Tải bản đầy đủ (.docx) (91 trang)

Truyền thông phật giáo đối với xã hội việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.21 MB, 91 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LƯU BÁ TÒNG

TRUYỀN THÔNG PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI XÃ HỘI
VIỆT NAM HIỆN NAY (NGHIÊN CỨU TRƯỜNG
HỢP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH)

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC

HÀ NỘI - 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

LƯU BÁ TÒNG

TRUYỀN THÔNG PHẬT GIÁO ĐỐI VỚI XÃ HỘI
VIỆT NAM HIỆN NAY
Ngành: TÔN GIÁO HỌC
Mã số: 8.22.90.09

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. LƯƠNG THỊ THU HƯỜNG


Tôi là Lưu Bá Tòng, người thực hiện luận văn này.
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu riêng của tôi, các số
liệu và kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực, chưa được ai


công bố trong bất cứ công trình nào khác. Những trích dẫn cần thiết trong
luận văn được tôi chú thích rõ ràng và trung thực.
Tác giả luận văn

Lưu Bá Tòng


Luận văn này là thành quả của quá trình học tập, nghiên cứu của học
viên tại Khoa Tôn giáo học - Học viện Khoa học Xã hội - Viện Hàn lâm
Khoa học Xã hội Việt Nam.
Đầu tiên tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Học viện Khoa học Xã
hội đã tạo những điều kiện thuận lợi về mọi mặt để tôi học tập và nghiên cứu
tại đây.
Tôi xin trân trọng gửi lời cảm ơn đến các thầy, cô giáo, những người
phụ trách Khoa Tôn giáo học đã truyền đạt cho tôi những kiến thức và kinh
nghiệm quý báu trong suốt thời gian tôi học tập tại học viện.
Tôi xin chân thành cảm ơn TS. Lương Thị Thu Hường đã tận tình chỉ
dạy, truyền đạt cho tôi nhiều kiến thức, kinh nghiệm có giá trị, giúp tôi hoàn
thành luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn Thượng tọa Thích Đồng Bổn, trụ trì Chùa
Phật học Xá Lợi đã động viên và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập.
Tôi xin gửi lời cảm ơn đến tất cả bạn bè, đồng môn, những người đã
gắn bó và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập cũng như trong quá trình thực
hiện luận văn tốt nghiệp.
Cuối cùng, tôi xin được cảm ơn gia đình tôi và những người thân đã tạo

điều kiện để tôi yên tâm học tập trong suốt thời gian qua.
Xin cảm ơn!
TP. Hồ Chí Minh, tháng 4năm 2018
Học viên

Lưu Bá Tòng

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


PHỤ LỤC

1.

Lý do chọn đề tài

Truyền thông là quá trình truyền đạt thông tin trong mỗi cá nhân
(truyền thông cá nhân), giữa các cá nhân (truyền thông liên cá nhân), các
nhóm (truyền thông nhóm) hoặc rộng rãi đến mọi người trong xã hội thông
qua các phương tiện truyền thông đại chúng như báo chí, phát thanh, truyền
hình, trang thông tin điện tử trên nền tảng Internet.
Trong đó, đối với truyền thông đại chúng (như trang thông tin điện tử)
nguồn truyền tin phải sử dụng các phương tiện trung gian là những công cụ
kỹ thuật hay những kênh để qua đó tiến hành việc phổ biến, loan truyền
thông điệp đến mọi người trong xã hội.
Báo điện tử cùng với các trang thông tin điện tử là loại hình báo chí
được xây dựng theo hình thức một trang báo điện tử và phát hành dựa trên
nền tảng internet.
Mặc dù ra đời muộn hơn các loại hình báo chí khác, song báo điện tử
cùng với các trang thông tin điện tử lại được xem là sự hội tụ của cả ba loại

hình báo chí đó là báo nói, báo in và báo hình.
Báo điện tử cùng với các trang thông tin điện tử vừa có thông tin,
hình ảnh, đoạn phim minh họa và cả âm thanh được truyền trên mạng.
Chính vì vậy, từ khi ra đời báo điện tử cùng với các trang thông tin
điện tử đã chiếm một vị trí quan trọng trong truyền thông nói chung và
truyền thông về một thực thể/đối tượng nhất định nói riêng.
Do đó, trong những thập niên gần đây, không một ai hoài nghi về vai
trò của truyền thông đối với đời sống xã hội. Truyền thông nói chung được
coi như “quyền lực mềm”.
Tuy nhiên, truyền thông luôn mang tính hai mặt, và tính hai mặt
này (tích cực và tiêu cực) tác động đến nhận thức và ứng xử của
công chúng ở tất cả các phạm vi và cấp độ khác nhau, từ cấp độ
nhà nước đến đời sống của các


cá nhân, từ cấp độ quốc gia, khu vực đến quốc tế; từ lĩnh vực kinh tế đến chính trị,
văn hóa - xã hội...
Truyền thông Phật giáo cũng không nằm ngoài xu thế trên.
Truyền thông Phật giáo có lịch sử tồn tại từ hơn 2.500 năm trước. Sau khi
chứng ngộ, với lòng từ bi, Đức Phật đã mang sự giác ngộ đó giáo hóa chúng sinh.
Khi Đức Phật sắp nhập niết bàn, thầy A Nan hỏi đức Phật sau này ghi lại những lời
dạy của Phật thì lấy gì làm bằng chứng cho người khác tin, đức Phật dạy thầy A Nan
nên bắt đầu mỗi bài kinh bằng câu: “Như thị ngã văn,” tức là “Tôi nghe như vầy” - là
nghe đức Phật giảng như thế nào thì tụng lại, ghi lại như thế đó, không thêm không
bớt. Đây chính là bản chất của truyền thông chân chính: Sự trung thực.
Truyền thông hiện đại cũng đề cao sự trung thực. Ngay từ năm 1946, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã căn dặn các cán bộ tuyên truyền rằng: “Tuyên truyền, anh em
nên chú ý một điều này nữa là bao giờ ta cũng tôn trọng sự thực. Có nói sự thực thì
việc tuyên truyền của mình mới có nhiều người nghe” [19]. Chủ tịch Hồ Chí Minh
đề cao tính “chân thực” bởi nó vừa là sức mạnh của bài nói, bài viết cũng đồng thời

