Tải bản đầy đủ (.doc) (98 trang)

Quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên trường đại học bạc liêu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (398.2 KB, 98 trang )

BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


VÕ MỸ HẠNH

QUẢN LÝ QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC
THÓI QUEN HÀNH VI ĐẠO ĐỨC CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BẠC LIÊU

LUẬN VĂN THẠC SĨ QUẢN LÝ GIÁO DỤC

HÀ NỘI - 2013


BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


VÕ MỸ HẠNH

QUẢN LÝ QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC
THÓI QUEN HÀNH VI ĐẠO ĐỨC CỦA SINH VIÊN
TRƯỜNG ĐẠI HỌC BẠC LIÊU

CHUYÊN NGÀNH: QUẢN LÝ GIÁO DỤC
MÃ SỐ:

60 14 01 14

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS PHẠM MINH THỤ



HÀ NỘI - 2013


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1

Trang
3
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN QUẢN LÝ
QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC THÓI QUEN HÀNH VI
ĐẠO ĐỨC CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI

1.1.
1.2.

HỌC BẠC LIÊU
Các khái niệm cơ bản
Nội dung quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi

15
15
20

1.3.

đạo đức của sinh viên Trường Đại học Bạc Liêu
Những nhân tố cơ bản tác động đến quản lý quá trình
giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên


24

1.4.

Trường Đại học Bạc Liêu
Thực trạng quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi

27

Chương 2

đạo đức của sinh viên Trường Đại học Bạc Liêu
YÊU CẦU VÀ BIỆN PHÁP QUẢN LÝ QUÁ TRÌNH
GIÁO DỤC THÓI QUEN HÀNH VI ĐẠO ĐỨC CỦA

2.1.

SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC BẠC LIÊU
Những yêu cầu có tính nguyên tắc trong xây dựng

39

biện pháp quản lý quá trình giáo dục thói quen hành
2.2.

vi đạo đức của sinh viên Trường Đại học Bạc Liêu
Biện pháp quản lý quá trình giáo dục thói quen hành

vi đạo đức của sinh viên Trường Đại học Bạc Liêu

2.3.
Khảo sát tính khả thi của các biện pháp
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

39
41
69
74
76
80


3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đất nước ta sau hơn 20 năm đổi mới, chúng ta đã và đang thu được
những thành tựu to lớn trên nhiều lĩnh vực, ở nhiều phương diện khác nhau.
Bên cạnh những thành tựu to lớn đã đạt được, mặt trái của cơ chế thị trường
phần nào đã có ảnh hưởng, tác hại đến những quan hệ, những giá trị, chuẩn
mực trong đời sống xã hội của chúng ta; những tiêu cực, tệ nạn cũng từ đó
nảy sinh và có chiều hướng gia tăng, nhất là trong đời sống đạo đức. Những
năm qua, giáo dục truyền thống đạo đức, giáo dục giá trị đạo đức phần nào bị
xem nhẹ, vì vậy đã nảy sinh những thái độ, hành vi không lành mạnh trong
quan hệ xã hội.
Trong sinh viên đã xuất hiện những lệch lạc về nhận thức đạo đức, lối
sống như: thờ ơ với chính trị, giảm sút niềm tin, xuất hiện biểu hiện của chủ
nghĩa cá nhân, cơ hội, thực dụng, buông thả, suy giảm đạo đức. Những biểu
hiện tiêu cực đó đã cản trở công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên các

trường đại học nói chung, Trường đại học Bạc Liêu nói riêng.
Trường đại học Bạc Liêu Liêu là cơ sở đào tạo nguồn nhân lực chất lượng
cao, những trí thức tương lai có trình độ đại học, cao đẳng cho khu vực bán đảo
Cà Mau. Đào tạo nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao, có phẩm chất đạo
đức là chức năng và nhiệm vụ trọng tâm của bậc giáo dục đại học.
Trường đại học đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng cao không chi
thông qua hoạt động dạy và học mà còn bằng nhiều dạng hoạt động khác. Vì
vậy, ngay trong quá trình đào tạo tại trường cần phải tăng cường các hoạt
động quản lý giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên, nhằm hoàn
thiện nhân cách con người mới xã hội chủ nghĩa, góp phần thực hiện thành
công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Nhìn chung, đa số sinh viên của Trường đại học Bạc Liêu có phẩm chất
đạo đức tốt, lối sống lành mạnh, có ý thức thực hiện tốt đường lối, chủ trương


4
của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước. Song bên cạnh đó vẫn còn một
bộ phận sinh viên có lối sống vô cảm, hưởng thụ, lãng phí thời gian học tập,
có tư tưởng trung bình chủ nghĩa trong học tập, rèn luyện; vi phạm nội quy,
quy chế của nhà trường, cá biệt có những trường hợp mắc vào tệ nạn xã hội
như cờ bạc, mại dâm...
Một trong những nguyên nhân dẫn đến những yếu kém nêu trên là do
trong công tác tổ chức và quản lý quá trình giáo dục, đặc biệt là quản lý giáo
dục đạo đức, rèn luyện thói quen hành vi đạo đức vẫn còn biểu hiện chưa
thường xuyên và chưa được quan tâm đúng mức. Công tác quản lý giáo dục
còn biểu hiện những hạn chế như: nhận thức về quản lý giáo dục thói quen
hành vi đạo đức của sinh viên ở một bộ phận giảng viên, cán bộ quản lý và
sinh viên còn chưa sâu sắc; chưa phát huy cao độ được vai trò, trách nhiệm
của các chủ thể quản lý, chưa phát huy được sức mạnh tổng hợp của các lực
lượng giáo dục; kế hoạch quản lý còn chung chung, chưa sát thực tế; môi

trường giáo dục còn nhiều yếu kém, bất cập...
Nhìn lại thực tế, cũng đã có khá nhiều các công trình nghiên cứu về
giáo dục nhân cách, giáo dục đạo đức cho học sinh, sinh viên. Song đến nay,
chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu về quản lý quá trình giáo dục thói
quen hành vi đạo đức của sinh viên ở một nhà trường đại học cụ thể, như
Trường đaị học Bạc Liêu. Để nâng cao hiệu quả giáo dục, hình thành phẩm
chất nhân cách toàn diện của của sinh viên, góp phần thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ giáo dục - đào tạo của Trường đại học Bạc Liêu, tôi chọn đề tài
“Quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên Trường
đại học Bạc Liêu” để nghiên cứu.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong lịch sử nhân loại, giáo dục đạo đức và vấn đề quản lý giáo dục
đạo đức luôn được quan tâm và bàn luận. Bởi vì đạo đức là một yếu tố cơ bản,


