BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
NGUYỄN QUỐC HUY
GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ
GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
VỚI CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở ĐỒNG NAI
LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ
HÀ NỘI - 2014
BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ
NGUYỄN QUỐC HUY
GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ
GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ
VỚI CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở ĐỒNG NAI
CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ: 60 31 01 02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS ĐẶNG ĐỨC QUY
HÀ NỘI - 2014
BẢNG KÝ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT
CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ
CHỮ VIẾT TẮT
Bảo hiểm Y tế
BHYT
Công bằng xã hội
CBXH
Công nghiệp hoá
CNH
Hiện đại hoá
HĐH
Hội đồng nhân dân
HĐND
Khu Công nghiệp
KCN
Khoa học và Công nghệ
KH&CN
Ủy ban nhân dân
UBND
Tăng trưởng kinh tế
TTKT
Trước công nguyên
TCN
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương1
1.1.
1.2.
Chương 2
2.1.
2.2.
Chương 3
3.1
3.2.
3
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN GIẢI QUYẾT MỐI
QUAN HỆ GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI
CÔNG BẰNG XÃ HỘI
Khái niệm tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội
Giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với
công bằng xã hội ở Đồng Nai – Quan niệm và nội dung
giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với
công bằng xã hội ở Đồng Nai.
THỰC TRẠNG GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ
GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI CÔNG
BẰNG XÃ HỘI Ở ĐỒNG NAI
Đánh giá kết quả giải quyết mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế với công bằng xã hội ở Đồng Nai từ năm
2001 đến nay
Những hạn chế, nguyên nhân và những vấn đề đặt ra
trong quá trình giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế với công bằng xã hội ở Đồng Nai.
QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ TĂNG TRƯỞNG
KINH TẾ VỚI CÔNG BẰNG XÃ HỘI Ở ĐỒNG
NAI TRONG THỜI GIAN TỚI
Quan điểm cơ bản giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng
kinh tế với công bằng xã hội ở Đồng Nai hiện nay
Một số giải pháp chủ yếu về giải quyết mối quan hệ giữa
tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội ở Đồng Nai
trong thời gian tới
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
13
13
25
35
35
54
65
65
68
81
82
88
3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế (TTKT) với tiến bộ và
công bằng xã hội (CBXH) đã và đang trở thành vấn đề nổi cộm, là bài toán
nan giải đối với nhiều quốc gia trên thế giới ngày nay, đặc biệt với các nước
có nền kinh tế đang phát triển hoặc chậm phát triển. Tăng trưởng là mục tiêu
mà mọi quốc gia, mọi nền kinh tế đều phải hướng đến, bởi nó là chỉ số đánh
giá sức sống, năng lực của một nền kinh tế. TTKT chính là cơ sở, là nền tảng
cơ bản để giải quyết các vấn đề chính trị, xã hội, văn hóa, quốc phòng, an
ninh... Tuy nhiên, TTKT theo hướng nào, có đảm bảo hài hòa các lợi ích của
toàn xã hội, thực hiện sự tiến bộ và CBXH hay không, điều đó còn tuỳ thuộc
vào chiến lược phát triển và cách giải quyết của từng quốc gia trong mỗi giai
đoạn phát triển nhất định. Thực tiễn đã có nhiều bằng chứng cho thấy giải
quyết mối quan hệ giữa TTKT với tiến bộ CBXH là một vấn đề vô cùng phức
tạp và khó khăn, phụ thuộc phần lớn vào quyết tâm chính trị của nhà nước
cầm quyền.
Trong quá trình đổi mới đất nước, phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa, Đảng và Nhà nước ta hết sức quan tâm đến việc giải
quyết mối quan hệ giữa TTKT với tiến bộ và CBXH, và coi đây là một trong
những mối quan hệ cơ bản cần tập trung giải quyết trong quá trình đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam. Tại Đại hội lần thứ XI, Đảng ta một lần nữa khẳng
định:“ Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hoà với phát triển văn hoá, thực
hiện tiến bộ và công bằng xã hội, không ngừng nâng cao chất lượng cuộc
sống của nhân dân” [33, tr 98].
Đồng Nai là tỉnh nằm trong vùng kinh tế trọng điểm phía Nam, luôn
duy trì được tốc độ phát triển kinh tế cao và ổn định trong nhiều năm: giai
đoạn 2001-2005 tăng bình quân 12,86%/năm, giai đoạn 2005-2010 đạt 13,2%
cao gấp 1,5 lần so với mức tăng trưởng trung bình của vùng kinh tế trọng
4
điểm phía Nam và gấp 1,9 lần so với mức tăng chung của cả nước, giai đoạn
2011 – 2013 tăng bình quân 12.3% gấp đôi so với tốc độ tăng trưởng chung
của cả nước [Phụ lục 1]. Nhờ tăng trưởng liên tục và ổn định đã cải thiện đáng
kể thu nhập và đời sống người lao động. Nếu như thu nhập bình quân đầu
người năm 2008 là 1068,8 USD thì đến năm 2013 (chỉ sau 5 năm) thu nhập
bình quân đầu người đã tăng lên gấp đôi với mức 2.138 USD/ người. Sự tăng
trưởng đó đã góp phần tích cực làm thay đổi diện mạo của Đồng Nai trên
nhiều lĩnh vực, đặc biệt sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng tích cực đã
hình thành nên các vùng kinh tế công nghiệp, các cụm công nghiệp mới tạo
động lực cho sự phát triển của Đồng Nai trong tương lai.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu mà quá trình tăng trưởng kinh tế
đem lại cũng đã và đang xuất hiện một số vấn đề bất cập, liên quan đến sự
phát triển bền vững ở Đồng Nai. Đó là tình trạng chất lượng tăng trưởng còn
chưa đảm bảo, chủ yếu mới chú trọng tăng trưởng theo chiều rộng, năng suất
lao động còn thấp trong các nhóm ngành dịch vụ, hiệu quả sử dụng vốn không
cao; trình độ công nghệ của các doanh nghiệp trong tỉnh còn ở mức trung bình
và thấp so với khu vực và thế giới; môi trường bị tác động nghiêm trọng; Hệ
thống an sinh xã hội chưa được đảm bảo. Đặc biệt, việc tiếp cận các dịch vụ
xã hội trong lĩnh vực học tập, khám chữa bệnh, vui chơi giải trí còn nhiều
điều bất cập, chưa bảo đảm sự công bằng, sự phân hoá giàu nghèo giữa các
tầng lớp dân cư ngày càng dãn cách, nhất là giữa thành thị và nông thôn.
