Tải bản đầy đủ (.doc) (94 trang)

Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở viện khoa học lao động và xã hội

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (569.68 KB, 94 trang )

BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


NGÔ VĂN THẮNG

PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO
Ở VIỆN KHOA HỌC LAO ĐỘNG VÀ XÃ HỘI

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2014

1


BỘ QUỐC PHÒNG
HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ


NGÔ VĂN THẮNG

PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO
Ở VIỆN KHOA HỌC LAO ĐỘNG VÀ XÃ HỘI

CHUYÊN NGÀNH: KINH TẾ CHÍNH TRỊ
MÃ SỐ: 60 31 01 02

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS.TS VŨ QUANG LỘC

HÀ NỘI - 2014



2


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN
LỰC CHẤT LƯỢNG CAO Ở VIỆN KHOA HỌC
LAO ĐỘNG VÀ XÃ HỘI
1.1. Quan niệm về nguồn nhân lực chất lượng cao và vai trò
của nó trong phát triển của Viện Khoa học Lao động và Xã
hội
1.2. Những nội dung cơ bản phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao ở Viện Khoa học Lao động và Xã hội
1.3. Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở
một số viện khoa học và những bài học rút ra cho Viện
Khoa học Lao động và Xã hội
Chương 2 THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
CHẤT LƯỢNG CAO Ở VIỆN KHOA HỌC LAO
ĐỘNG VÀ XÃ HỘI
2.1. Khái quát về Viện khoa học Lao động và Xã hội
2.2. Thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao ở Viện khoa học Lao động và Xã
hội thời gian qua
2.3. Những vấn đề đặt ra cần giải quyết
Chương 3 CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU PHÁT TRIỂN NGUỒN
NHÂN LỰC CHẤT LƯỢNG CAO Ở VIỆN KHOA
HỌC LAO ĐỘNG VÀ XÃ HỘI
3.1 . Phương hướng phát triển của Viện khoa học Lao động và Xã

hội và những yêu cầu đặt ra với nguồn nhân lực chất lượng
cao đến năm 2020
3.2. Các giải pháp phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
của Viện khoa học Lao động và Xã hội đến năm 2020
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

3

3

11

11
18

26

36
36

46
65

68

68
71

85
87
91


Chữ viết đầy đủ
An sinh xã hội
Bảo hiểm xã hội
Cán bộ công nhân viên
Công nghiệp hóa
Chất lượng cao
Giáo sư – Tiến sĩ
Hiện đại hóa
Kinh tế thị trường
Khoa học
Khoa học công nghệ Việt Nam
Khoa học xã hội
Lao động – Thương binh và Xã hội
Nguồn nhân lực
Nhân văn quân sự
Phó giáo sư
Tiến sĩ khoa học
Thạc sĩ
Thành Phố Hồ Chí Minh
Xã hội

4

Chữ viết tắt
ASXH

BHXH
CBCNV
CNH
CLC
GS.TS
HĐH
KTTT
KH
KHCNVN
KHXH
LĐTB&XH
NNL
NVQS
PGS
TSKH
THS
TPHCM
XH


3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Con người luôn là yếu tố hàng đầu của lực lượng sản xuất trong mọi
thời đại. Lý luận và thực tiễn đều khẳng định vai trò quyết định của nguồn
nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao đối với sự phát triển kinh tế xã hội nói chung và công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói riêng. Trong bối cảnh
hội nhập kinh tế quốc tế, Đảng ta cũng xác định lấy việc phát huy nguồn lực
con người làm yếu tố cơ bản để phát triển nhanh và bền vững. Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng định: “Phát triển nhanh nguồn
nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao” là một trong ba khâu đột

phá chiến lược thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020.
Như vậy, hiện nay nhân lực chất lượng cao đang là vấn đề quan trọng
nhất của lực lượng sản xuất hiện đại và là yếu tố quyết định sự phát triển của
các lĩnh vực đời sống xã hội, đặc biệt là những lĩnh vực mà kết quả hoạt động
đóng vai trò mở đường cho toàn bộ sự phát triển xã hội như nghiên cứu khoa
học và giáo dục đào tạo. Ở các lĩnh vực khác nhau thì nguồn nhân lực chất
lượng cao có những đặc điểm nhất định. Đối với lĩnh vực nghiên cứu khoa
học như tại các cơ quan, viện nghiên cứu thì nguồn nhân lực chất lượng cao
chính là nguồn nhân lực có trình độ chuyên môn cao, có kỹ năng kinh nghiệm
làm việc, có sức khỏe đảm bảo và đạo đức tốt. Đây chính là lực lượng lao
động nòng cốt chủ yếu trong phát triển hoạt động nghiên cứu khoa học nhằm
phát triển kinh tế, xã hội. Bởi vậy việc đầu tư và đào tạo nguồn nhân lực chất
lượng cao cho các trung tâm nghiên cứu khoa học, sáng chế công nghệ mới
đang trở thành mối quan tâm và ưu tiên đặc biệt của các quốc gia trên thế
giới.
Viện Khoa học Lao động và Xã hội của Bộ Lao động – Thương binh và
Xã hội là cơ quan có chức năng nghiên cứu cơ bản và ứng dụng các vấn đề
3


4
thuộc về lĩnh vực lao động – thương binh và xã hội cùng với một số lĩnh vực
khác được Bộ xác định và giao phó. Đặc biệt, các công trình nghiên cứu của
Viện liên quan trực tiếp đến chính sách lao động, phát triển con người, phát
triển nguồn nhân lực của quốc gia. Với tư cách là một viện nghiên cứu khoa
học thì sự phát triển, trưởng thành và tương lai của Viện phụ thuộc trước hết ở
số lượng, chất lượng và cơ cấu của đội ngũ cán bộ quản lý, các nhà khoa học,
đội ngũ nhân viên của Viện. Tóm lại điều này phụ thuộc ở sự phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao của Viện trong hiện tại và tương lai.
Từ khi được thành lập cho đến nay nguồn nhân lực chất lượng cao của