5
có vai trò tích cực trong đời sống xã hội và trong giáo dục con người hội nhập
đời sống xã hội; đạo đức vừa là động lực vừa là mục tiêu trong sự phát triển,
tiến bộ của xã hội loài người.
Trên thế giới
Khổng Tử (551 - 479 tr.CN), ông là nhà giáo dục lớn trong lịch sử cổ –
trung đại, được người đời tôn vinh là “Vạn thế sư biểu’’ (người thầy của muôn
đời ). Ông đã chủ trương quản lý xã hội bằng đức trị, người trên nêu gương,
kẻ dưới noi theo, các quan cai trị phải lấy nhân làm đức tính cơ bản. Bàn về
giáo dục và quản lý giáo dục, ông cho rằng giáo dục là một quá trình và đề
cao việc quản lý phải sát đối tượng, đánh giá người theo phẩm chất, chứ
không phải từ thành phần xuất thân và số tài sản mà họ có. Đây là những kiến
giải và tư tưởng tiến bộ, khoa học về quản lý giáo dục còn có giá trị cho tới
ngày nay.
Mạnh Tử (372 - 289 tr.CN), theo ông, mục đích giáo dục nhằm đào tạo

người “hiền lương” (người tài đức) để làm quan trong bộ máy cai trị, bồi
dưỡng cho quảng đại nhân dân đức tính phục tùng. Ông cho rằng, con người
phải được giáo dục mới trở thành “người”, mới giữ được bản tính thiện. Theo
đó có năm cách dạy người, có cách như mưa xuống mà hoá đi, có cách làm
cho thành cái đức, có cách làm cho đạt được cái tài, có cách trả lời cho câu
hỏi, có cách học riêng mà tự trau dồi.
Arixtôt (384 - 322, tr.CN), ông đánh giá rất cao vai trò của giáo dục,
ông cho rằng, giáo dục là cứu cánh của nhân loại, nhờ giáo dục mà tạo nên
cộng đồng xã hội lành mạnh, hạnh phúc; không có giáo dục, con người se
sống theo bản năng; nhờ giáo dục con người có đức hạnh, có hạnh phúc; do
đó giáo dục không hạn chế bất kỳ ai, không hạn chế thời gian học tập.
Ông chủ trương đào tạo ra những con người phát triển toàn diện; ông
cho rằng con người có ba bộ phận, xương thịt, ý chí và lý trí; giáo dục phải


6
hướng vào phát triển ba bộ phận ấy. Để đào tạo ra những con người phát triển
toàn diện, nội dung giáo dục phải có các môn như: thể dục, đức dục và trí dục.
Thomas More (1478 - 1535), sống vào thời kỳ Văn hóa Phục hưng, ông
đã lý giải các vấn đề giáo dục một cách mới mẻ, theo khuynh hướng khoa
học, không bị ràng buộc bởi lễ giáo phong kiến và triết lý của nhà thờ. Tư
tưởng giáo dục của ông đã góp phần đặt tiền đề cho thời kỳ giáo dục mới giáo dục cận đại.
Ông quan tâm đến giáo dục nhằm phát triển nhiều mặt ở trẻ em như thể
chất, đạo đức, trí tuệ, kỹ năng lao động, trong đó ông nhấn mạnh đến giáo dục
nhân cách, đạo đức cho học sinh. Đây chính là tư tưởng tiến bộ của nhân loại
về giáo dục trong thời kỳ Văn hoá Phục hưng.
J.A. Kômenxki (1592 - 1670), nhà giáo dục được người đời tôn vinh là
ông tổ của nền giáo dục cận đại. Ông cho rằng, giáo dục trẻ em tốt nhất là
phải thông qua việc xây dựng môi trường lành mạnh và phải được giáo dục
thông qua tấm gương của mọi người xung quanh. Nhà trường là “xưởng rèn

nhân cách”, theo đó quản lý quá trình giáo dục phải tuân theo quy luật phát
triển tự nhiên, quy luật về nhận thức và đặc điểm tâm, sinh lý học sinh.
C. Mác (1818 - 1883) và Ph. Ăngghen (1820 - 1895), các ông là những
người vạch ra tư tưởng cho một thời đại mới, các ông đã chi ra sự tất yếu phải
xây dựng của một kiểu đạo đức mới trong lịch sử, đó là đạo đức cách mạng
của giai cấp công nhân. Theo Ph. Ăngghen, đây là nền đạo đức “đang tiêu
biểu cho sự lật đổ hiện tại, biểu hiện cho lợi ích của tương lai, tức là đạo đức
vô sản, là thứ đạo đức có một số lượng nhiều nhất những nhân tố hứa hẹn một
sự tồn tại lâu dài”.
V.I. Lênin (1870 - 1924), là người thầy của giai cấp vô sản thế giới
đồng thời là nhà tổ chức thực tiễn về quản lý xã hội. Ông chi rõ, nhiệm vụ
quan trọng của nhà nước xã hội chủ nghĩa là phải quản lý nền kinh tế, phát


7
triển văn hóa, giáo dục, nâng cao đời sống các tầng lớp nhân dân. Trong quá
trình đấu tranh chống lại các học thuyết đạo đức cũ, lạc hậu của phong kiến,
tư sản, V.I. Lênin đã khẳng định sự tất yếu ra đời của đạo đức mới - đạo dức
cộng sản chủ nghĩa. V.I. Lênin đã chi rõ, nội dung của đạo đức mới đó là
“Những gì góp phần phá hủy xã hội cũ của bọn bóc lột và góp phần đoàn kết
tất cả những người lao động chung quanh giai cấp vô sản đang sáng tạo ra xã
hội mới của những người cộng sản”.
Ở Việt Nam
Nguyễn Trãi (1380 - 1442), là một nhà giáo dục lớn của dân tộc ta ở
thế kỷ XV. Những tư tưởng giáo dục của ông có ảnh hưởng to lớn đến việc
giáo dục, đào tạo con người lúc đương thời. Tư tưởng giáo dục của Nguyễn
Trãi bao hàm nhiều vấn đề, được đề cập trên nhiều bình diện, từ quan điểm
của ông về vai trò của giáo dục cho đến những nội dung giáo dục, mối quan
hệ đức – tài, phương pháp giáo dục, chính sách trọng dụng hiền tài…
Theo ông, đức và tài là hai thành tố không thể thiếu được trong một con