là thước đo đạo đức của người làm báo cách mạng. Mỗi bài viết của nhà báo phải
đúng sự thật, tức là phải bắt nguồn từ thực tế cuộc sống với những con số, những sự
kiện đã được xem xét kiểm tra, chọn lọc.
Hiện nay, trong các tài liệu, giáo trình giảng dạy về truyền thông luôn coi
trọng tính chân thật của thông tin. Trong bài viết “Một định hướng đào tạo cán bộ
báo chí trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập hiện nay ở nước ta” của Giáo sư,
Tiến sĩ Phạm Ngọc Quang đăng trên tạp chí Triết học, số 6 (205), tháng 6 - 2008 có
nhấn mạnh: “Sức mạnh của chúng ta chính là ở sự thật. Sự nghiệp cách mạng xã hội
chủ nghĩa mà chúng ta đang tiến hành là phù hợp với quy luật khách quan của sự
phát triển xã hội. Cho nên, báo chí càng nói đúng sự thật bao nhiêu, càng giúp chúng
ta ý thức rõ được con đường phát triển của chúng ta bấy nhiêu. Sự thật nào đi ngược
lại quy luật phát triển lịch sử thì cần khắc phục. Sự thật nào phù hợp quy luật phát


triển thì cần được phát huy, dù lúc đầu nó còn non yếu, nhỏ nhoi, thậm chí bị cái cũ
lấn át”.
Trong bài viết “Một số quan điểm về tính khách quan, chân thật trên báo chí
hiện nay” đăng trên tạp chí Lý luận chính trị và truyền thông năm 2009, tác giả Trần
Thị Cẩm Thúy có trích nhận định của nguyên Trưởng Ban Tư tưởng - Văn hoá Trung
ương, nguyên Tổng biên tập báo Nhân Dân: “Khách quan, chân thật của thông tin
bao giờ cũng là vấn đề hết sức cơ bản”.
Hơn 2500 năm trước, Đức Phật đã đề cập đến bản chất của truyền thông là sự
chân thật.
Cũng từ đó, công tác truyền thông được phát triển bằng nhiều hình thức khác
nhau qua mỗi giai đoạn, nhằm mục đích mang đến cho mọi người nhận thức đúng
đắn về những lời chỉ dạy của Đức Phật, hướng dẫn Tăng Ni và tín đồ Phật giáo sống
đúng chánh pháp, hướng đến giác ngộ và giải thoát.
Vì vậy, sứ mạng của truyền thông Phật giáo là mang đến cho công chúng
những thông điệp về niềm tin và thực hành theo giáo lý Phật giáo; giá trị của Phật
giáo; cũng như thông tin về cộng đồng Phật giáo đúng - như - là.

Đồng thời, truyền thông Phật giáo còn mang trong mình trọng trách quan
trọng trên mặt trận đấu tranh với những thông tin sai lệch về Phật giáo và cộng đồng
Phật giáo.
Tại Việt Nam, ngược dòng lịch sử, khi phong trào chấn hưng Phật giáo thập
niên 1930 nổ ra, các tu sĩ đã nhận thấy vai trò của truyền thông phục vụ cho công
cuộc chấn hưng, đã cho ra đời nhiều tờ báo như ở Nam bộ có Pháp Âm, Từ Bi Âm,
Duy Tâm, Tiến Hóa, Bát Nhã Âm...; ở Trung bộ có Viên Âm, Tam bảo; ở Bắc bộ có tờ
Đuốc Tuệ, Tiếng Chuông Sớm ... Các tờ báo này đã mạnh dạn nêu lên những hoạt
động không đúng chánh pháp như mê tín dị đoan; các tăng, ni chỉ lo cúng đám mà
không sách tấn tu tập, học hành... Nhờ vào những tiếng nói truyền thông trung thực


như vậy mà Phật giáo thời kỳ này chú trọng về phẩm hơn chú trọng về lượng, nên
Phật giáo và sự nghiệp hoằng pháp thời kỳ này phát triển như trăm hoa đua nở, từ
đội ngũ tăng tài tinh ba đến số lượng đồ sộ kinh sách được soạn, dịch. đã đáp ứng
được yêu cầu của lịch sử: Đạo Pháp - Dân Tộc.
Hiện nay, do bản chất của truyền thông luôn có tính hai mặt; thêm nữa, do
năng lực thẩm định/biên tập các bài trên báo điện tử và các trang thông tin điện tử
chưa đi vào chất lượng nên việc đưa tin về Phật giáo và các hoạt động của Phật giáo
đem lại nhiều cách hiểu khác nhau, thậm chí trong những trường hợp nhất định còn
đưa đến cách hiểu sai lạc.
Vì vậy, cần có những nghiên cứu nhằm chỉ ra bản chất của một nền truyền
thông chân chính và chỉ ra thực trạng của truyền thông Phật giáo ở Việt Nam trong
bối cảnh hiện nay.
Ngày nay, khi sức mạnh truyền thông trở thành một lực lượng vật chất quan
trọng, có khả năng tạo nên những ảnh hưởng nhất định trong xã hội, thì vai trò của
truyền thông Phật giáo ngày càng được chú trọng.
Cụ thể là, nhận thấy “sức mạnh mềm”của truyền thông, tại Đại hội Đại biểu
Phật giáo Toàn quốc kỳ VII, ngày 24/11/2012 Giáo hội Phật giáo Việt Nam đã thành
lập Ban Thông tin Truyền thông. Bên cạnh đó, các chùa, tự viện và cư sĩ cũng thành

lập các trang thông tin điện tử, ấn tống kinh sách, băng đĩa. để truyền bá Phật pháp
cho tăng ni và tín đồ Phật giáo.
Tuy nhiên, sau năm năm đi vào hoạt động, truyền thông Phật giáo sử dụng
môi trường internet tại Việt Nam vẫn trong tình trạng sơ khai, chưa khai thác được
sức mạnh vốn có. Các phương thức truyền thông được Giáo hội đưa ra vẫn còn lúng
túng, theo lối mòn, chưa có đột phá. Việc thiếu các quan điểm chỉ đạo chung đã dẫn
đến sự không nhất quán trong hoạt động truyền thông gi ữa các chùa; sự sáng tạo
trong truyền thông chưa được khai thác tối đa, dẫn đến việc các bài viết về Phật pháp


