phú Túc,
khảm trai xã Chuyên Mỹ (Phú Xuyên), Vân Hà, Liên Hà (Đông Anh), Liên
Trung (Đan Phượng)...
Sự phát triển làng nghề kéo theo dịch vụ cung cấp nguyên vật liệu,
chuyên chở, kinh doanh hàng hoá, phục vụ ăn uống cho các làng nghề tạo ra
nhiều việc làm cho người lao động. Cơ cấu lao động trong công nghiệp, tiểu
thủ công nghiệp và dịch vụ đã chiếm từ 75 đến 85% trong tổng số lao động,
lao động thuần nông chỉ còn từ 15 đến 25%. Ngoài ra các làng nghề góp phần
giải quyết việc làm cho các lao động dôi dư trong quá trình đô thị hoá, từ đó
đã góp phần phân công lại lực lượng lao động ở nông thôn.
Thứ hai, góp phần tăng thu nhập, hạn chế tệ nạn xã hội, giữ gìn an ninh
trật tự ở nông thôn.
Nghề, làng nghề đã góp phần giải quyết việc làm, nâng cao thu nhập và
khả năng tích luỹ của các hộ khu vực ngoại thành Thành phố. Qua khảo sát ở
các làng nghề cho thấy, thu nhập bình quân của các hộ sản xuất nghề là 24
triệu đồng/người/năm, gấp 1,3 lần so với thu nhập bình quân của cả làng và
gấp 4 lần so với thu nhập của các hộ thuần nông. Đời sống nhân dân được cải
thiện, tỷ lệ hộ nghèo ở các làng nghề thấp hơn nhiều so với tỷ lệ hộ nghèo của
các hộ thuần nông. Số hộ nghèo có mức thu nhập dưới 320.000
đồng/người/tháng đã giảm từ 46.272 hộ, năm 2006 xuống 42.164 hộ năm
2010 [37, tr. 42].
Thứ ba, hạn chế di dân tự do từ ngoại thành vào trung tâm Thành phố.


14
Quá trình phát triển kinh tế ở Thủ đô nhất là việc đô thị hoá gây sức ép
về việc làm và thu nhập đã thúc đẩy người nông dân ngoại thành đi tìm việc
làm ở trung tâm Thành phố. Quá trình đó đã gây áp lực đối với các điều kiện
dịch vụ, cơ sở hạ tầng xã hội ở Thành phố, gây khó khăn quản lý trật tự xã hội.

Vì vậy, sự phát triển nghề, làng nghề hạn chế đáng kể hiện tượng di dân tự do
từ ngoại thành vào trung tâm Thành phố. Với 1.350 làng có nghề ở ngoại
thành, người nông dân có thu nhập ổn định gắn bó với làng quê, đồng thời thu
hút lao động các địa phương khác đến làm việc, góp phần xoá đói giảm nghèo.
Thứ ba, phát huy nội lực địa phương, phát triển kinh tế - xã hội, bảo tồn
và phát huy các giá trị văn hoá truyền thống.
Nghề, làng nghề phát triển tạo điều kiện khai thác thế mạnh của địa
phương về nguồn lực (lao động, thiết bị máy móc, tiền vốn) để tập trung cho
sản xuất kinh doanh theo quy mô hộ gia đình, tổ sản xuất, hợp tác xã, công ty
TNHH... Trong quá trình phát triển sẽ tạo ra đội ngũ lao động có tay nghề cao,
lớp nghệ nhân mới có trình độ để tiếp thu, ứng dụng những tiến bộ về công
nghệ tiên tiến sản xuất ra những sản phẩm có giá trị cao, giá thành hạ, khả năng
cạnh tranh thị trường lớn, đáp ứng dần với yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
Nghề, làng nghề phát triển kéo theo sự đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng ở
làng nghề như: đường giao thông được cải tạo, nâng cấp; thiết chế văn hoá ở
cơ sở được quan tâm xây dựng, đáp ứng nhu cầu sinh hoạt về vật chất, tinh
thần của nhân dân, đồng thời bảo tồn phát huy giá trị văn hoá ở các làng nghề
của địa phương.
Lịch sử phát triển các làng nghề truyền thống của Thành phố gắn với
lịch sử phát triển văn hoá của dân tộc. Mỗi làng nghề sản xuất ra những sản
phẩm chứa đựng nét độc đáo của văn hoá dân tộc, là di sản quý giá của cha
ông tạo ra, truyền lại cho con cháu, làm vẻ vang cho Thủ đô và đất nước như:
Lụa Vạn Phúc, gốm sứ Bát Tràng, sơn mài Duyên Thái, thêu Quất Động, đan