Vì thế, giải quyết các chính sách xã hội trong quá trình phát triển kinh
tế đã và đang trở thành vấn đề bức thiết hàng đầu, là mục tiêu phấn đấu của
Đồng Nai trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH. Với lý do đó, tác giả lựa
chọn đề tài: “Giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng
xã hội ở Đồng Nai” làm luận văn thạc sĩ kinh tế của mình.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
5
Quan hệ giữa TTKT với CBXH ở nước ta là một trong những chủ đề đã
thu hút sự quan tâm nghiên cứu không chỉ đối với các nhà lãnh đạo, các nhà
quản lý mà còn thu hút đông đảo các giới khoa học trong và ngoài nước tham
gia. Đã có khá nhiều công trình khoa học, các đề tài nghiên cứu về vấn đề
này, có thể kể ra một số công trình tiêu biểu sau đây:
* Về các ấn phẩm đã in thành sách:
- “Tăng trưởng kinh tế và chính sách xã hội ở Việt Nam trong quá trình
chuyển đổi từ 1991 đến nay – Kinh nghiệm của các nước ASEAN” của tác giả
Lê Đăng Doanh và Nguyễn Minh Trí (Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung
ương, Nhà xuất bản Lao động, Hà nội, 2001). Các tác giả đã phân tích sự tác
động của chính sách xã hội với tăng trưởng kinh tế trên cơ sở phân tích kinh
nghiệm của một số nước trên thế giới cũng như ở Việt Nam trong quá trình
chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường. Từ đó, nêu rõ mối quan hệ giữa chính
sách xã hội và chính sách kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội, tạo cho mọi
người có sự bình đẳng trong việc tiếp cận với các cơ hội xã hội.
- “Công bằng xã hội trong tiến bộ xã hội” của TS Nguyễn Minh Hoàn,
(Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2009). Tác giả đã đề cập các quan
niệm thời kỳ trước C.Mác, các quan điểm hiện đại của các học giả phương
Tây, quan điểm của Mác - Ăngghen và tư tưởng của Hồ Chí Minh về công
bằng xã hội. Tác giả nhấn mạnh, công bằng xã hội và tiến bộ xã hội là mục
tiêu được Đảng ta xác định ngay từ những ngày đầu khi nước ta tiến hành sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội. Hiện nay, đất nước ta đang có tình trạng
gia tăng phân hoá giàu nghèo và bất bình đẳng do sự tồn tại của nhiều loại
hình quan hệ sở hữu. Đây là tất yếu khách quan. Điều này đòi hỏi Nhà nước
phải có sự điều chỉnh, điều tiết để kiềm chế tình trạng gia tăng bất bình đẳng.
- “Tăng trưởng kinh tế và tiến bộ, công bằng xã hội ở Việt Nam” của
GS.TS Hoàng Đức Thân, TS. Đinh Quang Ty (Chủ biên) (Nhà xuất bản Chính
6
trị quốc gia ấn hành, 2010). Các tác giả đã đi sâu nghiên cứu mối quan hệ
giữa tăng trưởng kinh tế với tiến bộ, công bằng xã hội và cho rằng đó là mối
quan hệ cơ bản, phức tạp, cực kỳ quan trọng đòi hỏi Nhà nước ta phải có
những biện pháp để giải quyết thỏa đáng.
- “Tốc độ và chất lượng tăng trưởng kinh tế Việt Nam” của Nguyễn Văn
Nam, Trần Thọ Đạt (Nhà xuất bản Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội, 2006).
Các tác giả đã hệ thống hóa những vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan
đến tốc độ, chất lượng tăng trưởng kinh tế ở Việt Nam. Qua việc phân tích
thực trạng, chất lượng tăng trưởng kinh tế ở nước ta giai đoạn cuối thế kỷ XX
đến đầu thế kỷ XXI, các tác giả cho rằng, những yếu tố thể hiện chất lượng
tăng trưởng của nền kinh tế nước ta là: tổng giá trị sản xuất, tổng sản phẩm
quốc nội, tổng thu nhập quốc dân, thu nhập bình quân đầu người và một
số các tiêu chí định tính khác như: xóa đói giảm nghèo, phúc lợi xã hội, công
bằng xã hội, môi trường môi sinh. Cũng trong cuốn sách này, các tác giả đã
chỉ ra và phân tích những giải pháp cơ bản để thúc đẩy kinh tế Việt Nam tăng
trưởng đạt chất lượng và hiệu quả cao.
- “Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam
thời kỳ đổi mới” TS Nguyễn Thị Nga (Nhà xuất bản Lý luận chính trị, Hà Nội,
2007). Tác giả tập trung phân tích và luận chứng những quan điểm cơ bản của
Đảng Cộng sản Việt Nam về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công
bằng xã hội ở nước ta hiện nay. Cụ thể là: Tăng trưởng kinh tế và công bằng
xã hội vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển xã hội; Để công bằng
xã hội trở thành động lực phát triển, cần phải gắn quyền lợi với nghĩa vụ,
cống hiến với hưởng thụ; Thực hiện mục tiêu tăng trưởng kinh tế và công
bằng xã hội trên phạm vi cả nước, ở mọi lĩnh vực, ngay trong từng bước và
từng chính sách phát triển; Bảo đảm sự thống nhất giữa tăng trưởng kinh tế và
công bằng xã hội nhằm phát triển con người, phát huy nhân tố con người;
Phát huy vai trò của nhà nước và đẩy mạnh xã hội hoá các hoạt động xã hội.
7
Nhìn chung những công trình trên bàn nhiều đến những vấn đề lý luận,
đề cập tới mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội trên
phạm vi quốc gia, các mô hình tăng trưởng, bài học kinh nghiệm từ một số
quốc gia và đưa ra các giải pháp để giải quyết hài hòa mối quan hệ đó.
* Về các công trình nghiên cứu dưới góc độ từ một địa phương:
- “Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và chính sách xã hội trong quá
trình phát triển ở Vĩnh Phúc hiện nay”, Luận văn Thạc sĩ Triết học của Phạm
Thị Thương, 2011. Tác giả đã hệ thống hóa quan niệm tăng trưởng kinh tế,
chính sách xã hội và mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và chính sách xã
hội. Phân tích, đánh giá thực trạng của việc thực hiện mối quan hệ giữa tăng
trưởng kinh tế và chính sách xã hội ở tỉnh Vĩnh Phúc. Trên cơ sở đó, tác giả
xác định phương hướng và kiến nghị một số giải pháp chủ yếu nhằm thực
hiện mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và chính sách xã hội ở Vĩnh Phúc
trong thời gian tới, đáp ứng yêu cầu phát triển theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.