người, đó là hai phần cơ bản cấu trúc nên nhân cách. Nguyễn Trãi không tuyệt
đối hoá riêng mặt nào, mà ông coi trọng cả hai mặt đức và tài. Tuy nhiên,
trong nhiều tác phẩm của ông, ông đều luận giải, nhấn mạnh phần “đức”, ông
viết: “Phàm mưu việc lớn, lấy nhân nghĩa làm gốc. Nên công lớn lấy nhân
nghĩa làm đầu”.
Hồ Chí Minh (1890 - 1969), danh nhân văn hóa thế giới, lãnh tụ vĩ đại
của dân tộc Việt Nam. Sinh thời, Người đặc biệt quan tâm đến vấn đề đạo đức
và giáo dục, rèn luyện đạo đức cho những người cách mạng.
Đạo đức Hồ Chí Minh là đạo đức mới - đạo đức cách mạng, ở đó có sự
hội tụ các phẩm chất: trung với nước, hiếu với dân; lòng nhân ái; nếp sống
cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư và tinh thần quốc tế trong sáng. Theo
Hồ Chí Minh, “nói tóm tắt, thì đạo đức cách mạng là: quyết tâm suốt đời đấu
tranh cho Đảng, cho cách mạng là điều chủ chốt nhất”.


8
Người coi trọng cả đức và tài, nhưng trong đó đức phải là gốc;
Người chi rõ “Cũng như sông thì có nguồn mới có nước, không có nguồn
thì sông cạn. Cây phải có gốc, không có gốc thì cây héo. Ng ười cách mạng
phải có đạo đức, không có đạo đức thì dù tài giỏi mấy cũng không lãnh
đạo được nhân dân” .
Trong những thập niên gần đây, vấn đề đạo đức, giáo dục đạo đức và
quản lý giáo dục, rèn luyện đạo đức cho lớp trẻ, học sinh, sinh viên đã thu
hút được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, nhà sư phạm,
nhà quản lý giáo dục. Trên thực tế, đã có nhiều công trình nghiên cứu đ ược
công bố như:
Trần Đăng Sinh – Nguyễn Thị Thọ (2011), trong công trình nghiên cứu
về “Đạo đức học”, các tác giả đã luận giải làm sáng tỏ nguồn gốc, bản chất và
chức năng của đạo đức; các kiểu đạo đức trong lịch sử, quan hệ giữa đạo đức
với các hình thái ý thức xã hội khác. Đồng thời, các tác giả cũng phân tích

làm rõ những nguyên tắc của đạo đức mới và những vấn đề đạo đức và giáo
dục đạo đức trong điều kiện xã hội hiện đại hóa . Các tác giả cũng nhấn mạnh
việc học tập tư tưởng, tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là vô cùng cần thiết
đối với mọi người, nhất là lớp trẻ ở nước ta hiện nay.
Nguyễn Quang Uẩn, Nguyễn Văn Thạc, Mạc Văn Trang ( 1995) trong
công trình nghiên cứu về “Giá trị, định hướng giá trị nhân cách và giáo dục giá
trị”, các tác giả đã đề cập một hệ thống các phạm trù, khái niệm như: giá trị,
thang giá trị, định hướng giá trị, giáo dục giá trị. Trên cơ sở đó, các tác giả đã
phân tích làm rõ các giá trị mang tính phổ biến của nhân loại, các giá trị truyền
thống Việt Nam, các giá trị cốt lõi hiện nay, các giá trị mới của thời đại. Đặc
biệt, các tác giả đã đầu tư nghiên cứu, xác định rõ việc định hướng giá trị, giáo
dục giá trị cho thế hệ trẻ ở Việt Nam trong giai đoạn mới hiện nay.


9
Nguyễn Thế Kiệt (1996), với công trình: “ Quan hệ giữa đạo đức và kinh
tế trong việc định hướng các giá trị đạo đức hiện nay”. Ông cho rằng, trong
điều kiện phát triển kinh tế thị trường, hiện đại hóa đất nước vẫn không được xa
rời những giá trị đạo đức truyền thống. Mặt khác, phải kịp thời bổ sung những
giá trị đạo đức mới, phù hợp với thời đại, đặc biệt là đi đôi với xây dựng đạo
đức cho lớp trẻ phải kiên quyết chống các tệ nạn xã hội mới nảy sinh.
Đặng Quốc Bảo (1996) trong bài: “Một số ý kiến về nhân cách thế hệ
trẻ, thanh niên, sinh viên và phương pháp giáo dục”, theo tác giả, trong tình
hình hiện nay, cần phải coi trọng việc giáo dục nhân cách cho sinh viên, trước
hết họ phải được trang bị tri thức, định hướng giá trị, có khả năng đương đầu
với mọi thử thách; phương pháp giáo dục phải chuyển từ kiểu “sư phạm
quyền uy” sang kiểu “sư phạm dân chủ”.
Phạm Khắc Chương (1997), với công trình nghiên cứu: “Vấn đề giáo
dục đạo đức và những tệ nạn xã hội trong sinh viên”, tác giả rất đề cao vai trò
của nhà trường đại học trong việc giáo dục đạo đức và thói quen hành vi đạo

đức cho sinh viên. Ông coi đó là môi trường bồi dưỡng, rèn luyện đạo đức
mang tính hoàn hảo đối với sinh viên. Ông cho rằng, điều quan trọng là phải
nhận diện kịp thời những tệ nạn xã hội, những hậu quả tai hại nảy sinh từ mặt
trái của kinh tế thị trường. Do đó, nhà trường phải luôn kết hợp chặt che với
gia đình và cộng đồng xã hội để rèn luyện đạo đức cho sinh viên.
Nghiêm Đình Vì (1997), tác giả đã đi sâu nghiên cứu “Thực trạng của
đạo đức sinh viên nhà trường và kiến nghị giải pháp quản lý”. Ông phân tích,
đánh giá cao vai trò của thanh niên, sinh viên đối với công cuộc xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc. Ông nhận thấy bên cạnh những mặt tốt, mặt tích cực về đạo
đức, lối sống của đại bộ phận sinh viên hiện nay thì vẫn còn một bộ phận sinh
viên vi phạm pháp luật, suy thoái về đạo đức, lối sống, sa vào các tệ nạn xã
hội… rất đáng lo ngại. Theo tác giả, cần phải kết hợp chặt che giữa các lực