Viện đã có những bước phát triển đáng kể và trở thành tài sản và nguồn lực quý
giá nhất, quan trọng nhất của Viện. Tuy nhiên so với yêu cầu, nhiệm vụ mà
Viện đảm nhiệm thực tế nguồn nhân lực hiện có còn nhiều bất cập. Chính vì
vậy tác giả luận văn lựa chọn vấn đề: Phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao ở Viện Khoa học Lao động và Xã hội làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Tình hình nghiên cứu trong nước
Trần Văn Tùng, Lê Ái Lâm (1996), “Phát triển nguồn nhân lực – kinh
nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta”. Cuốn sách đã làm rõ cơ sở lý luận về
nguồn nhân lực và kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực ở một số quốc gia
trên thế giới, từ đó rút ra kinh nghiệm thực tiễn về phát triển nguồn nhân lực ở
nước ta.
Phạm Minh Hạc (chủ biên) (2001), “Về phát triển toàn diện con người
thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa”. Trong cuốn sách này, tác giả đã làm
rõ những vấn đề lý luận về phát triển con người, phát triển nguồn nhân lực
trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
TS. Bùi Thị Ngọc Lan (2002), “Nguồn lực trí tuệ trong sự nghiệp đổi
mới ở Việt Nam”. Tác giả đã chỉ ra vai trò quan trọng của nguồn lực trí
4


5
tuệ đối với sự phát triển của xã hội; đồng thời làm rõ đặc điểm, thực trạng
phát huy và xu hướng phát triển nguồn lực trí tuệ Việt Nam, từ đó khẳng định
sự cần thiết phải chăm lo phát triển và phát huy cao độ sức mạnh của nguồn
lực trí tuệ trong công cuộc đổi mới ở Việt Nam.
GS. TS. Bùi Văn Nhơn (2008), “Quản lý nguồn nhân lực xã hội”. Giáo
trình này có mục đích cung cấp kiến thức cơ bản về nguồn nhân lực xã hội và
quản lý nguồn nhân lực xã hội, làm cơ sở phương pháp luận cho việc tham gia
hoạch định và phân tích các chính sách về nguồn nhân lực xã hội.

PGS.TS Đỗ Thị Thạch (2011), “Chiến lược phát triển nguồn nhân
lực trong Văn kiện Đại hội XI của Đảng”. Trong bài báo của mình, tác giả đã
đi sâu phân tích làm rõ chiến lược phát triển NNL trong Văn kiện Đại hội
XI của Đảng ta. Đồng thời, tác giả cũng chỉ rõ những quan điểm mới trong
chiến lược phát triển NNL, từ đó làm rõ quan điểm của Đảng về những giải
pháp để phát triển NNL và NNLCLC.
PGS.TS. Nguyễn Văn Tài (2010), “Phát huy tính tích cực xã hội của đội
ngũ cán bộ nước ta hiện nay”. Trên cơ sở quan điểm của Chủ nghĩa Mác- Lê
nin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tác giả đã đi sâu phân tích, làm rõ những cơ sở lý
luận và thực tiễn củađường lối, chính sách cán bộ của Đảng ta.
Trần Văn Tùng (2005), “Đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng nguồn nhân lực
tài năng”. Nội dung cuốn sách trình bày những kinh nghiệm trong phát hiện,
đào tạo và sử dụng tài năng khoa học - công nghệ sản xuất kinh doanh, quản
lý của Mỹ và một số quốc gia châu Âu (Đức, Pháp, Anh), châu Á (Nhật Bản,
Trung Quốc, Hàn Quốc và một số quốc gia châu Á khác).
Đoàn Văn Khái (2005) công bố nghiên cứu về lý luận và thực tiễn về
nguồn nhân lực đối với phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam trong thời kỳ
CNH, HĐH. Công trình này đề cập tới những quan điểm, phương hướng và một
số giải pháp mang tính vĩ mô trong phát triển nguồn nhân lực ở Việt Nam.
5


6
TS Nguyễn Hữu Dũng (2002), Phát triển NNLCLC trong sự nghiệp
CNH, HĐH đất nước và hội nhập quốc tế. Trong bài viết của mình, tác giả
đã đưa ra quan niệm về NNLCLC, sơ lược về thực trạng NNLCLC ở nước ta
hiện nay, trên cơ sở đó, tác giả đã đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm phát huy
nguồn lực này ở nước ta trong thời kỳ đổi mới.
Tác giả Lê Văn Phục “Kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao ở một số nước trên thế giới”. Bài viết đã nêu lên kinh nghiệm về phát triển

NNLCLC ở các nước Tây Âu, Mỹ, các nước Đông Nam Á, Đông Á, từ đó
rút ra những bài học cho Việt Nam trong việc phát triển NNLCLC hiện nay.
PGS.TS Bùi Thị Ngọc Lan (2007), một số bổ sung, phát triển trong
chiến lược phát triển nguồn nhân lực Việt Nam. Tác giả đã nghiên cứu một
cách hệ thống những quan điểm cơ bản của Đảng Cộng sản Việt Nam về NNL
qua các kỳ Đại hội của Đảng; làm rõ cơ sở lý luận của việc phát triển NNLCLC
theo tinh thần của Đại hội X (2006).
Tác giả Nguyễn Tiến Dũng và tác giả Đỗ Văn Dạo “Vấn đề phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta hiện nay”. Thông qua bài viết các
tác giả đánh giá thực trạng của NNLCLC, chỉ ra những bất cập và từ đó đưa
ra các giải pháp để phát triển NNLCLC ở nước ta hiện nay.
GS.TS Nguyễn Văn Khánh, TS Hoàng Thu Hương (2010), Đào tạo
NNLCLC ở Việt Nam hiện nay: Thực trạng và triển vọng. Các tác giả đã đưa
ra quan niệm về NNLCLC, thực trạng NNLCLC ở Việt Nam hiện nay.
Trên cơ sở đó, các tác giả đã chỉ ra triển vọng phát triển NNLCLC và một số
khuyến nghị để phát triển nguồn lực này phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH của
đất nước.
Phạm Hoàng Lân (2010), “Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại
Viện Hệ thống thông tin FPT”, Luận văn thạc sĩ kinh tế. Luận văn hệ thống
hóa các lý luận cơ bản về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực. Trên
6


