ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA QUỐC TẾ HỌC
---------* * *---------
NGUYỄN HOÀI LINH – PHẠM TÚ ANH
Lớp CAO HỌC QUAN HỆ QUỐC TẾ - KHÓA 4
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN VÀ
TRIỂN VỌNG CỦA CÁC CÔNG
TY XUYÊN QUỐC GIA
TIỂU LUẬN CUỐI KỲ
Môn: Các công ty xuyên quốc gia
Giáo viên hướng dẫn: GS-TS. Nguyễn Thiết Sơn
Hà Nội tháng 01- 2009
2
LỜI MỞ ĐẦU
Cùng với sự phát triển của quá trình toàn cầu hoá, sự xuất hiện của các
công ty xuyên quốc gia đã trở nên phổ biến và chiếm một vị trí quan trọng trong
nền sản xuất và quan hệ kinh tế quốc tế. Sự phát triển liên tục của công ty
xuyên quốc gia về quy mô, cơ cấu tổ chức, phương thức sở hữu từ sau chiến
tranh thế giới lần thứ hai đến nay đã làm nảy sinh rất nhiều quan niệm và định
nghĩa khác nhau về công ty xuyên quốc gia. Thứ nhất, quan niệm về công ty
quốc tế, trong đó bao gồm cả công ty toàn cầu, công ty xuyên quốc gia, công ty
đa quốc gia, công ty siêu quốc gia. Những người theo quan niệmk này chri quan
tâm đến mặt hoạt động sản xuất, kinh doanh, thương mại - đầu tư quốc tế của
các công ty xuyên quốc gia. Thứ hai, quan niệm về công ty xuyên quốc gia là
công ty tư bản độc quyền có tư bản thuộc về chủ tư bản của một nước nhất định
nào đó. Ở đây, người ta chú ý đến tính chất sở hữu và tính sở hữu và tính quốc
tịch của tư bản.
Dựa trên tiêu thức sở hữu để xác định loại hình công ty, họ còn đưa ra
khái niệm: công ty đa quốc gia, cũng là công ty tư bản độc quyền thực hiện thiết
lập các chi nhánh ở nước ngoài để tiến hành các hoạt động kinh doanh quốc tế.
Tóm lại, công ty xuyên quốc gia là những công ty nắm quyền sở hữu hay
kiểm soát hoạt động sản xuất và hệ thống bán hàng tại nhiều nước khacs ngoài
2
nước của mình. Đây không chỉ là công ty cổ phần, công ty tư nhân mà chúng có
thể là những công ty dưới hình thức hợp tác xã hay thực thể thuộc quyền sở hữu
nhà nước”.
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của cách mạng khoa học - công nghệ, xu
thế toàn cầu hóa, khu vực hóa phát triển sâu rộng trên thế giới là phát triển và
sự bành trướng của các công ty xuyên quốc gia (TNCs). TNCs có vai trò ngày
càng quan trọng trong nền kinh tế thế giới, đặc biệt đối với quá trình công
nghiệp hoá của các nước đang phát triển. Hiện nay, TNCs đã thâm nhập vào
hầu hết các quốc gia, là lực lượng chính phân phối các nguồn lực, chuyển giao
công nghệ và lưu chuyển hàng hoá,.. từ khu vực này đến khu vực khác trên
phạm vi toàn cầu.
2
CHƯƠNG I: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN CỦA CÁC CÔNG TY
XUYÊN QUỐC GIA TRÊN THẾ GIỚI
Hoạt động của các nước ngoài của TNCs lớn nhất năm 2006. 100 công ty
xuyên quốc gia phi tài chính lớn nhất của thế giới và 100 công ty xuyên quốc
gia từ các nền kinh tế đang phát triển được xếp hạng dựa trên quy mô về tài sản.
Mục đích không phải chỉ nhìn vào số lượng tài sản mà còn nhìn vào sự quốc tế
hoá của nó, điều này khác so với sự phân loại về quy mô tài sản theo từng thời
kỳ, thu nhập và thị trường vốn. Sự quốc tế hoá quyết định phạm vi xếp hạng.