10
lượng để giáo dục đạo đức, thói quen hành vi đạo đức cho sinh viên. Song,
cũng cần vận dụng các phương pháp giáo dục cho phù hợp, cần tạo dư luận xã
hội mạnh me, phát huy sức mạnh của các tấm gương, cần tạo môi trường lành
mạnh, rèn luyện các hành vi đạo đức cho sinh viên thành thói quen đẹp, nếp
sống đẹp. Vấn đề này đòi hỏi rất cao ở tấm gương đạo đức và trình độ, năng
lực của các nhà quản lý.
Lê Đức Phúc (1997), ông đã đi sâu nghiên cứu và đề xuất “Một số yêu
cầu và phương cách giáo dục đạo đức, lối sống cho sinh viên”, tác giả cho
rằng, hình thành đạo đức, lối sống cho sinh viên phải biết kế thừa các giá trị
đạo đức truyền thống, phải thấm nhuần những giá trị chuẩn mực đạo đức hiện
nay trong xã hội ta, đồng thời phải dự báo, tiên liệu trước những vấn đề và
hành vi đạo đức của lớp trẻ trong những thập niên tới, nhất là thói quen, lối
sống của đô thị trong tương lai.
Nguyễn Anh Tuấn (1997), qua nghiên cứu đã làm rõ “Những ảnh
hưởng của kinh tế thị trường tới đạo đức sinh viên sư phạm”, tác giả đã có

quá trình khảo sát, phân tích số liệu, đánh giá những ảnh hưởng tích cực và
tiêu cực của kinh tế thị trường tới đạo đức sinh viên sư phạm. Từ thực trạng
mà tác giả đưa ra se giúp các cơ quan quản lý giáo dục, nhà trường, cán bộ
quản lý giáo dục đề xuất và áp dụng những biện pháp giáo dục đạo đức cho
sinh viên nói chung, sinh viên sư phạm nói riêng trong điều kiện xây dựng và
phát triển nền kinh tế thị trường hiện nay ở nước ta.
Nguyễn Thị Thanh Thương (1998), trong công trình nghiên cứu “ Một
số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả giáo dục đạo đức cho sinh viên Việt
Nam hiện nay”, với những kiến giải có tính lý luận và thực tiễn, tác giả đã
đưa ra yêu cầu phải đổi mới nội dung và hình thức giáo dục đạo đức cho sinh
viên. Gia đình, nhà trường và xã hội cùng kết hợp với nhau trong giáo dục
đạo đức cho sinh viên; phát huy vai trò tích cực của Đoàn Thanh niên, Hội


11
Sinh viên trong công tác giáo dục đạo đức cho sinh viên. Tác giả cho rằng,
giáo dục đạo đức cho sinh viên là quá trình lâu dài và phức tạp, đòi hỏi sự cố
gắng, nỗ lực của nhà quản lý, các lực lượng giáo dục, đặc biệt là chính bản
thân sinh viên.
Đặng Xuân Sơn (2011), trong bài “Suy nghĩ về giáo dục giá trị sống và
giáo dục kỹ năng cho sinh viên ở các nhà trường hiện nay”, tác giả nêu lên và
luận bàn về những giá trị mới trong cuộc sống ở thế kỷ XXI, bao gồm những
giá trị mang tính dân tộc và những giá trị mang tính nhân loại. Theo tác giả,
giáo dục giá trị sống, kỹ năng sống cho sinh viên phải gắn liền với những
chuẩn mực đạo đức xã hội. Đồng thời, trong quá trình giáo dục phải tôn trọng
nhân cách sinh viên và cần có sự quan tâm chi đạo, tổ chức, phối hợp, sự tác
động từ nhiều lực lượng ở nhà trường.
Nguyễn Minh Kỳ (2011), tác giả đi sâu nghiên cứu về phương pháp
“Nêu gương trong giáo dục học sinh, sinh viên theo tư tưởng Hồ Chí Minh”.
Tác giả đã luận giải làm rõ vai trò, tác dụng của phương pháp nêu gương

trong giáo dục học sinh, sinh viên, và Bác Hồ là một mẫu mực trong sử dụng
phương pháp nêu gương để giáo dục mọi người, nhất là giáo dục lớp trẻ. Theo tác
giả, trong nhà trường, trước kết các thầy cô giáo phải là những tấm gương sáng về
đạo đức, phải tạo ra môi trường mà trong đó mỗi học sinh, sinh viên được noi
gương, được rèn luyện về hành vi, nếp sống đạo đức theo các tấm gương.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ lý luận và thực tiễn quản lý quá trình giáo dục thói quen
hành vi đạo đức của sinh viên, đề xuất các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng,
hiệu quả của quá trình giáo dục, hình thành và phát triển các thói quen hành vi
đạo đức của sinh viên Trường đại học Bạc Liêu, góp phần thực hiện tốt mục tiêu
đào tạo của nhà trường.


12
Nhiệm vụ nghiên cứu
Làm sáng tỏ cơ sở lý luận về quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi
đạo đức của sinh viên Trường đại học Bạc Liêu.
Khảo sát, phân tích, đánh giá thực trạng quản lý quá trình giáo dục thói
quen hành vi đạo đức của sinh viên Trường đại học Bạc Liêu.
Trên cơ sở lý luận và thực tiễn, đề xuất các biện pháp quản lý quá trình
giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên Trường đại học Bạc Liêu.
4. Khách thể, đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu: Quản lý quá trình giáo dục nhân cách sinh viên
Trường đại học Bạc Liêu.
Đối tượng nghiên cứu: Quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo
đức của sinh viên Trường đại học Bạc Liêu.
Phạm vi nghiên cứu: Đề tài luận văn tập trung nghiên cứu các biện
pháp quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên
Trường đại học Bạc Liêu. Số liệu điều tra, khảo sát được khai thác, sử dụng

từ năm 2009 - 2012.
5. Giả thuyết khoa học
Thói quen hành vi đạo đức của sinh viên chi có thể hình thành vững
chắc trên cơ sở của sự nhận thức, thái độ, niềm tin và được tổ chức rèn luyện
một cách đúng hướng, kiên trì và khoa học. Nếu các chủ thể quản lý giáo dục
trong nhà trường tổ chức thực hiện tốt quá trình giáo dục nâng cao nhận thức,
bồi dưỡng tình cảm, niềm tin và rèn luyện thói quen hành vi đạo đức của sinh
viên; phối hợp các lực lượng trong quản lý, giáo dục; xây dựng môi trường
giáo dục kết hợp với việc phát huy ý thức tự rèn luyện của sinh viên và thực
hiện tốt việc kiểm tra, đánh giá thì hiệu quả quản lý quá trình giáo dục thói
quen hành vi đạo đức của sinh viên se được nâng cao.