7
cơ sở đó, luận văn đánh giá thực trạng đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
của Viện FPT và đề xuất những giải pháp phát triển nguồn nhân lực trong
tương lai cho đơn vị.
Bài viết của GS.TS. Hoàng Văn Châu, Hiệu trưởng trường Đại Học
Ngoại thương đăng trên Tạp chí kinh tế đối ngoại số 38/2009: “Phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao cho hội nhập kinh tế - vấn đề cấp bách sau

khủng hoảng”. Nội dung chủ yếu đề cập đến những bất cập của thị trường lao
động của nước ta. Tác giả nhận định thị trường lao động Việt Nam sẽ tiếp tục
thiếu hụt và khan hiếm nguồn nhân lực cao cấp quản lý trở lên. Sau khi cuộc
khủng hoảng tài chính qua đi, khi các doanh nghiệp tiến hành tái cấu trúc và
nhu cầu nhân lực có chất lượng cao tăng lên thì chắc chắn sự mất cân đối
cung - cầu trên thị trường lao động sẽ diễn ra ngày càng trầm trọng hơn nếu
như Việt Nam không có những biện pháp hữu hiệu giải quyết vấn đề này.
Nguyên nhân của việc này là do các doanh nghiệp thiếu thông tin về thị
trường lao động và chưa tiếp cận một cách hiệu quả được với các dịch vụ đào
tạo; nhiều doanh nghiệp chưa tích cực tham gia vào các chương trình đào tạo;
các sinh viên đã không được định hướng tốt trong việc chọn trường, chọn
ngành nghề theo học. Từ đó tác giả đã đề xuất 10 giải pháp phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao trong thời gian tới. các giải pháp tập trung chủ yếu
vào việc nâng cao chất lượng đào tạo .
Tác giả Lê Thị Hồng Điệp (2005), Phát triển nguồn nhân lực chất lượng
cao để hình thành nền kinh tế tri thức ở Việt Nam. Luận án tiến sĩ kinh tế
chính trị, Trung tâm đào tạo bồi dưỡng giảng viên lý luận chính trị, Đại học
Quốc gia, Hà Nội. Tác giả đã nghiên cứu: Góp phần làm phong phú thêm
những lý luận mới về phát triển NNLCLC để hình thành nền kinh tế tri thức
thông qua những phân tích nội dung, tiêu chí và những yếu tố tác động tới quá
trình phát triển lực lượng này; Thực hiện việc đánh giá tương đối toàn
7


8
diện thực trạng phát triển NNLCLC để hình thành nền kinh tế tri thức giai
đoạn 2001- 2007 gắn với những nội dung tiêu chí và những yếu tố tác động đã
nêu trên; Đề xuất một số giải pháp phát triển NNLCLC để hình thành nền
kinh tế tri thức ở Việt Nam trong tương lai. Những đề xuất đó góp phần tìm ra
con đường và cách thức hiệu quả để phát triển NNLCLC thực sự trở thành lực

lượng tiên phong trên hành trình hiện thực hóa nền kinh tế tri thức ở Việt
Nam.
Tác giả Phan Thùy Chi (2008): Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực
trong các trường đại học khối kinh tế của Việt Nam thông qua các chương
trình hợp tác quốc tế, LATS kinh tế, Trường Đại học Kinh tế quốc dân. Đây là
nghiên cứu khá hệ thống về công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực tại
các trường đại học khối kinh tế ở Việt Nam nhưng chỉ giới hạn trong hợp tác
quốc tế đào tạo.
Ngoài ra còn có nhiều luận văn, đề án, bài báo, báo cáo khoa học
nghiên cứu về nguồn nhân lực và phát triển nguồn nhân lực.
Tình hình nghiên cứu trên thế giới
STEWART Jim, MCGOLDRICK Jim (2007), “Human resource
development”, (Phát triển nguồn nhân lực). Cuốn sách này dựa trên các ý
tưởng, nghiên cứu mới nhất và nổi tiếng để đóng góp vào cuộc tranh luận về
phát triển nguồn nhân lực. Cuốn sách nhằm mục đích bổ sung các khoảng
trống bằng các khái niệm được đề xuất. Cuốn sách này được chia thành ba
phần. Phần đầu tiên tổng quan về những quan điểm khác nhau về phát triển
nguồn nhân lực. Thứ hai đề cập đến chiến lược phát triển nguồn nhân - lực và
thứ ba là kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực thực tế
Greg G.Wang và Judy Y.Sun (2009), “Perspectives on theory clarifying
the boundaries of human resource development”, (Những quan điểm dựa trên lý
thuyết làm rõ những ranh giới của phát triển nguồn nhân lực), cụ thể tác giả đã
8


9
phân tích sự khác biệt giữa khái niệm phát triển nguồn nhân lực và phát triển vốn
nhân lực và phát triển con người ở phương diện xã hội.
Tuy nhiên, tính tới thời điểm hiện tại vẫn chưa có một nghiên cứu nào về
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao tại một viện khoa học trong nước.

3. Mục đích, nhiệm vụ
* Mục đích nghiên cứu
Luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn về phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao ở Viện Khoa học Lao động và Xã hội. Trên cơ sở đó, đề xuất những
phương hướng và giải pháp để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của
Viện đến năm 2020.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
Phân tích cơ sở lý luận về nguồn nhân lực chất lượng cao và phát triển
nguồn nhân lực chất lượng cao ở Viện Khoa học Lao động và Xã hội.
Nghiên cứu kinh nghiệm phát triển nguồn nhân lực một số viện nghiên
cứu ở Việt Nam, rút ra những bài học kinh nghiệm có thể áp dụng cho Viện
Khoa học Lao động và Xã hội.
Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
của Viện Khoa học Lao động và Xã hội, làm rõ nguyên nhân và các vấn đề
cần giải quyết.
Đề xuất phương hướng và các giải pháp chủ yếu để phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao Viện khoa học Lao động và Xã hội trong thời kỳ mới
(năm 2020).
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu
Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Viện Khoa học Lao động và
Xã hội.
* Phạm vi nghiên cứu

