Tải bản đầy đủ (.doc) (106 trang)

Biện pháp tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục trẻ em đường phố ở thành phố hồ chí minh hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (413.06 KB, 106 trang )

BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

LAI HỒNG HẢI

BIỆN PHÁP TỔ CHỨC PHỐI HỢP
CÁC LỰC LƯỢNG GIÁO DỤC TRẺ EM
ĐƯỜNG PHỐ Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
HIỆN NAY

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC

HÀ NỘI - 2013


BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ

LAI HỒNG HẢI

BIỆN PHÁP TỔ CHỨC PHỐI HỢP
CÁC LỰC LƯỢNG GIÁO DỤC TRẺ EM
ĐƯỜNG PHỐ Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
HIỆN NAY

Chuyên ngành: Quản lý giáo dục
Mã số: 60 14 01 14

Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS TRƯƠNG THÀNH TRUNG

HÀ NỘI - 2013




MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1

CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TỔ CHỨC

Trang
3
13

PHỐI HỢP CÁC LỰC LƯỢNG GIÁO DỤC TRẺ
EM ĐƯỜNG PHỐ Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ
1.1
1.2

MINH
Các khái niệm cơ bản của đề tài
Đặc điểm hoạt động của các lực lượng giáo dục trẻ em

13

1.3

đường phố ở thành phố Hồ Chí Minh
Thực trạng tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục

19
25


trẻ em đường phố ở thành phố Hồ Chí Minh
Chương 2

YÊU CẦU VÀ BIỆN PHÁP TỔ CHỨC PHỐI HỢP

47

CÁC LỰC LƯỢNG GIÁO DỤC TRẺ EM
2.1

ĐƯỜNG PHỐ Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
Yêu cầu tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục trẻ

47

2.2

em đường phố ở thành phố Hồ Chí Minh
Những biện pháp cơ bản tổ chức phối hợp các lực lượng

54

2.3

giáo dục trẻ em đường phố ở thành phố Hồ Chí Minh
Khảo nghiệm tính cấp thiết và khả thi của các biện pháp

71


KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

80
83
87


3

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đảng và Nhà nước ta coi “Giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu”,
là nền tảng và động lực của sự phát triển đất nước. Vì vậy, Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ XI đã xác định phải “ Đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục và
đào tạo theo nhu cầu phát triển của xã hội;... Đẩy mạnh xây dựng xã hội học
tập, tạo cơ hội và điều kiện cho mọi công dân được học tập suốt đời” [15, tr.
77]. Việc thực hiện chủ trương đó mở ra triển vọng cho mọi thành phần trong
xã hội, kể cả các nhóm yếu thế, bị tổn thương như trẻ em đường phố có được
nhiều cơ hội hơn để tiếp nhận sự giáo dục theo những mục tiêu, nội dung,
phương thức thích hợp.
Là một thành phố lớn của Việt Nam, thành phố Hồ Chí Minh đứng đầu
trong việc giao thương với các nước trên thế giới, một thành phố văn minh,
hiện đại, kinh tế, văn hóa, xã hội không ngừng phát triển. Vì vậy, nơi đây trở
thành địa chỉ có sức hấp dẫn đối với các doanh nghiệp, cũng như người lao
động đến làm ăn, sinh sống. Nhưng bên cạnh đó, số lượng trẻ em lang thang,
cơ nhỡ từ nhiều vùng miền khác nhau cũng tìm đến Thành phố Hồ Chí Minh
để kiếm kế sinh nhai cũng khá lớn. Để quản lý và giáo dục đối tượng trẻ em
đường phố, nhiều tổ chức, nhiều lực lượng, nhiều nhà hảo tâm đã có những

hình thức tập hợp, giúp đỡ các em và đã đạt những kết quả nhất định, nhưng
hiệu quả giáo dục trẻ em đường phố còn nhiều hạn chế. Một trong những
nguyên nhân của tình trạng đó là việc tổ chức phối hợp các lực lượng giáo
dục trẻ em đường phố ở thành phố Hồ Chí Minh còn có những bất cập do sự
chồng chéo, phân tán trong hoạt động, cần được giải quyết trên phương diện
quản lý giáo dục.
Thực tế cho thấy, việc quản lý giáo dục trẻ em đường phố nếu được tiến
hành tốt thì sẽ góp phần rất tích cực vào việc bảo đảm trật tự, trị an, xây dựng
thành phố văn minh, lịch sự, đồng thời trẻ em có cơ hội thuận lợi hơn


4
để phát triển nhân cách, trở thành những công dân tốt, có khả năng bổ
sung vào nguồn nhân lực cho sự phát triển xã hội. Quan tâm đến tổ chức phối
hợp các lực lượng giáo dục trẻ em đường phố sẽ tạo nên sự đồng tâm, hợp lực
của toàn xã hội trong việc đảm bảo công bằng xã hội trong giáo dục, vì vậy
các chủ thể quản lý giáo dục phải thực sự chăm lo đến vấn đề này.
Hiện nay, những công trình nghiên cứu ở thành phố Hồ Chí Minh về
giáo dục trẻ em có rất nhiều, nhưng chủ yếu là giáo dục trong gia đình, nhà
trường chính quy, còn những công trình nghiên cứu về giáo dục trẻ em đường
phố chưa nhiều. Trên phương diện khoa học quản lý giáo dục, những nghiên
cứu về tổ chức phối hợp hoạt động của các chủ thể giáo dục trẻ em đường phố
ở thành phố Hồ Chí Minh chỉ mới đề cập những khía cạnh cụ thể của sự hợp
tác giữa một vài lực lượng nhất định trên địa bàn hẹp.
Xuất phát từ thực tế đó, chúng tôi chọn đề tài: “Biện pháp tổ chức phối
hợp các lực lượng giáo dục trẻ em đường phố ở thành phố Hồ Chí Minh hiện
nay” để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh rất quan tâm đến vấn đề giáo dục, rèn
luyện thế hệ trẻ, Người coi “Thanh thiếu niên là người tiếp sức cách mạng

cho thế hệ thanh niên già, đồng thời là người phụ trách dìu dắt thế hệ thanh
thiếu niên tương lai”. Và trong mọi công việc, thanh niên là lực lượng có khả
năng thực hiện khẩu hiệu: “Đâu cần thì thanh niên có , việc gì khó thì thanh
niên làm” [ 42, tr. 129, 288 ]. Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở toàn Đảng, toàn
dân ta phải xem trọng và có trách nhiệm trong giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ, vì
vậy phải có sự chung tay, góp sức của mọi người, mọi nhà vào sự nghiệp giáo
dục để mọi đối tượng trẻ em đều được học hành, tiến bộ. Để mở mang giáo
dục cho mọi người, đặc biệt cho thế hệ trẻ, Hồ Chí Minh đã thường xuyên chú
trọng chỉ đạo xây dựng hệ thống giáo dục và đào tạo, với nhiều quy mô và