thường sao chép qua lại, khiến chất lượng của các trang thông tin điện tử về Phật
giáo nghèo nàn, nhàm chán; vô hình chung khi ến cho các tín đồ không quan tâm
nhiều đến truyền thông Phật giáo.
Mặt khác, trong điều kiện hiện nay, truyền thông cũng chưa làm rõ vai trò của
Phật giáo đối với các vấn đề đạo đức, giáo dục, y tế, và an sinh xã hội. Do đó, việc
nghiên cứu và làm sáng tỏ vai trò của truyền thông Phật giáo đối với xã hội Việt
Nam hiện nay là vấn đề cấp thiết, không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận và còn cả thực
tiễn.
Vì những lý do trên, chúng tôi chọn “Truyền thông Phật giáo đối với xã hội
Việt Nam hiện nay” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn này.
2. Tình hình nghiên cứu
2.1. Nghiên cứu về truyền thông
Trong những năm gần đây, truyền thông được rất nhiều tác giả đề cập
như Truyền thông đại chúng (Tạ Ngọc Tấn), Truyền thông đại chúng những kiến
thức cơ bản (Claudia Mast), Truyền thông đại chúng - Công tác biên tập (Claudia
Mast), Cơ sở lý luận của báo chí (tập 1 và 2) (E.P. Prôkhôrốp), Một số xu hướng
mới của báo chí truyền thông hiện đại (Phan Văn Kiền, Phan Quốc Hải, Phạm
Chiến Thắng, Nguyễn Đình Hậu), Introduction to Mass Communication: Media
Literacy and Culture - Giới thiệu về Truyền thông Đại cương: Truyền thông và Văn
hoá Truyền thông (Stanley Baran), Mass Media in a Changing World - Truyền thông

đại chúng trong Thế giới Thay đổi (George Rodman)... Tuy nhiên hầu hết các nghiên
cứu này thiên về truyền thông nói chung và vai trò của truyền thông trong thời đại
hiện nay, không đi vào nghiên cứu truyền thông tôn giáo.
2.2. Nghiên cứu về báo điện tử
Trong thời đại công nghệ thông tin hiện nay, có khá nhiều luận văn, sách, báo
đề cập như Báo mạng điện tử - Những vấn đề cơ bản [8], Sáng tạo tác phẩm - Báo


mạng điện tử[9], Tổ chức diễn đàn trên báo mạng điện tử[10],Báo mạng điện tử Đặc trưng và phương pháp sáng tạo[11],.. Những tài liệu này đi sâu phân tích về ưu
thế của báo điện tử, đặc điểm và vai trò của báo điện tử trong thời đại ngày nay.
2.3. Nghiên cứu về truyền thông Phật giáo
Cho tới nay, các khoá luận, luận văn và sách báo nghiên cứu về truyền thông
tôn giáo tại Việt Nam vẫn chưa có nhiều, đặc biệt là Phật giáo. Chỉ có vài luận văn,
khóa luận như:
Luận án Tiến sĩ: Truyền thông tôn giáo từ năm 1990 đến nay qua khảo sát
trường hợp Phật giáo và Công giáo, của Nguyễn Thúy Hà (2013), Học viện Khoa
học Xã hội, Hà Nội. Luận văn làm rõ về khái niệm truyền thông tôn giáo, về thực
trạng truyền thông tôn giáo của Đảng và Nhà nước Việt Nam, chủ thể chủ yếu, được
đối tượng tiếp nhận là tín đồ, chức sắc tôn giáo nhận xét đánh giá qua khảo sát đồng
bào Công giáo và Phật giáo ở Hà Nội và TP. Hồ Chí Minh, từ đó đưa ra một số
khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả truyền thông tôn giáo, đảm bảo
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo của nhân dân. Luận án này chủ yếu đề cập đến
chính sách của Đảng và Nhà nước về truyền thông tôn giáo, chủ thể truyền thông là
các cơ quan truyền thông của Đảng, Nhà nước và các tổ chức xã hội, không đề cập
đến vai trò chủ thể truyền thông là các tôn giáo[12].
Luận văn Thạc sĩ: Hoạt động truyền thông về vấn đề tôn giáo trên báo in Việt
Nam hiện nay (2005 - 2010) của Hoàng Thị Thùy Dương (2011), Trường đại học
Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội. Luận văn này khảo sát thực tiễn vai trò của
hoạt động báo chí trong đời sống chính trị xã hội, đặc biệt thông qua ba tờ báo và
một tờ tạp chí thuộc dòng báo chính luận (Nhân Dân, Tuổi Trẻ, Người Công giáo

Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Tôn giáo) cùng với một số báo tôn giáo yêu nước.
Tác giả luận văn đề xuất các khuyến nghị nhằm nâng cao chất lượng hoạt động báo
chí nói chung, nội dung và hình thức của các tác phẩm báo chí nói riêng, góp phần


thực hiện nhiệm vụ tuyên truyền quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước về vấn đề tôn giáo trên báo chí[6].
Luận văn Thạc sĩ: Báo chí Phật giáo tại Việt Nam: Thực trạng và vấn đề, của
Lê Thị Hồng Hạnh (2010), Trường đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội.
Luận văn này phác họa lại quá trình lịch sử của báo chí Phật giáo tại Việt Nam; đánh
giá những yếu tố ảnh hưởng của báo chí Phật giáo đối với công chúng báo chí nói
chung và công chúng báo chí Phật giáo nói riêng; khảo sát để đưa ra một cách nhìn
tổng thể về thực trạng và vấn đề của báo chí Phật giáo tại Việt Nam trong thời gian
2005 - 2010. Luận văn viết gần như quyển sử về báo chí Phật giáo và thiên về báo
giấy, không đề cập đến báo điện tử, một loại hình truyền thông đặc biệt trong giai
đoạn hiện nay[13].
Còn lại là những bài viết trên các tạp chí nghiên cứu hoặc trên các trang
mạng. Ví dụ như: Ngọc Chơn với “Vai trò truyền thông Phật giáo thời hiện đại”[38];
Diệu Hòa với “Truyền thông Phật giáo và mạng xã hội”[54]; Thích Thiện Bảo,
“Truyền thông trong hoạt động hoằng pháp”[36]; Minh Thạnh, “Truyền thông và sự
phát triển tư tưởng Phật giáo”[77]; Dương Kinh Thành, “Website truyền thông Phật
giáo những sự im lặng không đúng lúc”[73]; Minh Thạnh, “Báo chí Phật giáo có
nhất thiết phải hiền... đến mức không trung thực”[74]; H. Diệu, “Cách ứng xử với
truyền thông, báo chí” [45]; Nguyên Giác Phan Tấn Hải, “Truyền thông nhìn từ Phật
giáo” [49]; Huỳnh Kim Quang, “Nghĩ về truyền thông và Phật giáo” [65]; Sơ Cơ,
“Truyền thông Phật giáo đang đứng ở đâu” và “Vì sao các trang Phật giáo- ít người
truy cập?” [41,42]...
Tất cả những công trình, tài liệu trên hoặc mới chỉ đề cập đến truyền thông và
thực trạng truyền thông nói chung; hoặc chỉ đề cập đến truyền thông tôn giáo nói
chung và những mảng đề tài lẻ trong truyền thông Phật giáo. Do đó việc nghiên cứu