15
cỏ tế Phú Túc, mây tre đan Phú Vinh, đúc đồng Ngũ Xã... Vì vậy, bảo tồn và
phát huy các giá trị văn hoá truyền thống chính là sự kế thừa và phát huy đội
ngũ nghệ nhân và những bí quyết quý giá của nghề đã góp phần không nhỏ
vào việc duy trì bảo tồn di sản văn hoá. Bảo tồn và phát triển ngành nghề thủ

công là tăng thêm sức mạnh cội nguồn, tăng giá trị văn hoá truyền thống của
Việt Nam đối với bạn bè thế giới.
Thứ tư, góp phần tăng khối lượng hàng hoá xuất khẩu và phát triển dịch
vụ du lịch.
Nhu cầu tiêu dùng trong nước hàng thủ công mỹ nghệ ngày một tăng về khối
lượng và chủng loại các sản phẩm hàng hoá để trang trí nội thất và nơi làm việc.
Hàng thủ công mỹ nghệ của làng nghề được người nước ngoài ưa thích
đã góp phần làm phong phú thị trường xuất khẩu của Hà Nội. Giá trị xuất
khẩu hàng thủ công mỹ nghệ ngày càng tăng, từ 95 triệu USD năm 2006 lên
104 triệu USD năm 2010. Giá trị xuất khẩu hàng thủ công mỹ nghệ tăng bình
quân hàng năm từ 1,6% đến 2,8%/năm [29, tr.5].
Hà Nội có tiềm năng về phát triển du lịch lớn lại có nhiều làng nghề
truyền thống. Vì vậy, việc gắn kết các tour du lịch đến với các làng nghề để
khách du lịch tham quan, với những mặt hàng lưu niệm phong phú sẽ tăng
thêm chất lượng của tour du lịch, qua đó quảng bá các sản phẩm làng nghề,
đồng thời góp phần thúc đẩy ngành dịch vụ, du lịch phát triển.
Thứ năm, thúc đẩy phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp theo
hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn.
Nghề, làng nghề đã góp phần thúc đẩy nền kinh tế của Thành phố phát
triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, làm
chuyển dịch cơ cấu kinh tế của Thành phố. Đến năm 2010 tỷ trọng công
nghiệp và dịch vụ trong GDP của Thành phố đã chiếm tới 93,8%; nông, lâm
nghiệp và thuỷ sản là 6,2%. Cơ cấu kinh tế các làng nghề có tỷ trọng công


16
nghiệp và dịch vụ trong GDP cũng chiếm từ 75% đến 85%. Sự phát triển các
làng nghề đã mở rộng quy mô địa bàn sản xuất, thu hút nhiều lao động đã làm
chuyển dịch cơ cấu lao động sang làm công nghiệp và dịch vụ và giảm dần
lao động nông nghiệp. Chính làng nghề phát triển đã hình thành các trung tâm