5
loại hình tổ chức trường, lớp khác nhau, đáp ứng yêu cầu từ thực hiện xoá mù
chữ, bổ túc văn hoá, phổ cập giáo dục, đào tạo nghề. . . đến đào tạo chính quy,
chất lượng cao ở tất cả các bậc học. Những tư tưởng của Hồ Chí Minh về tổ
chức hệ thống giáo dục và việc huy động sức mạnh của toàn xã hội vào sự
nghiệp giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ có thể coi là quan điểm chỉ đạo hết sức
quan trọng cho hoạt động thực tiễn, cũng như nghiên cứu lý luận về tổ chức
phối hợp các lực lượng giáo dục trong xã hội ở Việt Nam.
Quán triệt tư tưởng Hồ Chí Minh về mở mang giáo dục, bảo đảm cơ
hội bình đẳng cho mọi người được học hành, nhiều nhà khoa học về giáo dục
và quản lý giáo dục ở nước ta đã nghiên cứu và công bố những công trình
khoa học về quản lý giáo dục. Các công trình của các tác giả đã được công bố
như: Nguyễn Ngọc Quang “Những khái niệm cơ bản về quản lý giáo dục”,
Trường cán bộ quản lý giáo dục và đào tạo, Hà Nội, 1998; Đặng Quốc Bảo
“Một số khái niệm về quản lý giáo dục”, Trường cán bộ quản lý giáo dục và
đào tạo, Hà Nội, 1997; Trần Kiểm, “Khoa học quản lý giáo dục – một số vấn
đề lý luận và thực tiễn”, Nxb Giáo dục, 2004; Đặng Bá lãm “Quản lý nhà
nước về giáo dục, lý luận và thực tiễn”, Nxb CTQG, Hà Nội, 2005; Bùi Minh
Hiền “Quản lý giáo dục”, Nxb Đại học Sư phạm, 2006, Đỗ Minh Cương,

Phương Kỳ Sơn “Các học thuyết quản lý”, Nxb CTQG, Hà Nội, 1996.
Các công trình nghiên cứu của các tác giả tập trung luận giải nhiều vấn
đề, nhiều nội dung cơ bản như: Vai trò quản lý, quản lý giáo dục, khái niệm về
quản lý, khoa học quản lý giáo dục, bản chất, chức năng, phương pháp quản
lý giáo dục. Các thông tin trong quản lý, công cụ quản lý giáo dục, quản lý tài
chính, quản lý cơ sở vật chất kỹ thuật trong giáo dục, quản lý chất lượng giáo
dục. Xây dựng đội ngũ giáo viên, cán bộ quản lý giáo dục, xây dựng văn hóa
trong quản lý giáo dục, các mô hình quản lý giáo dục, phân cấp trong quản lý
giáo dục, thực trạng công tác quản lý nhà nước về giáo dục, một số kinh


6
nghiệm quốc tế về quản lý giáo dục, quản lý giáo dục trong xu thế hội nhập và
toàn cầu hóa.
Chúng ta đang sống trong một kỷ nguyên của sự tiến bộ khoa học công
nghệ và khuynh hướng toàn cầu hoá, do đó nhu cầu của con người ngày càng
phong phú và đa dạng, trong đó nhu cầu mở mang tri thức, phát triển năng lực
đang trở nên cấp thiết đối với từng các nhân, cũng như cả xã hội. Điều đó thúc
đẩy hình thành một xã hội học tập, làm cho học và lao động nhập, đan xen
vào nhau, buộc các cá nhân phải học suốt đời để tồn tại và phát triển trong xã
hội không ngừng đổi mới. Trước bối cảnh đó, giáo dục cho mọi người (EFA:
Education For All) đang trở thành mối quan tâm hàng đầu của nhiều quốc gia.
UNESCO đã tổ chức nhiều Hội nghị quốc tế bàn về giáo dục: Năm 1990 tại
Jomtien (Thái Lan) đã diễn ra Hội nghị về “Giáo dục cho mọi người”; năm
1996 tại Amman (Jordanie) Hội nghị “Giáo dục cho mọi người” đã tuyên bố:
“ Giáo dục cho mọi người: một mục tiêu trong tầm tay chúng ta”. Đáp ứng
đòi hỏi bức thiết về thực hiện mục tiêu “Giáo dục cho mọi người” nhiều quốc
gia đã quan tâm mở rộng xã hội hoá giáo dục, thu hẹp bất bình đẳng về giáo
dục, từng bước khắc phục tình trạng trẻ em lang thang không được đi học.
Ở Việt Nam thời gian qua, trên lĩnh vực giáo dục và đào tạo chúng ta đã

thu được những thành tựu to lớn về phát triển quy mô, loại hình đào tạo, đổi
mới nội dung, phương pháp dạy học, cũng như huy động các lực lượng trong
xã hội tham gia vào sự nghiệp giáo dục. Trong bối cảnh đó, nhiều công trình
nghiên cứu về quản lý giáo dục đã được thực hiện nhằm góp phần luận giải cơ
sở khoa học cho những chủ trương, giải pháp đổi mới giáo dục, đào tạo.
Trong số đó có không ít công trình bàn về biện pháp phối hợp giữa nhà
trường, gia đình và xã hội để giáo dục thế hệ trẻ. Chẳng hạn như: Đề tài “Biện
pháp quản lý hoạt động giáo dục ngoài’ giờ lên lớp trường Trung học Phổ
thông Kiến An thành phố Hải phòng” luận văn Thạc sỹ của tác giả Phạm