13
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Phương pháp luận
Luận văn được xây dựng trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác - Lênin, quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối
của Đảng Cộng sản Việt Nam về giáo dục và quản lý giáo dục. Đồng thời, đề
tài luận văn còn được thực hiện trên cơ sở quan điểm tiếp cận hệ thống - cấu
trúc, quan điểm lịch sử - lôgíc, quan điểm thực tiễn trong nghiên cứu khoa học.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể
Nhóm các phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Nghiên cứu, phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh, hệ thống hoá, khái
quát hóa các nội dung, tư tưởng trong các sách, tài liệu có liên quan đến đề tài
luận văn.
Nhóm các phương pháp nghiên cứu thực tiễn
Sử dụng phương pháp quan sát đối với hoạt động học tập, ứng xử, rèn
luyện thói quen, hành vi đạo đức ở các môi trường khác nhau, tình huống
khác nhau của sinh viên; các nội dung và cách thức tổ chức quản lý, tổ chức

rèn luyện thói quen, hành vi đạo đức cho sinh viên của các lực lượng quản lý
giáo dục Trường đại học Bạc Liêu.
Sử dụng phương pháp điều tra đối với sinh viên, các lực lượng quản lý
giáo dục để làm cơ sở đánh giá thực trạng và đề ra biện pháp quản lý quá trình
giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên.
Sử dụ ng phương phá p chuyên gia trong quá trình nghiên cứu, xin ý
kiến của các nhà khoa học, các nhà quản lý có kinh nghiệm về những vấn đề
có liên quan trực tiếp đến đề tài luận văn.
Sử dụ ng phương phá p thống kê toán học để tính toán, xử lý các số
liệu phục vụ cho đề tài luận văn.


14
7. Ý nghĩa của luận văn
Đề tài xây dựng một số khái niệm như: Thói quen hành vi đạo đức, quá
trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên; quản lý quá trình giáo
dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên Trường đại học Bạc Liêu.
Đề xuất hệ thống các biện pháp quản lý quá trình giáo dục thói quen
hành vi đạo đức của sinh viên Trường đại học Bạc Liêu.
8. Kết cấu của đề tài
Luận văn được kết cấu gồm: Phần mở đầu, 2 chương (7 tiết), kết luận
và kiến nghị, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.


15
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN QUẢN LÝ
QUÁ TRÌNH GIÁO DỤC THÓI QUEN HÀNH VI ĐẠO ĐỨC
CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG ĐẠI HỌC BẠC LIÊU
1.1 Các khái niệm cơ bản

1.1.1. Thói quen hành vi đạo đức của sinh viên
Theo từ điển Tiếng Việt, Đạo đức “là những tiêu chuẩn, những nguyên
tắc quy định hành vi quan hệ của con người đối với nhau và đối với xã hội.
Đạo đức là những phẩm chất tốt đẹp của con người theo những tiêu chuẩn đạo
đức của một giai cấp nhất định” [47, tr.211].
Dưới góc độ giáo dục học, tác giả Phạm Minh Hạc coi đó là những quy
định, những chuẩn mực ứng xử của con người với con người, với công việc
và với bản thân, kể cả với thiên nhiên và môi trường sống.
Trong lịch sử, ở mỗi chế độ xã hội đều có những chuẩn mực đạo đức; tuy
nhiên, đạo đức cũng thường xuyên biến đổi theo tiến trình phát triển của nhân
loại. Đạo đức mang tính giai cấp, tính dân tộc và tính thời đại sâu sắc, do đó quá
trình giáo dục đạo đức nói chung, thói quen hành vi đạo đức nói riêng của sinh
viên các trường đại học cũng phải được thực hiện và tuân theo quy luật khách
quan; được thực hiện theo các khâu, các bước, thông qua các hoạt động đa dạng
trong đời sống xã hội gắn với vai trò của chủ thể, đồng thời chịu sự tác động của
các yếu tố khách quan.
Thói quen, theo Từ điển Tiếng Việt, là "lối, cách sống hay hoạt động
lặp đi lặp lại lâu ngày thành quen, khó thay đổi". [47, tr.948]
Dưới góc độ tâm lý học, thói quen được hiểu là "những hoạt động tự
động hoá, ổn định ở con người, trở thành nhu cầu của con người. Nếu nhu cầu
đó không được thỏa mãn, con người cảm thấy khó chịu". [5, tr.201]


16
Có hai loại thói quen: Thói quen tốt và thói quen xấu. Thói quen tốt hay
xấu không tự nhiên sinh ra mà nó là hệ quả tất yếu của việc sinh hoạt, học tập,
rèn luyện và tu dưỡng của mỗi người trong cuộc sống hàng ngày.
Khái niệm hành vi đạo đức, hành vi đạo đức là một hành động tự giác,
được thúc đẩy bởi động cơ có ý nghĩa về mặt đạo đức, hành vi đạo đức được
biểu hiện trong cách ứng xử, trong lối sống, trong giao tiếp, trong lời ăn tiếng

nói hàng ngày.
Trong giáo dục đạo đức cần giáo dục hành vi đạo đức, hành vi đạo đức
phải phù hợp với chuẩn mực đạo đức của xã hội. Giá trị đạo đức của một
hành vi được xét theo những tiêu chuẩn như: Tính tự giác, tính có ích và tính
không vụ lợi của hành vi.
Theo đó, thói quen phải mang tính đạo đức và ăn sâu vào nếp sống con
người, thói quen được hình thành từ nhiều con đường khác nhau như: luyện
tập, tự phát, rèn luyện...
Thói quen đạo đức là những hành vi đạo đức ổn định của con người, nó
trở thành những nhu cầu đạo đức của người đó. Nếu như nhu cầu này được
thỏa mãn thì con người cảm thấy dễ chịu và ngược lại.
Bàn về thói quen hành vi đạo đức, một số nhà nghiên cứu cho rằng:
Thói quen hành vi đạo đức là các hành vi đã được tự động hoá, ăn sâu vào
nếp sinh hoạt của sinh viên mang tính chất của một nhu cầu.
Từ các cách định nghĩa và quan niệm trên, có thể hiểu: Thói quen hành
vi đạo đức của sinh viên là các hành vi phù hợp với các chuẩn mực đạo đức
xã hội đã được tự động hoá, trở thành nếp sống, sinh hoạt, thành nhu cầu bên
trong của nhân cách sinh viên.
1.1.2. Quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên
Trường đại học Bạc Liêu
Giáo dục, được hiểu một cách khái quát là quá trình chuyển giao hệ
thống tri thức, các giá trị, thái độ và kinh nghiệm hoạt động của thế hệ trước cho