9


10
Về không gian nghiên cứu: Nghiên cứu NNLCLC ở Viện Khoa học Lao
động và Xã hội, vận dụng kinh nghiệm phát triển NNLCLC ở một số viện

nghiên cứu trong nước.
Thời gian nghiên cứu: Luận văn nghiên cứu việc phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao ở Viện Khoa học Lao động và Xã hội từ năm 2008 đến
năm 2013.
5. Cơ sở lí luận, phương pháp nghiên cứu
*Cơ sở lý luận: Luận văn dựa trên cơ sở lý luận, phương pháp luận của
chủ nghĩa Mác - Lê nin mà trực tiếp là kinh tế chính trị Mác – Lên nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam,
chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chủ trương, nghị quyết của Bộ Lao
động – Thương binh và Xã hội.
* Phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng phương pháp chuyên
ngành của ngành kinh tế chính trị, gồm: Phương pháp trừu tượng hóa; phương
pháp thống kê, phân tích, điều tra xã hội học; phướng pháp hệ thống hóa, mô
hình hóa và đồ thị; phương pháp chuyên gia,….
6. Ý nghĩa của đề tài
Luận văn đã góp phần xây dựng quan niệm về nguồn nhân lực chất
lượng cao của Viện Khoa học Lao động và Xã hội, phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao ở Viện và làm rõ vai trò của nó với sự phát triển của Viện.
Luận văn là công trình khoa học đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ
thống về thực trạng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Viện Khoa
học Lao động và Xã hội từ năm 2008 tới nay, đề xuất những giải pháp chủ
yếu để phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của Viện tới năm 2020.
Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo để nghiên cứu giảng dạy môn
kinh tế chính trị và sử dụng trong phát triển của Viện Khoa học Lao động và
Xã hội.
10


11
7. Kết cấu của luận văn

Cấu trúc luận văn bao gồm: Phần mở đầu; 3 chương và phần kết luận;
danh mục tài liệu tham khảo; phần phụ lục.

11


12

Chương 1
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN NHÂN LỰC
CHẤT LƯỢNG CAO Ở VIỆN KHOA HỌC LAO ĐỘNG VÀ XÃ HỘI
1.1. Quan niệm về nguồn nhân lực chất lượng cao và vai trò của nó
trong phát triển của Viện Khoa học Lao động và Xã hội
1.1.1. Nguồn nhân lực chất lượng cao của Viện Khoa học Lao động
và Xã hội
Khái niệm nguồn nhân lực chất lượng cao của Viện Khoa học Lao
động và Xã hội
Hiện nay, đất nước ta đang bước vào giai đoạn đẩy mạnh sự nghiệp
CNH, HĐH và phát triển kinh tế nhanh, bền vững. Với bối cảnh đó, yêu cầu
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, nhất là trí lực là vấn đề có ý nghĩa quyết
định đảm bảo thắng lợi các nhiệm vụ trọng đại đó. Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI của Đảng đã khẳng định: “Phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao” [11, tr.106] là một trong ba khâu đột phá
chiến lược thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội 2011 - 2020. Hiện
nay, khi khoa học đã thực sự trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp, với hàm
lượng chất xám ngày càng chiếm tỷ lệ cao trong mỗi sản phẩm làm ra, thì con
người càng tỏ rõ hơn bao giờ hết vai trò quyết định của mình trong nền sản
xuất xã hội, của lịch sử nhân loại. Do vậy, việc phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao trở thành yêu cầu hàng đầu đối với mỗi tổ chức và mỗi một quốc
gia, đặc biệt là đối với các viện, các trung tâm nghiên cứu khoa học công

nghệ. Vậy, hiểu như thế nào là nguồn nhân lực chất lượng cao.
Theo quan điểm của C.Mác để có thể phát triển ngành công nghiệp do
toàn xã hội thực hiện thì cần phải có những người lao động với năng lực phát
triển toàn diện, có đủ thể lực, trí lực, kỹ năng và kinh nghiệm đáp ứng yêu cầu
của sản xuất. Đó cũng là những quan niệm rất đúng đắn về phương pháp luận
12


13
của C. Mác để nghiên cứu nguồn nhân lực chất lượng cao trong điều kiện hiện
nay. Các nhà kinh tế học cũng cho rằng: NNL mà hạt nhân của nó là
lao động kỹ thuật là toàn bộ thể lực, trí lực với trình độ chuyên môn, kỹ năng
mà con người tích luỹ được, có khả năng đem lại thu nhập cao trong tương
lai. Theo đó, có ba loại nhân lực chủ yếu quyết định sự phát triển là: người lao
động có thể lực; chuyên gia lành nghề và những người có ý tưởng sáng tạo.
[5] Trong quá trình nghiên cứu, các nhà khoa học, các nhà quản lý cũng đã
đưa ra nhiều quan niệm khác nhau về nguồn nhân lực chất lượng cao.
Theo PGS Đàm Đức Vượng thì nhân lực chất lượng cao có thể hiểu bao
gồm đội ngũ nhân lực khoa học và công nghệ, nhất là các chuyên gia, tổng
công trình sư, kỹ sư đầu ngành, công nhân có tay nghề cao, có trình độ
chuyên môn - kỹ thuật tương đương với các nước tiên tiến trong khu vực, có
đủ năng lực nghiên cứu, tiếp nhận, chuyển giao và đề xuất những giải pháp
khoa học, công nghệ, kỹ thuật, giải quyết những vấn đề cơ bản của sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; đội ngũ các nhà quản lý các doanh
nhân trong nền kinh tế thị trường, các chuyên gia, các nhà khoa học trong các
lĩnh vực khoa học, giáo dục, đào tạo,….[45] NNLCLC không đồng nghĩa với
trình độ học vấn cao vì học vấn mới chỉ là một yếu tố cấu thành của
NNLCLC. Ngoài trình độ đào tạo NNLCLC còn phải bao hàm những yếu tố
và phẩm chất khác như: khả năng sáng tạo, kỹ năng, thói quen, kinh nghiệm
nghề nghiệp.