- “Chất lượng tăng trưởng kinh tế Đồng Nai” của PGS, TS. Ngô
Quang Minh, TS. Nguyễn Ngọc Toàn, TS. Phạm Văn Sáng, TS. Bùi Văn
Huyền (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, 2011). Các tác giả đã tập trung
nghiên cứu, phân tích phân tích chất lượng tăng trưởng trên bảy nội dung
chính: tốc độ và sự ổn định của tăng trưởng; hiệu quả sử dụng các yếu tố đầu
vào; chuyển dịch cơ cấu kinh tế; năng lực khoa học công nghệ và sức cạnh
tranh; phát triển con người; bảo vệ môi trường; và hiệu quả quản lý nhà nước.
Từ đó đưa ra cái nhìn toàn diện, tổng thể về chất lượng tăng trưởng kinh tế
của Đồng Nai, tìm ra những rào cản đối với tăng trưởng kinh tế trên cả hai
mặt lượng và chất, từ đó vạch ra phương hướng xử lý nhằm đạt được mục tiêu
nâng cao chất lượng tăng trưởng kinh tế của tỉnh.
- “Vấn đề kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội ở
Đồng Nai”, Luận văn Thạc sĩ Triết học Phạm Xuân Hà Học viện Chính trị -
8
Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 2010. Tác giả đã phân tích vấn đề
kết hợp giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội ở Đồng Nai dưới giác
độ triết học nhằm luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn đang đặt ra cho
Đồng Nai trong thời gian tới.
- “Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội – một số vấn đề lý luận và
thực tiễn ở một số tỉnh miền Trung” của các tác giả Phạm Hảo, Võ Xuân Tiến,
Mai Đức Lộc (Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2000) đã phân tích
mối quan hệ biện chứng giữa phát triển kinh tế và giải quyết các vấn đề xã
hội, làm rõ thực trạng và những vấn đề đặt ra trong việc kết hợp phát triển
kinh tế và giải quyết các vấn đề xã hội ở nông thôn Bắc Trung Bộ, bước đầu
nêu lên những giải pháp chủ yếu để kết hợp phát triển kinh tế với giải quyết
các vấn đề xã hội ở nông thôn khu vực Bắc Trung Bộ.
- “Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội lý thuyết và thực tiễn ở
thành phố Hồ Chí Minh” của TS. Đỗ Phú Trần Tình (Nhà xuất bản Lao động,
năm 2010). Tác giả khảo sát một yếu tố quan trọng hỗ trợ tăng trưởng kinh tế là
công bằng xã hội, là yếu tố tác động thuận lợi để giúp tăng trưởng có chất
lượng ngày càng cao. Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội luôn là mục tiêu
xuyên suốt trong chiến lược tăng trưởng kinh tế của Việt Nam, và tác giả chọn
khảo sát phạm vi Thành phố Hồ Chí Minh trong thời kỳ gần hai mươi năm qua,
nhằm xem xét các yếu tố đặc trưng trong tăng trưởng kết hợp công bằng xã hội
của Thành phố. Qua khảo sát, phỏng vấn ý kiến thực tế của dân cư thành phố,
Tác giả đề xuất các biện pháp kỳ vọng giúp giải quyết tốt hơn quan hệ giữa
tăng trưởng và công bằng xã hội.
Nhìn chung các công trình trên bàn đến các lý thuyết về mô hình tăng
trưởng, mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội với những
điều kiện khác nhau và đưa ra những bài học kinh nghiệm có giá trị nhất định.
* Về các bài báo, bài viết trên các tạp chí, các hội thảo khoa học:
9
- “Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội” của TS Bùi Đại Dũng và
Ths Phạm Thu Phương, Tạp chí Khoa học ĐHQG Hà Nội, Kinh tế và Kinh
doanh 25 (2009) tr 82-91. Các tác giả đã làm rõ thêm khái niệm “công bằng
xã hội” trong bối cảnh phát triển bền vững; cung cấp một số minh chứng định
lượng về quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội, với một số
nhận định: (1) Công bằng xã hội phải bảo đảm khuyến khích tối đa khả năng
đóng góp và hạn chế tối thiểu khả năng gây hại của mỗi cá nhân đối với xã
hội; (2) Việc cung cấp các dịch vụ y tế, giáo dục cho nhóm nghèo mang ý
nghĩa kinh tế quan trọng (không đơn thuần mang tính đạo đức). Đó là chi phí
cần thiết và hiệu quả nhằm bảo đảm mức toàn dụng lao động xã hội đồng
thời hạn chế những tổn hại cho xã hội trong tương lai; (3) Nhóm giàu cần
được khuyến khích làm giàu chính đáng với tư cách là nhóm đầu tàu thúc
đẩy xã hội phát triển đi đôi với việc ngăn ngừa hành vi làm giàu bất chính,
trong đó có hành vi trục lợi từ ngoại ứng tiêu cực.
- “Tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa” của TS Phạm Xuân Nam, Tạp chí Triết học, số 2
(2007) , tr 27-34. Trong bài viết này, tác giả đã đưa ra và luận giải: việc giải
quyết mối quan hệ giữa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng
xã hội ở một số mô hình kinh tế tiêu biểu trên thế giới như mô hình kinh tế thị
trường tự do, mô hình kinh tế thị trường xã hội, mô hình kinh tế kế hoạch hoá
tập trung phi thị trường. Những thành tựu và vấn đề đặt ra trong việc kết hợp
tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội trong nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hơn 20 năm đổi mới; Cụ thể hoá hệ quan
điểm và đề xuất những giải pháp về thực hiện công bằng xã hội trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam trong những năm
tiếp theo.
- “Công bằng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa”của GS, VS Nguyễn Duy Quý, Tạp chí Triết học, số 3, 2008, tr
10
12-17. Trong bài viết, tác giả phân tích vấn đề thực hiện công bằng xã hội
trong điều kiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam hiện nay trên cơ sở làm rõ sự khác nhau, mối quan hệ gắn bó
giữa công bằng xã hội và bình đẳng xã hội, thực trạng thực hiện công bằng xã
hội ở Việt Nam trước và trong những năm đổi mới, tác giả đã đi đến kết luận:
chỉ có trên cơ sở dựa vào công bằng xã hội để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế,
đồng thời kết hợp tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội và công bằng xã hội
ngay trong từng bước và trong suốt quá trình phát triển, chúng ta mới vừa
đảm bảo được mục tiêu tăng trưởng kinh tế, vừa thực hiện được định hướng
xã hội chủ nghĩa trong phát triển kinh tế thị trường.
