TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN
ĐỀ XUẤT MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ
CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 – 6 TUỔI THÔNG QUA GIỜ KỂ
CHUYỆN Ở TRƢỜNG MẦM NON HOA PHƢỢNG,
THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA
Thuộc nhóm ngành khoa học: Khoa học giáo dục
Sơn La, tháng 5 năm 2018
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
BÁO CÁO TỔNG KẾT
ĐỀ TÀI NGHIÊN CỨU KHOA HỌC CỦA SINH VIÊN
ĐỀ XUẤT MỘT SỐ BIỆN PHÁP PHÁT TRIỂN NGÔN NGỮ
CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 – 6 TUỔI THÔNG QUA GIỜ KỂ
CHUYỆN Ở TRƢỜNG MẦM NON HOA PHƢỢNG,
THÀNH PHỐ SƠN LA, TỈNH SƠN LA
Thuộc nhóm ngành khoa học: Khoa học giáo dục
Sinh viên thực hiện:
Nguyễn Vân Anh
Giới tính: Nữ
Dân tộc: Tày
Lò Thị Thu Nga
Giới tính: Nữ
Dân tộc: Thái
Lường Thị Hải
Giới tính: Nữ
Dân tộc: Thái
Hà Thị Dình
Giới tính: Nữ
Dân tộc: Thái
Lớp: K56 ĐHGD Mầm non
Khoa: Tiểu học – Mầm non
Năm thứ 3/Số năm đào tạo: 4
Ngành học: ĐHGD Mầm non
Sinh viên chịu trách nhiệm chính: Nguyễn Vân Anh
Người hướng dẫn: Ths. Khổng Cát Sơn
Sơn La, tháng 5 năm 2018
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
Khoa Tiểu học – Mầm non
THÔNG TIN KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA ĐỀ TÀI
1. Thông tin chung
Tên đề tài: Đề xuất một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
thông qua giờ kể chuyện ở Trường Mầm non Hoa Phượng, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn
La.
Sinh viên thực hiện:
1. Nguyễn Vân Anh
2. Lường Thị Hải
3. Lò Thị Thu Nga
4. Hà Thị Dình
Lớp: K56 ĐHGD Mầm non
Khoa: Tiểu học – Mầm non
Năm thứ: ba
Số năm đào tạo: 4 năm
Người hướng dẫn: Ths. Khổng Cát Sơn
2. Mục tiêu đề tài
- Xác định các câu chuyện đang được thực hiện ở trường mầm non.
- Triển khai hình thức tổ chức hoạt động câu chuyện qua việc soán giáo án nhằm phát
triển ngôn ngữ, qua đó hình thành kỹ năng nói của trẻ mẫu giáo lớn 5 -6 tuổi.
3. Tính mới và sáng tạo
- Đề xuất được các giải pháp và một số câu chuyện giúp trẻ phát triển ngôn ngữ cho trẻ
mâu giáo lớn 5 – 6 tuổi thông qua một số câu chuyện.
4. Kết quả nghiên cứu
- Thực trạng tổ chức các câu chuyện cho trẻ mẫu giáo lớn 5 – 6 tuổi ở trường mầm
non.
- Biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo lớn 5 – 6 tuổi thông qua một số câu
chuyện.
5. Đóng góp về mặt kinh tế - xã hội, giáo dục và đào tạo, an ninh, quốc phòng và
khả năng áp dụng của đề tài:
- Có đóng góp về mặt giáo dục đào tạo.
6. Công bố khoa của sinh viên từ kết quả nghiên cứu của đề tài ( ghi rõ tên tạp chí
nếu có ) hoặc nhận xét, đánh giá của cơ sở đã áp dụng các kết quả nghiên cứu (nếu có):
………………………………………………………….…………………………
………………………………………………………….…………………………
………………………………………………………….…………………………
………………………………………………………….…………………………
………………………………………………………….…………………………
Ngày 08 tháng 05 năm 2018
Sinh viên chịu trách nhiệm chính
(Kí và ghi rõ họ tên)
Nhận xét của ngƣời hƣớng dẫn về những đóng góp khoa học của sinh viên thực
hiện đề tài (phần này do người hướng dẫn ghi):
………………………………………………………….…………………………
………………………………………………………….…………………………
………………………………………………………….…………………………
………………………………………………………….…………………………
………………………………………………………….…………………………
Ngày…..tháng…..năm 2018
Xác nhận của Khoa
(kí và ghi rõ họ, tên)
Ngƣời hƣớng dẫn
TRƢỜNG ĐẠI HỌC TÂY BẮC
Khoa: Tiểu học – Mầm non
THÔNG TIN VỀ SINH VIÊN
CHỊU TRÁCH NHIỆM CHÍNH THỰC HIỆN ĐỀ TÀI
1. SƠ LƢỢC VỀ SINH VIÊN
Họ về tên: Nguyễn Vân Anh
Sinh ngày 18 tháng 06 năm 1997
Nơi sinh: Ngã Ba – Mường Cơi – Phù Yên – Sơn La
Lớp: K56 ĐHGD Mầm non
Khóa: 2015- 2019
Khoa: Tiểu học – Mầm non
Địa chỉ liên hệ: Ngã Ba – Mường Cơi- Phù Yên – Sơn La
Số điện thoại: 01663673027
Email:
2. QUÁ TRÌNH HỌC TẬP (kê khai thành tích của sinh viên từ năm thứ nhất năm
đang học )
* Năm thứ 1:
Ngành học: Giáo dục mầm non Khoa: Tiểu học – Mầm non
Kết quả xếp loại học tập: Khá
Sơ lược thành tích: Giành học bổng khá trong học kì 1.
* Năm thứ 2:
Ngành học: Giáo dục học mầm non Khoa: Tiểu học – Mầm non
Kết quả xếp loại học tập: Khá
Xác nhận của trƣờng Đại học
(Kí tên và đóng dấu)
Ngày
tháng
năm 2018
Sinh viên chịu trách nhiệm
thực hiện đề tài
(Kí, họ và tên)
LỜI CẢM ƠN
Trong suốt quá trình nghiên cứu, thực hiện và hoàn thành đề tài này, chúng em
đã nhận được sự quan tâm, giúp đỡ của các đơn vị tổ chức, phòng NCKH và QHQT,
các thầy cô trong nhà trường cùng với sự giúp đỡ của bạn bè.
Nhân dịp này, chúng em xin bày tỏ lời cảm ơn sâu sắc tới thầy giáo ThS. Khổng
Cát Sơn người đã hướng dẫn và chỉ đạo tận tình cho chúng em trong suốt quá trình
thực hiện đề tài này.
Chúng em xin bày tỏ lời cảm ơn tới các thầy cô trong tổ bộ môn Tiếng Việt,
các thầy cô trong khoa Tiểu học – Mầm non, Trung tâm Thông tin – Thư viện
trường Đại học Tây Bắc đã tạo điều kiện thuận lợi nhất cho chúng em trong suốt
quá trình nghiên cứu và hoàn thành đề tài này.
Chúng em xin gửi lời cảm ơn tới quý thầy cô và học sinh trường Mầm non
Hoa Phượng, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La đã tạo điều kiện cho chúng em thực hiện
và hoàn thành đề tài.
Xin chân thành cảm ơn tới bạn bè, những người luôn động viên, giúp đỡ chúng
em thực hiện đề tài này.