Còn theo GS. Chu Hảo thì “Nhân lực chất lượng cao trước hết phải
được thừa nhận trên thực tế, không phải ở dạng tiềm năng. Điều đó có nghĩa
là nó không đồng nghĩa với học vị cao. NNLCLC là những người có năng lực
thực tế hoàn thành nhiệm vụ được giao một cách xuất sắc nhất, sáng tạo và có
đóng góp thực sự hữu ích cho công việc của xã hội” [19]
Như vậy, để có nguồn nhân lực chất lượng cao thì cần thiết là người lao
động phải có trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có các phẩm chất cần thiết
13


14
được đào tạo bồi dưỡng và phát huy bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn liền
với một nền khoa học công nghệ hiện đại.
Theo quan niệm của TS. Đinh Sơn Hùng, Viện nghiên cứu phát triển
TP.HCM, để đưa ra những tiêu chí đánh giá nguồn nhân lực chất lượng cao, nên
dựa trên góc độ của nhà tuyển dụng, sử dụng lao động [22]. Chính họ mới đánh giá
một cách chính xác nguồn nhân lực của họ thật sự có chất lượng cao hay không, đó
là: trình độ chuyên môn nghiệp vụ, khả năng xử lý thực tế, kỹ năng giao tiếp, làm
việc nhóm; có kỷ luật, đạo đức; trình độ văn hóa và kiến thức cơ bản.
Qua phân tích các quan điểm trên, có thể nói nguồn nhân lực chất
lượng cao là khái niệm để chỉ một con người, một người lao động cụ thể có
trình độ lành nghề (về chuyên môn, kỹ thuật) ứng với một ngành nghề cụ thể
theo tiêu thức phân loại lao động về chuyên môn, kỹ thuật nhất định (Đại học,
trên đại học, cao đẳng, lao động kỹ thuật lành nghề); có kỹ năng lao động giỏi
và có khả năng thích ứng nhanh với những thay đổi nhanh chóng của công
nghệ sản xuất; có sức khỏe và phẩm chất tốt, có khả năng vận dụng sáng tạo
những tri thức, những kỹ năng đã được đào tạo vào quá trình lao động sản
xuất nhằm đem lại năng suất, chất lượng và hiệu quả cao.
Để đánh giá nguồn nhân lực chất lượng cao, có thể dựa vào các tiêu chí
như: khả năng thích ứng trong thời gian nhanh nhất với môi trường lao động

và với tiến bộ khoa học công nghệ mới; tác phong kỷ luật và đạo đức trong
công việc; tính sáng tạo. Hai tiêu chí trước là điều kiện cần để đánh giá chất
lượng lao động, còn điều kiện đủ là khả năng tư duy đột phá trong công việc,
hay còn gọi là tính sáng tạo.
Khái niệm nhân lực chất lượng cao nhấn mạnh tính tổng hòa đạo đức
nghề nghiệp (nhân cách), thể lực, trình độ, ý chí, niềm đam mê và tay nghề
(độ lành nghề) như một sức sản xuất (vật chất và tinh thần).
Viện Khoa học Lao động và Xã hội là một viện nghiên cứu khoa học
được thành lập từ năm 1978. Viện được công nhận là một trong số các viện
14


15
đầu ngành có chức năng nghiên cứu cơ bản, nghiên cứu chiến lược và ứng
dụng về lĩnh vực lao động, người có công và xã hội. Lĩnh vực nghiên cứu
chính bao gồm: dân số, lao động, việc làm; tiền lương, tiền công; quan hệ lao
động, an sinh xã hội (bảo hiểm xã hội, bảo trợ xã hội, xóa đói giảm nghèo,
phòng, chống tệ nạn xã hội, người có công; bảo vệ và chăm sóc trẻ em;); môi
trường và điều kiện lao động (an toàn, vệ sinh lao động, trách nhiệm xã hội
của doanh nghiệp, các tiêu chuẩn lao động); lao động nữ và bình đẳng giới.
Trong giai đoạn hiện nay, Nhà nước ta đang đẩy mạnh hoàn thiện các chính
sách dân số, lao động, giới, an sinh xã hội, phát triển nguồn nhân lực,….
Chính vì vậy, nhiệm vụ nghiên cứu khoa học của Viện ngày càng nặng nề
hơn, để có thể đóng góp nhiều hơn nữa các luận cứ khoa học phục vụ cho việc
hoạch định chiến lược, chính sách phát triển nguồn nhân lực, lao động, việc
làm và ổn định xã hội. Chính vì vậy, nhu cầu về phát triển nguồn nhân lực
chất lượng cao – vốn là lực lượng nòng cốt để đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ
của Nhà nước giao cho Viện là hết sức cần thiết. Với khối lượng công tác
nghiên cứu ngày một tăng thì nhân lực chất lượng cao của Viện cần phải được
gia tăng cả về số lượng và chất lượng. Khác với những lĩnh vực khác, trong

lĩnh vực nghiên cứu khoa học của Viện thì nguồn nhân lực chất lượng cao cần
thiết phải đảm bảo những tiêu chí nhất định. Đó là người lao động phải có
năng lực chuyên môn cao (có trình độ đào tạo cao), có kinh nghiệm, có thể
lực tốt, có đạo đức nghề nghiệp, kỹ năng xã hội.
Từ những vấn đề chung về NNLCLC có thể đưa ra khái niệm về NNLCLC
của Viện Khoa học Lao động và Xã hội như sau:
Đối với NNLCLC của Viện thì nguồn nhân lực chất lượng cao của Viện
Khoa học Lao động và Xã hội là những người lao động được đào tạo ở trình độ
cao, có sức khỏe, bản lĩnh chính trị, có kỹ năng nghề nghiệp và trình độ chuyên
môn cao, tinh thông nghiệp vụ và có kinh nghiệm tốt làm việc tại Viện Khoa học

15


16
Lao động và Xã hội, đủ sức hoàn thành các nhiệm vụ của Viện trong hiện tại cũng
như tương lai.
Như vậy, NNLCLC của Viện Khoa học Lao động và Xã hội là nguồn
nhân lực đáp ứng được những tiêu chí: phải được đào tạo bài bản về chuyên
môn, kỹ thuật theo yêu cầu của công việc và nhiệm vụ được giao, ngoài ra
phải có những kỹ năng, và kinh nghiệm tốt trong công việc.
Cơ cấu nguồn nhân lực chất lượng cao tại Viện Khoa học Lao động và
Xã hội bao gồm 3 bộ phận:
Thứ nhất, đội ngũ lãnh đạo quản lý của Viện: Đội ngũ này bao gồm:
Viện trưởng, các Phó viện trưởng, Giám đốc trung tâm, Phó giám đốc trung
tâm và các trưởng, phó phòng ban chức năng khác. Đây là bộ phận chủ yếu
và ưu tú nhất của NNLCLC, bởi họ là những người có tri thức và trình độ học
vấn cao (chủ yếu được đào tạo trong một hệ thống giáo dục). Họ đóng vai trò
tiên phong trong việc thực hiện chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách,
pháp luật của Nhà nước và lãnh đạo, hoạch định định hướng phát triển, hoạt