TNCs lớn nhất đóng vai trò chính trong sản xuất quốc tế, bao gồm nền
kinh tế phát triển, đang phát triển và đã phát triển. Trong vòng 3 năm qua,
TNCs đã chiếm tới trung bình là 10%, 12% và 16% mỗi năm về tài sản, kinh
doanh và việc làm. Cùng thời điểm đó, tỉ số FDI tăng nhanh trong các thập kỷ
trước là do các dịch vụ hướng khu vực, truyền thông, dịch vụ điện. Làn sóng tự
do hoá và tư hữu hoá cuối những năm 80 và xuyên suốt những năm 90 của thế
kỷ trước, đặc biệt là nền công nghiệp cơ sở hạ tầng chủ chôt đã có ảnh hưởng
đến tình trạng quốc tế hoá của các dịch vụ trên.
1. Các công ty xuyên quốc gia lớn nhất thế giới:
a. Tổng quan:
Nhìn một cách tổng quan, nửa đầu của TOP 100 TNCs trong thập kỷ qua
vẫn được xếp loại một cách ổn định. Thứ 1 là về Điện (Mỹ) chiếm hơn 85 tổng
số tài sản ngoại hối của 100 công ty hàng đầu, thứ 2 là các công ty của Anh về
2
xăng dầu. Ngoài ra còn có các TNCs về sản xuất xe hơi, xăng dầu, thiết bị điện,
cơ sở hạ tầng…
TNCs chiếm 2/3 tổng thương mại thế giới về hàng hóa và dịch vụ thế
giới trong đó 1/3 là thương mại nội bộ công ty, 1/3 là thương mại giữa TNCs và
các thực thể bên ngoài). Ngoài ra hệ thống phân phối, công nghệ và R&D của
TNCs cũng rất vô địch, 3/4 chi phí R&D của thế giới tới từ TNCs. Ngoài ra
TNCs còn có khả năng vận động hành lang chính phủ để chính phủ đưa ra các
chính sách có lợi cho mình về thuế và môi trường.
Chỉ cần lấy một ví dụ đơn giản, doanh thu của ConocoPhilips - công ty
lớn thứ 10 trong bảng xếp hạng Global Fortune 500, doanh thu năm 2006 đã lớn
gấp 2,7 lần GDP của Việt Nam trong cùng năm (xấp xỉ 61 tỉ USD). Phép tính
đơn giản nhưng nhiều ý nghĩa.
Các TNCs tác động đối với phát triển nguồn lực và tạo việc làm qua hai
cách trực tiếp và gián tiếp. Các trực tiếp là thông qua các dự án TNCs góp phần
tạo ra một khối lượng công việc khổng lồ. Cách gián tiếp là TNCs đã tạo ra
nhiều cơ hội cho việc phát triển nguồn lực.
Là những công ty có quy mô lớn nên nhu cầu về lao động của các
TNCs cũng rất lớn. Thông qua việc thiết lập các chi nhánh ở nước ngoài TNCs
đã trực tiếp tạo ra một khối lượng đáng kể việc làm cho các nước tiếp nhận đầu
tư. Một cách gián tiếp TNCs cũng tạo ra một khối lượng lớn việc làm thông qua
2
việc liên doanh với các đơn vị khác để cùng phát triển. Thông qua việc liên kết
với các nhà cung cấp, các nhà phân phối từ đó mở rộng phạm vi hoạt động của
những đơn vị này và chính những đơn vị này lại tạo ra thêm nhiều công ăn việc
làm cho người lao động.
Như vậy, các TNCs làm tăng khối lượng việc làm trên thế giới, bao
gồm tăng việc làm ở cả chính quốc và ở nước chủ nhà. Với gần 77.000 công ty
mẹ và 900.000 chi nhánh trên toàn thế giới các TNCs là nguồn việc làm khổng
lồ cho lực lượng lao động thế giới. Số liệu cụ thể như sau:
Bảng 1: Số lượng lao động của các chi nhánh nước ngoài
Năm Số lượng lao động (Người)
1982 19.537.000
1990 24.551.000
2004 59.458.000
2005 62.095.000
Nguồn: UNCTAD, World Investment report 2006.