Ngoài ra còn một số bài viết trên các tạp chí khoa học đề cập đến vấn
đề tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội như: “ Một số vấn đề lý luận và
thực tiễn xung quanh việc thực hiện công bằng xã hội ở Việt Nam hiện nay”
của GS.TS Lê Hữu Tầng (Tạp chí Triết học, số 1, 2008, tr38-44); “Một số
giải pháp nhằm kết hợp tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội ở nước ta
hiện nay” của PGS.TS Trần Văn Phòng (Tạp chí Khoa học chính trị số 22006, trang 23-27); “Tăng trưởng kinh tế đi đôi với thực hiện công bằng xã
hội: động lực giảm nghèo ở Việt Nam” của PGS.TS Đỗ Đức Định (Tạp chí
Cộng sản số 777 (tháng 7/2007))…..
Các công trình khoa học, các bài viết nêu trên, dù ở các góc độ tiếp cận
khác nhau, nhưng đã đề cập khá đầy đủ về mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh
tế với công bằng xã hội ở Việt Nam trên bình diện vĩ mô. Tuy nhiên, mỗi địa
phương do những đặc thù riêng biệt về các đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội,
chi phối, nên việc giải quyết mối quan hệ này cũng có những yêu cầu khác
nhau. Cho đến nay, mặc dù đã có khá nhiều đề tài luận văn nghiên cứu về mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội ở Việt Nam nói chung
và ở Đồng Nai nói riêng, nhưng tiếp cận nghiên cứu vấn đề này dưới góc độ
kinh tế chính trị thì chưa có một công trình nào nghiên cứu một cách toàn
11
diện. Đó cũng chính là lý do tác giả chọn đề tài này để nghiên cứu với mong
muốn góp phần vào việc luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn đang đặt
ra trong quá trình giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công
bằng xã hội ở Đồng Nai hiện nay. Những tài liệu nêu trên sẽ là nguồn tư liệu
bổ sung quý giá giúp tác giả có thể tham khảo, kế thừa và hoàn thiện những
nghiên cứu của mình theo nhiệm vụ đề tài đặt ra.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích
Trên cơ sở làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn giải quyết mối quan hệ
giữa TTKT với CBXH, luận văn đề xuất quan điểm và giải pháp nhằm giải
quyết tốt hơn mối quan hệ này ở Đồng Nai hiện nay.
* Nhiệm vụ
+ Làm rõ mối quan hệ giữa TTKT với CBXH và giải quyết mối quan
hệ này ở Đồng Nai hiện nay.
+ Đánh giá đúng thực trạng việc giải quyết giữa tăng trưởng kinh tế với
bảo đảm công bằng xã hội trên địa bàn tỉnh Đồng Nai.
+ Đưa ra những quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết mối
quan hệ giữa TTKT với CBXH ở Đồng Nai hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Giải quyết mối quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội
là đối tượng nghiên cứu của luận văn được tiếp cận dưới góc độ khoa học
Kinh tế chính trị.
* Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Luân văn tập trung nghiên cứu việc giải quyết mối
quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế với công bằng xã hội ở Đồng Nai.
- Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu, phân tích, khảo sát số
liệu từ năm 2001 đến nay
12
5. Cơ sở lý luận và phương pháp luận nghiên cứu
* Cơ sở lý luận
Luận văn thực hiện trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, chủ trương, đường lối của Đảng Cộng
sản Việt Nam; các chính sách, pháp luật của Nhà nước cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam.
* Phương pháp luận nghiên cứu
Luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đồng thời kết hợp sử dụng các phương pháp của
khoa học kinh tế chính trị và các phương pháp khác: phân tích và tổng hợp,
logic và lịch sử, thống kê, so sánh.
6. Ý nghĩa của đề tài
- Ở một mức độ nhất định, kết quả nghiên cứu của luận văn góp phần đưa
ra những cơ sở khoa học cho việc hoạch định và thực thi các chính sách kinh tế xã hội, nhằm thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội ở Đồng Nai hiện nay.
- Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc giảng dạy và
nghiên cứu một số chuyên đề trong chương trình trung cấp lý luận chính trị ở
Đồng Nai.
7. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, mục lục,
luận văn gồm 3 chương, 7 tiết.
13
Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ GIẢI QUYẾT MỐI QUAN HỆ
GIỮA TĂNG TRƯỞNG KINH TẾ VỚI CÔNG BẰNG XÃ HỘI
1.1. Khái niệm tăng trưởng kinh tế và công bằng xã hội
1.1.1 Tăng trưởng kinh tế
* Khái niệm tăng trưởng kinh tế
Tăng trưởng kinh tế (TTKT) là một khái niệm được sử dụng khá phổ
biến những năm gần đây để phản ánh trạng phát triển kinh tế của một ngành,
một địa phương, một quốc gia khi so sánh với một thời điểm nhất định.
Ngay từ thời Hy Lạp cổ đại đã có những quan niệm của các nhà tư
tưởng về tăng trưởng kinh tế. Họ cho rằng: tăng trưởng kinh tế là hoạt động
diễn ra trong lĩnh vực kinh tế, tăng trưởng kinh tế được đồng nhất với sự tăng
lên về lượng của nền kinh tế, như tăng sản lượng, tăng của cải…Xênôphôn
(430-345 TCN) cho rằng: “Hoạt động kinh tế là quá trình làm tăng của cải,
tăng tư liệu tiêu dùng (thực chất là tăng trưởng kinh tế). Theo ông, phân công
lao động có vai trò thúc đẩy giao lưu hàng hóa giữa các vùng, nhờ có phân
công lao động mà nâng cao được chất lượng hoạt động, thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế” [20, tr 23]. Platôn (427- 347 TCN) cho rằng: “Mối quan hệ giữa phân
công lao động, thương mại và tiền tệ dưới sự hoạt động của các thương gia
đóng vai trò quan trọng trong việc làm tăng của cải”(thực chất là tăng trưởng
kinh tế). Tăng trưởng kinh tế là quá trình tăng của cải bởi hoạt động do
thương mại đem lại” [21, tr 24].
Nhìn chung, ở thời kỳ Hy Lạp cổ đại, khái niệm tăng trưởng kinh tế
chưa được các nhà tư tưởng nghiên cứu một cách sâu sắc. Những kết quả đạt
được từ việc nghiên cứu mới chỉ mang tính chất bước đầu, đơn giản, song nó
có ý nghĩa hết sức quan trọng, là cơ sở cho các nhà tư tưởng sau này tiếp tục
nghiên cứu.