7
Trung Diện [8]; nghiên cứu: “Quản lý sự phối hợp các lực lượng giáo dục
đạo đức cho học sinh của Hiệu trưởng Trung học Cơ sở huyện Vũ Thư, Thái
Bình” luận văn thạc sỹ Đoàn Thị Thu Hà [24]; đề tài “ Các biện pháp quản lý
công tác giáo dục đạo đức của Hiệu trưởng trường Trung học phổ thông tỉnh
Hưng Yên” luận văn thạc sỹ Đỗ Quang Hợp [26] .
Theo tác giả luận văn Phạm Trung Diện, mục tiêu của Giáodục phổ
thông là giúp cho học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất,
thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản, phát triển năng lực cá nhân, tính năng động
và sáng tạo, hình thành nhân cách con người, xây dựng tư cách và trách
nhiệm công dân, chuẩn bị cho học sinh tiếp tục lên đi vào cuộc sống lao động,
tham gia bảo vệ Tổ quốc. Để đạt được mục tiêu giúp học sinh phát triển toàn
diện, hình thành nhân cách con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, ngoài việc
đẩy mạnh hoạt động dạy học nhằm truyền thụ kiến thức cơ bản và có hệ thống
còn phải đẩy mạnh giáo dục đạo đức nhằm hình thành cho học sinh về ý thức
và niềm tin, về thái độ ứng xử đúng đắn trong các mối quan hệ xã hội, về
hành vi và các kỹ năng sống ... bằng các tác động của nhiều lực lượng giáo
dục cả trong và ngoài nhà trường.
Tác giả luận văn Đoàn Thị Thu Hà cho rằng, muốn phát triển con người

toàn diện, đặc biệt khai thác phát triển tâm lực trong bối cảnh xã hội đan xen,
giao thoa các yếu tố tích cự và tiêu cực. . . thì cần tổ chức xây dựng môi
trường giáo dục lành mạnh, thân thiện, huy động thống nhất mọi tiềm lực xã
hội. Trong môi trường giáo dục đó nhà trường, gia đình và xã hội giữ vai trò
quan trọng đối với sự phát triển nhân cách của trẻ em và là nhân tố cốt lõi của
mối liên kết các lực lượng giáo dục học sinh.
Theo tác giả Đỗ Quang Hợp, đạo đức là những chuẩn mực của xã hội,
là thước đo giá trị nhân cách của con người. Các phẩm chất đạo đức là một bộ
phận của nhân cách con người. Đạo đức là cái gốc, là cái lõi nhất của con


8
người. Giáo dục phổ thông không chỉ cung cấp kiến thức mà còn cần phải
phát triển các kỹ năng, hệ thống thái độ, tính cảm, niềm tin để các em trở
thành chủ nhân của đất nước, xây dựng cuộc sống hạnh phúc, văn minh. Giáo
dục đạo đức khác với quá trình dạy học của các môn văn hóa vì đó là quá
trình xã hội hóa, vì vậy cần có sự tham gia rộng rãi của gia đình và các lực
lượng xã hội để giáo dục không chỉ trong khuôn viên nhà trường mà còn là
các hoạt động ngoài giờ học, cần phải tổ chức quản lý sự phối hợp giữa nhà
trường với gia đình để tạo ra sự đồng thuận thực hiện mục tiêu giáo dục.
Ngoài các công trình nghiên cứu trên, còn có rất nhiều bài viết của các
nhà khoa học, các tác giả về công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đã được
đăng tải trên các tạp chí, kỷ yếu, hội thảokhoa học đã được công bố. Các công
trình đã đề cập đến mục đích, vị trí, vai trò của công tác quản lý giáo dục,
phối hợp các lực lượng giáo dục, trong đó có những chương trình, dự án dành
cho các trẻ em có hoàn cảnh khó khăn. Ở đây có thể kể đến “Giải pháp tổ
chức quản lý các lớp học tình thương tại thành phố Hồ Chí Minh” luận văn
thạc sỹ của Lê Thị Xuân Lang [32] . Tác giả cho rằng ở các nước trên thế
giới, kể cả các nước đang phát triển, đời sống kinh tế cao nhưng vẫn có một
bộ phận trẻ em nghèo khó. Hiện nay, trên thế giới có tới 130 triệu trẻ em trong

độ tuổi tiểu học không được đi học. Ở Việt Nam các loại hình trường, lớp phổ
cập,lớp học tình thương là loại hình không chính qui đã thu hút một số lượng
lớn trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt khó khăn vào học, khi các em không thể đến
trường, lớp chính qui. Hệ thống quản lý giáo dục phải chỉ đạo thống nhất hoạt
động của các loại hình trường, lớp đó.
Qua đó cho thấy, đã có một số đề tài, chuyên đề và bài viết nghiên cứu
và luận giải trên nhiều góc độ khác nhau về quản lý giáo dục, quản lý và phối
hợp các lực lượng giáo dục. Tuy nhiên, chưa có công trình nào tập trung


9
nghiên cứu về công tác phối hợp các lực lượng giáo dục dành cho trẻ em
đường phố ở thành phố Hồ Chí Minh.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn tổ chức phối hợp các lực
lượng giáo dục trẻ em đường phố ở Thành phố. Từ đó đề xuất tăng cường các
biện pháp tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục trẻ em đường phố ở Thành
phố Hồ Chí Minh hiện nay.
Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục
trẻ em đường phố.
- Làm rõ thực trạng tổ chức phối hợp các lực lượnggiáo dục trẻ em
đường phố ở thành phố Hồ Chí Minh và nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đề xuất một số biện pháp cơ bản tổ chức phối hợp các lực lượng giáo
dục trẻ em đường phố ở thành phố Hồ Chí Minh.
4. Khách thể, đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu
Qúa trình quản lý các lực lượng giáo dục trẻ em đường phố ở thành phố
Hồ Chí Minh.

Đối tượng nghiên cứu
Biện pháp tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục trẻ em đường phố ở
thành phố Hồ Chí Minh hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu
Dưới góc độ khoa học quản lý giáo dục, đề tài giới hạn nghiên cứu về
sự tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục của các cơ sở bảotrợ, các lớp học
tình thương, lớp học ban đêm, trung tâm giáo dục thường xuyên, trung tâm
dạy nghề và giải quyết việc làm cho trẻ em đường phố (sau đây gọi chung là


10
các cơ sở giáo dục trẻ em đường phố) tại thành phố Hồ Chí Minh tồn tại trong
khoảng thời gian từ 2007 đến 2012.
5. Giả thuyết khoa học
Lực lượng giáo dục trẻ em đường phố ở thành phố Hồ Chí Minh rất đa
dạng về nguồn gốc, quy mô, cơ cấu tổ chức, nội dung và phương thức hoạt
động. Nếu như các chủ thể quản lý giáo dục trẻ em đường phố thực hiện tốt
những biện pháp: kế hoạch hóa việc phát triển lực lượng giáo dục, xây dựng
nền nếp phối hợp hoạt động giáo dục; tổ chức các hoạt động chung; tranh thủ
sự hợp tác, giúp đỡ của các tổ chức xã hội và các nhà trường trên địa bàn đối
với các cơ sở giáo dục trẻ em đường phố, thường xuyên kiểm tra, đánh giá
hoạt động hiệp đồng thực hiện nhiệm vụ giáo dục - đào tạo thì sẽ tăng cường
được sự phối hợp giữa các lực lượng giáo dục trẻ em đường phố ở thành phố
Hồ Chí Minh.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận
Đề tài nghiên cứu dựa trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa Mác
– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối quan niệm của Đảng Cộng sảnViệt
Nam, nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn của các cấpvề giáo dục – đào tạo và quản
lý giáo dục – đào tạo. Đề tài nghiên cứu trên quan điểm hệ thống – cấu trúc,