buôn bán, trao đổi hàng hoá, dần dần trở thành các trung tâm dân cư, các thị
trấn, thị tứ và từng bước đô thị hoá.
Với vai trò như trên nên việc khai thác nguồn lực đất đai cho phát triển
các làng nghề trên địa bàn Thành phố Hà Nội có ý nghĩa to lớn về kinh tế, xã
hội và quốc phòng, an ninh.
1.1.2. Vai trò của nguồn lực đất đai cho phát triển làng nghề trên địa
bàn Thành phố Hà Nội
* Lý luận chung về địa tô.
Địa tô là phần sản phẩm thặng dư do những người sản xuất trong nông
nghiệp tạo ra và nộp cho người chủ sở hữu ruộng đất. Địa tô gắn liền với sự ra
đời và tồn tại của chế độ tư hữu về ruộng đất. Đã từng tồn tại trong các chế độ
chiếm hữu nô lệ, phong kiến, tư bản chủ nghĩa và cả trong thời kì đầu của chủ
nghĩa xã hội. Trong chế độ chiếm hữu nô lệ, địa tô là do lao động của nô lệ và
những người chiếm hữu ruộng đất nhỏ tự do tạo ra. Trong chế độ phong kiến,
địa tô là phần sản phẩm thặng dư do nông nô tạo ra và bị chúa phong kiến
chiếm đoạt, có khi còn bao gồm cả một phần sản phẩm tất yếu. Trong chủ
nghĩa tư bản, do còn chế độ tư hữu về ruộng đất trong nông nghiệp nên vẫn
tồn tại địa tô. Về thực chất, địa tô tư bản chủ nghĩa chính là phần giá trị thặng
dư thừa ra ngoài lợi nhuận bình quân và do nhà tư bản kinh doanh nông
nghiệp trả cho địa chủ. Nguồn gốc của địa tô tư bản chủ nghĩa vẫn là do lao
động thặng dư của công nhân nông nghiệp làm thuê tạo ra. Địa tô tư bản chủ
nghĩa phản ánh quan hệ giữa ba giai cấp: địa chủ, tư bản kinh doanh nông
nghiệp và công nhân nông nghiệp làm thuê. Trong chủ nghĩa tư bản, có các
loại địa tô: địa tô chênh lệch, địa tô tuyệt đối và địa tô độc quyền.


17
Địa tô chênh lệch là sự chênh lệch giữa giá cả sản xuất chung nông
phẩm đươc quyết định bởi điều kiện không thuận lợi nhất với giá cả sản xuất
cá biệt ở những nơi có điều kiện sản xuất thuận lợi, do đó năng suất lao động

được nâng cao. Địa tô chênh lệch là phần lợi nhuận siêu ngạch ngoài lợi
nhuận bình quân, nhà tư bản thu được trên những thửa ruộng đất có điều kiện
thuận lợi và trả cho địa chủ. Địa tô chênh lệch cũng như toàn bộ giá trị thặng
dư trong nông nghiệp không phải do ruộng đất đẻ ra. Ruộng đất tốt hay xấu
chỉ là điều kiện tự nhiên ảnh hưởng đến năng suất lao động của công nhân
nông nghiệp, là cơ sở tự nhiên không thể thiếu do địa tô chênh lệch hình
thành. Nguồn gốc của địa tô chênh lệch và địa tô nói chung là do lao động của
công nhân nông nghiệp tạo gia
Xét về cơ sở hình thành lợi nhuận siêu ngạch và việc chuyển hoá lợi
nhuận siêu ngạch thành địa tô, địa tô chênh lệch được chia làm hai loại: địa tô
chênh lệch I và địa tô chênh lệch II. Đây là cách Mác chia và ông coi địa tô
chênh lệch I gắn liền với độ mầu mỡ tự nhiên và vị trí địa lí thận lợi, còn địa
tô chênh lệch II gắn liền với thâm canh, là kết quả của tư bản đầu tư thêm trên
cùng một đơn vị diện tích.
Địa tô tuyệt đối là toàn bộ số chênh lệch giữa giá trị và giá cả sản xuất
hay chỉ bằng một phần (lớn hoặc nhỏ) của số chênh lệch. Như vậy giá cả
nông sản có thể cao hơn giá cả sản xuất của chúng. Nhưng vẫn thấp hơn giá
trị của chúng và không phải giá cả đắt lên là nguyên nhân sinh ra địa tô, mà
chính địa tô là nguyên nhân làm cho giá cả nông sản tăng lên. sự thiệt hại đối
với xã hội là nguồn gốc làm giàu cho giai cấp địa chủ. Khi độc quyền tư hữu
ruộng đất bị thủ tiêu thì địa tô tuyệt đối bị xoá bỏ. Giá cả nông sản sẽ hạ
xuống có lợi cho xã hội.
Trong chủ nghĩa tư bản, không phải chỉ đất đai sử dụng vào sản suất
nông nghiệp với phải nộp địa tô, mà tất cả các loại đất xây dựng, đất hầm mỏ