Sơn La, tháng 5 năm 2018
Tác giả
Nguyễn Vân Anh
Lường Thị Hải
Lò Thị Thu Nga
Hà Thị Dình
MỤC LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU ............................................................................................................1
1. Lí do chọn đề tài ..........................................................................................................1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề ...........................................................................................2
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..............................................................................3
3.1. Mục đích nghiên cứu ................................................................................................3
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu ...............................................................................................3
4. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu ................................................................................3
4.1. Phạm vi nghiên cứu ..................................................................................................3
4.2. Đối tượng nghiên cứu ...............................................................................................4
5. Phương pháp nghiên cứu .............................................................................................4
5.1. Phương pháp nghiên cứu lí luận ...............................................................................4
5.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn ...........................................................................4
5.3. Phương pháp thể nghiệm sư phạm ...........................................................................4
6. Giả thuyết khoa học .....................................................................................................4
7. Cấu trúc của đề tài .......................................................................................................4
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU ..............6
1.1. Cơ sở lí luận..............................................................................................................6
1.1.1. Cơ sở ngôn ngữ học ...............................................................................................6
1.1.2. Cơ sở tâm lí học ...................................................................................................11
1.1.3. Đặc điểm tâm lý của trẻ 5- 6 tuổi ........................................................................12
1.1.4. Vai trò của kể chuyện diễn cảm đối với sự phát triển ngôn ngữ của trẻ ....................14
1.2. Cơ sở thực tiễn ........................................................................................................22
1.2.1. Một số câu chuyện thường sử dụng cho trẻ mẫu giáo lớn (5 – 6 tuổi)ở trường
mầm non ........................................................................................................................22
1.2.2. Thực trạng tổ chức giờ học kể chuyện cho trẻ mẫu giáo lớn ..............................23
Tiểu kết chương 1 ..........................................................................................................28
Chƣơng 2: TỔ CHỨC HOẠT ĐỘNG VUI CHƠI CHO TRẺ MẪU GIÁO 5 – 6
TUỔI .............................................................................................................................29
2.1. Tầm quan trọng của câu chuyện đối với sự phát triển ngôn ngữ ...........................29
2.2. Đề xuất một số biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ...........................................30
2.2.1. Sử dụng video trình chiếu mẫu câu chuyện.........................................................30
2.2.2. Sử dụng biện pháp đàm thoại ..............................................................................31
2.2.3 Dạy trẻ kể diễn cảm truyện ...................................................................................36
2.2.4. Biện pháp giảng giải, giải nghĩa từ khó ...............................................................38
2.2.5. Sử dụng phương tiện trực quan trong việc kể chuyện cho trẻ nghe ....................39
2.2.6. Tạo môi trường học tập, rèn luyện cho trẻ ..........................................................42
2.3. Vận dụng phương pháp giáo dục mầm non mới để tổ chức hoạt động kể chuyện 43
2.3.1.Vận dụng quan điểm phát huy tính tích hợp để tổ chức hoạt động kể chuyện ....43
2.3.2. Vận dụng quan điểm tích hợp..............................................................................43
2.3.3. Vận dụng các phương pháp tổ chức hoạt động ...................................................44
Tiểu kết chương 2 ..........................................................................................................46
Chƣơng 3. THỰC NGHIỆM SƢ PHẠM ..................................................................47
3.1. Những vấn đề chung ...............................................................................................47
3.1.1. Mục đích thực nghiệm .........................................................................................47
3.1.2. Đối tượng thực nghiệm và phạm vi thực nghiệm ................................................47
3.1.3. Tiến hành thực nghiệm ........................................................................................47
3.3. Kết quả thể nghiệm .................................................................................................48
Tiểu kết chương 3 ..........................................................................................................51
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ .....................................................................................52
1. KẾT LUẬN ...............................................................................................................52
2. KIẾN NGHỊ ...............................................................................................................53
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Ngôn ngữ có vai trò rất lớn trong đời sống con người. Nhờ ngôn ngữ mà con
người có thể trao đổi với nhau những hiểu biết, truyền cho nhau những kinh nghiệm,
tâm sự với nhau những nỗi niềm thầm kín.
Ngôn ngữ tồn tại và phát triển cùng với sự phát triển của xã hội loài người.
Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp giữa con người với con người trong xã hội. Bằng
ngôn ngữ, con người có thể nắm được tri thức, kĩ năng, thành tựu khoa học,lịch sử con
người. Nhờ ngôn ngữ mà con người khác so với động vật. Ngôn ngữ được mở rộng
trong quá trình sống. Ngôn ngữ liên quan đến mọi khía cạnh của đời sống nên được
biểu hiện ở nhiều góc độ khác nhau. Nhờ có ngôn ngữ mà con người gần gũi, hòa nhập
hơn.
Ngôn ngữ là cơ sở của mọi sự suy nghĩ và là công cụ của tư duy. Trẻ em có nhu
cầu rất lớn trong việc nhận thức thế giới xung quanh. Đặc biệt, sự phát triển ngôn ngữ
trong những năm đầu đời của trẻ có vai trò rất quan trọng đối với khả năng tư duy,
nhận thức và giao tiếp cũng như toàn bộ quá trình phát triển sau này của trẻ.Ngôn ngữ
là phương tiện để trẻ điều khiển thái độ, hành vi, đạo đức giúp trẻ lĩnh hội giá trị đạo
đức mang tính chuẩn mực.
Trẻ càng lớn nhu cầu hiểu biết cành nhiều, đặc biệt là trẻ ở độ tuổi mẫu giáo
nhỡ (5 - 6 tuổi) trẻ đang cần được học một cách chính xác. Ở độ tuổi này trẻ rất thích
được nói và với tần số nói của trẻ tăng đáng kể, mặc dù trẻ còn mắc một số lỗi sai về
ngôn ngữ. Đây là thời điểm khá thuận lợi giúp trẻ rèn luyện phát âm chuẩn và phát
triển cho trẻ hoàn thiện hơn.
Như chúng ta đã biết, trẻ mầm non nói chung và trẻ 5- 6 tuổi nói riêng rất nhạy
cảm với nghệ thuật ngôn từ. Âm điệu, hình tượng của các bài hát, bài ru, đồng dao, ca
dao, dân ca sớm đi vào tâm hồn tuổi thơ. Những câu chuyện cổ tích, thần thoại đặc
biệt hấp dẫn trẻ. Chính vì vậy cho trẻ tiếp xúc với văn học và đặc biệt là hoạt động dạy
trẻ kể chuyện là con đường phát triển ngôn ngữ cho trẻ tốt nhất và hiệu quả nhất.
Thông qua giờ kể chuyện giúp trẻ phát triển năng lực tư duy, óc tưởng tượng
sáng tạo, biết yêu quý cái đẹp, hướng tới cái đẹp. Khi trẻ kể chuyện, ngôn ngữ của trẻ
phát triển, trẻ phát âm rõ ràng mạch lạc, vốn từ phong phú. Trẻ biết trình bày ý kiến,
suy nghĩ, kể về một số sự vật hay sự kiện nào đó bằng chính ngôn ngữ của trẻ.