đối chiếu – so sánh, lôgic – lịch sử và quan điểm thực tiễn để xem xét, phân
tích những vấn đề liên quan.
Phương pháp nghiên cứu
- Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết:
Thực hiện việc đọc tài liệu, thu thập thông tin, phân tích, tổng hợp, hệ
thống hoá, mô hình hoá, khái quát hoá các tài liệu liên quan phục vụ cho mục
đích và nhiêm vụ nghiên cứu: Một số tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác
– Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh, các văn kiện, nghị quyết của Đảng, Bộ Giáo


11
dục và Đào tạo, Luật Giáo dục; sách tham khảo, tài liệu, báo chí về khoa học
quản lý và quản lý giáo dục, các công trình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
- Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
Phương pháp điều tra: Điều tra xã hội học đối với trẻ em đường phố và
cán bộ quản lý giáo dục các cấp về tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục
trẻ em đường phố.
Phương pháp quan sát: Quan sát hoạt động giáo dục, học nghề, rèn
luyện trẻ em đường phố của các lực lượng giáo dục.
Phương pháp toạ đàm, trao đổi: toạ đàm, trao đổi với cán bộ quản lý,
các nhà giáo dục và trẻ em đường phố.
Phương pháp nghiên cứu từ các phương tiện quản lý: Nghiên cứu các
hệ thống chương trình, qui trình, nội dung đào tạo, bài giảng, kế hoạch quản
lý, hệ thống sổ sách của cán bộ quản lý và kế hoạch học tập công việc của các
em, trong đó chú trọng đến kế hoạch quản lý các em của các cán bộ và kế
hoạch học tập, hoạt động sau bài giảng của các em.
Phương pháp tổng kết thực tiễn: Nghiên cứu những kinh nghiệm của
các tổ chức về quản lý hoạt động học tập của trẻ em đường phố tại thành phố
Hồ Chí Minh.
Phương pháp chuyên gia: xin ý kiến của các nhà khoa học, nhà quản lý

về một số vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan trong quá trình nghiên cứu
đề tài.
Phương pháp thống kê toán học: Dùng để tổng hợp kết quả điều tra và
xử lý số liệu.
7. Ý nghĩa của đề tài
Về lý luận
- Luận văn làm sáng tỏ cơ sở khoa học của việc tổ chức phối hợp các
lực lượng giáo dục trẻ em đường phố.


12
- Làm rõ khái niệm và đặc điểm hoạt động của các lực lượng giáo dục
trẻ em đường phố ở thành phố Hồ Chí Minh.
Về thực tiễn
- Chỉ ra thực trạng, nguyên nhân tổ chức phối hợp các lực lượng giáo
dục trẻ em đường phố ở thành phố Hồ Chí Minh.
- Đề xuất một số biện phápcơ bản tổ chức phối hợp các lực lượng giáo
dục trẻ em đường phố ở thành phố Hồ Chí Minh.
8. Cấu trúc của luận văn
Cấu trúc của đề tài bao gồm: Phần mở đầu, 2 chương ( 6 tiết ), kết luận,
kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.


13
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ TỔ CHỨC PHỐI HỢP
CÁC LỰC LƯỢNG GIÁO DỤC TRẺ EM ĐƯỜNG PHỐ
Ở THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
1.1. Các khái niệm cơ bản của đề tài
1.1.1. Khái niệm về trẻ em đường phố

Trẻ em Việt Nam
Trước khi Luật Bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em ra đời, “trẻ em” là
một khái niệm được mọi người trong xã hội hiểu theo nhiều cách khác nhau,
điều đó dẫn đến những khác biệt trong giải quyết vấn đề “trẻ em trên cả
phương diện lý luận và thự tiễn. Dựa trên cơ sở Công ước Liên hiệp quốc về
Quyền trẻ em chúng ta đã dần thống nhất được khái niệm về trẻ em”. Theo
điều 1 Công ước này, “Trẻ em có nghĩa là người dưới 18 tuổi, trừ trường hợp
luật pháp áp dụng với trẻ em đó qui định tuổi thành niên sớm hơn” [50, tr.69].
Trẻ em của Việt Nam, trẻ em được hiểu là công dân nhỏ tuổi (dưới 16
tuổi) đang hình thành nhân cách, cần được bảo vệ, chăm sóc, giáo dục để phát
triển về thái độ, kiến thức, kỹ năng năng lực lao động và hoạt động xã hội.
Về mặt xã hội học, trẻ em được nhìn nhận như là một nhóm nhân khẩu
đặc biệt, có độ tuổi từ 0 đến 16 tuổi đang trong quá trình xã hội hoá, tức là có
hoạt động chính tiếp thu kiến thức, kỹ năng, kinh nghiệm xã hội để tham gia
hoạt động với tư cách là một chủ thể xã hội.
Trẻ em đường phố
Theo UNICEF, trẻ em đường phố là những trẻ tham gia vào hoạt động
kinh tế, dưới các hình thức từ ăn xin đến bán dạo để kiếm sống. Một trong số
những trẻ này có thể trở về nhà vào cuối ngày, chúng góp phần vào việc kiếm
tiền cho gia đình, chúng cũng có thể đi học, nhưng do đời sống kinh tế mong
manh của gia đình nên cuộc sống của chúng diễn ra chủ yếu ngoài đường phố.


14
Trẻ em đường phố là trẻ sống ngoài đường phố, sống bên trong hay bên
ngoài một gia đình bình thường, nếu có sự hiện trong gia đình thì cũng duy trì
không thường xuyên. Trẻ em đường phố đa số có nhiều ở tại các thành phố
lớn, đặc biệt tại các nước đang phát triển, chúng có thể là những đối tượng bị
bỏ rơi trong gia đình, bị lạm dụng lao động, hay bị khai thác trong một số vấn
đề nhạy cảm nào đó. . .Như vậy có thể hiểu, trẻ em đường phố là trẻ kiếm