14
Bước sang thời kỳ cận đại, giai cấp tư sản ra đời, khai sinh thời kỳ mới
với sự tiến bộ vượt bậc về khoa học, kỹ thuật, kinh tế - xã hội và Khoa kinh tế
học cũng được ra đời vào thời kỳ này. Adam Smith (1723 - 1790) trong cuốn
sách "Bàn về bản chất và nguyên nhân giàu có của các quốc gia” ông bàn về
tính chất, nguyên nhân và điều kiện thuận lợi của tăng trưởng kinh tế. Ông
quan niệm: tăng trưởng kinh tế là tăng đầu ra tính theo bình quân đầu người,
hoặc tăng sản phẩm lao động. D.Ricardo (1772 – 1823), kế thừa Adam Smith
nhưng ông mở rộng sang vấn đề phân phối, thu nhập, chú trọng đến phân tích
tỷ lệ phân phối của các loại thu nhập và ảnh hưởng đến tích lũy tư bản từ đó
ảnh hưởng đến tăng trưởng kinh tế.
Ngày nay, tăng trưởng kinh tế là một trong những vấn đề được quan tâm
hàng đầu tại mỗi quốc gia trong quá trình phát triển kinh tế, nhất là ở giai đoạn
đầu của quá trình phát triển và cùng với thời gian, quan niệm về vấn đề này ngày
càng hoàn thiện hơn. Trong ngôn ngữ sử dụng hàng ngày chúng ta có thể dùng
khái niệm “tăng”, “sự gia tăng”, “sự tăng lên”… để chỉ sự tăng trưởng. Trong kinh
tế học, thuật ngữ tăng trưởng kinh tế được sử dụng rộng rãi và có nhiều cách tiếp
cận khác nhau:
Theo TS Nguyễn Xuân Phong thì “Tăng trưởng kinh tế là sự gia tăng sản
lượng thực tế của một nền kinh tế theo thời gian, là mức tăng quy mô và tốc độ
sản phẩm, là sự tăng thêm về quy mô sản xuất mà từ đó tăng lượng sản phẩm
hàng hóa và dịch vụ trong một thời gian nhất định (thường là một năm). Nếu
tổng sản phẩm hàng hóa của một quốc gia tăng lên thì đó được coi là tăng trưởng
kinh tế” [60, tr.23].
Theo TS Phạm Ngọc Linh, Nguyễn Thị Kim Dung thì “Tăng trưởng kinh
tế là sự gia tăng thu nhập của nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất
định (thường là một năm)” [48, tr.14].
Tuy có nhiều cách tiếp cận và định nghĩa về TTKT, song phần lớn đều
thống nhất những nội dung căn bản ở quan niệm sau đây: “Tăng trưởng kinh
15
tế là sự gia tăng thu nhập thực tế hay sự gia tăng về quy mô sản lượng của
toàn bộ nền kinh tế trong một khoảng thời gian nhất định (thường là lấy một
năm làm mốc so sánh)”. Quan niệm này chính là sự kế thừa phát triển tư
tưởng của C.Mác về chỉ tiêu tổng hợp phản ánh giá trị tăng trưởng kinh tế khi
Ông đưa ra khái niệm tổng sản phẩm quốc nội và thu nhập quốc dân để đánh
giá kết quả hoạt động của nền kinh tế. Trong đó tổng sản phẩm xã hội là toàn
bộ sản phẩm được sản xuất ra trong một thời gian nhất định, còn thu nhập
quốc dân là phần còn lại của tổng sản phẩm xã hội sau khi đã trừ đi cho phí
sản xuất.
Khi nói đến tăng trưởng, tức là phải nhìn nhận toàn diện cả hai mặt của
tăng trưởng, đó là số lượng và chất lượng của tăng trưởng. Số lượng của tăng
trưởng kinh tế thể hiện ở qui mô, tốc độ của tăng trưởng, còn mặt chất lượng
tăng trưởng là tính qui định vốn có của nó, là sự thống nhất hữu cơ làm cơ sở
phân biệt hiện tượng kinh tế với các hiện tượng khác. Chất lượng tăng trưởng
được qui định bởi các yếu tố cấu thành và phương thức liên kết giữa các yếu
tố cấu thành tăng trưởng kinh tế. Như vậy khi nghiên cứu quá trình tăng
trưởng, cần phải xem xét một cách đầy đủ hai mặt của hiện tượng tăng trưởng
kinh tế là số lượng và chất lượng của tăng trưởng. Tăng trưởng kinh tế với tốc
độ và chất lượng cao là mong muốn của mọi quốc gia. Tăng trưởng kinh tế có
tác động rất lớn đến đời sống kinh tế xã hội nên đã được nhiều trường phái
kinh tế học khác nhau nghiên cứu trong các lý thuyết của mình. Mỗi trường
phái đều cố gắng nghiên cứu mối quan hệ giữa lao động, tư bản, công nghệ kỹ
thuật, các yếu tố thể chế trong việc làm cho nền kinh tế gia tăng sản lượng,
gia tăng thu nhập quốc dân…
* Các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế
Các nhân tố tác động đến tăng trưởng kinh tế là các nguồn lực mà sự
biến đổi của nó trực tiếp làm biến đổi sản lượng đầu ra, các nhân tố này còn
gọi là các yếu tố sản xuất. Đây là những nhân tố có tác động trực tiếp đến các
16
yếu tố đầu vào và đầu ra của nền kinh tế. Các nhân tố kinh tế bao gồm các
nhân tố tác động trực tiếp tới tổng cung và các nhân tố tác động trực tiếp tới
tổng cầu:
- Vốn: Là yếu tố vật chất đầu vào quan trọng, có tác động trực tiếp đến
tăng trưởng kinh tế. Vốn sản xuất có liên quan trực tiếp đến tăng trưởng kinh
tế là vốn vật chất, nó là toàn bộ tư liệu vật chất được tích luỹ lại của nền kinh
tế, bao gồm: nhà máy, thiết bị, máy móc, nhà xưởng và các trang thiết bị được
sử dụng như những yếu tố đầu vào sản xuất.
- Lao động: Là yếu tố đầu vào không thể thiếu của sản xuất, là yếu tố
đặc biệt quan trọng của quá trình sản xuất. Trước đây người ta chỉ quan niệm
lao động là yếu tố vật chất đầu vào giống như vốn, được xác định bằng số lao
động của mỗi quốc gia và được tính bằng đầu người hay thời gian lao động.