động, thực hiện những mục tiêu đặt ra cho Viện. Họ là những đầu tàu dẫn dắt
Viện Khoa học Lao động và Xã hội hoàn thành nhiệm vụ, mục tiêu trong từng
thời kỳ và đi đến thành công. Với đặc trưng cơ bản là lao động trí óc phức tạp,
sáng tạo, đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý có vai trò to lớn trong việc tham
gia lãnh đạo, quản lý, điều hành Viện. Đồng thời sáng tạo ra các giá trị mới,
phát triển lý luận, xây dựng luận cứ khoa học cho các quyết sách kinh tế chính trị, văn hóa - xã hội…của Viện và của Nhà nước.
Yêu cầu về phẩm chất và năng lực của đội ngũ lãnh đạo quản lý là:
- Có tầm nhìn, tư duy chiến lược, định hướng nghiên cứu.
- Có tầm nhìn quản lý, tham mưu cho Viện.
- Có năng lực tổ chức các ngành, các lĩnh vực, tổ chức lao động, tổ
chức hợp tác quốc tế.
- Thực sự là tấm gương tiêu biểu về đạo đức, lối sống, đoàn kết,…
16


17
Thứ hai, các chuyên gia, nghiên cứu viên: Đội ngũ chuyên gia, nghiên
cứu viên là những người trực tiếp thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu, những
người chịu trách nhiệm về lĩnh vực mình tham mưu, thực hiện công tác
nghiên cứu hay quản lý từng nhóm việc nên họ phải có trình độ chuyên môn
nghiệp vụ cao và luôn cố gắng học tập nâng cao trình độ để đáp ứng được
những yêu cầu khắt khe của nhiệm vụ. Họ không chỉ có chuyên môn nghiệp
vụ cao mà còn có sức khỏe bền bỉ, tinh thần mẫn cán, tâm lý ổn định, vững
vàng. Đây là lực lượng lao động trí tuệ trong Viện có khả năng làm chủ, sáng
tạo những tri thức và khoa học, có khả năng thích nghi nhanh chóng với sự
thay đổi của môi trường và điều kiện sống.
Yêu cầu về phẩm chất và năng lực của các chuyên gia, nghiên cứu viên là:
* Có trình độ lý luận cao, có kiến thức thực tế, có khả năng nắm bắt cái mới.
* Có năng lực nghiên cứu độc lập.
* Thực sự là những chuyên gia hàng đầu, là lực lượng nòng cốt trong

nghiên cứu khoa học.
Thứ ba, cán bộ kỹ thuật nghiệp vụ: Là những người lao động có trình
độ cao được đào tạo bài bản trong lĩnh vực kỹ thuật như điện, điện tử, tin học,
…, có kinh nghiệm và kỹ năng làm việc tốt phục vụ cho công tác kỹ thuật tại
Viện Khoa học Lao động và Xã hội đồng thời có hiểu biết công việc và chức trách
nhiệm vụ của mình.
1.1.2. Vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự phát triển
ở Viện Khoa học Lao động và Xã hội
Thứ nhất, NNLCLC là lực lượng nòng cốt trong lãnh đạo, quản lý và
quyết định việc phát triển của Viện Khoa học Lao động và Xã hội trong hiện
tại và tương lai.
Lực lượng lãnh đạo, quản lý của Viện Khoa học và Lao động Xã hội là
những người có chức năng, nhiệm vụ hoạch địch chính sách phát triển của
17


18
Viện trong tương lai, là nguồn nhân lực thực hiện công tác cơ cấu và tổ chức
bộ máy làm việc của Viện nhằm hoàn thành tốt các nhiệm vụ, chức năng mà
Đảng và Nhà nước, Bộ phân công, đồng thời tìm kiếm các lĩnh vực tăng thu
nhập, cải thiện đời sống cho cán bộ công nhân viên của Viện. Để thực hiện
được chức năng quản lý này, đòi hỏi những người lãnh đạo Viện phải là
những nhà lãnh đạo có trình độ chuyên môn cao, có kỹ năng, kinh nghiệm,
khả năng tổ chức, quản lý tốt. Nhìn chung là đội ngũ lãnh đạo phải là những
người lao động có chất lượng cao nhất thì mới có thể là đội ngũ đầu tầu, nhằm
phát triển Viện Khoa học Lao động và Xã hội trong tương lai. Hơn thế nữa,
đội ngũ lãnh đạo Viện là những tấm gương sáng, điển hình cho các cán bộ
CNV trong Viện noi theo để phát triển trình độ chuyên môn, học tập, nghiên
cứu, tăng hiệu quả công việc. Chính vì lẽ đó, phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao của Viện nhằm nâng cao chất lượng của bộ máy lãnh đạo, phục vụ

cho công tác quản lý trong tương lai là điều hết sức quan trọng và cần thiết.
Thứ hai, NNLCLC là lực lượng nòng cốt trong nghiên cứu, phát triển
Khoa học Lao động và Xã hội để thực hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ
của Viện. Nguồn nhân lực, nguồn lao động là nhân tố quyết định việc khai
thác, sử dụng, bảo vệ và tái tạo các nguồn lực khác: Giữa nguồn lực con
người, vốn, tài nguyên thiên nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật, khoa học công
nghệ... có mối quan hệ nhân quả với nhau, nhưng trong đó nguồn nhân lực
được xem là năng lực nội sinh chi phối quá trình phát triển kinh tế - xã hội
của mỗi quốc gia, mỗi tổ chức. So với các nguồn lực khác, nguồn nhân lực
với yếu tố hàng đầu là trí tuệ, chất xám có ưu thế nổi bật ở chỗ nó không bị
cạn kiệt nếu biết bồi dưỡng, khai thác và sử dụng hợp lý, còn các nguồn lực
khác dù nhiều đến đâu cũng chỉ là yếu tố có hạn và chỉ phát huy được tác
dụng khi kết hợp với nguồn nhân lực một cách có hiệu quả. Vì vậy, con
người với tư cách là nguồn nhân lực, là chủ thể sáng tạo, là yếu tố bản thân