18
còn phải đem lại địa tô cho người sở hữu chúng. Bất kì ở đâu có sức tự nhiên
bị độc chiếm và tạo ra một lợi nhuận siêu ngạch cho nhà tư bản sử dụng
những sức tự nhiên. Địa tô đất xây dựng về cơ bản được hình thành như địa tô

đất nông nghiệp nhưng nó cũng có đặc trưng riêng. Đó là, trong việc hình
thành địa tô đất xây dựng, vị trí của đất đai là yếu tố quyết định, còn độ màu
mỡ và hình thái của đất đai không ảnh hưởng lớn; địa tô đất xây dựng tăng lên
nhanh chóng do sự gia tăng dân số, do nhu cầu nhà ở tăng lên và do những tư
bản cố định sát nhập vào ruộng đất ngày càng tăng lên.
Địa tô luôn ngắn với độc quyền sở hữu ruộng đất, độc chiếm các điều
kiện tự nhiên thuận lợi, cản trở sự cạnh tranh của tư bản, tạo nên giá cả độc
quyền của nông sản. tuy nhiên, có những loại đất có thể trồng những loại cây
cho sản phẩm quý hiếm có giá trị cao hay có những khoáng sản đặc biệt có
giá trị, thì địa tô ở những đất đó rất cao, có thể xem đó là địa tô độc quyền.
Nguồn gốc của địa tô độc quyền này cũng là lợi nhuận siêu ngạch do giá cả
độc quyền cao của sản phẩm thu được trên đất đai.
Các địa tô như địa tô về đất xây dựng, địa tô hầm mỏ và địa tô bãi cá,
đất rừng thiên nhiên,... tuy là địa tô thu được trên những diện tích đất phi
nông nghiệp nhưng đều dựa trên cơ sở địa tô đất nông nghiệp theo đúng nghĩa
của từ này. Chúng bao gồm cả hai loại địa tô: địa tô tuyệt đối và địa tô chênh
lệch. Mác nói "Bất kỳ ở đâu có những sức tự cho nhà công nghiệp lợi dụng
những sức tự nhiên ấy, chẳng kể là thác nước, là hầm mỏ giàu khoáng sản, là
những nơi nhiều cá hay là đất để xây dựng có vị trí tốt, thì số lợi nhuận siêu
ngạch đó của nhà tư bản hoạt động cũng đều bị kẻ có cái giấy chứng nhận về
quyền sở hữu những của cải tự nhiên ấy chiếm đoạt dưới hình thái địa tô".
Trong chủ nghĩa xã hội, khi ruộng đất thuộc sở hữu toàn dân, không
còn là tư hữu của địa chủ hay nhà tư bản, thì những cơ sở kinh tế để hình
thành địa tô tuyệt đối và địa tô độc quyền cũng bị xoá bỏ, nhưng vẫn tồn lại