sống ngoài đường phố trong điều kiện duy trì không thường xuyên hoặc hoàn
toàn thiếu vắng đời sống sinh hoạt gia đình.
Trẻ em đường phố ở Thành phố Hồ Chí Minh
Ở thành phố Hồ Chí Minh, trẻ em đường phố đôi khi còn gọi là trẻ bụi
đời, phần lớn chúng thường bị bỏ rơi bởi các gia đình nghèo, con đông, hoặc
bởi các gia đình đã tan vỡ, không người nuôi dưỡng chúng. Khi đầu tư nước
ngoài bùng nổ ở đỉnh cao tại thành phố cũng chính là lúc người ta thấy có
nhiều dòng nhập cư nhanh chóng của những lao động trẻ em. Đó là những trẻ
em bỏ nhà từ nhiều miền quê khác nhau vào Thành phố Hồ Chí Minh để làm
việc nhằm phụ giúp gia đình. Họ thường làm những nghề trên đường phố
( bán hoa, bán vé số, đánh giày. . .), hoặc ở những phân xưởng, doanh nghiệp
tư nhân. Phần lớn số trẻ em này không có việc làm ổn định, chúng có thể lang
thang sống trên đường phố, không có sự chăm sóc và bảo vệ của gia đình.
Cuộc sống của trẻ em đường phố thường diễn ra trong các hàng quán, công
viên hay chính trên các vỉa hè, chúng kiếm sống bằng nhiều hình thức như:
đánh giày, bán vé số, bán đồ lưu niệm cho khách nước ngoài ở các khu phố
Tây hoặc làm nghề lặt vặt như: khuân vát đồ đạc ở chợ, xin ăn . . .
Những trẻ em này thường luôn di chuyển khu vực kiếm sống từ phường
này sang phường khác hoặc quận này sang quận khác, hoặc có thể các em
hoạt động trong một số địa bàn định phù hợp với cách kiếm sống của mình.
Những nơi có đông trẻ em đường phố ở thành phố Hồ Chí Minh là: Khu vực


15
trung tâm thành phố (đường Nguyễn Huệ, Đồng Khởi, Nhà hát Thành Phố),
Chợ Bến Thành Quận 1, phố Tây Phạm ngũ Lão, Đề Thám, công viên 23/9,
khu vực Chợ Lớn, Ga Sài Gòn , các bến xe Miền Tây, Miền Đông; khu vực
cầu Bình Triệu. .
Trẻ em đường phố thuộc nhóm người yếu thế trong xã hội, nhưng
chúng vẫn lớn lên và sẽ là một lực lượng lao động không nhỏ. Vì vậy, xã hội

cần quan tâm giáo dục để trẻ em đường phố trưởng thành tốt hơn. Điều 28
Công ước Liên hiệp quốc về Quyền trẻ em đã xác định: “Các quốc gia thành
viên công nhận quyền trẻ em được học hành” [50, tr.91], luật pháp Việt Nam
cũng đã qui định: “Trẻ em có quyền được học tập” [50, tr. 39]. Đây là sự công
nhận về mặt pháp lý về quyền được học tập của trẻ em.
Thực hiện “Hiến chương Liên Hiệp Quốc về quyền trẻ em” các chính
phủ thường giải quyết vấn đề quản lý trẻ em đường phố bằng cách tập trung
các em vào các trại mồ côi, nhà trẻ hay các nhà dành cho trẻ vị thành niên, tuy
nhiên, một số em lại lẩn tránh sự quản lý, bỏ chạy khỏi các cơ sở đó. Điều đó
đặt ra vấn đề là, để giáo dục tốt trẻ em đường phố cần phải đẩy mạnh tuyên
truyền, thu hút, tập hợp các em vào những mô hình quản lý, chăm sóc thích
hợp nhằm giảm bớt tình trạng sốnglang thang, cách ly các em khỏi đời sống
đường phố,đồng thời tổ chức giáo dục cho đối tượng này theo những nội
dung, phương thức thích hợp.
1.1.2 Khái niệm về lực lượng giáo dục trẻ em đường phố
Theo dữ liệu của Streets Educators’Club, số lượng các trẻ em đường
phố ở thành phố Hồ Chí Minh năm 2007 có khoảng 8.000 em, đến nay số
lượng trẻ em đường phố vẫn còn rất đông đảo. Để quản lý, giáo dục số trẻ em
đường phố, các cấp chính quyền có trách nhiệm chăm lo công tác phổ cập
giáo dục, đồng thời động viên, tổ chức các lực lượng, đoàn thể xã hội trên địa
bàn tham gia vào giáo dục các em. Các ban ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội,


16
tổ dân phố tham gia có hiệu quả vào giáo dục, vận động các gia đình nghèo,
gia đình khó khăn cho con em đi học, đồng thời là lực lượng phối hợp, vận
động tại địa bàn các nhà hảo tâm hổ trợ vật chất, nhân lực để mở các lớp tình
thương, các hoạt động nhân đạo dành cho trẻ em đường phố. Các tổ chức
nhân đạo giúp đỡ, ủng hộ các trẻ em đường phổ về tài chính và các điều kiện
sinh hoạt... Tất cả những sự giúp đỡ tạo điều kiện đó đã đưa tới hình thành

những cơ sở giáo dục trẻ em đường phố như các cơ sở bảo trợ, các mái ấm,
nhà mở, các lớp học tình thương, lớp học ban đêm, trung tâm giáo dục thường
xuyên, trung tâm dạy nghề và giải quyết việc làm cho trẻ em đường phố... Để
tiến hành các hoạt động giáo dục, dạy học cho trẻ em đường phố tại các cơ sở
này cần có các cán bộ quản lý giáo dục, các giáo viên. . . Những người này
tạo thành lực lượng giáo dục trẻ em đường phố.
Như vậy có thể nói: Lực lượng giáo dục trẻ em đường phố là những tổ
chức và cá nhân tham gia trực tiếp vào các hoạt động quản lý và giáo dục
nhằm nâng cao trình độ học vấn, chuẩn bị nghề nghiệp, hoàn thiện nhân cách
để trẻ em đường phố hòa nhập đời sống cộng đồng một cách có kết quả.
Chức năng chủ yếu của lực lượng giáo dục trẻ em đường phố là dạy
học và giáo dục. Theo đó lực lượng giáo dục trẻ em đường phố tham gia vào
quá trình “dạy chữ”, “dạy nghề” cho các em theo những chương trình, nội
dung thích hợp với từng cơ sở giáo dục. Bên cạnh đó, ho phải tổ chức mọi
mặt hoạt động và điều chỉnh các mối quan hệ xã hội cho các em, trên cơ sở đó
giáo dục các em trở thành những công dân, những người lao động chân chính.
Lực lượng giáo dục trẻ em đường phố thường bao gồm những người là
thành viên chính thức của các cơ sở giáo dục trẻ em đường phố và những tình
nguyện viên, cộng tác viên tham gia giáo dục, dạy học cho các em nhưng họ
không phải là thành viên của các cơ sở vừa nêu. Số lượng tình nguyện viên,
cộng tác viên của các cơ sở giáo dục trẻ em đường phố khá lớn, họ làm việc


17
theo chuyên môn chính của mình trong nhiều cơ quan, tổ chức kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội, tôn giáo... khác nhau. Do tính chất đa dạng, phức tạp về
thành phần xã hội của lực lượng giáo dục trẻ em đường phố nên rất cần phải
tổ chức phối hợp họ để tập trung sức mạnh của mọi cá nhân, mọi tổ chức
trong thực
hiện nhiệm vụ giáo dục trẻ em đường phố.