18


19
của quá trình sản xuất, là trung tâm của nội lực, là nguồn lực chính quyết
định quá trình phát triển kinh tế - xã hội.
Đối với Viện Khoa học Lao động và Xã hội thì nhiệm vụ chính của
Viện là nghiên cứu khoa học về lĩnh vực lao động, người có công và xã hội,
tham gia đào tạo, bồi duỡng cán bộ, công chức, viên chức ngành lao động,
thương binh và xã hội,… Chính vì vậy, để thực hiện những nhiệm vụ chính
của Viện thì nguồn nhân lực chất lượng cao với trình độ chuyên môn cao,
được đào tạo bài bản, có kỹ năng và kinh nghiệm tốt, tinh thần trách nhiệm
cao chính là lực lượng chủ yếu và trực tiếp thực hiện. Chính vì vậy, để đáp
ứng nhu cầu trong tương lai của Viện, việc phát triển NNLCLC là điều quan
trọng và cần thiết. NNLCLC của Viện là lực lượng chủ yếu thực hiện các

nhiệm vụ nghiên cứu, ứng dụng các chương trình, đề tài khoa học, các dự án
và các nhiệm vụ được Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội cũng như Nhà
nước giao. Đồng thời trong quá trình thực hiện các nhiệm vụ này sẽ diễn ra
quá trình tự đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ của Viện và góp phần vào việc đào
tạo, bồi dưỡng NNLCLC cho các cơ sở, các ngành của Bộ.
Thứ ba, nguồn nhân lực chất lượng cao là lực lượng trực tiếp nâng cao
chất lượng hoạt động hợp tác về nghiên cứu khoa học, gắn kết quả nghiên cứu
với hoạt động thực tiễn sản xuất kinh doanh, đào tạo, quản lý và hợp tác quốc tế.
Ngày nay, nền kinh tế thế giới đang chuyển dần sang kinh tế tri thức và
hội nhập kinh tế quốc tế thì vai trò của NNLCLC càng thể hiện rõ hơn. Hiện
nay, NNLCLC cũng đã tiên phong đi đầu tham gia vào nhiều lĩnh vực khó
khăn và mang lại nhiều kết quả tích cực trong đó có lĩnh vực nghiên cứu và
chuyển giao khoa học công nghệ, lãnh đạo, quản lý. Đây được xem là yếu tố
quan trọng quyết định đối với sự tăng trưởng bền vững của Viện nói riêng và
của đất nước nói chung. Hợp tác quốc tế và chuyển giao sự tiến bộ của khoa
học công nghệ giữa các quốc gia trên thế giới thì NNLCLC chính là lực lượng

19


20
có đủ trình độ chuyên môn, kỹ năng và kinh nghiệm để tiếp nhận các kiến
thức tiên tiến.
1.2. Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Viện Khoa học Lao
động và Xã hội
1.2.1. Quan niệm về phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở
Viện Khoa học Lao động và Xã hội
Với quan niệm: “Con người là trung tâm của chiến lược phát triển,
đồng thời là chủ thể phát triển”, tại Đại hội XI, Đảng ta đã khẳng định phát
triển nguồn nhân lực, đặc biệt là NNLCLC là một trong ba khâu đột phá chiến

lược cho sự phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian tới.
Phát triển hiểu theo cách đơn giản là sự chuyển biến từ trạng thái thấp
lên trạng thái cao hơn. Muốn vậy phải có sự biến đổi cả về số lượng và chất
lượng của sự vật theo hướng ngày càng hoàn thiện ở trình độ cao hơn. Quan
điểm Mácxít về sự phát triển, vận dụng vào nghiên cứu con người đã nhấn
mạnh yếu tố phát triển con người, lấy con người làm trung tâm. Lịch sử phát
triển của nhân loại suy cho cùng là lịch sử phát triển con người. Phát triển con
người vừa là mục tiêu của phát triển kinh tế - xã hội, vừa là phương tiện tốt
nhất để thúc đẩy sự phát triển. Có nhiều quan điểm về phát triển NNL nói
chung. Có quan điểm cho rằng phát triển NNL là sự gia tăng giá trị cho con
người, cả về vật chất lẫn tinh thần, cả trí tuệ lẫn tâm hồn cũng như kỹ năng
nghề nghiệp, làm cho con người trở thành người lao động với những năng lực
và phẩm chất mới, cao hơn, đáp ứng được những yêu cầu ngày càng cao của
sự phát triển kinh tế xã hội. Cũng có quan điểm cho rằng phát triển NNL là
gia tăng các giá trị về thể chất, trí tuệ, năng lực của từng cá nhân trong điều
kiện phát triển kinh tế - xã hội. Đó cũng chính là quá trình mở rộng cơ hội lựa
chọn nhằm nâng cao năng lực, trí tuệ và cuộc sống của con người, phù hợp
với nhu cầu, lợi ích mà họ mong muốn. Liên hợp quốc cho rằng, phát triển
20


21
NNL bao gồm: giáo dục- đào tạo và sử dụng tiềm năng con người nhằm thúc
đẩy kinh tế - xã hội phát triển và nâng cao chất lượng cuộc sống. Quan niệm
này đã nhấn mạnh khía cạnh xã hội của vấn đề: NNL vừa là một yếu tố của
sản xuất, của tăng trưởng kinh tế và là mục tiêu của phát triển. Chú trọng đáp
ứng nhu cầu của NNL về văn hóa và tinh thần, mở rộng tầm hiểu biết, cập
nhật thông tin, mở rộng các mối liên hệ xã hội, tạo điều kiện thuận lợi cho sự
phát triển của NNL. Tóm lại, có thể cho rằng phát triển nguồn nhân lực là sự
biến đổi cả về lượng và chất, cơ cấu của nguồn nhân lực nhằm đáp ứng sự tiến