19
địa tô chênh lệch, song nó thuộc sở hữu của nhà nước và khác về bản chất với
địa tô chênh lệch dưới chủ nghĩa tư bản.
Ở Việt Nam, ruộng đất thuộc sở hữu toàn dân, là tư liệu sản xuất đặc

biệt của nông nghiệp, lâm nghiệp, không gì thay thế được, và là tài nguyên
quý giá của quốc gia. Nhà nước chuyển quyền sử dụng ruộng đất lâu dài cho
nông dân, và người sử dụng đất phải nộp thuế sử dụng đất; cho người nước
ngoài thuê đất để lập doanh nghiệp hay để xây dựng trụ sở cơ quan ngoại
giao; cho phép các tổ chức, cá nhân người Việt Nam tham gia xí nghiệp liên
doanh với người nước ngoài được góp vốn pháp định bằng giá trị đất sử dụng.
Tuy hình thức địa tô tuyệt đối không còn, nhưng ruộng đất vẫn là một tư liệu
sản xuất có giá trị và người sử dụng vẫn phải trả giá như là một loại địa tô.
* Khái niệm về nguồn lực đất đai.
Nguồn lực là hệ thống những yếu tố tự nhiên, xã hội có ích đối với sự
phát triển của xã hội loài người, thông qua việc khai thác, sử dụng chúng mà
con người có thể tạo ra những sản phẩm phù hợp với nhu cầu của mình. Tùy
theo trình độ xã hội hóa của lực lượng sản xuất và sự phân công lao động xã
hội, các nguồn lực được khai thác nhằm phục vụ cho nhu cầu rất khác nhau
của con người. Do đó, vị trí, vai trò của các nguồn lực là rất khác nhau. Thậm
chí, đối với các quốc gia có trình độ phát triển khác nhau, các nguồn lực cũng
phát huy tác dụng không giống nhau.
Nguồn lực phát triển kinh tế có thể phân loại theo ngành, theo lĩnh vực.
Theo nhận thức phổ biến hiện nay, các nguồn lực bao gồm: nguồn lực con
người, nguồn lực đất đai, nguồn lực tài chính, nguồn lực khoa học - công
nghệ, hay cách hiểu tương tự là vốn, lao động, đất đai, tri thức.
Trong hệ thống các nguồn lực cho sự phát triển của xã hội loài người kể
trên, nguồn lực đất đai luôn có vị trí rất quan trọng. Vai trò đó còn ngày càng
quan trọng hơn đối với một quốc gia có trình độ phát triển thấp, đặc biệt đối


20
với nền kinh tế còn mang nặng đặc trưng nông nghiệp. Đất đai là một tư liệu
sản xuất đặc biệt không chỉ đơn thuần là yếu tố tạo dựng mặt bằng cho hoạt
động sản xuất mà trong những năm gần đây, cùng với sự chuyển đổi sang nền

kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đất đai còn được coi là yếu tố
vốn, là nguồn lực tài chính khai thác từ đất đai tạo nguồn vốn cho sản xuất.
Theo đó, có thể hiểu: Nguồn lực đất đai cho phát triển các làng nghề là
yếu tố tự nhiên có ích với vai trò là tư liệu sản xuất, nguồn lực tài chính - vốn
không thể thiếu của quá trình sản xuất kinh doanh đã, đang và sẽ được huy
động, sử dụng cho phát triển các làng nghề phù hợp với quy định của pháp
luật và giải quyết hài hòa lợi ích kinh tế của các chủ thể có liên quan.
Như vậy, nội dung nguồn lực đất đai cho phát triển các làng nghề được
hiểu với tư cách là tư liệu sản xuất như dùng để xây dựng nhà xưởng, tạo mặt
bằng cho sản xuất, nhà kho, sân phơi...; đồng thời, đó còn là nguồn lực tài
chính, nguồn vốn nếu đất đai được chuyển đổi theo cơ chế thị trường và phù
hợp với quy định của pháp luật hiện hành.
* Vai trò của nguồn lực đất đai trong phát triển làng nghề
Thứ nhất, nguồn lực đất đai với vai trò là tư liệu sản xuất.
Đất đai là tài nguyên vô cùng quí giá đối với mỗi quốc gia, là điều kiện
tồn tại và phát triển của con người và các loài sinh vật khác trên trái đất. Các
Mác đã viết: “Đất đai là tài sản mãi mãi với loài người, là điều kiện cần để
sinh tồn, là điều kiện không thể thiếu được để sản xuất, là tư liệu sản xuất cơ
bản của sản xuất vật chất” [20, tr.7].
Trong tiến trình lịch sử của xã hội loài người, con người và đất đai ngày
càng gắn liền chặt chẽ với nhau. Đất đai trở thành nguồn của cải vô tận của
con người, con người dựa vào đó để tạo nên của cải vật chất nuôi sống mình.
Đất đai luôn là thành phần quan trọng của môi trường sống. Không có đất đai