Những mô hình tăng trưởng kinh tế hiện đại gần đây đã nhấn mạnh đến khía
cạnh phi vật chất của lao động là vốn con người, đó là lao động có sáng kiến
và phương pháp mới trong hệ thống hoạt động kinh tế …
- Tài nguyên: (bao gồm đất đai, tài nguyên trong lòng đất); các tài
nguyên thiên nhiên dồi dào, phong phú được khai thác tạo điều kiện tăng sản
lượng đầu ra một cách nhanh chóng, nhất là đối với các nước đang phát triển.
Song, tài nguyên thì có hạn, không thể tái tạo được, hoặc nếu tái tạo được
phải mất nhiều thời gian, sức lực và chi phí. Do đó, tài nguyên được đưa vào
sử dụng để tạo ra sản phẩm cho xã hội ngày càng nhiều càng tốt nhưng phải
đảm bảo chúng được sử dụng hiệu quả, không lãng phí. Việc sử dụng tài
nguyên là vấn đề có tính chiến lược, lựa chọn công nghệ để có thể sử dụng
hiệu quả và tiết kiệm tài nguyên quốc gia là vấn đề sống còn của sự phát triển.
Sử dụng lãng phí tài nguyên có thể được xem như sự huỷ hoại môi trường,
làm cạn kiệt tài nguyên
- Tiến bộ công nghệ: là yếu tố tác động ngày càng mạnh đến tăng
trưởng ở các nền kinh tế ngày nay. Yếu tố công nghệ cần được hiểu đầy đủ
17
theo hai dạng: thứ nhất đó là những thành tựu kiến thức, tức là nắm bắt kiến
thức khoa học, nghiên cứu đưa ra những nguyên lý, thử nghiệm về cải tiến
sản phẩm, quy trình công nghệ hay thiết bị kỹ thuật; thứ hai là sự áp dụng phổ
biến các kết quả nghiên cứu, thử nghiệm vào thực tế nhằm nâng cao trình độ
phát triển chung của sản xuất.
Như vậy có thể thấy nguồn gốc của tăng trưởng do nhiều yếu tố hợp
thành, vai trò của nó phụ thuộc vào hoàn cảnh và thời kỳ phát triển của mỗi
quốc gia. Đối với các nước nghèo, lao động rẻ và tài nguyên thiên nhiên đóng
vai trò quan trọng. Ngược lại đối với các nước công nghiệp thì vai trò của vốn
con người và tiến bộ công nghệ quan trọng hơn.
* Các thước đo của tăng trưởng kinh tế
Để đo lường tăng trưởng kinh tế người ta sử dụng các chỉ tiêu để đo
lường tăng trưởng kinh tế như: Tổng sản phẩm quốc dân (GNP), Tổng sản
phẩm quốc nội (GDP), Tổng sản phẩm ròng quốc dân (NNP), Tổng thu nhập
quốc dân (GNI), Thu nhập quốc dân (NI), Thu nhập quốc dân sử dụng (NDI)
và một số chỉ tiêu khác.
- Tổng sản phẩm quốc nội hay tổng sản phẩm trong nước (GDP): là giá
trị tổng sản lượng hàng hóa và dịch vụ cuối cùng được sản xuất bởi các yếu tố
sản xuất nằm trong phạm vi lãnh thổ quốc gia trong một thời kỳ nào đó trong
một khoảng thời gian nhất định (thường là một năm), bất kể ai là chủ sở hữu
các yếu tố sản xuất. Tổng sản phẩm quốc nội hay tổng sản phẩm trong nước
đo lường giá trị thị trường của tất cả hàng hóa và dịch vụ cuối cùng do người
dân nước đó và người dân nước ngoài sản xuất ra trong phạm vi lãnh thổ
nước đó trong một năm cho trước.
- Tổng thu nhập quốc dân (GNI): là tổng thu nhập lần đầu được tạo ra
bởi các yếu tố sản xuất thuộc sở hữu của một quốc gia bất kể thu nhập này
được tạo ra ở trong nước hay ở ngoài nước trong một thời kỳ nhất định,
thường là 1 năm. Khác với tổng sản phẩm trong nước, là chỉ tiêu chỉ quan tâm
18
tới thu nhập được tạo ra bởi các yếu tố sản xuất diễn ra trong nước, tổng thu
nhập quốc gia bằng tổng sản phẩm trong nước cộng với thu nhập yếu tố thuần
(nghĩa là cộng với thu nhập yếu tố từ nước ngoài trừ đi chi trả yếu tố cho
nước ngoài).
- Tổng sản phẩm quốc dân (GNP): là tổng giá trị bằng tiền của các sản
phẩm cuối cùng và dịch vụ mà công dân của một nước làm ra trong một
khoảng thời gian nào đó, thông thường là một năm tài chính, không kể làm ra
ở đâu (trong hay ngoài nước).
- GDP bình quân đầu người (GDP/người): là chỉ tiêu phản ánh một
cách tổng quan mức sống dân cư và được tính bằng tỷ lệ giữa tổng sản phẩm
trong nước với tổng dân số trung bình trong năm. Tổng sản phẩm trong nước
bình quân đầu người có thể tính theo giá thực tế, giá so sánh, tính theo nội tệ
hoặc theo ngoại tệ. Sự gia tăng liên tục với tốc độ ngày càng cao của chỉ tiêu
này là dấu hiệu thể hiện sự tăng trưởng bền vững và nó còn được sử dụng
trong việc so sánh mức sống dân cư giữa các quốc gia hoặc giữa các tỉnh,
thành phố trong cả nước với nhau.
1.1.2 Công bằng xã hội
* Quan niệm về Công bằng xã hội
Trong kinh tế học có hai khái niệm về công bằng xã hội thường được
sử dụng là công bằng theo chiều ngang và công bằng theo chiều dọc. Công
bằng theo chiều ngang có nghĩa là đối xử như nhau với những người có đóng
góp như nhau. Công bằng theo chiều dọc nghĩa là đối xử khác nhau với những
người có những khác biệt bẩm sinh hoặc có các điều kiện xã hội khác nhau.
Nếu công bằng theo chiều ngang được thực hiện bởi cơ chế thị trường thì
công bằng theo chiều dọc cần có sự điều tiết của Chính phủ. Việc phân định
và kết hợp công bằng theo chiều ngang và công bằng theo chiều dọc sẽ đảm
bảo công bằng xã hội thực sự. Như vậy công bằng xã hội là một khái niệm rất
rộng bao gồm cả các yếu tố kinh tế, chính trị, xã hội và văn hóa. Xét một cách
19
tổng thể, công bằng xã hội gắn với sự phát triển toàn diện của con người và là
kết quả của sự phát triển đó.