bộ về kinh tế - xã hội. Quá trình này bao gồm sự phát triển về thể lực, trí lực,
khả năng nhận thức và tiếp thu kiến thức, tay nghề, tính năng động xã hội và
sức sáng tạo của con người. Trong đó nền văn hóa, truyền thống lịch sử dân
tộc góp phần quan trọng trong việc hun đúc nên bản lĩnh, ý chí của mỗi
người. Từ sự trình bày trên đây, có thể cho rằng: Phát triển NNLCLC là quá
trình biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực chất lượng
cao theo hướng đi lên để hoàn thành tốt hơn nhiệm vụ của tổ chức, phát triển
kinh tế, chính trị, xã hội của quốc gia.
Do đó, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao ở Viện Khoa học Lao
động và Xã hội là quá trình biến đổi toàn diện cả về số lượng, chất lượng và
cơ cấu theo hướng số lượng đáp ứng yêu cầu, chất lượng ngày càng cao và
cơ cấu phù hợp để nguồn nhân lực chất lượng cao ngày càng đáp ứng tốt hơn
nhiệm vụ được giao.
1.2.2. Nội dung phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao tại Viện
Khoa học Lao động và Xã hội
Trước đây, quá trình sản xuất hàng loạt theo dây chuyền với sự phân
tách chi tiết chức năng lao động trí óc và lao động chân tay nên nhu cầu đối
với NNLCLC tuy rất cần thiết song chỉ ở quy mô nhỏ. Trong nền KTTT, quá
trình sản xuất được tổ chức theo mô hình linh hoạt. Mô hình tổ chức lao động
21


22
mới đòi hỏi một lực lượng lao động đại chúng trực tiếp tham gia sản xuất có
độ linh hoạt cao, có khả năng sáng tạo và đổi mới, có trình độ đào tạo cao. Vì
vậy, muốn phát triển NNLCLC để hình thành nền KTTT, trước tiên phải gia
tăng nhanh chóng số lượng lao động tri thức, lao động quản lý và lao động
quản lý dữ liệu. Lực lượng này phải chiếm tỷ trọng vượt trội trong tổng lực
lượng lao động quốc gia.
Đối với hoạt động của Viện Khoa học Lao động và Xã hội, thì

NNLCLC lại đặc biệt có vai trò quan trọng vì đây vừa là bộ phận lãnh đạo lại
là lực lượng lao động chủ yếu nhằm thực hiện các nhiệm vụ mà Viện được
giao phó. Chính vì vậy, phát triển NNLCLC là rất cần thiết trong giai đoạn
hiện nay của Viện. NNLCLC là lực lượng quyết định số lượng và chất lượng
các công trình nghiên cứu khoa học. Vì vậy, vấn đề đặt ra hiện nay đối với
Viện là chăm lo xây dựng, bồi dưỡng đội ngũ NNL đảm bảo đủ về số lượng,
cơ cấu các chuyên ngành hợp lý; có phẩm chất chính trị, đạo đức tốt, có tinh
thần đoàn kết, dân chủ, kỷ luật; có năng lực chuyên môn giỏi, có phương
pháp, tác phong làm việc khoa học; thực sự tâm huyết với công việc nghiên
cứu khoa học, tích cực nghiên cứu, tìm tòi, sáng tạo cái mới. Quan tâm xây
dựng đội ngũ chuyên gia đầu ngành của các ngành nghiên cứu; đồng thời, bồi
dưỡng, mở rộng kiến thức của các chuyên ngành khác, nhằm đáp ứng tốt yêu
cầu, nhiệm vụ nghiên cứu khoa học ngày càng phát triển cả diện rộng và
chiều sâu của một Viện đa ngành; chủ động, có kế hoạch bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ các cấp, đảm bảo sự kế thừa, phát triển vững chắc, không để xảy ra
tình trạng hẫng hụt.
Cụ thể, phát triển NNLCLC của Viện được thể hiện trên các khía cạnh
sau đây:
Thứ nhất, phát triển về số lượng: Trên cơ sở chiến lược, kế hoạch,
nhiệm vụ được giao và xu hướng phát triển của Viện, cần dự báo được số
22


23
lượng nhân lực chất lượng cao cần thiết cho thực hiện công tác nghiên cứu
của Viện. Trong thời gian tới, nhiệm vụ và công việc được giao của Viện sẽ
tăng để phục vụ cho phát triển kinh tế, xã hội của đất nước trong thời kỳ
CNH, HĐH nhằm xây dựng CNXH. Do vậy, việc tăng trưởng về số lượng
NNLCLC của Viện là rất cần thiết. Phát triển số lượng nguồn nhân lực là phát
triển về quy mô nhân lực và số lượng các loại hình nhân lực cụ thể của Viện

trong từng thời kỳ nhất định theo yêu cầu nhiệm vụ của Viện. Phát triển về số
lượng NNLCLC để có thể đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao, Viện cần
tuyển dụng, thu hút NNLCLC từ bên ngoài hay hợp tác, liên kết nghiên cứu
với các viện, cơ quan nghiên cứu khác để tranh thủ NNLCLC.
Thứ hai, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao là nâng
cao trình độ chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ, nâng cao kỹ năng, kinh nghiệm
và đạo đức nghề nghiệp cho người lao động mà trước hết là đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, quản lý và các nhà khoa học, cán bộ nghiên cứu của Viện. Đây là
điều rất cần thiết để có thể hoàn thành tốt hơn nữa nhiệm vụ mà Viện được
giao. Nâng cao chất lượng NNLCLC được biểu hiện cụ thể như sau:
Nâng cao thể lực của nguồn nhân lực CLC. Tình trạng sức khỏe được
biểu hiện ra bên ngoài thông qua các chỉ số về thể lực, độ tuổi, giới tính, chiều
cao, cân nặng và khả năng thích nghi với môi trường làm việc. Thực hiện
chức năng, nhiệm vụ chính là nghiên cứu khoa học và giảng dạy, đào tạo
nguồn nhân lực nên sức ép về công việc đối với NNLCLC của Viện là rất lớn.
Chính vì vậy, để có thể đảm bảo hoàn thành tốt, đúng tiến độ công việc hằng
ngày, thể chất của người lao động là rất quan trọng. Sức khoẻ vừa là mục đích
của phát triển, đồng thời nó cũng là điều kiện của sự phát triển. Muốn nâng
cao sức khỏe của NNLCLC thì phải kết hợp hài hòa cả sức khỏe thể chất và
sức khỏe tinh thần.

23


×