thực trạng truyền thông Phật giáo đối với xã hội Việt Nam hiện nay vẫn còn là mảng
trống vắng. Luận văn hướng tới việc góp phần khỏa lấp mảng trống này.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu
Làm rõ thực trạng truyền thông Phật giáo đối với các phương diện cơ bản của
đời sống xã hội như: Chính trị, kinh tế, văn hóa, an sinh xã hội và đặt ra một số vấn
đề trong công tác truyền thông Phật giáo.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
+ Khái quát vai trò của báo điện tử và trang thông tin điện tử;
+ Khảo sát, phân tích và đánh giá thực trạng về truyền thông Phật giáo dựa
trên hai phương diện cơ bản là hình thức và nội dung đưa tin;
+ Đưa ra khuyến nghị và giải pháp góp phần nâng cao vai trò của truyền
thông Phật giáo đối với xã hội nói chung.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Truyền thông Phật giáo.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
* Về không gian: Phạm vi nghiên cứu của đề tài là khảo sát năm trang thông
tin điện tử Phật giáo có nhiều người truy cập như Giác Ngộ (giacngo.vn), Đạo Phật
ngày nay (daophatngaynay.com), Giáo hội Phật giáo Việt Nam (phatgiao.org.vn),
Phật tử Việt Nam (phattuvietnam.net), Hoa Linh Thoại (hoalinhthoai.com).
* Về thời gian: Từ khi hình thành Ban Thông tin Truyền thông Trung ương
Giáo hội Phật giáo Việt Nam (24/11/2012) đến nay.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu


5.1. Phương pháp luận
- Luận văn dựa trên cơ sở quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng

Hồ Chí Minh về tôn giáo nói chung, Phật giáo nói riêng để làm hệ quy chiếu đánh
giá thực trạng truyền thông Phật giáo hiện nay.
- Luận văn vận dụng lý thuyết thực thể tôn giáo để tìm hiểu truyền thông
Phật giáo hiện nay: “Chỉ có thể biết được các hiện tượng gọi là tôn giáo thông qua
xác định mối quan hệ giữa con người với cái thiêng bằng niềm tin vào cái thiêng,
được biểu đạt bằng thực hành gắn kết với niềm tin đó, tạo thành cộng đồng người có
cùng niềm tin vào cái thiêng, trước hết là cộng đồng luân lý, và như M. Mauss nói,
các yếu tố đó tạo ra các hệ thống được gọi là tôn giáo”[29].
Như vậy luận văn sẽ khảo sát nội dung truyền thông của các nhà truyền thông
Phật giáo về các mặt: Niềm tin Phật giáo, thực hành Phật giáo và cộng đồng Phật
giáo.
- Vận dụng lý thuyết về mô hình truyền thông:
Trong các nghiên cứu về truyền thông trên thế giới, có nhiều lý thuyết về mô
hình truyền thông, tuy nhiên luận văn này chỉ sử dụng 2 lý thuyết sau:
+ Mô hình truyền thông của Haroll Laswell
Mô hình này bao hàm những phần tử chủ yếu của quá trình truyền thông,
trong đó: S - Ai (source, sender): Nguồn, người cung cấp, khởi xướng. M - Nói, đọc,
viết gì (message): Thông điệp, nội dung thông báo. C- Kênh (channel): Bằng kênh
nào, mạch truyền nào. R - Cho ai (receiver): Người tiếp nhận, nơi nhận. E - Hiệu quả
(effect): Hiệu quả, kết quả của quá trình truyền thông.
+ Mô hình truyền thông của Claude Shannon
Theo lý thuyết thông tin và điều khiển học (Cybernetics) của Claude Shannon
và nhiều người nghiên cứu khác, quá trình truyền thông còn được bổ sung thêm hai
yếu tố: Hiện tượng nhiễu (Noise) và phản hồi (Feedback).


5.2. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp khảo sát: Tiến hành khảo sát các trang thông tin điện tử Phật
giáo để tìm hiểu nội dung và phương pháp truyền thông Phật giáo được thực hiện
như thế nào.

- Phương pháp lập bảng và biểu đồ hiển thị tần suất và lưu lượng truy cập
trang thông tin điện tử nhằm đánh giá sức hấp dẫn của thông tin.
- Phương pháp phân tích, nhận xét, đánh giá: Bằng cách đối chiếu giữa thực
tiễn với lý luận, từ đó đưa ra nhận xét đánh giá về những mặt làm được và những
mặt chưa làm được trong công tác truyền thông Phật giáo, đồng thời đề ra những giải
pháp khắc phục những điểm yếu và phát huy những mặt mạnh.
- Phương pháp phỏng vấn sâu: Phỏng vấn Thượng tọa Thích Nhật Từ, chủ
biên trang Đạo Phật ngày nay, 1 cư sĩ có vai trò trong Giáo hội Phật giáo đánh giá về
hiệu quả truyền thông Phật giáo và quan điểm xử lý khủng hoảng truyền thông Phật
giáo.
Tuy nhiên trong quá trình làm luận văn, chúng tôi không tách biệt riêng lẻ các
phương pháp mà có sự kết hợp chặt chẽ, logic giữa các phương pháp nhằm mang lại
hiệu quả cho luận văn.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa khoa học
Trên cơ sở tập hợp một cách hệ thống những lý luận về truyền thông hiện đại
và tôn giáo học để khảo sát về vai trò của truyền thông Phật giáo đối với đời sống xã
hội.
Việc đi sâu phân tích những khái niệm, sự kiện, sự việc và đặc trưng của hoạt
động truyền thông giúp cho Giáo h ội Phật giáo Việt Nam và lãnh đạo các tự viện
đánh giá, khái quát được thực trạng hoạt động truyền thông trong việc truyền bá
chánh pháp và xử lý khủng hoảng truyền thông Phật giáo


6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Qua việc khảo sát khách quan, luận văn làm sáng tỏ chất lượng và hiệu quả
của truyền thông Phật giáo đồng thời góp phần đưa ra một số giải pháp cho việc
nâng cao hiệu quả của truyền thông Phật giáo trong việc truyền tải và phản ánh
thông tin.
Bên cạnh đó, luận văn sẽ là tài liệu tham khảo cho Ban Trị sự Giáo hội Việt