1.1.3 Khái niệm về tổ chức phối hợp và biện pháp tổ chức phối hợp
các lực lượng giáo dục trẻ em đường phố
Trong đời sống xã hộii, thuật ngữ “tổ chức” thường được hiểu là quá
trình sắp xếp trật tự, nền nếp, xác lập một chỉnh thể, một cơ cấu thống nhất
của các hoạt động hoặc các quan hệ xã hội nhất định. Bên cạnh đó, thuật ngữ
“phối hợp” thường được dùng trong trường hợp các cá nhân hoặc tổ chức trao
đổi thông tin; thống nhất mục tiêu, nội dung, cách thức hành đông; hiệp đồng
kế hoạch, tiến độ thực hiện để có thể cùng nhau hành động và hỗ trợ nhau một
cách có kết quả.
Từ đó cho phép chúng ta suy ra rằng: Tổ chức phối hợp các lực lượng
giáo dục trẻ em đường phố là hoạt động xác lập trật tự, nền nếp cho việc trao
đổi thông tin, kế hoạch; hiệp đồng các hành động, thao tác của những cá
nhân và tổ chức để thống nhất các nỗ lực sư phạm và hỗ trợ lẫn nhau trong
quá trình giáo duc, dạy học tại các cơ sở giáo dục trẻ em đường phố.
Tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục trẻ em đường phố là một
trong các khâu không thể thiếu trong công tác chỉ đạo, quản lý giáo dục. Sự
phối hợp này không chỉ bảo đảm cho việc quản lý trẻ em được chặt chẽ, mà
còn nâng cao chất lượng dạy học và giáo dục toàn diện ở cả trong và ngoài
nhà trường. Để đạt được điều đó, cần có sự chung tay góp sức của các cấp,
các ngành, của nhiềulực lượng, nhiều tổ chức, đoàn thể, của mỗi gia đình và
toàn xã hội vào các hoạt động giáo dục. Vì vậy, cơ quan quản lý giáo dục và


18
lực lượng giáo dục trẻ em đường phố trên cùng một địa bàn phải tiến hành
xác lập các mối quan hệ công việc thật cụ thể; phân định rõ ràng và triển khai
thực hiện nghiêm trách nhiệm của từng lực lượng giáo dục; tổ chức tốt các
hoạt động hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau trong quản lý, giáo dục, bảo đảm đời sống
và việc làm phù hợp cho đối tượng giáo dục. Để đạt được điềuđó chủ thể quản
lý giáo dục phái có những biện pháp tổchức phối hợp cáclực lượng giáo dục

trẻ em đường phố một cáchcó hiệu quả.
Biện pháp tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục trẻ em đường phố
là cách thức tác động một cách có mục đích, có kế hoạch đến các tổ chức và
cá nhân tham gia quá trình giáo dục nhằm thúc đẩy và tạo điều kiện để họ
trao đổi thông tin, hiệp đồng thống nhất hành động và hỗ trợ lẫn nhau trong
thực hiên mục tiêu, kế hoạch, nội dung, phương pháp giáo dục và dạy học tại
các cơ sở giáo dục trẻ em đường phố trên những địa bàn nhất định.
Tùytừng thời điểm,từng điều kiện cụ thể của lực lượng giáo dục mà chủ
thể quản lý giáo dục lựa chọn những biện pháp tổ chức phối hợp các lực
lượng giáo dục khác nhau, nhưng cần tập trung vào những cách thức tác động
chủ yếu sau:
Một là, kiện toàn, phát triển lực lượng giáo dục và trấn chỉnh nền nếp
hoạt động của từng cơ sở giáo dục. Đây là điều kiện quan trọng để hiệp đồng,
phối hợp, bởi vì nếu lực lượng quá mỏng, nền nếp kỷ luật của cơ sở giáo dục
lỏng lẻo thì sẽ thiếu thực lực để phối hợp lực lượng giáo dục cả bên trong và
bên ngoài cơ sở đó. Ta có thể coi đây là biện pháp tạo sức mạnh “nội sinh”
cho sự phối hợp lực lượng giáo dục.
Hai là, sử dụng hoạt động chung như là một “đòn bẩy” để nâng chất
lượng tổ chức phối hợp các lực lượng giáo dục. Bởi vì, hoạt động chung vừa
đòi hỏi, vừa tạo điều kiện cho các chủ thể quản lý thực hiện các hành động
hiệp đồng, phối hợp. Nếu hoạt động chung giữa các cơ sở giáo dục khác nhau


19
được tổ chức tốt thì không chỉ đưa đến mối quan hệ gần gũi, thân thiết giữa
các nhà quản lý, giáo viên và trẻ em giữa các cơ sở đó mà còn rèn luyện được
kỹ năng, năng lực tổ chức phối hợp của chủ thể quản lý giáo dục.
Ba là, tăng cường mối quan hệ gắn bó giữa cơ sở giáo dục trẻ em
đường phố với những tổ chức cung cấp lực lượng tình nguyện viên, cộng tác
viên cho hoạt động giáo dục và dạy học cho trẻ em đường phố, trước hết là

các đoàn thể, tổ chức xã hội và các nhà trường chính quy trong hệ thống giáo
dục quốc dân. Đây là tiền đề, điều kiện thuận lợi cho tổ chức phối hợp các lực
lượng giáo dục trẻ em đường phố, bởi vì khi các đoàn thể, tổ chức xã hội, nhà
trường chính quy đỡ đầu, kết nghĩa, hỗ trợ dạy học... thì lực lượng giáo dục
trẻ em đường phố có cơ hội phát triển về số lượng, chất lượng và tận dụng
được sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội để thực hiện mục tiêu “dạy chữ, dạy
người, dạy nghề”.
Bốn là, thực hiện tốt chức năng kiểm tra, đánh giá để kịp thời phát huy
những sáng kiến, kinh nghiệm tốt, đồng thời điều chỉnh những lệch lạc trong
việc phối hợp các lực lượng giáo dục trẻ em đường phố. Đây là tác động rất
cần thiết nhằm làm cho hoạt động phối hợp các lực lượng giáo dục được từng
cơ sở giáo dục trẻ em đường phố quan tâm hơn.
1.2. Đặc điểm hoạt động của các lực lượng giáo dục trẻ em đường
phố ở thành phố Hồ Chí Minh
1.2.1. Đặc điểm về mục tiêu hoạt động
Mục tiêu của giáo dục đào tạo là giúp thế hệ trẻ pháttriển toàn diện về
đạo đức, trí tuệ, thẩm mỹ và các kỹ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách
con người Việt Nam xã hội chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công
dân, chuẩn bị cho thế hệ trẻ đi vào cuộc sống lao động, tham gia xây dựng và
bảo vệ tổ quốc.