1
Việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ là một trong những mục tiêu phát triển toàn
diện cho trẻ mầm non. Do vậy giáo viên dạy trẻ mầm non nói chung, dạy trẻ 5 - 6 tuổi
nói riêng, tôi nhận thức rõ được tầm quan trọng trong việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ
đặc biệt là thông qua hoạt động kể chuyện. Chính vì vậy chúng tôi là nhưng người giáo
viên mầm non tương lai, chúng tôi nhận thấy việc “Đề xuất một số biện pháp phát
triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo 5 - 6 tuổi thông qua giờ kể chuyện ở trường Mầm non
Hoa Phượng, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La” là một việc rất thiết thực và có ý nghĩa.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Ngôn ngữ có vai trò quan trọng trong đời sống con người. Nó là kho tàng trí tuệ
của con người, tồn tại và phát triển cùng con người. Có biết bao công trình được tỏa
sáng nhờ ngôn ngữ. Bởi vậy ngôn ngữ là vấn đề mà rất nhiều nhà khoa học từ các lĩnh
vực khác nhau như: tâm lí học, triết học, xã hội học, ngôn ngữ học, giáo dục học đi sâu
tìm tòi nghiên cứu và đạt được những thành tựu đáng kể. Trong đó phải kể đến những
công trình nghiên cứu V.X. MuKhina, ErikErickson, John B. Watson, A. B.
Zaporojets, M.M. konxova,…
* V. X MuKhina với Tâm lí học mẫu giáo: MuKhina nghiên cứu về tâm lí trẻ
em trong độ tuổi mẫu giáo, để thấy sự phát triển tâm lí trẻ em qua các giai đoạn trong
độ tuổi mẫu giáo nhằm giúp nhà nghiên cứu đưa ra biện pháp phát triển toàn diện cho
trẻ dựa trên cơ sở tâm lí của trẻ.
* Erik Erickson với Trẻ em và xã hội nghiên cứu về sự phát triển của trẻ em,
cách đối xử và giáo dục trẻ.
* John B. Watson với Chăm sóc sức khỏe cho trẻ sơ sinhvà trẻ nhỏ từ khi mới
sinh và cách chăm sóc chúng.
*A. B. Zaporojets với Cơ sở tâm lí học của giáo dục mẫu giáo những nghiên
cứu chuyên biệt của trẻ nhỏ từ mới sinh đến 6 tuổi.
* M. M. konxova với Dạy nói cho trẻ trước tuổi đi học đưa ra các hình thức
biện pháp để dạy trẻ nói trước khi vào tuổi đi học. Tác phẩm đã giúp các nhà nghiên
cứu, các bậc phụ huynh có những định hướng và chọn lựa cho mình biện pháp dạy nói
phù hợp với từng trẻ.
Ở Việt Nam vấn đề phát triển ngôn ngữ cho trẻ cũng được đông đảo các nhà
giáo dục quan tâm và đi vào nghiên cứu.
2
Các tác giả Hoàng Kim Oanh, Phạm Thị Việt, Nguyễn Kim Đức với Phương
pháp phát triển ngôn ngữ, đưa ra các phương pháp giúp trẻ tăng vốn từ nhằm định
hướng để chúng ta đưa ra các biện pháp giúp trẻ phát triển và hoàn thiện ngôn ngữ.
Các tác giả Nguyễn Ánh Tuyết, Phạm Hoàng Gia, Đoàn Thị Tâm với Tâm lí
của trẻ em lứa tuổi mầm non đã nghiên cứu sự phát triển tâm lí trẻ qua các giai đoạn
lứa tuổi để từ đưa ra biện pháp phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Luận án Phó Tiến sĩ của Lưu Thị Lan: Những bước phát triển ngôn ngữ của trẻ
từ 1-6 tuổi.
Luận án TS. Nguyễn Thị Oanh với đề tài: Cơ sở của việc tác động sư phạm đến sự
phát triển ngôn ngữ của trẻ em mầm non và nhiều công trình khác nữa. Những công trình
nghiên cứu này đã dựa vào đặc điểm phát triển tâm sinh lí và ngôn ngữ của trẻ. Đó là những
đóng góp vĩ đại trên phương diện lí luận và thực tiễn.Song nghiên cứu về việc phát triển
ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo 5 -6 tuổi chưa nhiều và chưa thực sự chuyên sâu.
3.Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1.Mục đích nghiên cứu
Qua tìm hiểu về đặc điểm các câu chuyện với sự phát triển của trẻ mẫu giáo
lớn(5 – 6 tuổi) và sự phát triển tâm lí của trẻ mầm non, chúng tôi đề xuất một số biện
pháp, quy trình tổ chức giờ học kể chuyện nhằm nâng cao hiệu quả của việc phát triển
ngôn ngữ cho trẻ ở trường mầm non.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Tìm hiểu một số cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn có liên quan đến vấn đề
nghiên cứu và khảo sát thực trạng trẻ mẫu giáo lớn (5 – 6 tuổi) ở trường mầm non.
- Xây dựng một số biện pháp phát triển ngôn ngữ thông qua giờ kể chuyện cho
trẻ mẫu giáo lớn (5 – 6 tuổi).
- Tổ chức thể nghiệm để ứng dụng tính khả thi của các biện pháp phát triển
ngôn ngữ thông qua giờ học kể chuyện cho trẻ mẫu giáo lớn 5 – 6 tuổi mà đề tài
nghiên cứu.
- Xử lí kết quả nghiên cứu.
4. Phạm vi và đối tƣợng nghiên cứu
4.1. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tiến hành điều tra trẻ mẫu giáo lớn (5 – 6 tuổi) ở trường mầm non Hoa
Phượng, thành phố Sơn La, tỉnh Sơn La.
3
4.2. Đối tượng nghiên cứu
Phát triển ngôn ngữ cho trẻ 5 – 6 tuổi thông qua giờ kể chuyện.
5. Phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Phƣơng pháp nghiên cứu lí luận
Đọc sách báo và thu thập tài liệu liên quan đến vấn đề đang nghiên cứu để xây
dựng cơ sở lí luận cho đề tài.
5.2. Phƣơng pháp nghiên cứu thực tiễn
- Dùng phiếu điều tra Anket để điều tra kết hợp trao đổi thông tin có liên quan
đến vấn đề nghiên cứu với các giáo viên ở trường mầm non, nhằm phát triển ngôn ngữ
cho trẻ mầm non thông qua giờ học kể chuyện.
- Sử dụng phương pháp quan sát nhằm quan sát những hoạt động của trẻ để đưa
ra các phương pháp hợp lí đối với sự phát triển tâm sinh lí cúa trẻ mẫu giáo.
- Sử dụng phương pháp thống kê toán học.
5.3. Phƣơng pháp thể nghiệm sƣ phạm
Sử dụng phương pháp tác động đến 1 nhóm trẻ được chọn để thực nghiệm.
6. Giả thuyết khoa học
Qua việc khảo sát trên thực tế cùng với việc nghiên cứu lí luận chúng tôi nhận
thấy mức độ phát triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo lớn (5 – 6 tuổi) ở trường mầm non
hiện nay đang từng bước phát triển. Tuy nhiên vẫn còn nhiều hạn chế như: còn chưa
gây được hứng thú cho trẻ, eo hẹp về thời gian tổ chức hoạt động giờ học nên chưa đạt
được hiệu quả cao. Bởi vậy, các biện pháp trong đề tài mang tính khả thi sẽ góp phần
nâng cao hiệu quả của việc phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông qua giờ học kể chuyện,
góp phần vào sự nghiệp đổi mới giáo dục.
7. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, nội dung đề tài
gồm 3 chương:
Chương I: Cơ sở lí luận và thực tiễn vấn đề nghiên cứu
Chương này chúng tôi đề cập đến những cơ sở lí luận về ngôn ngữ của trẻ mẫu
giáo, cụ thể là trẻ mẫu giáo lớn (5 – 6 tuổi), đặc biệt phát triển ngôn ngữ cho trẻ thông
qua giờ học kể chuyện.
Chương II: Tổ chức hoạt đông vui chơi cho trẻ mẫu giáo 5 – 6 tuổi
4
Chương này chúng tôi đã xây dựng một số biện pháp, quy trình vận dụng về
phương pháp kể chuyện hay, diễn cảm để phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
Chương III: Thực nghiệm sư phạm
Đề tài thiết kế một sô biện pháp để ứng dụng nhằm phát triển ngôn ngữ cho trẻ
thông qua một số giờ học kể chuyện nhằm chứng minh tính khả thi của biện pháp phát
triển ngôn ngữ cho trẻ.
5
Chƣơng 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Cơ sở ngôn ngữ học
1.1.1.1.Khái niệm và đặc điểm của ngôn ngữ
Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu đặc biệt gồm các âm, các từ, các quy tắc kết
hợp một cộng đồng dân tộc dùng làm phương tiện giao tiếp cơ bản quan trọng nhất của
các thành viên trong một cộng đồng người, đồng thời ngôn ngữ cũng là phương tiện
phát triển tư duy, truyền đạt đời sống văn hóa - lịch sử từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Ngôn ngữ tạo ra những con người có linh hồn. Ngôn ngữ có vai trò đặc biệt quan trọng
trong việc hình thành nên tư duy, nhân cách của con người, thúc đẩy quá trình tự điều
chỉnh hoạt động của chính bản thân mình. Đối với trẻ em, ngôn ngữ là cầu nối để trẻ
đến với thế giới của nhân loại. Trong quá trình nhận thức sự vật và hiện tượng, trẻ phải
dùng lời nói để nói lên những suy nghĩ cũng như cảm tưởng của mình về những vấn đề
đó. Trẻ có nhu cầu rất lớn trong việc nhận thức thế giới xung quanh, mong muốn hòa
nhập với xã hội của loài người.
a. Các bộ phận của ngôn ngữ
Ngôn ngữ gồm ba bộ phận: ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp hệ thống các quy tắc, quy
định sự ghép các bộ phận thành câu. Trong kết cấu ngôn ngữ, từ vựng thuộc vào ngoại
biên về nghĩa vì nó trực tiếp gọi tên các sự vật hiện tượng thực tế, còn ngữ âm phụ
thuộc vào ngoại biên về chất liệu vì nó trực tiếp được tích lũy bởi các giác quan của
con người. So với ngữ âm và từ vựng thì ngữ pháp luôn luôn là gián tiếp, không có
tính chất cụ thể. Nó chỉ liên hệ với thực tế thông qua từ vựng, chỉ lĩnh hội được thông
qua ngữ âm. Vì vậy, ngữ pháp chiếm vị trí trung tâm trong kết cấu ngôn ngữ.
b. Các đơn vị của ngôn ngữ
* Âm vị: Âm vị là đơn vị ngữ âm nhỏ nhất mà người ta có thể phát âm ra được
trong chuỗi lời nói. Ví dụ như âm r, t, h,…hoàn toàn không thể chia nhỏ chúng hơn.
Âm vị có chức năng nhận cảm và chức năng phân biệt nghĩa.
Ví dụ: “ Hổ” là một loài động vật ăn thịt, sống trong rừng, còn “ Rổ” là một vật
dụng dùng để dùng trong gia đình. Cái làm ta phân biệt được hai nghĩa đó không phải
là bộ phận ngữ âm trùng nhau (ổ) mà là do đối lập giữa “h” và “r”.
*Hình vị: là một hoặc chuỗi kết hợp vài âm vị biểu thị một khái niệm. Nó là
đơn vị nhỏ nhất có nghĩa. Chức năng của hình vị là chức năng ngữ nghĩa. Hình vị
6
thường có cấu tạo một âm tiết, tức là mỗi hình vị được viết thành một chữ. Hình vị
trong Tiếng Việt có thể đóng vai như một từ nhưng nó không phải là từ gồm hình vị
và âm tiết.
* Từ là chuỗi kết hợp của một hoặc một vài hình vị mang chức năng gọi tên và
chức năng ngữ nghĩa.
* Câu là chuỗi kết hợp của một hay nhiều từ, chức năng của nó là thông báo.
c. Chức năng của ngôn ngữ
* Ngôn ngữ là công cụ để phát triển tư duy, nhận thức. Quá trình hình thành của
trẻ bên cạnh thể chất là trí tuệ. Công cụ để phát triển tư duy, trí tuệ là ngôn ngữ.
Ngôn ngữ chính là hiện thực của tư duy. Chức năng giáo tiếp của ngôn ngữ gắn liền
với chức năng thể hiện tư duy của nó bởi vì việc giao tiếp ngôn ngữ chỉ có thể giúp
ta trao đổi tư tưởng, tình cảm với nhau. Do đó hiểu biết lẫn nhau và cùng tổ chức
công tác trung trên mọi lĩnh vực hoạt động nếu bản thân ngôn ngữ tàng trữ kinh
nghiệm, tư tưởng, tình cảm của con người. Chức năng thể hiện tư duy của ngôn ngữ
thể hiện ở hai khía cạnh:
+ Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư tưởng. Không có từ nào, câu nào mà lại
không biểu hiện khái niệm hay tư duy. Ngược lại không có ý nghĩa tư tưởng nào
không tồn tại dưới dạng ngôn ngữ.
+ Ngôn ngữ trực tiếp tham gia vào quá trình hình thành tư tưởng. Mọi ý nghĩ, tư
tưởng chỉ trở nên rõ ràng khi được biểu hiện bằng ngôn ngữ, không có ngôn ngữ thì
không có tư duy và ngược lại.
+ Ngôn ngữ là công cụ để trẻ học tập, vui chơi: đây là những hoạt động chủ yếu
ở trường mầm non, trẻ học để biết tiếng mẹ đẻ đồng thời sử dụng nó như một công cụ
để học tập. Như vậy, ngôn ngữ cần thiết cho tất cả các hoạt động và ngược lại, hoạt
động tạo cho ngôn ngữ trẻ phát triển.
*Ngôn ngữ là công cụ giao tiếp
Nhờ có ngôn ngữ mà con người hiểu được nhau, cùng nhau hành động vì mục
đích chung. Không có ngôn ngữ không thể giao tiếp được, thậm chí không thể tồn tại
được, nhất là trẻ em. Chính nhờ ngôn ngữ mà con người có thể hiểu nhau trong quá
trình sinh hoạt và lao động, mà người ta có thể diễn đạt làm cho người khác hiểu biết
lẫn nhau, con người mới đồng tâm hiệp lực làm cho xã hội ngày càng tiên tiến.