Nam các tỉnh thành, lãnh đạo các tự viện và cho những hoạt động truyền thông Phật
giáo nói chung có được gợi ý để phát huy sức mạnh của truyền thông một cách có
hiệu quả.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và kiến nghị, tài liệu tham khảo, phụ bản, nội
dung luận văn được chia thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý thuyết và thực tiễn về truyền thông và truyền thông Phật
giáo.
Chương 2: Thực trạng truyền thông Phật giáo (qua khảo sát năm trang báo
điện tử) đối với xã hội Việt Nam hiện nay.
Chương 3: Một số nhận xét và khuyến nghị giải pháp.
Chương 1
CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ THỰC TIỄN VỀ TRUYỀN THÔNG
VÀ TRUYỀN THÔNG PHẬT GIÁO
1.1. Cơ sở lý thuyết
1.1.1. Lý thuyết thực thể tôn giáo
Trong “Triển khai lý thuyết thực thể tôn giáo”, TS. Nguyễn Quốc Tuấn đã chỉ
ra rằng: muốn tìm hiểu về một tôn giáo, chúng ta phải tìm hiểu về 3 yếu tố: Niềm tin
về cái thiêng, thực hành gắn kết với niềm tin đó và cộng đồng những người cùng một
niềm tin [29].


Cái thiêng mà các tín đồ Phật giáo đặt hết niềm tin vào chính là Đức Phật.
Niềm tin của các tín đồ Phật giáo (tức người đã quy y Tam bảo) là niềm tin tuyệt đối
vào Đức Phật, Phật pháp và Tăng già; thọ trì Năm giới.
Tín đồ Phật giáo tin rằng Đức Phật là bậc giác ngộ hoàn toàn về ba phương
diện: tự giác, giác tha, giác hạnh viên mãn; ngài có trí tuệ và phương tiện thiện xảo;
Đức Phật có thể dìu dắt chúng sinh ra khỏi vòng vô minh lầm lạc, đạt đến an lạc, cứu
cánh Niết bàn.
Tín đồ Phật giáo tin rằng Phật pháp là chân lý mà Đức Phật đã thân chứng, là

phương pháp diệt khổ, là con đường đưa đến an lạc giải thoát.
Tín đồ Phật giáo cũng tin rằng Tăng già là đoàn thể những người tiếp bước
chư Phật đi trên con đường giác ngộ giải thoát và dìu dắt chúng sinh ra khỏi sự đau
khổ của kiếp nhân sinh bằng sự giác ngộ. Luận Đại thừa khởi tín có nói: “Lòng tin
có bốn: Một là lòng tin cội gốc, nghĩa là luôn nghĩ pháp Chơn như. Hai là tin Đức
Phật có vô lượng công đức, thường tưởng nhớ, gần gũi cung kính, cúng dường, phát
khởi tâm lành để cầu Nhứt thiết trí. Ba là tin Pháp có nhiều lợi ích, thường nhớ tu
hành cho rốt ráo. Bốn là tin Tăng hay tu hành hạnh lợi mình lợi người, thường gần
gũi các bậc Bồ tát cầu học hạnh như thật”. [46]
Bên cạnh niềm tin vào Phật, Pháp, Tăng là lòng tự tín của người tín đồ Phật
giáo. Đây là niềm tin căn bản nhất không thể thiếu. Lòng tự tín là lòng tin vào khả
năng giác ngộ của chính mình, tin rằng mình sẽ thành Phật nếu nỗ lực tu hành. Bởi
sự giác ngộ là tự mình giác ngộ chứ không ai có thể giác ngộ thay cho, vì thế nếu
không có lòng tự tín thì chúng ta không nỗ lực. Đức Phật đã dạy: “Hãy tự xem con là
hải đảo của con. Hãy tự xem con là chỗ nương tựa của con. Không nên tìm nương
tựa nơi ai khác” (Trường A-hàm, kinh Đại bát Niết bàn) [27], và “Các con phải tự
mình nỗ lực, các đấng Như Lai chỉ là người thầy dẫn đường” (Kinh Pháp Cú, kệ
276) [2].


Thực hành trong Phật giáo bao gồm các nghi lễ và thực hành những lời dạy
của Đức Phật.
Đức Phật trong thực tế đã không đưa ra các nghi thức và các nghi lễ mà
chúng ta đang thực hiện ngày hôm nay. Ngài cũng không vì vấn đề nghi thức và nghi
lễ mà khuyến khích dân chúng thực hành theo một số truyền thống của Ân Độ lâu
đời đang thịnh hành tại đất nước này vào thời đó. Ngài chỉ quan tâm đến việc giảng
dạy giáo Pháp - chân lý của cuộc sống hay lẽ thực của cuộc đời.
Sau khi Ngài nhập diệt, các môn đệ của Ngài ở các nước khác nhau và tại
những thời điểm khác nhau đã đưa các truyền thống và văn hóa địa phương của đất
nước họ vào Phật giáo khi tôn giáo này đã trở nên phổ biến và phát triển tại các quốc

gia đó. Theo lời dạy của Đức Phật, các đệ tử của Ngài đã xây dựng hệ thống đạo đức
trên cơ sở hệ thống giáo lý, đó là mối quan hệ giữa giới, định, tuệ để đi đến giải thoát
và giải thoát tri kiến, trong đó giới có vai trò làm nền tảng cho việc giải thoát.
Đạo đức Phật giáo bao gồm các giới cùng các chuẩn mực và các phạm trù có
liên quan tới nhau một cách chặt chẽ. Phật giáo xây dựng một hệ thống đạo đức hoàn
chỉnh từ nhận thức, lý luận đến thực hành và việc áp dụng nó để xây dựng một nếp
sống tốt đẹp. Bên cạnh đó Phật giáo còn xây dựng mẫu người đạo đức đó là con
người từ bi, hỷ, xả, vô ngã, vị tha mà thâu tóm là đứng vững trên hai chân: từ bi và
trí tuệ.
Triết lý của Phật giáo về từ bi, về tình thương yêu rất phù hợp với truyền
thống giàu lòng nhân ái vốn có của người Việt: “Một con ngựa đau, cả tàu không ăn
cỏ”; “Một miếng khi đói bằng một gói khi no”; “Lá lành đùm lá rách”; “Thương
người như thể thương thân”... Đây là sự kết hợp những nét độc đáo trong phương
pháp tư duy, trong văn học, nghệ thuật của người Việt Nam. Những giá trị, khuyến
thiện, hướng thiện không chỉ phát huy tác dụng trong hàng ngũ tín đồ mà còn ảnh
hưởng rộng rãi trong đời sống nhân dân, góp phần hình thành nên những quan niệm