20
Mục tiêu hoạt động của các lực lượng giáo dục cho các trẻ em đường
phố nhằm thực hiện một cách linh hoạt mục tiêu, nội dung chương trình giáo
dục trẻ em nói chung, đồng thời tập trung hướng vào tạo ra điều kiện để trẻ
em đường phố được học tập và từng bước nâng kết quả học tập, nâng cao đạo
đức, lối sống, ý thức và năng lực thực hiện các quy định của pháp luật, có
trình độ tay nghề phù hợp để có thể kiếm được việc làm, tự nuôi sống cho bản
thân mình, có thể phụ giúp cho những người cùng cảnh ngộ như mình và hoà

nhập cộng đồng trong xã hội. Mục tiêu hoạt động của từng lực lượng giáo dục
có thể thường bị chế định bởi cơ cấu xã hội của những người tham gia vào lực
lượng giáo dục, phương thức tập hợp trẻ em đường phố và điều kiện, hoàn
cảnh tổ chức hoạt động giáo dục. Chẳng hạn,chương trình lớp học tình thương
Nguồn Sáng ở 228 Nam Kỳ khởi nghĩa, phường 6, quận 3 được khởi xướng
bởi một nhóm người làm công tác xã hội vào ngày 14/3/2002. Các lực lượng
tham gia ở đây đã cử ra Ban điều hành, có Trưởng ban chịu trách nhiệm
chung. Lúc đầu mục tiêu hoạt động chỉ là tập hợp trẻ em đường phố để dạy
học bằng cách phân công giáo viên đi tìm và đem trẻ về học. Khi trẻ em biết
rủ nhau đến học tại địa điểm của lớp tình thương và đạt tới số lượng trên 50
em thì mục tiêu hoạt động lại tập trung vào nâng cao chất lượng dạy học.
Nhìn chung, các chương trình dành cho trẻ em đường phố không cứng
nhắc trong việc đặt ra mục tiêu giáo dục chung mà tùy từng loại đối tượng trẻ
em được tập hợp mà tổ chức từng chương trình khác nhau, hướng tới những
mục tiêu cụ thể khác nhau. Chẳng hạn, chương trình Bạn Trẻ Em Đường Phố
- Friends for Street Children Association FFSC), địa chỉ tại 140/4 Võ thị Sáu,
Phường 8, Quận 3, TP.HCM tập hợp đối tượng thanh thiếu niên đã lớn, có nhu
cầu việc làm, nhưng trình độ văn hoá thấp, chưa có tay nghề thì mục tiêu hoạt
động của lực lượng giáo dục phải hướng tập trung vào dạy cho các em kiến
thức và kỹ năng trang điểm, làm tóc để có thể tự kiếm việc, đồng thời hổ trợ
vay vốn ban đầu để các em có thể lập tiệm riêng.


21
1.2.2.Đặc điểm về nội dung, phương thức phối hợp hoạt động của
các lực lượng giáo dục trẻ em đường phố
Hoạt động của lực lượng giáo dục trẻ em đường phố baohàm đầy đủ
các đặc trưng của quản lý xã hội, quản lý giáo dục, đồng thời mang những nét
đặc thù theo yêu cầu giáo dục, tạo việc làm cho các em. Mọi hoạt động của
lực lượng giáo dục trẻ em đường phố mang tính chủ động, năng động, sáng

tạo, tự quản cao và thể hiện những đặc điểm sau:
Một là, hoạt động của lực lượng giáo dục trẻ em đường phố diễn ra
trong sự dung hòa giữa yêu cầu của phát triển giáo dục nói chung và yêu cầu
chuẩn bị cho trẻ em đường phố những phẩm chất năng lực cần thiết để trở về
đời sống gia đình và hòa nhập cộng đồng.
Căn cứ vào trình độ, thời gian, điều kiện của địa điểm của các em
đường phố, nội dung, chương trình giáo dục ở các lớp học dànhcho trẻ em
đường phố thường có tính mềm dẻo, vừa bảo đảm trang bị cho các em kiến
thức cơ bản, vừa thích ứng với đời sống thường ngày của các em và hoàn
cảnh thực tế của cơ sở giáo dục. Đặc điểm này có thể nhận thấy ở hầu hết
các lớp tình thương trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh. Thực tế, tại giáo
xứ Nhân Hòa phường 15, quận Tân Bình – nơi có tới 9 lớp tình thương, với
324 học sinh, 9 giáo viên và đã được trường tiểu học trong phường hổ trợ,
nhưng ông NguyễnVăn Đình quản lý lớp học tình thương vẫn rất trăn trở:
“Chúng tôi dạy dỗ các em theo những gì chúng tôi có thể, chúng tôi không
có đủ thời gian vì buổi học chỉ vỏn vẹn có 2 giờ, các khoản sách vở, dụng cụ
và trang thiết bị hoàn toàn do giáo xứ giúp đỡ và mong đợi từ các nhà hảo
tâm”. Do đó, những nội dung giáo dục ở đây chủ yếu là những vấn đề về đạo
lý làm người được truyền đạt qua những bài thơ, câu hò, vè hay qua tổ chức
các phong trào xã hội nhằm giúp các em hòa nhập được với đời sống của
cộng đồng.


22
Hai là, hoạt động của lực lượng giáo dục trẻ em đường phố mang tính
đa dạng, linh hoạt, phù hợp với đặc điểm về sự non nớt, thiếu kinh nghiệm và
cuộc sống không ổn định của đối tượng giáo dục. Mỗi trẻ em đường phố là
những mảnh đời khác nhau nên việc tổ chức các hoạt động quản lý giáo dục
cho các em cũng khác nhau. Những giáo viên dạy những lớp học dành cho trẻ
em đường phố, ngoài những tình thương còn phải có tính kiên nhẫn, chịu khó