7
d. Các loại ngôn ngữ
* Ngôn ngữ nói
Bắt đầu từ tháng thứ 12 trở đi, ở trẻ sẽ xuất hiện những âm bập bẹ có ý nghĩa
đầu tiên và ngay lập tức trẻ huy động chúng vào gián tiếp với người lớn. Sau đó các
âm bập bẹ nhanh chóng mất đi, nhường chỗ cho các từ tham gia vào cấu tạo câu trong
giao tiếp. Trẻ tích cực hơn thường giao tiếp và sử dụng ngôn ngữ để giao tiếp. Nhu cầu
giao tiếp tăng lên thúc đẩy hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, kết quả là những kĩ
năng giao tiếp ngôn ngữ được hình thành.
*Ngôn ngữ viết
Trẻ luyện viết là hoạt động hứng thú và tự giác. Chính vì vậy, khi dạy viết cho
trẻ quan trọng nhất là giải thích để trẻ hiểu được mục đích của việc luyện viết. Giáo
viên mầm non chỉ khuyến khích cho trẻ nhận thức được tầm trọng của chữ viết. Trẻ sẽ
tự giác ngồi vào vẽ chữ, khi bắt đầu có hứng thú với chữ viết, cô nên chuẩn bị dụng cụ
để giúp trẻ luyện viết tại góc học tập.
1.1.1.2. Vai trò của ngôn ngữ đối với sự phát triển của trẻ
* Ngôn ngữ là phương tiện hình thành và phát triển nhận thức của trẻ về thế
giới xung quanh.
Trong quá trình nhận thức những sự vật và hiện tượng, trẻ phải sử dụng từ ngữ
để phân biệt được vật này với vật khác, biết được tên gọi, màu sắc, hình dạng, công
dụng và những thuộc tính cơ bản của vật. Trẻ tiếp thu kiến thức từ môi trường xung
quanh thông qua khả năng phân tích, so sánh, tổng hợp, trên cơ sở đó trẻ khái quát về
vật. Trẻ không chỉ nhận biết các sự vật hiện tượng xung quanh gần gũi, mà còn tìm
hiểu những sự vật hiện tượng không xuất hiện trực tiếptrước mắt trẻ, những sự vật xảy
ra trong quá khứ, tương lai. Như vậy, ngôn ngữ không chỉ giúp cho trẻ củng cố kiến
thức mà còn mở rộng biết về thế giới xung quanh.
Hầu như trẻ thơ đều có một tâm hồn nhạy cảm. Đối với các em, thế giới xung
quanh chứa đựng biết bao nhiêu điều mới lạ, hấp dẫn như trong những cái tưởng
chừng bình thường và giản dị thì các em cũng phát hiện ra những điều lí thú. Ngôn
ngữ giúp trẻ tìm hiểu về chính mình, về con người và khám phá những sự vật xung
quanh cũng như biến cố xảy ra trong cuộc sống, hay các hiện tượng xung quanh như
nắng, mưa, nóng, lạnh,… Qua đó trẻ có thể nhận biết về môi trường xung quanh. Nhờ
có ngôn ngữ trẻ nhận biết được ngày càng nhiều các sự vật, hiện tượng từ đơn giản đến
8
phức tạp mà trẻ được tiếp xúc trong cuộc sống hàng ngày, giúp trẻ hình thành, phát
triển phong phú các biểu tượng về thế giới xung quanh.
Ngôn ngữ và tư duy có mối quan hệ mật thiết với nhau. Cả hai cùng song song
tồn tại và phát triển. Ngôn ngữ là phương tiện giúp trẻ hình thành và phát triển tư duy.
Ngôn ngữ được phát triển dần theo lứa tuổi, điều đó sẽ giúp trẻ không chỉ tìm hiểu
những hiện tượng, sự vật, gần gũi xung quanh mà có thế tìm hiểu những hiện tượng,
sự vật không xuất hiện trước mắt trẻ, những sự việc xảy ra trong quá khứ và tương lai.
Trẻ hiểu được những lời giải thích, sự gợi ý của người lớn, biết so sánh, khái quát và
dần dần hiểu được bản chất của sự vật, hiện tượng, hình thành những khái niệm sơ
đẳng. Sự hiểu biết của trẻ về thế giới xung quanh ngày càng rộng lớn.
Ngôn ngữ là công cụ để trẻ hoạt động và vui chơi, nhận thức về thế giới xung
quanh một cách phong phú hơn. Khi tham gia vào kể chuyện, trẻ sử dụng ngôn ngữ để
giao tiếp với bạn, trao đổi phân vai trong câu chuyện và quá trình này không thể thiếu
vai trò của ngôn ngữ. Trẻ bộc lộ suy nghĩ của mình với các bạn và nghe ý kiến của bạn
để đi đến thỏa thuận trong vai kể chuyện. Qua đó ngôn ngữ của trẻ được phát triển,
khả năng tư duy và trí tưởng tượng của trẻ cũng phát triển.
*Ngôn ngữ là phương tiện để phát triển tình cảm, đạo đức, thẩm mĩ.
Ngôn ngữ đóng vai trò rất lớn trong việc điều chỉnh những hành vi và việc làm
của trẻ. Trong giao tiếp hàng ngày, thông qua kể chuyện, ca dao, đồng dao trẻ cảm
nhận được cái hay, cái đẹp trong ngôn ngữ tiếng mẹ đẻ, cái đẹp trong hành vi, trong
cuộc sống.
Khi giao tiếp với người lớn, trẻ tiếp nhận được những sắc thái tình cảm khác
nhau. Qua nét mặt, giọng nói, ngữ điệu, ngữ nghĩa chứa đựng trong các từ, các câu
nói, dần dần trẻ cũng biết thể hiện những cảm xúc khác nhau của mình. Trong giao
tiếp, người lớn luôn hướng dẫn, uốn nắn hành vi của trẻ bằng lời nói, nét mặt, nụ cười,
giúp trẻ có thể nhận ra hành vi của mình là đúng hay sai. Bằng cách đó, ở trẻ dần dần
hình thành những thói quen tốt và học được cách ứng xử đúng đắn. Người lớn có thể
khen trẻ khi trẻ làm đúng hoặc tốt, cổ vũ, động viên kịp thời cho những hành vi đúng
đắn của trẻ. Khi trẻ làm sai, người lớn tỏ vẻ không bằng lòng bằng ánh mắt, nét mặt,
điệu bộ, kèm theo lời nói nghiêm túc thì trẻ sẽ nhận thức được cái sai của mình và sửa
sai.
9
Đặc biệt là qua lời ru, mẹ đã dạy cho con nghệ thuật âm nhạc, thơ ca dân tộc để
con biết yêu vẻ đẹp của thiên nhiên, yêu quê hương, đất nước, yêu bà con làng xóm,
truyền cho con những ý niệm cơ bản về thiện ác. Ngay cả những lúc nựng con thì đây
là cuộc trò chuyện đằm thắm nhất, đầy yêu thương và lòng tin cậy, trong đó người mẹ
đã nói với con bằng cả tấm lòng.
Ngôn ngữ có ý nghĩa quyết định đối với sự phát triển trí tưởng tượng của trẻ.
Nó tác động có mục đích, có hệ thống nhằm phát triển ở trẻ năng lực cảm thụ cái đẹp
và hiểu đúng đắn cái đẹp trong tự nhiên, đời sống, xã hội, trong nghệ thuật.