sống giàu tính nhân văn sâu sắc. Đồng hành cùng với sự phát triển của đất nước, đạo
đức Phật giáo đã góp phần tạo nên truyền thống văn hóa thực sự giàu bản sắc.
Với triết lý từ, bi, hỷ, xả, khuyến khích con người hướng thiện, đạo đức Phật
giáo đã dễ dàng đi vào lòng người, có tác dụng hoàn thiện nhân cách đạo đức, hướng
con người đến lối sống, vị tha, bình đẳng, bác ái. Thực tế đã chứng minh, đạo đức
Phật giáo phù hợp với đạo đức lẽ sống của con người Việt Nam và nó đã có những
đóng góp tích cực trong việc xây dựng một nền tảng đạo đức mới cho xã hội trên cơ
sở kế thừa các giá trị đạo đức truyền thống đã được đặt ra.
Cộng đồng Phật giáo là những người có niềm tin vào Đức Phật (tức cái
thiêng) dù là Phật giáo Bắc tông, Nam Tông hay Kim Cương thừa. Phật giáo Nam
tông phát triển mạnh ở Sri Lanka và Đông Nam Á (Thái Lan, Lào, Campuchia,
Myanmar). Bắc tông phát triển ở Đông Á (Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Đài

Loan, Việt Nam, Singapore) và bao gồm nhiều phân nhánh nhỏ hơn như Tịnh độ
tông, Thiền tông, Thiên thai tông. Còn Kim Cương thừa phát triển ở Tây Tạng,
Mông Cổ và Bhutan.
Mặc dù phát triển chủ yếu ở châu Á, nhưng hiện nay đạo Phật được tìm thấy
ở khắp thế giới. Ước tính số người theo đạo Phật vào khoảng 365 triệu
tín đồ chính thức và 1,2 tỷ người có cảm tình với Phật giáo.
Các trường phái Phật giáo khác nhau ở quan điểm về con đường đưa đến giải
thoát, tính chính thống của các bài giảng đạo và kinh điển, đặc biệt là ở phương thức
tu tập.
1.1.2. Đức Phật và truyền thông “Như thị ngã văn"
“Như thị” có nghĩa: Đúng là như vậy, hoàn toàn đáng tin cậy. “Như” có nghĩa
là bất biến, không thể nào khác được. “Thị” là như vậy, hoàn toàn là chính xác. “Như
thị” nghĩa là hoàn toàn như thật, hoàn toàn đích xác, không gì thay đổi được. Mọi
Kinh Phật đều mở đầu bằng bốn chữ “Như thị ngã văn”. Bốn chữ này là do A Nan
tiếp chỉ từ Đức Thích Ca Mâu Ni Phật lúc sắp nhập Niết bàn đã di giáo lại. Dịch
sang ngôn ngữ thuần Việt có nghĩa là “Tôi nghe như vầy”.


Theo lịch sử Phật giáo, lúc Phật Thích Ca sắp nhập Niết bàn, A Nan bạch
Phật: “Bạch Đức Thế Tôn! Tất cả những lời dạy của Ngài được tuyên thuyết trong
đời này. Sau khi Ngài nhập diệt, chúng con phải kiết tập Kinh điển, chúng con nên
dùng chữ gì để mở đầu các kinh điển, xin Ngài di giáo”. Đức Phật liền dạy: “Ông
nên dùng bốn chữ “Như thị ngã văn” để làm sự mở đầu cho các kinh điển.
Vì vậy, tất cả các kinh Phật hiện giờ đều mở đầu bằng “Như thị ngã văn” “Tôi nghe như vầy”: Là tất cả những kinh pháp đều đích thân A Nan tận tai nghe
Đức Phật tuyên thuyết - đây cũng chính là thông tin có cơ sở/chứng cứ/nguồn gốc
chân thật. Tất nhiên Tôn giả A Nan là “Đa văn đệ nhất” nên Đức Phật mới mật ý phó
chúc cho A Nan “tái phát âm”. Vì tôn giả A Nan có một công năng kỳ lạ mà không ai
có: Bất kỳ một điều gì nghe qua đều nhớ rõ mồn một, gọi là “quá nhĩ bất vong”,
không bao giờ quên sót.
Như vậy, hơn 2500 năm trước, Đức Phật đã đề cập đến bản chất của truyền

thông là sự chân thật trong thông tin.
1.1.3. Lý thuyết mô hình truyền thông và báo mạng điện tử
1.1.3.1. Các mô hình truyền thông
Trong lịch sử nghiên cứu sự phát triển của truyền thông đại chúng, các nhà
nghiên cứu đã đưa ra hai loại mô hình truyền thông cơ bản, đó là mô hình truyền
thông một chiều mang tính áp đặt và mô hình truyền thông đại chúng hai chiều mềm
dẻo.
+ Mô hình truyền thông của Haroll Laswell
Năm 1948, H.Lasswell đã đưa ra mô hình truyền thông đại chúng một chiều
[24] bao gồm những yếu tố:

A

Hình 1.1: Mô hình truyền thông của Haroll Laswell
Mô hình này bao hàm những phần tử chủ yếu của quá trình truyền thông,
trong đó: S - Ai (source, sender): Nguồn, người cung cấp, khởi xướng. M - Nói, đọc,


viết gì (message): Thông điệp, nội dung thông báo. C- Kênh (channel): Bằng kênh
nào, mạch truyền nào. R - Cho ai (receiver): Người tiếp nhận, nơi nhận. E - Hiệu quả
(effect): Hiệu quả, kết quả của quá trình truyền thông.
Với mô hình này của Laswell, mọi việc nghiên cứu có thể được tiến hành và
tập trung vào những phẩn tử đó. Phân tích nguồn (S) (Ai là người cung cấp?). Phân
tích nội dung (M) (thông điệp chứa đựng gì?). Phân tích phương tiện (C) (kênh nào
được sử dụng và sử dụng như thế nào?). Phân tích đối tượng (R) (Ai là người nhận?).
Phân tích hiệu quả (E) (Thay đổi hành vi ra sao?).
Từ mô hình truyền thông trên cho thấy, phương thức thông tin được chuyển
tải theo một chiều. Bắt đầu từ nguồn phát, những thông điệp được truyền qua kênh
truyền thông, đến người tiếp nhận thông tin. Khi hoàn thành quá trình này sẽ tạo ra
hiệu quả thông tin.