21
thì không có bất kỳ một ngành sản xuất nào, không một quá trình lao động
nào diễn ra và cũng không thể có sự tồn tại của xã hội loài người.
Trong số những điều kiện vật chất cần thiết cho hoạt động sản xuất và
đời sống con người, đất đai chiếm vị trí đặc biệt, là điều kiện đầu tiên và nền

tảng tự nhiên của bất kỳ quá trình sản xuất nào.
Các Mác cho rằng, đất đai là phòng thí nghiệm vĩ đại, là kho tàng cung
cấp các tư liệu lao động, vật chất, là vị trí để định cư, là nền tảng của tập thể.
Khi nói về vai trò và ý nghĩa của đất đai đối với nền sản xuất xã hội, Mác đã
khẳng định "Lao động không phải nguồn duy nhất sinh ra của cải vật chất và
giá trị tiêu thụ - như William Petty đã nói - Lao động chỉ là cha của của cải vật
chất, còn đất là mẹ". Chúng ta đều biết rằng không có đất đai thì không thể có
sản xuất, cũng như không tồn tại con người. Đất đai là sản phẩm tự nhiên,
xuất hiện trước con người. Đất đai tồn tại như một vật thể lịch sử - tự nhiên
không phụ thuộc vào hình thái kinh tế - xã hội [22, tr.164].
Đất đai là điều kiện vật chất chung nhất đối với mọi ngành sản xuất và
hoạt động của con người, vừa là đối tượng lao động vừa là phương tiện lao
động, tuy nhiên đất đai là một tư liệu sản xuất đặc biệt, nó khác với các tư liệu
sản xuất khác ở những đặc điểm sau:
- Đặc điểm tạo thành: Đất đai xuất hiện ngoài ý chí và nhận thức của
con người; là sản phẩm của tự nhiên, có trước lao động, là điều kiện tự nhiên
của lao động. Chỉ khi tham gia vào hoạt động sản xuất của xã hội, dưới tác
động của lao động đất đai mới trở thành tư liệu sản xuất. Trong khi đó các tư
liệu sản xuất khác là kết quả của lao động có trước của con người.
- Tính hạn chế về số lượng: Đất đai là tài nguyên hạn chế, diện tích đất
bị giới hạn bởi ranh giới đất liền. Các tư liệu sản xuất khác có thể tăng về số
lượng, chế tạo lại tùy theo nhu cầu của xã hội.


22
- Tính không đồng nhất: Đất đai không đồng nhất về chất lượng, giá trị
và mục đích sử dụng. Các tư liệu sản xuất khác có thể đồng nhất về chất
lượng, quy cách, tiêu chuẩn.
- Tính không thay thế: Thay thế đất đai bằng từ liệu sản xuất khác là
không thể thực hiện được. Các tư liệu sản xuất tùy thuộc vào mức độ phát