Khi trẻ thường xuyên tiếp xúc với văn học như thơ, truyện, ca dao, đồng dao,…
trẻ sẽ được chìm vào thế giới đa màu sắc với biết bao nhiêu loại người khác nhau. Tâm
hồn của các em sẽ được mở rộng, trí tưởng tượng được kích thích mạnh mẽ, thôi thúc
các em muốn khám phá những điều kì lạ và lí thú trong các câu chuyện hết sức hấp
dẫn. Những câu thơ giàu hình ảnh, nhạc điệu, những bài đồng dao ngộ nghĩnh có điệp
khúc hấp dẫn, dễ nhớ khiến trẻ muốn đọc theo và sẽ nhớ rất lâu. Đây là thời cơ thuận
lợi để trẻ tiếp xúc với ngôn ngữ văn học. Điều này giúp trẻ phát triển trí tưởng tượng,
nó giúp trẻ sáng tạo những cái mới, hình thành những ước mơ táo bạo, những hoài bão
về cuộc sống tương lai.
*Ngôn ngữ là công cụ giúp trẻ hòa nhập với cộng đồng và trở thành thành viên
của cộng đồng.
Ngay từ lúc đầu, đứa trẻ không thể cảm nhận những gì diễn ra xung quanh
nó.Để thỏa mãn sự hiểu biết đó mà nó thường đặt ra hàng vạn câu hỏi cho bố mẹ và
mọi người xung quanh. Vì thế, người lớn trở thành chiếc cầu nối trẻ với cộng đồng,
với thế giới thông qua ngôn ngữ. Và điều đó đã giúp trẻ hòa nhập hơn với mọi
người xung quanh.
*Vai trò của ngôn ngữ đối với việc giáo dục thể lực cho trẻ.
Trong cuộc sống hàng ngày, cô giáo và người lớn đã dùng ngôn ngữ của mình
để hướng dẫn chỉ bảo trẻ thực hiện tốt các yêu cầu do mình đề ra góp phần làm cho cơ
thể trẻ phát triển. Giáo dục thể lực cho trẻ em là quá trình tác động chủ yếu vào cơ thể
trẻ, việc vận động, rèn luyện cơ thể, giữ gìn vệ sinh và có chế độ sinh hoạt hợp lí,
nhằm bảo vệ và làm cho cơ thể trẻ phát triển một cách hài hòa, cân đối, sức khỏe được
tăng cường đạt đến trạng thái hoàn thiện về mặt thể chất.
10
Ngoài ra, trẻ còn phải được ăn ngon, ăn đủ chất, đủ lượng, có chế độ nghỉ ngơi
hợp lí thì cơ thể mới phát triển tốt được.
1.1.2. Cơ sở tâm lí học
Sự phát triển vốn từ của trẻ mẫu giáo:
Theo nghiên cứu của tác giả Nguyễn Xuân Khoa trong “Phương pháp phát
triển ngôn ngữ cho trẻ mẫu giáo”, trẻ từ 12 đến 18 tháng đã bắt chước người lớn lặp
lại những từ nghe được: bà, bố, mẹ, măm,… Số lượng từ có thế đạt từ 30 đến 40 từ.Trẻ
từ 4 tuổi, vốn từ đã đạt tới hơn 1000 từ.
Như vậy, xét về mặt số lượng, trẻ càng lớn vốn từ càng tăng. Vốn từ của trẻ
phát triển mạnh ở tuổi lên 3. Xét về mặt cơ cấu từ loại, số lượng từ là danh từ chiếm số
lượng nhiều nhất (50%), động từ (27%), tính từ (11%), còn lại các từ khác (trạng từ,
đại từ, số từ,…). Những từ được trẻ sử dụng chủ yếu là các từ mà trẻ thường xuyên
tiếp xúc, là những từ chỉ những việc làm của trẻ hoặc mọi người xung quanh (ăn, ngủ,
tắm,… ) hoặc là nhưng từ chỉ hành động của những con vật (gà mổ thóc, chó cắn, cá
bơi, mèo cào,…).
Sự phát triển ngôn ngữ của trẻ mẫu giáo lớn:
+ Vốn từ: vốn từ của trẻ mẫu giáo lớn tăng lên đáng kể. Trẻ nắm được khoảng
3000 – 4000 từ vào cuối tuổi lên 5. Trẻ mẫu giáo lớn đã thường xuyên sử dụng khoảng
1033 từ. Trong đó loại từ được tích lũy khá phong phú không những về danh từ, động
từ mà cả về đại từ, tính từ, liên từ… Danh từ và động từ vẫn chiếm ưu thế nhưng tính
từ và các loại từ khác cũng được trẻ sử dụng nhiều hơn. Có thể nói rằng, trẻ đã nắm
được các loại từ có trong tiếng mẹ đẻ và đủ để trẻ có thể diễn đạt các mặt trong đời
sống hàng ngày. Khả năng nắm bắt nghĩa của các từ phát triển hơn… Các từ chỉ tính
chất không gian (rộng lớn, mênh mông,.. ); từ chỉ tốc độ (nhanh, chậm dần,…); từ chỉ
màu sắc (xanh, nhạt, phơn phớt hồng,…) đã được trẻ sử dụng chính xác. Ngoài ra, các
loại từ khác như đại từ, trạng từ, quan hệ phụ từ, phụ từ cũng được trẻ sử dụng nhiều
hơn các lứa tuổi trước.
+ Trẻ đã nắm được ngữ âm và ngữ điệu khi sử dụng ngôn ngữ: Do việc giao
tiếp bằng ngôn ngữ được mở rộng, thính giác của trẻ được rèn luyện thường xuyên để
tiếp nhận các ngữ âm khi nghe người lớn nói cơ quan phát âm đã trưởng thành mà trẻ
11
có thể phát ra âm chuẩn, kể cả những âm khó của tiếng mẹ đẻ như “quềnh
quàng”,”khúc khuỷu”…
+ Nắm cơ cấu ngữ pháp: Với điều kiện sống và giáo dục tốt, trẻ em ở cuối tuổi
mẫu giáo (5 – 6 tuổi) đã có thể sử dụng ngữ pháp của tiếng mẹ đẻ một cách thành
thạo, mặc dù quá trình đó diễn ra không có ý thức, khác với quá trình học ngữ pháp
một cách có ý thức ở trường phổ thông. Điều đó được thể hiện trong câu nói của trẻ
có cấu trúc ngữ pháp phức tạp, nội dung biểu hiện cũng phong phú hơn nhiều so
với lứa tuổi trước.
1.1.3. Đặc điểm tâm lý của trẻ 5- 6 tuổi
1.1.3.1. Trẻ em rất giàu xúc cảm, tình cảm
Cảm xúc là những rung cảm xảy ra nhanh chóng, nhưng mạnh mẽ và rõ rệt hơn
so với màu sắc xúc cảm của cảm giác. Nó mang tính chất khái quát và được chủ thể ý
thức ít nhiều rõ rệt hơn với màu sắc, xúc cảm của cảm giác.
Tình cảm là những thái độ thể hiện sự rung cảm của con người đối với những
sự vật, hiện tượng có liên quan tới nhu cầu và động cơ của họ.