Đây là mô hình thông tin đơn giản, nhưng rất thuận lợi khi chuyển tải những
thông tin nhanh. Trong mô hình này, nguồn phát giữ vai trò quyết định, có khả năng
áp đặt quan điểm, tư tưởng của mình đối với người tiếp nhận thông tin. Công chúng
chỉ tiếp nhận thông tin một cách thụ động, không có họăc ít có sự phản hồi trở lại dù
đó là sự tác động tích cực để thấy được thái độ tiếp nhận thông tin của công chúng
hoặc những thông tin đã chuyển tải có phù hợp hay không. Chính vì những hạn chế
như vậy nên mô hình truyền thông này chưa làm thoả mãn được nhu cầu thông tin,
chưa thu hút, chưa tạo được sự quan tâm của công chúng.
+ Mô hình truyền thông của Claude Shannon
C.Shannon đưa ra mô hình quá trình truyền thông hai chiều mềm dẻo khắc
phục được nhược điểm của mô hình truyền thông một chiều. Ông đã đưa vào mô
hình thông tin của mình những yếu tố mới như sau:


Hình 1.2: Mô hình truyền thông của Claude Shannon
Theo lý thuyết thông tin và điều khiển học (Cybernetics) của Claude Shannon
và nhiều người nghiên cứu khác, quá trình truyền thông còn được bổ sung thêm hai
yếu tố: Hiện tượng nhiễu (Noise) và phản hồi (Feedback). Do đó, mô hình của
Harold Laswell có thể bổ sung như sau:
Phản hồi (Feedback) được hiểu là sự tác động ngược trở lại của thông tin từ
phía người tiếp nhận đối với người truyền tin. Phản hồi là phần tử cần thiết để điểu
khiển quá trình truyền thông, làm cho quá trình truyền thông được liên tục từ nguồn
đến đối tượng tiếp nhận và ngược lại. Nếu không có phản hồi, thông tin chỉ một
chiều và mang tính áp đặt.
Nhiễu (Noise) luôn tồn tại trong quá trình truyền thông. Đó là hiện tượng
thông tin truyền đi bị ảnh hưởng bởi các điều kiện của tự nhiên và xã hội, phương
tiện kỹ thuật... gây ra sự sai lệch hay kém chất lượng vể nội dung thông tin cũng như
tốc độ truyền tin. Do vậy, nhiễu là hiện tượng cần được xem xét, và được coi như
một hiện tượng đặc biệt trong quá trình lựa chọn kênh để xây dựng nội dung thông
điệp. Các dạng nhiễu có thể có như vật lý, cơ học, luân lý, tôn giáo, môi trường,

cung độ, lứa tuổi, giới tính, ngôn ngữ, học vấn, dân tộc v.v... Mặt khác, nhiễu vẫn
luôn được coi lả quy luật của quá trình truyền thông, nếu biết xử lý nhiễu sẽ tăng
thêm hiệu quả cho quá trình truyền thông [24].
Xét về mặt bản chất thì mô hình truyền thông hai chiều của C. Shannon là sự
phát triển logic từ mô hình truyền thông của H.Lasswell. Trong điều kiện xã hội phát
triển, được sự hỗ trợ của khoa học kỹ thuật và công nghệ, nhiều phương tiện truyền


thông đại chúng hiện đại ra đời nó cho phép thiết lập mối quan hệ hai chiều liên tục,
trực tiếp giữa nguồn phát và người tiếp nhận thông tin. Trong mô hình truyền thông
này, vai trò của công chúng tiếp nhận được xem là một trong những yếu tố quyết
định quá trình truyền thông. Tính tích cực của công chúng với tư cách là đối tượng
tiếp nhận thông tin, không chỉ chỉ thể hiện ở việc lựa chọn những thông điệp tiếp
nhận mà còn là sự tham gia trực tiếp, trở thành một yếu tố quyết định trong quá trình
thực hiện hoạt động truyền thông đại chúng.
Trên cơ sở này, có thể thấy trong việc nghiên cứu hiệu quả của truyền thông
đại chúng thì vấn đề nghiên cứu công chúng có vai trò hết sức quan trọng, nó cho
phép nhà truyền thông nắm bắt được nhu cầu, hình thành được nội dung và phương
pháp nghiên cứu thích ứng.
1.1.3.2. Khái niệm báo điện tử
Báo điện tử, trang thông tin điện tử (gọi tắt là báo điện tử) là loại hình báo chí
được xây dựng theo hình thức một trang thông tin điện tử và phát hành dựa trên nền
tảng Internet. Báo điện tử được tòa soạn điện tử xuất bản, còn người đọc báo dựa
trên máy tính, thiết bị cá nhân như máy tính bảng, điện thoại di động trung cao cấp...
có kết nối Internet.
Khác với một trang thông tin điện tử nói chung, báo điện tử cập nhật thường
xuyên tin tức, đặc biệt là đăng “tin tức thời” hay “tin giật gân” (breaking news). Báo
điện tử cho phép mọi người trên khắp thế giới tiếp cận tin tức nhanh chóng không
phụ thuộc vào không gian và thời gian. Sự phát triển của báo điện tử đã làm thay đổi
thói quen đọc tin và ít nhiều có ảnh hưởng đến việc phát triển báo giấy truyền thống

[90].
Báo điện tử là một loại hình báo chí mới, có khả năng cung cấp thông tin
sống động bằng chữ viết, hình ảnh và âm thanh chỉ trong vài phút đến vài giây, với
số trang không hạn chế. Báo điện tử là hình thức báo chí được sinh ra từ sự kết hợp
những ưu thế của báo in, báo nói, báo hình, sử dụng yếu tố công nghệ cao như một


nhân tố quyết định, qui trình sản xuất và truyền tải thông tin dựa trên nền tảng mạng
Internet toàn cầu.
1.13.3. Đặc điểm và vai trò thông tin của báo điện tử
*