lắng nghe các em, biết thu hút trẻ đến lớp và tận tình truyền thụ kiến thức,
giáo dục nhân cách cho những con người thiếu những điều kiện phát triển
bình thường. Thêm vào đó, những điều kiện, phương tiện phục vụ cho việc
giảng dạy lại không đầy đủ nên chỉ có những người tình nguyện với tất cả tấm
lòng thì mới có kiên nhẫn, chịu khó để luôn đến với các em.
Với tình thương thực sự đối với trẻ em đường phố, những lực lượng giáo
dục cho đối tượng này thường không nề hà công việc gì có lợi cho việc dạy dỗ
các em. Chẳng hạn, để lớp học tình thương không phải dạy chay, học chay vì
thiếu sách, do các em không có tiền mua, những người tình nguyện, các vị chư
tăng ở chùa Từ Quang 2 (quận Gò vấp) không quản ngại đi tận Lái Thiêu xin
sách về cho các em học. Đó chỉ là một dẫn chứng nhỏ trong muôn vàn công
việc mà các lực lượng giáo dục trẻ em đường phố phải lo toan giải quyết.
Ba là, khâu quan trọng trong hoạt động của lực lượng giáo dục trẻ em
đường phố là tập hợp, quản lý, hướng dẫn các em thích nghi và tự giác hoạt
động theo các quy định của các mái ấm, nhà mở, các lớp học tình thương,
lớp hướng nghiệp, đào tạo nghề, qua đó góp phần hình thành nhân cách cho
các em.
Các mái ấm, nhà mở, các cơ sở bảo trợ xã hội, lớp phổ cập, lớp học tình
thương, trung tâm dạy nghề... ra đời đã góp phần không nhỏ trong việc quản
lý trẻ em đường phố trong khuôn khổ của cơ sở giáo dục, giảm bớt số trẻ lang
thang trên đường phố, nơi có nhiều nguy cơ bị lôi kéo vào các tệ nạn xã hội


23
và vi phạm pháp luật. Ví dụ như mái ấm Hoa Hồng Nhỏ (Quận 7), nuôi các
em bị bỏ rơi, là những bé gái từ 12 đến 18 tuổi các em được đi học và giới
thiệu học nghề ở các trường dạy nghề. Người thân các em hay cha mẹ các em
là những người không có nghề nghiệp ổn định, thất nghiệp, một số hành nghề
mãi dâm. . . nếu các em lang thang trên đường phố, bị dụ dỗ theo nghề của
của mẹ hoặc sau nầy bắt chước theo, thì đó là tệ nạn của xã hội. Hoặc như mái

ấm Tre Xanh (quận 1), là nơi quản lý nuôi các trẻ em trai từ các nơi, các địa
phương khác di cư đến thành phố Hồ Chí Minh kiếm sống, nếu các em không
được quản lý, không có nơi nương tựa các em sẽ dễ trở thành những phần tử
bất hợp pháp. Ở đây các em được đi học, được giới thiệu học nghề phù hợp
với các em. Một số em còn có gia đình nhưng quá nghèo không thể nuôi nổi
các em, nếu không có những nơi quản lý các em, cho các em nơi cư trú, cho
các em ăn học. Những trẻ đường phố thiếu sự giáo dục gia đình, không nơi cư
trú, không được tiếp nhận giáo dục, các em sẽ dễ trở thành người phạm pháp,
bị lôi cuốn vào các tệ nạn xã hội.
Qua khảo sát các trẻ trong các mái ấm, nhà mở, nhà tình thương. . . tại
quận 1 ( Mái ấm Tre xanh), quận 2 (Nhà tình thương chùa Diệu Giác), quận 8
(Mái ấm Hoa Hồng Nhỏ ), quận Tân phú (Mái ấm Hoa Hồng nhà thờ Thiên
Tân, Huyện Hóc Môn (Hội BảoTrợ trẻ em Huyện Hóc Môn). . . , có nhiều trẻ
có cha, mẹ hoặc cả cha và mẹ không đi làm do nhiều nguyên nhân: thất
nghiệp, bị đuổi việc, không vốn, không tay nghề, không đi làm. Hoặc có
những trẻ không có cha hoặc không có mẹ, cha mẹ bỏ nhau, chết, ở tù, không
rõ nguyên nhân .v. v. .
Trẻ em đường phố với nguồn gốc xuất thân rất phức tạp, lớn lên trong
môi trường có nhiều rủi ro, cạm bẫy, bất định, quen sống không có khuôn
khổ, vô kỷ luật khi tập hợp vào các cơ sở giáo dục thường rất khó thích ứng.
Phần lớn trẻ em đường phố khi mới được thu hút vào các cơ sở giáo dục có


24
những biểu hiện thụ động, thăm dò, nghi ngại trước những đòi hỏi của quy
định mà cơ sở giáo dục đề ra, thậm chí một bộ phận trong các em còn có phản
ứng tiêu cực, chống đối hoặc bỏ trốn để trở lại cuộc sống lang thang. Thực tế
đó đòi hỏi các lực lượng giáo dục trẻ em đường phố phải dành phần công sức
rất lớn vàotập hợp và duy trì kỷ luật của các em, đồng thời từng bước giáo
dục thói quen sống có khuôn khổ, có tổ chức và ý thức chấp hành qui định

của cơ sở giáo dục, của pháp luật.
Bốn là, hoạt động của lực lượng giáo dục trẻ em đường phố thể hiện sự
thống nhất biện chứng giữa quản lý và giáo dục các em. Quản lý chặt chẽ tạo
điều kiện thuận lợi cho giáo dục, đồng thời cũng là một phương thức giáo
dục; nâng chất lượng giáo dục sẽ làm cho trẻ em tự giác hơn trong chấp nhận
sự quản lý của cơ sở giáo dục (các mái ấm, nhà mở, các cơ sở bảo trợ xã hội,
lớp học tình thương...).
Sở Lao động, Thương binh và Xã hội thành phố Hồ Chí Minh luôn ủng
hộ các sáng kiến của địa phương trong việc tạo các mái ấm, nhà mở, các cơ sở
bảo trợ xã hội, nhà tình thương cho các em có hoàn cảnh khó khăn, đặc biệt là
trẻ em đường phố. Những mái ấm, nhà mở, nhà tình thương, các cơ sở bảo trợ
xã hội rất có ích cho các em, vì đó là nơi an toàn dành cho các em, có người
quản lý, giúp các em có chỗ ở và được đăng ký cư trú. Nhờ các mái ấm, nhà
mở, nhà tình thương trẻ em đường phố có được những giấy tờ cần thiết xin
học nghề hoặc các trường đào tạo chính quy khác, từ đó mở ra nhiều cơ hội để
các em có việc làm và ổn định cuộc sống.
Để ngăn ngừa tội phạm, mà trẻ bụi đời, trẻ không có chổ ở nhất định,
trẻ ngủ ngoài hè phố thường dễ mắc phải, ở thành phố Hồ Chí Minh đã tiến
hành những chiến dịch thu gom các trẻ em này vào Trường Thiếu niên 3. Đối
tượng được thu gom chính ở đây là nhóm trẻ em có nguy cơ cao mắc phải tệ
nạn xã hội và phạm pháp. Phần lớn trẻ em đường phố không thuộc diện thu


×