Xúc cảm, tình cảm là nét tâm lý nổi bật của trẻ thơ, đặc biệt là trẻ lứa tuổi mẫu
giáo. Nhìn chung ở lứa tuổi này, tình cảm thống trị tất cả các mặt trong hoạt động tâm
lý của trẻ. Chính vì vậy mà nhận thức của trẻ cũng mang đậm màu sắc cảm xúc. Trẻ
luôn có nhu cầu được người xung quanh. Lứa tuổi này đặc biệt nhạy cảm trước sự thay
đổi của thế giới xung quanh và xúc động, ngỡ ngàng trước những đều tưởng chừng rất
đơn giản. Một bông hoa nở, một chiếc lá rơi, một con kiến tha mồi hay một đêm trăng
sáng,… cũng có thể làm trẻ xúc động một cách sâu sắc. Chính đặc điểm đẹp đẽ nhạy
cảm này làm cho trẻ khi nghe kể chuyện có thể dễ dàng hóa thân vào nhân vật trong
tác phẩm. Chúng có thể cười, có thể khóc, có thể sung sướng hay tức giận trước những
chi tiết, sự kiện của tác phẩm, những tình huống mà nhân vật gặp phải. Đó là phản ứng
hết sức tự nhiên, biểu thị trạng thái tâm lý chưa ổn định dễ dao động trước những tác
động bên ngoài. Những phản ứng này tương đồng với nội dung của tác phẩm và nó trở
nên mạnh mẽ nếu có sự đồng cảm của người lớn. Chính vì vậy, ngôn ngữ, giọng điệu,
ngữ điệu hoặc những cử chỉ, điệu bộ của người đọc, kể tác phẩm văn học cho người
nghe là vấn đề hết sức quan trọng. Việc cho trẻ tiếp cận với tác phẩm văn học, ngoài
kiến thức còn tạo cho trẻ một năng lực cẩm nhận cái đẹp, một thái độ cảm nhận cuộc
sống – một phong cách sống.
12
Trẻ càng lớn tình cảm sẽ dần ổn định, sự hiểu biết của trẻ sẽ phong phú, phức
tạp dần theo mối quan hệ và những hiểu biết về thế giới xung quanh. Chính vì vậy, từ
những xúc cảm, tình cảm được nảy sinh trong quá trình cảm thụ văn học trẻ sẽ biết yêu
thương mọi người cũng như vạn vật xung quanh.
Các tác phẩm truyện nói lên niềm vui, nỗi buồn của nhân vật làm cho trẻ hồi
hộp, cảm động như chính đó là niềm vui nỗi buồn của bản thân trẻ. Cùng với những
cảm xúc trong các tác phẩm truyện, trẻ cảm thấy cái cảm giác hồi hộp trong những
giây phút căng phẳng, cảm giác bằng lòng, khoan khoái, gây cho trẻ niềm vui và sự
hứng thú.
Thế giới truyện luôn bắt đầu từ những cảnh quen thuộc, gần gũi với cuộc sống
hàng ngày của trẻ. Đó là những hình ảnh rất quen thuộc của làng quê Việt Nam, thiên
nhiên trong truyện mầm non là một thiên nhiên trong trẻo kì diệu và đầy chất thơ.
Có thể tìm thấy trong các tác phẩm văn chương những từ ngữ chính xác biểu
cảm, những câu chuyện có nhịp điệu uyển chuyển, những bức tranh thiên nhiên đầy
màu sắc.
Du ngoạn trong thế giới truyện giúp trẻ phát triển trí tưởng tượng,kích thích tư
duy sáng tạo, giáo dục tinh thần nhân đạo, tinh thần đấu tranh, bảo vệ người tốt và
trừng phạt kẻ xấu,… Quả thật các tác phẩm truyện đến với tâm hồn trẻ như một sự tự
nhiên tất yếu, nó là những tình cảm trong trẻo hồn nhiên nhất, đồng thời cũng rất chân
thành và mãnh liệt.
Viết về thiên nhiên không chỉ là để nói về thiên nhiên. Dưới cái nhìn của tác
giả, hầu như tất cả các hình ảnh về giới tự nhiên đều là biểu trưng cho tinh thần đấu
tranh, lao động sản xuất của con người nông thôn.
Các tác phẩm truyện còn đem đến cho các em tình cảm nồng hậu đối với ông
bà, cha mẹ, anh em, bạn bè, thầy cô, với những người lao động vất vả, với những chú
bộ đội,…
1.1.3.2. Trẻ rất giàu trí tƣởng tƣợng
Tưởng tượng là một quá trình tâm lí phản ánh những cái chưa từng có trong
kinh nghiệm của mỗi cá nhân bằng cách xây dựng những hình ảnh mới trên cơ sở
những biểu tượng đã có.
13
Không bao giờ tác giả nhìn sự vât một cách đơn giản nhất, trần trụi mà luôn
luôn phát hiện ra những mối liên hệ của chúng hoặc liên tưởng tới những hình ảnh
tương đồng khác để từ đó khái quát lên một cái gì đó cao hơn.
Nét nổi bật trong tâm lí của trẻ lứa tuổi mẫu giáo là sự phong phú về trí tưởng
tượng. Sức tưởng tưởng của các em dường như vô bờ bến. Chúng dùng trí tưởng tượng
để khám phá thế giới và thỏa mãn nhu cầu nhận thức của mình. Trí tưởng tượng là một
phần quan trọng của quá trình tâm lí, nó góp phần tích cực vào hoạt động tư duy và
nhận thức của trẻ. Theo nghiên cứu của các nhà tâm lý học, tưởng tượng của trẻ lứa
mầm non mang tính chất sáng tạo, tưởng tượng của trẻ gắn chặt với xúc cảm, đó là
quan hệ hai chiều. Tưởng tượng phụ thuộc vào sự phát triển của cảm xúc, cảm xúc
càng sâu sắc thì tưởng tượng càng phát triển để phù hợp với cảm xúc đó và ngược lại
tưởng tượng cũng giữ vai trò làm giàu thêm những kinh nghiệm cảm xúc của trẻ. Việc
hình thành và phát triển tưởng tượng của trẻ có thể hình dung ra được những gì trẻ
nhìn thấy. Vì thế, nếu một đứa trẻ mà ngôn ngữ kém phát triển thì tí tưởng tượng cũng
nghèo nàn. Tưởng tượng giúp cho trẻ có thể xâu chuỗi được những sự vật, hiện tượng
riêng lẻ vào một thể thống nhất, tưởng tượng của trẻ có thể được phát hiện trong hoạt
động giáo dục, qua các hoạt động giáo dục xâu chuỗi được các sự vật, hiện tượng bằng
trí tưởng tượng phong phú của mình và tích lũy được vốn biểu tượng trong từng hoạt
động, sau đó trong những thời điểm hoàn cảnh cụ thể, trẻ sẽ có sự liên tưởng cần thiết.
Trẻ thơ cần có trí tưởng tượng vì vậy việc nuôi dưỡng trí tưởng tượng cho trẻ là một
trong những nhiệm vụ của giáo dục mầm non.