Như vậy, số lượng lao động làm việc tại các chi nhánh nước ngoài
liên tục tăng lên. Nếu như năm 1982 chỉ có 19,537 triệu lao động làm việc trong
các chi nhánh của TNCs tại nước ngoài thì đến năm 2005 con số này là 62,092
triệu lao động, tức tăng gấp 3 lần so với năm 1982. Cũng theo Báo cáo Đầu Tư
thế giới của UNCTAD năm 2004 thì tỷ lệ lao động làm việc tại các chi nhánh
nước ngoài cũng chiếm phần lớn trong tổng cơ cấu lao động của các công ty
mẹ. Chẳng hạn, hãng General Electric của Mỹ có 307.000 nhân viên thì trong
đó có 142.000 nhân viên tại các chi nhánh, Siemens AG của Đức có 430.000
2
nhân viên trong đó có 266.000nhân viên làm việc tại các chi nhánh, IBM của
Mỹ có 329.000 nhân viên trong đó có 175.832 nhân viên làm việc tại các chi
nhánh, Nissan của Nhật có 183.000 nhân viên trong đó có 112.530 nhân viên
làm việc tại các chi nhánh. Như vậy, tỷ lệ lao động tại các chi nhánh nước ngoài
của các hãng Siemens AG, Nissan, IBM, General Electric lần lượt là 62%, 61%,
53%, và 44%.
Tại nhiều nước các chi nhánh nước ngoài đóng vai trò sống còn trong
việc tạo ra việc làm cho người lao động. Tại Singapore, số người làm cho các
chi nhánh nước ngoài chiếm trên 50% tổng số lao động trong các ngành sản
xuất, tại Ấn Độ, chỉ riêng số người làm trong ngành công nghệ phần mềm đã
giải quyết 5 triệu việc làm cho nước này.
Các TNCs luôn đóng vai trò chủ thể của các dòng vốn đầu tư trên toàn
thế giới. Trong những năm gần đây, nguồn vốn FDI liên tục tăng cao. Nếu
những năm 1982 tổng vốn FDI trên thế giới là 59 tỷ USD thì đến năm 1990 là
202 tỷ USD và năm 2005 là 916 tỷ USD.
Điều này cũng phản ánh các hoạt động M&A tăng lên cả về số lượng và
giá trị. Nếu như năm 1987 chỉ có 14 vụ M&A với giá trị 30 tỷ USD thì đến năm
2005 đã tăng lên 141 vụ với tổng giá trị là 454,2 tỷ USD. Lượng vốn FDI tăng
lên cả ở các nước phát triển và đang phát triển.
Tại các nước phát triển, nguồn vốn FDI tăng mạnh vào năm 2000 với
gần 1.200 tỷ USD. Sau 3 năm giảm mạnh (năm 2000 đến năm 2003) thì vào
2
năm 2004 nguồn vốn FDI lại tăng lên. Trong các nước phát triển thì các nước
EU chiếm 70% tổng vốn FDI, đặc biệt là Đức, Ailen, Anh. Năm 2005 các quốc
gia này đều tăng hơn 40 tỷ USD, riêng nước Anh tăng hơn 100 tỷ USD. Tại các
nước đang phát triển, dòng vốn FDI tăng 22% và đạt 334 tỷ USD năm 2005.
Vai trò của các quốc gia này trong việc nhận các dòng vốn FDI cũng như trong
hoạt động đầu tư ra nước ngoài không ngừng tăng lên. Tỷ trọng vốn FDI vào
các nước đang phát triển tăng trung bình 20% trong giai đoạn 1978-1980 lên
mức trung bình 35% trong những năm 2003-2005. Tỷ trọng FDI vào các nước
Châu Phi giảm từ 10% năm 1978-1980 xuống khoảng 5% trong năm 1998-
2000. Tuy nhiên trong những năm 2001-2005 dòng vốn này lại phục hồi và tăng
lên. Trong nhóm các nước đang phát triển có sự không đồng đều: Trong khi vốn
FDI vào các nước Châu Á, đặc biệt là Đông Á, Nam Á và Đông Nam Á tăng
đáng kể thì lại tiếp tục giảm ở các nước khu vực Mỹ La Tinh và Caribe. Các
nước thuộc khu vực Mỹ La Tinh và Caribe liên tục giảm trong những năm
1970-1980 và cho đến nay vẫn chưa phục hồi.
Những nguyên nhân dẫn đến sự phục hồi dòng vốn FDI bắt nguồn từ
những sửa đổi về chính sách đầu tư của các quốc gia. Năm 2003 đã có 244 sửa
đổi về luật và quy chế gây ảnh hưởng đến FDI, trong đó có 220 sửa đổi theo
hướng thuận lợi hoá đầu tư. Cũng trong năm này, đã có 86 hiệp ước đầu tư song
phương (Bilateral Investment Treaties- BITs) và 60 hiệp ước thuế quan hai bên
(Double Taxation Treaties - DTTs) được ký kết, nâng tổng số các hiệp ước
được ký kết lên với các con số tương ứng là 2.265 và 2.316 hiệp ước.
2