17
thế hệ sau nhằm phát triển và hoàn thiện nhân cách cá nhân - xã hội đảm bảo sự
tồn tại và phát triển xã hội. Mặt khác, trong lý luận giáo dục hiện đại cũng chi ra
rằng: giáo dục là hoạt động nhằm tác động một cách có hệ thống đến sự phát
triển tinh thần, thể chất của một đối tượng nào đó làm cho đối tượng ấy dần dần
có được những phẩm chất nhân cách, năng lực như yêu cầu đề ra.

Xét theo quan điểm của các nhà giáo dục học, thì giáo dục là một quá trình
tổng thể của các hoạt động dạy học, giáo dục, phát triển nhân cách và là quá trình
chuẩn bị tâm lý cho sinh viên được tổ chức một cách có mục đích, có kế hoạch,
dựa trên những cơ sở của khoa học giáo dục nhằm hình thành phẩm chất nhân
cách và năng lực theo yêu cầu của xã hội.
Giáo dục đạo đức là nhằm hình thành và phát triển ý thức đạo đức và
thói quen hành vi đạo đức của con người. Ý thức đạo đức là toàn bộ những
quan niệm về cái thiện, ác, tốt, xấu, lương tâm, trách nhiệm, hạnh phúc, công
bằng; về những quy tắc đánh giá, điều chinh hành vi ứng xử giữa cá nhân với
xã hội, giữa cá nhân với cá nhân trong xã hội.
Thói quen hành vi đạo đức thuộc hoạt động của con người, chịu ảnh
hưởng của niềm tin, ý thức đạo đức, là quá trình hiện thực hóa ý thức đạo đức.
Sự hình thành thói quen hành vi đạo đức phải thông qua quá trình giáo dục
nâng cao nhận thức về đạo đức, có thái độ, niềm tin đạo đức và đặc biệt là
phải thông qua quá trình kiên trì rèn luyện để các hành vi đạo đức trở thành
thói quen, trở thành phẩm chất bền vững.
Ý thức, niềm tin đạo đức và hành vi đạo đức luôn có quan hệ biện
chứng, tạo nên bản chất đạo đức của con người. Ý thức, niềm tin đạo đức là
điều kiện, là cơ sở tâm lí cho việc thực hiện hành vi đạo đức. Hành vi đạo đức
là sự thể hiện ý thức, niềm tin đạo đức trong thực tiễn, là thước đo sự phát
triển ý thức đạo đức và nhân cách đạo đức nói chung. Nếu không có hành vi
đạo đức và thói quen hành vi đạo đức thì ý thức đạo đức không đem lại cho xã


18
hội những giá trị, những lợi ích, những tiến bộ và như vậy ý thức đạo đức se
không mang tính thực tiễn.
Thói quen hành vi đạo đức của sinh viên là kết quả của cả một quá trình
rèn luyện lâu dài của mỗi cá nhân, đồng thời cũng là kết quả của hệ thống các
tác động giáo dục lên các thành tố của quá trình giáo dục (như mục tiêu giáo

dục; nhà giáo dục; đối tượng giáo dục; nội dung giáo dục; phương pháp, hình
thức tổ chức giáo dục, phương tiện giáo dục; kết quả giáo dục).
Các thành tố của quá trình giáo dục có mối quan hệ thống nhất biện
chứng, tác động qua lại, thúc đẩy lẫn nhau, hướng vào việc không ngừng nâng
cao nhận thức, bồi dưỡng tình cảm, ý chí và hình thành thói quen hành vi đạo
đức của sinh viên.
Từ cơ sở lý luận như trên, có thể hiểu: Quá trình giáo dục thói quen
hành vi đạo đức của sinh viên Trường đại học Bạc Liêu là hoạt động có mục
đích, có tổ chức, thông qua hệ thống các tác động liên tục của nhà giáo dục
đến đối tượng giáo dục, hướng vào việc nâng cao nhận thức, tạo lập niềm tin
đạo đức, nhằm hình thành thói quen hành vi đạo đức, góp phần xây dựng
phẩm chất nhân cách toàn diện cho sinh viên, đáp ứng mục tiêu giáo dục của
Nhà trường.
1.1.3. Quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh
viên Trường đại học Bạc Liêu
Quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên
Trường đại học Bạc Liêu là một bộ phận của quản lý giáo dục - đào tạo, một
khâu quan trọng trong quy trình quản lý giáo dục - đào tạo, là sự tác động có
ý thức của chủ thể quản lý, nhằm điều khiển, hướng dẫn, rèn luyện những thói
quen hành vi đạo đức phù hợp với quy luật khách quan và đạt được mục tiêu
theo yêu cầu giáo dục, đào tạo.


19
Về thuật ngữ “quản lý”, theo từ điển Tiếng Việt: “Quản lý là trông coi,
giữ gìn theo những yêu cầu nhất định”, “quản lý là tổ chức và điều khiển các
hoạt động theo những yêu cầu nhất định” [47, tr.772].
Khi bàn về thuật ngữ trên, tác giả Trần kiểm đã đưa ra khái niệm tổng
quát, dùng cho cả quá trình quản lý xã hội, quản lý giới vô sinh. Một số tác giả
khác lại phân chia quản lý giáo dục thành hai cấp độ là vĩ mô và vi mô.