triển của lực lượng sản xuất có thể được thay thế bằng tư liệu sản xuất khác
hoàn thiện hơn, hiệu quả kinh tế cao hơn.
- Tính cố định vị trí: Đất đai hoàn toàn cố định vị trí trong quá trình sử
dụng, không thể di chuyển từ chỗ này sang chỗ khác. Các tư liệu sản xuất
khác được sử dụng ở mọi chỗ, mọi nơi, có thể di chuyển trên các khoảng cách
khác nhau tùy theo sự cần thiết.
- Tính vĩnh cửu: Đất đai là tư liệu sản xuất vĩnh cửu, nếu biết sử dụng
hợp lý thì có thể làm tăng tính chất sản xuất cũng như hiệu quả sử dụng đất.
Khả năng tăng tính sản xuất của đất tùy thuộc vào phương thức sử dụng là
tính chất có giá trị đặc biệt, không tư liệu sản xuất nào có được. Các tư liệu
sản xuất khác đều bị hư hỏng dần, hiệu ích sử dụng giảm và cuối cùng là bị
loại khỏi quá trình sản xuất.
Như vậy có thể nói "đất đai là một tư liệu sản xuất cực kỳ quan trọng.
Đất đai tham gia vào tất cả các ngành sản xuất vật chất của xã hội như là một
tư liệu sản xuất đặc biệt" [20, tr.12].
Muốn xây dựng nhà máy, trước hết phải có địa điểm, một diện tích đất
đai nhất định, trên đó sẽ là nơi xây dựng nhà xưởng để máy móc, thiết bị, kho
tàng, bến bãi, nhà làm việc, đường sá đi lại trong nội bộ,... tất cả những cái đó
là điều cần thiết trước tiên để tiến hành hoạt động sản xuất kinh doanh.
Quỹ đất là toàn bộ diện tích đất đai các loại của một quốc gia, một vùng
hay địa phương của một loại đất theo mục đích sử dụng. Quỹ đất có thể được
tính cho toàn bộ hay cho một đầu người. Có thể xem xét cơ cấu quỹ đất các


23
loại đang sử dụng theo mục đích. Quỹ đất của một quốc gia hay địa phương
thường là cố định và việc tăng thêm thường rất hạn chế. Quỹ đất theo đầu
người thường có xu hướng giảm bớt, vì đất đai không được sản sinh ra thêm
trong khi dân số lại tăng lên. Quỹ đất đai của quốc gia là một nguồn lực tự
nhiên cần được bảo vệ, sử dụng một cách tiết kiệm và hiệu quả. Quỹ đất

đai được hình thành một cách tự nhiên gắn liền với quá trình hình thành đất
với một lịch sử lâu đời trong quá trình sử dụng đất của con người. Quỹ đất
cũng được phân bố một cách tự nhiên gắn liền với phân bố các vùng lãnh
thổ. Mặt khác, trong quá trình sử dụng đất do những nhu cầu sử dụng đất
khác nhau, quỹ đất cũng được hình thành bởi con người nhằm điều hòa và
bố trí lại đất đai theo mục đích sử dụng. Khi những nhu cầu về xây dựng cơ
sở hạ tầng, về phát triển các khu công nghiệp, đô thị tăng lên, con người có
thể điều chỉnh, giảm bớt diện tích của các quỹ đất khác như quỹ đất nông
nghiệp để tăng quỹ đất cho các loại nhu cầu trên. Sự thay đổi cơ cấu quỹ
đất trong tổng thể quỹ đất tự nhiên có ý nghĩa rất quan trọng, nói lên xu thế
phát triển của đất nước trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội, đồng thời
cũng thể hiện trình độ phát triển của khoa học kỹ thuật và ứng dụng chúng
vào sản xuất.
Thứ hai, nguồn lực đất đai với vai trò là nguồn lực tài chính.
Nguồn lực tài chính là khối lượng giá trị dưới hình thái tiền tệ trong quá
trình tạo lập và sử dụng các quỹ tiền tệ, phản ánh các mối quan hệ kinh tế xã
hội trong quan hệ phân phối nhằm đáp ứng nhu cầu tích lũy và tiêu dùng của
các chủ thể trong xã hội. Như vậy, nguồn lực tài chính là phạm trù của quan
hệ phân phối, đó là sự phân phối bằng giá trị chứ không phải bằng hiện vật và
thông qua hiện vật [33, tr.21].
Nguồn lực tài chính được biểu hiện rất khác nhau, tùy theo nguồn gốc
hình thành mà chủ thể có thể thực hiện để có được các quỹ tiền tệ tập trung.


×