Khi nghiên cứu nền sản xuất tư bản chủ nghĩa, C.Mác cho rằng quan hệ
trao đổi “ngang giá” khi mua và bán sức lao động giữa nhà tư bản với công
nhân được nhà tư bản cho rằng là công bằng, vì theo họ, nguyên tắc trao đổi
ngang giá đã phân chia số giá trị gia tăng thu được sau chu trình sản xuất
thành tiền công của người công nhân và lợi nhuận của nhà tư bản đúng với tỷ
lệ công sức và tiền của mà mỗi bên đã tham dự vào sản xuất. Nhưng thực tế,
sức lao động là hàng hoá đặc biệt, khi đưa vào sử dụng, nó tạo ra lượng giá trị
lớn hơn nó trước khi sử dụng; song người công nhân chỉ nhận được cái gọi là
"tiền công lao động”, còn phần giá trị gia tăng do sức lao động làm ra bị nhà
tư bản chiếm đoạt để biến thành “lợi nhuận”. Phương thức phân phối trong
chủ nghĩa tư bản thực chất là bất công. Phân phối như vậy chỉ làm giàu lên
của thiểu số nhà tư bản do bóc lột sức lao động của công nhân lao động và sự
bần cùng hoá của số đông người lao động trong xã hội. Theo C.Mác và
Ph.Ăngghen, sở dĩ trong xã hội tư bản chủ nghĩa chưa có bình đẳng, công
bằng, bởi xã hội vẫn còn bất công, chưa xoá bỏ được nguyên nhân mà suy
cho đến cùng, sinh ra bất công là chế độ tư hữu. Để xây dựng một xã hội công
bằng thực sự chỉ có được trong chủ nghĩa xã hội; bởi vì, chỉ khi chế độ tư hữu
bị thủ tiêu, chế độ công hữu mới được thiết lập và do đó mới xuất phát điểm
bình đẳng trong quan hệ phân phối đảm bảo công bằng xã hội.
Trong chủ nghĩa xã hội, như C.Mác đã đề cập trong tác phẩm Phê phán
cương lĩnh Gôta, công bằng xã hội được thể hiện trong nguyên tắc phân phối:
trong xã hội chủ nghĩa, sau khi khấu trừ đi những khoản cần thiết để duy trì
sản xuất, tái sản xuất, cũng như để duy trì đời sống của cộng đồng, toàn bộ số
sản phẩm của xã hội còn lại sẽ được phân phối theo nguyên tắc: “mỗi người
sản xuất nhận được trở lại vừa đúng cái mà anh ta đã cung cấp cho xã hội. Cái
mà anh ta đã cống hiến cho xã hội là lượng cá nhân của anh ta” [49, tr.33]. Đó
20
là nguyên tắc phân phối rất công bằng, tất cả những người sản xuất đều có
quyền ngang nhau trong việc tham dự vào quỹ tiêu dùng của xã hội khi làm
một công việc ngang nhau. Tuy nhiên, trong điều kiện của chủ nghĩa xã hội,
công bằng xã hội không đồng nhất với bình đẳng xã hội, nghĩa là bình đẳng
không phải ngang nhau về mọi phương diện. Phải chấp nhận tình trạng bất
bình đẳng ở một giới hạn nhất định giữa các thành viên trong xã hội, bởi “Với
một công việc ngang nhau và do đó, với một phần tham dự như nhau vào quỹ
tiêu dùng của xã hội thì trên thực tế, người này vẫn lĩnh nhiều hơn người kia,
người này vẫn giàu hơn người kia…” [49, tr.35]. Từ những luận điểm của
C.Mác, chúng ta thấy, công bằng xã hội không đồng nhất với bình đẳng xã
hội, công bằng xã hội, bình đẳng xã hội không có nghĩa là chia đều, ngang
bằng nhau, và trong xã hội xã hội chủ nghĩa vẫn tồn tại sự bất bình đẳng; bình
đẳng trong chủ nghĩa xã hội là bình đẳng về địa vị xã hội của con người. Tất
nhiên, chặng đường đi đến công bằng, bình đẳng thật sự, theo quan điểm của
Mác - Lê nin, loài người phải thực hiện qua hai giai đoạn: xã hội chủ nghĩa và
cộng sản chủ nghĩa. Giai đoạn đầu, công bằng xã hội được thực hiện theo
nguyên tắc: "làm theo năng lực, hưởng theo lao động”. Phân phối theo lao
động, theo cách giải thích của Lênin, không có nghĩa là làm được bao nhiêu
thì hưởng hết bấy nhiêu, mà phải dựa trên hai nguyên tắc: người có sức lao
động mà không làm thì không hưởng; “số lượng lao động ngang nhau thì
hưởng số sản phẩm ngang nhau” [47, tr.116 ]. Giai đoạn thứ hai, công bằng
xã hội thực hiện theo nguyên tắc: "làm hết năng lực, hưởng theo nhu cầu”
[47, tr.117].
Các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin chủ yếu nói về công bằng
xã hội thể hiện tập trung ở chế độ phân phối theo lao động dưới chủ nghĩa xã
hội, còn về chế độ phân phối trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thì các
ông chưa có đủ điều kiện để bàn tới. Đây chính là điểm mà các Đảng Cộng
sản trong đó có Đảng Cộng sản Việt Nam đã từng bước bổ sung, phát triển
21
bằng những kết luận mới rút ra từ trong thực tiễn sinh động của quá trình đổi
mới toàn diện đất nước. Đại hội Đảng lần thứ VI là bước đột phá lớn và toàn
diện làm xoay chuyển tình hình đưa nước ta tiến lên, Đại hội Đảng VI xác
định: “Cần sửa đổi, bổ sung và công bố rộng rãi chính sách nhất quán đối với
các thành phần kinh tế, phải có những quy định mang tính nguyên tắc pháp
luật để mọi người yên tâm, mạnh dạn kinh doanh… song, về pháp luật phải
thực hiện nguyên tắc bình đẳng. Những người làm ra của cải và những việc có
ích cho xã hội, thực hiện đầy đủ nghĩa vụ, chấp hành nghiêm pháp luật và chính
sách đều được tôn trọng, được quyền hưởng thu nhập tương xứng với kết quả lao
động, kinh doanh hợp pháp của họ” [26, tr.61]. Sau đó nội dung này đã được
làm rõ và sâu sắc thêm tại các kỳ Đại hội Đảng tiếp theo (Đại hội VII năm
1991, Đại hội VIII năm 1996, Đại hội IX năm 2001, Đại hội X năm 2006 và
Đại hội XI năm 2011). Ở nước ta hiện nay, công bằng xã hội là một giá trị cơ
bản định hướng cho việc giải quyết mối quan hệ giữa người với người trong
tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội theo nguyên tắc: cống hiến về vật chất
và tinh thần ngang nhau cho sự phát triển xã hội thì được hưởng thụ ngang
nhau những giá trị vật chất và tinh thần do xã hội tạo ra phù hợp với khả năng
hiện thực của đất nước. Song vì hoàn cảnh cụ thể của mỗi người khác nhau,
cho nên việc tạo điều kiện cho mọi người, nhất là những người có hoàn cảnh
khó khăn đều có thể tiếp cận công bằng các cơ hội phát triển, các nguồn lực
phát triển, tiếp cận các dịch vụ xã hội cơ bản về giáo dục, y tế, việc làm,
thông tin,… mang tính an sinh xã hội luôn giữ một vai trò quan trọng trong
việc thực hiện công bằng xã hội ở nước ta hiện nay.