Ở cấp độ vĩ mô, quản lý giáo dục có thể hiểu là những tác động tự giác, có
mục đích, có kế hoạch, có hệ thống của chủ thể quản lý đến tất cả các khâu của hệ
thống từ cấp cao nhất đến tất cả các cơ sở giáo dục, nhằm thực hiện có chất
lượng và hiệu quả mục tiêu phát triển giáo dục, đào tạo thế hệ trẻ.
Ở cấp độ vi mô, quản lý giáo dục được hiểu là hệ thống những tác động
tự giác, có mục đích, có kế hoạch, có hệ thống của chủ thể quản lý đến tập thể
giáo viên, nhân viên, học sinh, phụ huynh học sinh, nhằm thực hiện có hiệu
quả, đạt tới mục tiêu giáo dục của nhà trường.
Quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên
Trường đại học Bạc Liêu là quản lý ở cấp độ trường học, quản lý giáo dục ở
cấp vi mô, thuộc phạm trù quản lý nguồn nhân lực giáo dục ở nhà trường.
Quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên được tổ chức một
cách chặt che, vừa theo Luật Giáo dục, vừa theo Điều lệ, quy chế của Nhà
trường. Công tác quản lý đó càng không thể tách rời quản lý các nội dung
học tập khác như văn hoá, chính trị, thể chất, thẩm mĩ; giữa chúng có sự
đan xen với nhau, quy định lẫn nhau, bổ sung cho nhau nhằm giáo dục
phẩm chất nhân cách toàn diện cho sinh viên.
Quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên
không chi bó hẹp trong phạm vi duy trì công tác hành chính, quản lý một số
bài học về đạo đức công dân mà điều cơ bản là phải thông qua các hoạt động
đa dạng trong Nhà trường, nhằm nâng cao nhận thức, xây dựng niềm tin và
rèn luyện để hình thành các thói quen hành vi đạo đức của mỗi sinh viên. Sinh


20
viên ở đây không chi đơn thuần là đối tượng chịu sự tác động của chủ thể
quản lý mà còn là chủ thể tự quản lý thông qua các hoạt động tự giáo dục
nâng cao nhận thức về đạo đức và tự rèn luyện, tự kiểm tra, đánh giá kết quả
rèn luyện thói quen hành vi đạo đức của bản thân.
Từ những quan niệm như trên, chúng ta có thể hiểu: Quản lý quá trình

giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên Trường đại học Bạc Liêu là
sự tổ chức, điều khiển của chủ thể quản lý đối với sự vận hành của quá trình
giáo dục, rèn luyện nhằm hình thành các thói quen hành vi đạo đức của sinh
viên, đáp ứng mục tiêu, yêu cầu giáo dục của nhà trường.
Như vậy, quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh
viên là những tác động quản lý có kế hoạch, có chi đạo, tổ chức và kiểm soát
của chủ thể quản lý đối với đối tượng quản lý, nhằm phát huy tính chủ động,
tích cực, tự giác lĩnh hội tri thức và rèn luyện các thói quen hành vi đạo đức
để hình thành, phát triển, hoàn thiện nhân cách cho sinh viên theo mục tiêu
yêu cầu đào tạo của Nhà trường.
Quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên không
tách rời quá trình tự quản lý, tự giáo dục, tự rèn luyện của sinh viên; trong đó sinh
viên không chi là đối tượng chịu sự tác động của chủ thể quản lý mà sinh viên còn
là chủ thể tự quản lý hoạt động rèn luyện thói quen hành vi đạo đức.
Quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên là
những tác động có tính hướng đích, có mục tiêu cụ thể, song không tách rời
quản lý các nội dung rèn luyện thói quen hành vi về văn hóa, pháp luật, kỷ
luật, thẩm mĩ ...
1.2. Nội dung quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức
của sinh viên Trường đại học Bạc Liêu
Giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên diễn ra với tư cách là
một quá trình, nên trong đó bao gồm các thành tố cơ bản hợp thành như: nhà


21
giáo dục, đối tượng giáo dục, mục tiêu giáo dục, nội dung giáo dục, phương
pháp, hình thức, phương tiện giáo dục và kết quả giáo dục.
Quản lý mục tiêu giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên: đó
là việc xây dựng mục tiêu, quán triệt mục tiêu đối với các lực lượng giáo dục
trong nhà trường, trên cơ sở đó tổ chức một cách khoa học quá trình giáo dục

thói quen hành vi đạo đức cho sinh viên nhằm đạt tới mục tiêu đã xác định.
Mục tiêu được xem là trạng thái mong muốn, được hình dung trước, mang
tính khả thi trong tương lai. Với hoạt động quản lý quá trình giáo dục thói
quen hành vi đạo đức của sinh viên, việc xác định mục tiêu có tầm quan trọng
hàng đầu, bởi nó định hướng, chi phối tới nội dung giáo dục, phương pháp,
hình thức, phương tiện giáo dục và kết quả giáo dục.
Quản lý nhà giáo dục: nhà giáo dục chính là các lực lượng giáo dục của
nhà trường, các Phòng, Khoa, Tổ bộ môn, chủ nhiệm lớp. Các Phòng, Khoa,
Tổ có nhiệm vụ quản lý, tham mưu cho Đảng ủy, ban Giám hiệu nhà trường
để quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên diễn ra theo
đúng kế hoạch. Người trực tiếp quản lý quá trình giáo dục thói quen hành vi
đạo đức của sinh viên là giáo viên chủ nhiệm, giảng viên và ban cán sự lớp.
Đặc biệt, giáo viên chủ nhiệm và ban cán sự lớp là lực lượng trực tiếp tổ chức
quá trình giáo dục và kiểm tra ý thức, hành vi của sinh viên.
Ngoài ra, các tổ chức đoàn thể, quần chúng cũng giữ vai trò quan
trọng trong quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên như:
Công đoàn, Đoàn thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội sinh viên, Hội
Liên hiệp thanh niên… Quá trình giáo dục thói quen hành vi đạo đức của
sinh viên cần phải có sự phối hợp chặt che giữa các bộ phận, các lực lượng
giáo dục trong nhà trường để quản lý, giáo dục và rèn luyện thói quen hành
vi đạo đức cho sinh viên.