Đặc điểm của báo điện tử

- Tính không giới hạn: Báo điện tử có ưu điểm nổi bật là khả năng truyền tải
thông tin vô biên giới. Với mạng Internet (world wide web), thông tin có thể truyền
tải đi khắp toàn cầu. Đồng thời, với một biển thông tin trên Internet, người dùng có
thể tự do khám phá nó nhờ các siêu liên kết. Nó đã kích thích trí tò mò, sự ham hiểu
biết cái mới của con người.
- Tính thời sự: Thông tin trên Internet nói chung và báo điện tử nói riêng có
tính thời sự rất cao. Thông tin tức thời, gần như ngay lập tức, biết tin sớm nhất từ
những khoảng cách xa nhất. Mọi thông tin từ khi thu nhập được đến khi phát hành
được diễn ra trong thời gian ngắn hơn nhiều so với báo in. Chính khả năng này làm
cho thông tin trên báo điện tử luôn sống từng ngày, từng giờ, thậm chí có khi từng
phút. Hơn nữa, báo điện tử có ưu điểm là khả năng xã hội hóa các sản phẩm đơn lẻ.
Việc cập nhật theo từng trang tin, chuyên mục có thể được thực hiện bất cứ lúc nào.
Không như các loại hình báo chí khác phải chờ đầy đủ các tin, bài mới lên khuôn in
hay lên chương trình phát sóng.
- Tính tích hợp: Vì là một dịch vụ trên Internet, báo chí xuất bản trên mạng
Internet hội đủ các ưu thế của một mạng máy tính. Tờ báo có thể cung cấp một ngôn

ngữ truyền tải mới lạ hấp dẫn dạng thông tin đa phương tiện. Đó là khả năng kết hợp
ngôn ngữ chữ viết, hỉnh ảnh, âm thanh sống động vào trang báo. Nghĩa là một sự
tổng hợp về báo in, báo hình và báo nói.
- Tính hệ thống: Tiếp theo và mang tính cơ bản là khả năng lưu giữ thông tin
của báo điện tử. Báo điện tử có thế mạnh hơn báo in ở chỗ lưu giữ thông tin một
cách có hệ thống. Báo điện tử cho phép độc giả tìm kiếm thông tin theo chủ đề, theo
thời gian rất tiện lợi so với việc phải vào thư viện tìm số báo đã ra cách đây nhiều
năm về một chủ đề nào đó. Báo điện tử khai thác gần như miễn phí mọi nguồn tin từ


báo chí, từ Internet, chọn lọc những thông tin hấp dẫn nhất tung lên mạng trong một
thời gian rất nhanh.
- Tính tương tác: Khả năng giao lưu, tương tác giữa độc giả và tòa soạn cũng
như tác giả của chính bài báo đó cũng là ưu điểm nổi bật của báo điện tử. Báo điện
tử cho phép sự phản hồi thông tin từ người sử dụng đến tòa soạn báo nhanh chóng,
thuận tiện. Bằng các phương tiện dễ dàng như email hay chatting, cầu nối giữa bên
cung cấp thông tin và bên tiếp nhận thông tin chặt chẽ. Khi làm báo truyền thống,
muốn biết phản hồi từ độc giả, khán giả để cải tiến nội dung, phương thức đưa tin,
cách duy nhất là phải tổ chức các cuộc điều tra dư luận. Điều này phải cần thời gian
dài trong khi đó độ chính xác lại không cao. Nhưng với báo điện tử câu trả lời sẽ là
100% chính xác. Báo điện tử với công nghệ hiện đại, cung cấp các công cụ điều tra
bạn đọc một cách khách quan, nhanh chóng, chính xác.
- Tính kinh tế: Việc xuất bản báo chí trên mạng Internet rất kinh tế. Báo điện
tử không có trọng lượng, nó không bị phụ thuộc vào khoảng cách địa lý, nó không
hạn chế số trang. Với khối lượng thông tin hết sức đồ sộ nhưng báo điện tử lại không
tốn chi phí cho việc in ấn, phát hành. Báo điện tử chỉ có một bản duy nhất cho hàng
trăm triệu độc giả.
* Vai trò của báo điện tử
Báo điện tử có vai trò tạo ra bước ngoặt trong quá trình truyền tin và tiếp
nhận thông tin, làm thay đổi cách làm báo, tăng cường mối quan hệ nhà báo, công

chúng và nguồn tin, góp phần tăng hiệu quả xã hội của báo chí. [4]
Báo điện tử ra đời tạo ra bước ngoặt trong quá trình truyền tin và tiếp nhận
thông tin, dựa trên sự tích hợp ưu thế của các loại hình báo chí truyền thống và của
Internet.
Báo điện tử cung cấp lượng thông tin lớn, cập nhật, hấp dẫn, thu hút sự quan
tâm của nhiều người, đồng thời cũng buộc người tiếp nhận thông tin phải tham gia
tích cực vào quá trình sản xuất ra thông tin và truyền thông tin.


Báo điện tử giúp cho sự giao lưu văn hóa giữa các dân tộc, quốc gia thuận lợi,
mở cánh cửa tri thức cho mọi đối tượng trong xã hội.
Báo điện tử làm thay đổi lớn trong nghề báo. Nhà báo thay đổi phương thức
làm tin, mở rộng các nguồn thông tin: Phóng viên có thể thu thập thông tin ở khắp
nơi một cách nhanh chóng và dễ dàng; thông tin mang chiều sâu bản chất hoặc thông
tin mật từ các tổ chức hoặc chính phủ.
Nhờ khả năng đa phương tiện và tính tương tác cao, báo điện tử đã giúp cho
nhà báo thiết lập mối quan hệ chặt chẽ với công chúng.
Cùng với các phương tiện thông tin đại chúng khác như: Báo in, phát thanh,
truyền hình, báo điện tử ngày càng phát triển, đem lại hiệu quả xã hội to lớn.
1.2. Quá trình hình thành và phát triển các trang thông tin điện tử Phật
giáo
1.2.1. Lịch sử ra đời và sự phát triển của báo điện tử
Lịch sử
Sự ra đời và phát triển của mạng Internet trong những năm đầu của thập niên
90 là một bước tiến vượt bậc của khoa học kỹ thuật. Cả thế giới được liên kết với
nhau thông qua mạng máy tính. Và một trong những thành tựu lớn nhất của Internet
là tiền đề tạo điều kiện cho sự ra đời và phát triển của một loại hình báo mới - Báo
điện tử.
Năm 1973, các nhà nghiên cứu đã hướng tới mô hình một tờ báo điện tử.
Nhưng mãi đến năm 1980 tờ báo điện tử đầu tiên mới xuất hiện. Sự ra đời của báo

điện tử thời kỳ này gặp không ít những khó khăn: Số lượng người đọc báo ít, người
dùng máy tính ít, các khâu trong kỹ thuật gặp trục trặc. Những rào cản đó đã khiến
cho báo điện tử chậm phát triển.
Tuy nhiên, những khó khăn đó đã được khắc phục vào cuối những năm của
thập niên 80 khi các xuất bản phẩm điện tử dưới dạng file ASCIT bắt đầu xuất hiện.


×