Như vậy, công bằng xã hội là khái niệm có nội dung kinh tế, chính trị
phức tạp hơn nhiều so với khái niệm tăng trưởng kinh tế. Công bằng xã hội
hiểu theo nghĩa chung nhất là sự ngang bằng nhau trong mối quan hệ giữa
người với người dựa trên nguyên tắc thống nhất giữa nghĩa vụ và quyền lợi,
giữa cống hiến và hưởng thụ. Từng thành viên gắn bó với cộng đồng xã hội
22
trên mọi lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội thông qua sự cống hiến
theo khả năng, trí tuệ, sức lực của mình cho sự phát triển của xã hội và được
xã hội bù đắp, chăm sóc trở lại một cách tương xứng, không có sự tương
xứng ấy là bất công. Việc thực hiện công bằng xã hội về thực chất, là sự ứng
xử một cách hợp lý nhằm điều tiết mối quan hệ xã hội giữa các cá nhân, các
nhóm xã hội, các vùng, miền…trong quá trình tìm kiếm lợi ích.
* Nhân tố tác động đến thực hiện công bằng xã hội
- Sự phát triển kinh tế: Thể hiện như một điều kiện cần thiết để thực
hiện công bằng xã hội. Sự lầm tưởng khi chúng ta muốn thực hiện công bằng
xã hội trên cơ sở một nền kinh tế trì trệ, lạc hậu, suy thoái. Không có một nền
kinh tế phát triển thì sẽ không có khả năng huy động các nguồn lực để thực
hiện công bằng xã hội.
- Các chính sách, công cụ điều tiết của Nhà nước: Thông qua cơ chế
chính sách, luật pháp…, Nhà nước đảm bảo ổn định kinh tế vĩ mô, giải phóng
sức sản xuất và lao động, điều chỉnh cơ cấu đầu tư theo hướng có lợi cho
người nghèo, vùng nghèo, tăng đầu tư vào chính sách ưu đãi người có công,
chính sách xã hội và phúc lợi xã hội …tạo ra nền tảng ổn định, thực hiện công
bằng xã hội. Nhà nước ban hành các chính sách xã hội và tổ chức thực hiện để
tạo cơ hội được cống hiến và hưởng thụ thành quả lao động như nhau, bảo vệ
lợi ích chính đáng của mọi tầng lớp nhân dân.
- Cơ chế phân phối: Chế độ phân phối giải quyết hợp lý hài hoà giữa
cống hiến và hưởng thụ. Trong phân phối không chỉ cần chú ý đế sự đóng góp
của người lao động, mà còn chú ý đến mức đóng góp vốn và các nguồn lực
khác vào sản xuất kinh doanh ( như vốn đầu tư, công cụ và tư liệu sản xuất,
lao động…). Phân phối như thế nào để tạo cơ hội như nhau cho mọi người
tiếp cận đến thu nhập trong quan hệ và hình thức phân phối nhất định, đến
phúc lợi xã hội và điều kiện sống để mỗi người được hưởng thụ đầy đủ hơn
các thành quả làm ra là thực hiện công bằng xã hội.
23
- Trình độ người dân: Trình độ, sự hiểu biết của người dân về pháp
luật, chính sách của Nhà nước giúp họ bảo vệ quyền lợi của mình và đấu
tranh để đòi quyền lợi chính đáng của mình đồng thời chống những biểu hiện
tiêu cực, bất công xã hội, thực hiện công bằng xã hội.
* Các thước đo đánh giá sự bất bình đẳng và công bằng xã hội
Do nội hàm của công bằng xã hội phức tạp nên việc định lượng mức
độ công bằng xã hội là rất khó khăn. Người ta đã sử dụng nhiều thước đo
khác nhau nhưng kết quả chỉ mang ý nghĩa tương đối. Các thước đo thường
được sử dụng phổ biến sau đây:
- Đường cong Lorenz
Conrad Lorenz nhà thống kê người Mỹ đã xây dựng biểu đồ biểu thị
mối quan hệ giữa các nhóm dân số và tỷ lệ thu nhập tương ứng với họ. Đường
cong Lorenz được biểu thị trong một hình vuông, cạnh đáy biểu thị phần
trăm cộng dồn của dân số và được sắp xếp theo thứ tự thu nhập tăng dần và
cạnh trái biểu thị tỷ lệ tổng thu nhập mà mỗi phần trăm trong dân số nhận
được. Đường chéo của hình vuông (Đường 450) là đường công bằng tuyệt đối.
Đường Lorenz cho thấy mối quan hệ định lượng thực sự giữa tỷ lệ phần trăm
của dân số có thu nhập và tỷ lệ phần trăm trong tổng thu nhập nhận được
trong một khoảng thời gian nhất định chẳng hạn là một năm.
Khoảng cách giữa đường chéo (đường 450) và đường Lorenz là dấu
hiệu cho biết mức độ bất bình đẳng. Đường Lorenz càng cách xa đường 45 0
thì mức độ bất bình đẳng càng lớn. Điều đó cũng có nghĩa là phần trăm thu
nhập người nghèo nhận được sẽ giảm đi.
- Hệ số Gini:
Hệ số Gini (G) là thước đo được sử dụng rộng rãi trong các nghiên
cứu thực nghiệm. Dựa vào đường Lorenz có thể tính toán hệ số Gini. Hệ số
Gini chính là tỷ số giữa diện tích được giới hạn bởi đường Lorenz và đường
45° với diện tích tam giác nằm bên dưới. Hệ số Gini được tính từ giá trị 0 đến