22
Quản lý đối tượng giáo dục: đối tượng giáo dục thói quen hành vi đạo
đức là sinh viên trong nhà trường. Thông qua quá trình học tập và tham gia
phong trào do các tổ chức đoàn thể phát động, sinh viên được trau dồi và rèn
luyện thói quen hành vi đạo đức. Yêu cầu đặt ra là, các lực lượng giáo dục
phải nắm được số lượng, chất lượng học tập, rèn luyện, đặc điểm tâm, sinh lý
lứa tuổi, điều kiện kinh tế của gia đình sinh viên để phân loại và có những

hình thức, biện pháp quản lý, giáo dục phù hợp. Đặc biệt, phải nắm chắc các
mặt hoạt động, đồng thời chi đạo, tổ chức thực hiện kế hoạch hoạt động chặt
che. Thường xuyên theo dõi, kiểm tra, động viên, khích lệ những nhân tố tích
cực; uốn nắn kịp thời những biểu hiện không lành mạnh trong ý thức và hành
vi đạo đức của sinh viên. Vấn đề đặt ra là, các lực lượng giáo dục phải phát
huy được ý thức tự giác rèn luyện các thói quen hành vi đạo đức của sinh
viên, hướng vào việc phát triển nhân cách toàn diện cho sinh viên.
Quản lý nội dung giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên: là
quản lý hệ thống tri thức, các giá trị, chuẩn mực đạo đức, các thói quen hành
vi cần rèn luyện cho sinh viên. Điều đó được thực hiện từ khâu xây dựng
chương trình, nội dung giáo dục đến khâu triển khai kế hoạch, phân công,
phân cấp tổ chức thực hiện. Các lực lượng giáo dục phải quán triệt sâu sắc
mục tiêu giáo dục, nội dung giáo dục để tổ chức thực hiện đầy đủ và hiệu quả.
Nội dung giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên phải mang
tính khoa học và có tính định hướng chính trị, tư tưởng. Nội dung giáo dục
thói quen hành vi đạo đức cho sinh viên cần tập trung vào những nội dung
đạo đức sau: những giá trị chuẩn mực đạo đức truyền thống của dân tộc;
những giá trị và chuẩn mực đạo đức con người mới theo tư tưởng, tấm gương
đạo đức Hồ Chí Minh; những giá trị và chuẩn mực đạo đức theo quan điểm
Chủ nghĩa Mác – Lênin; những giá trị chuẩn mực đạo đức của con người
hiện đại trên cơ sở tiếp thu tinh hoa đạo đức của nhân loại để sinh viên có


23
thể hội nhập với văn hóa thế giới trong xu thế toàn cầu hóa. Các nội dung
trên phải luôn bám sát mục tiêu giáo dục nói chung và mục tiêu giáo dục
thói quen hành vi đạo đức của sinh viên. Nội dung giáo dục phải được phân
bổ hợp lý, được thực hiện từ dễ đến khó, từ tiếp thu những kiến thức để hình
thành ý thức cho đến hành vi, trở thành thói quen trong sinh hoạt, học tập
của sinh viên.

Quản lý phương pháp, hình thức tổ chức và phương tiện giáo dục:
phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh
viên bao gồm những cách thức tác động, cách thức tổ chức sắp xếp, qua đó
nhà giáo dục điều khiển đối tượng giáo dục bằng những công cụ, phương tiện
để đạt được mục tiêu quản lý. Vấn đề đặt ra là, đòi hỏi các lực lượng giáo dục
phải tìm ra các hình thức, phương pháp giáo dục thích hợp, nhất là cần đổi
mới phương pháp, hình thức tổ chức giáo dục theo hướng hiện đại và sử dụng
các phương tiện giáo dục tiên tiến để tác động một cách hiệu quả vào nhận
thức, tình cảm, ý chí và hành vi của sinh viên nhằm hình thành các thói quen
hành vi đạo đức cho họ.
Quản lý kết quả giáo dục thói quen hành vi đạo đức của sinh viên: kết
quả giáo dục thói quen hành vi đạo đức là mức đạt được về độ vững chắc của
các thói quen hành vi đạo đức của sinh viên đáp ứng mục tiêu đề ra. Đó chính
là thước đo, đánh giá kết quả của quá trình giáo dục; đó cũng là sự kết tinh
thành quả lao động sư phạm của nhà giáo dục và đối tượng giáo dục.
Kết quả giáo dục cần phải được nắm chắc thông qua báo cáo của ban
cán sự lớp, giáo viên chủ nhiệm, Ban chấp hành chi đoàn về xếp loại sinh
viên, xếp loại đoàn viên; báo cáo sơ kết, tổng kết của khoa chuyên môn, đoàn
khoa; báo cáo tổng kết của phòng Công tác chính trị và quản lý sinh viên,
phòng Đào tạo, Đoàn thanh niên, Hội liên hiệp Thanh niên, Hội Sinh viên
trong nhà trường. Trên cơ sở kết quả giáo dục, cần nhìn nhận đánh giá, đối


24
chiếu với mục tiêu đặt ra để có sự điều chinh, rút kinh nghiệm trong quá trình
thực hiện, đưa quá trình giáo dục phát triển đúng hướng, đáp ứng mục tiêu,
yêu cầu đào tạo của nhà trường. Đối với người quản lý, cần có quá trình kiểm
tra, đánh giá kết quả giáo dục thói quen hành vi đạo đức để quá trình này phải
được tiến hành một cách công bằng, khách quan, nghiêm túc, đúng quy trình,
đúng thực chất, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh nhà trường.

1.3. Những nhân tố cơ bản tác động đến quản lý quá trình giáo dục
thói quen hành vi đạo đức của sinh viên Trường đại học Bạc Liêu
1.3.1. Sự tác động từ điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội
Đất nước ta đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, cách mạng nước ta đã
đạt được những thành tựu quan trọng, kinh tế - xã hội phát triển, chính trị ổn
định, quốc phòng an ninh được củng cố, tăng cường; vị thế của nước ta ngày
càng được nâng cao trên trường quốc tế; đời sống vật chất và tinh thần của đa số
tầng lớp nhân dân được cải thiện. Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã làm
cho con người trở nên năng động, sáng tạo và nhạy bén, tích cực hơn trong lao
động sản xuất, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Đứng trước những yêu cầu mới đặt ra cho đất nước, Đảng đã chủ trương
đẩy mạnh cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh.
Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là một trong những biện
pháp để phát huy những mặt tích cực, khắc phục những tiêu cực về đạo đức, lối sống.
Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: “Việc học tập
và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh là nhiệm vụ quan trọng, thường
xuyên, lâu dài của cán bộ, đảng viên, của các chi bộ, tổ chức đảng và các tầng
lớp nhân dân” [9, tr.257].
Cuộc vận động học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
có tác động mạnh me đến đến nhận thức, tình cảm, trách nhiệm, hành vi của


×