Có thể nói, tưởng tượng là một năng lực không thể thiếu để cảm thụ và sống với
những tác phẩm văn học. Trẻ đã sẵn có trong đầu trí tượng tưởng phong phú, bay bổng
nên khi gặp những hình ảnh đẹp đẽ, kì ảo của tác phẩm văn học thì trí tưởng tượng của
trẻ sẽ càng được thăng hoa. Như vậy trí tưởng tượng phong phú của trẻ chính là tiền đề
để chúng ta đưa những tác phẩm văn học đến với trẻ. Trẻ dùng trí tưởng tượng của
mình để tiếp thu những sáng tạo nghệ thuật và ngược lại, trí tưởng tượng phong phú,
bay bổng trong các tác phẩm văn học sẽ chắp cánh cho những ước mơ, những hoài
bão và sự sáng tạo của trẻ.
1.1.4. Vai trò của kể chuyện diễn cảm đối với sự phát triển ngôn ngữ của trẻ
1.1.4.1. Khái niệm về kể chuyện diễn cảm
Truyện là loại tác phẩm tự sự.
14
Truyện là tác phẩm văn học miêu tả tính cách nhân vật và diễn biến của sự kiện
thông qua lời kể của nhà văn. Để được gọi là một “truyện”, tác phẩm cần có hai yếu
tố: nhân vật và sự kiện.
Kể chuyện hay tự sự là bất kỳ sự tường thuật nào để kết nối các sự kiện, trình
bày cho người đọc hoặc người nghe bằng một chuỗi câu viết hoặc nói, hoặc một chuỗi
hình ảnh,… Tự sự có thể được sử dụng như một từ đồng nghĩa của “tường thuật”.
Kể chuyện diễn cảm là hoạt động tái hiện lại một câu chuyện từ văn bản ngôn
từ, thành một bức tranh sinh động diễn ra trong hình dung của trẻ, trong tưởng tượng
của trẻ, trước mặt trẻ.
Kể chuyện diễn cảm: còn là sử dụng giọng điệu, kết hợp với các yếu tố ngôn
ngữ cơ thể như: biểu lộ cử chỉ, biểu lộ trên nét mặt. Và phương tiện hỗ trợ dạy họctrực
quan, để thực hiện hoạt động tái hiện lại tác phẩm truyện.
1.1.4.2. Phân loại truyện
Truyện của mẫu giáo rất đa dạng và phong phú nhưng thường hay sử dụng nhất là:
* Truyện dân gian: thần thoại, ngụ ngôn, truyền thuyết, cổ tích, truyện cười.
* Truyện hiện đại: truyện ngắn, truyện vừa, truyện dài.
* Truyện cổ tích mới.
* Truyện đồng thoại.
1.1.4.3. Đặc điểm kể chuyện diễn cảm của trẻ em
Hơn bất cứ loại hình nghệ thuật nào, văn học có khả năng đến với con người
sớm nhất và dễ đi vào lòng người nhất, nhất là thể loại truyện. Vấn đề cảm thụ và tiếp
nhận tác phẩm truyện của trẻ em lứa tuổi mầm non đã được nhiều nhà tâm lí và sư
phạm nghiên cứu. Đặc điểm tâm lí với xúc cảm, tình cảm, lối tư duy cụ thể của trẻ
chính là cơ sở của việc tiếp nhận các tác phẩm truyện của lứa tuổi này.
Trẻ em ngay từ khi mới lọt lòng đã có những biểu hiện của xúc cảm, tình cảm.
Đó là thái độ của con người trực tiếp thể nghiệm đối với sự vật và hiện tượng trong thế
giới xung quanh và đối với bản thân, được biểu hiện bằng những rung cảm. Nhất là trẻ
từ 3 - 6 tuổi đã bắt đầu nói chuyện và kể chuyện có ngữ điệu. Ở độ tuổi này, chúng ta
có thể nhận thấy trẻ có khả năng kể chuyện rõ ràng, dễ hiểu, nội dung chuyện kể có
thứ tự trước sau. Càng về cuối tuổi mẫu giáo, trẻ kể chuyện diễn cảm sẽ càng rõ ràng,
mạch lạc và đúng ngữ điệu, nhịp điệu hơn. Khi giao tiếp hay kể chuyện, trẻ biết sử
dụng ngữ điệu khác nhau để thích hợp với từng ngữ cảnh, đúng vai nhân vật giao tiếp.
15
Hoạt động kể chuyện diễn cảm là hoạt động thiết thực và ý nghĩa đối với trẻ
mầm non. Tuy nhiên nó sẽ trở nên đơn điệu, khô khan nếu chúng ta không có sự chuẩn
bị chu đáo. Vì vậy, muốn dạy tốt chúng ta phải nắm được yêu cầu của bài dạy và
những kỹ năng cần truyền đạt trong từng bài để vận dụng các phương pháp sao cho
phù hợp. Từ thực tế cho thấy, trẻ em bậc mầm non rất thích những câu chuyện có hậu
vì thế khi lựa chọn sách, truyện cho trẻ chúng ta cần chọn những câu chuyện mà trẻ có
khả năng hiểu được, truyện có liên quan đến chủ đề mà trẻ đang học.
Hoạt động kể chuyện diễn cảm, cần có các nhân vật trong truyện phải sinh
động, thân thiện, gần gũi với trẻ, nội dung truyện mang tính giáo dục trẻ yêu các đẹp,
cái hay, yêu cái thiện, yêu quê hương đất nước…
Đặc biệt hơn trong hoạt động kể chuyện diễn cảm trẻ thích tranh minh họa bởi
nó mang đến sức sống cho câu chuyện. Các bức tranh làm tăng thêm sự hấp dẫn và tập
trung chú ý nghe của trẻ trong giờ học.
Khi tiến hành hoạt động kể chuyện diễn cảm, chúng ta cần tạo môi trường học
tập tốt cho trẻ như: trang trí lớp, mảng chính, các góc đẹp phù hợp theo từng chủ đề.
Ngoài ra có thể treo các tranh ảnh, để trẻ khi chơi ở các góc học tập đó trẻ vừa
có cơ hội được ôn lại những câu chuyện mà trẻ đã học, vừa tạo cơ hội cho trẻ thể hiện
khả năng của mình.
Với hoạt động kể chuyện, trẻ có hiểu rõ nội dung câu chuyện, biết tính cách của
các nhân vật tốt hay xấu là nhờ giọng kể của cô giáo và chuỗi các hoạt động giúp trẻ
hứng thú với câu chuyện. Chính vì vậy, khi kể chuyện giáo viên nên kể diễn cảm, thả
hồn vào câu chuyện để thể hiện đúng giọng điệu, từng câu nói, từng cử chỉ, điệu bộ
của nhân vật trong truyện. Những câu nói của nhân vật hiền lành thì kể với giọng nhẹ
nhàng, còn những câu nói của các nhân vật ác thì kể với giọng trầm bổng khác nhau,
nhấn mạnh vào các tính từ, từ láy để thể hiện sự hồi hộp, không nói thành lời để trẻ có
thể cảm nhận được cảm xúc cảm các nhân vật trong câu chuyện.
Do đó giáo viên cần nắm rõ các bước và cách tiến hành một hoạt động kể
chuyện như: nghiên cứu kỹ yêu cầu của giờ kể chuyện kể cả về kiến thức, kỹ năng vào
giáo dục đạo đức. Từ đó đưa ra phương pháp, hệ thống câu hỏi, đồ dùng phục vụ giờ
dậy đạt hiệu quả cao.
1.1.4.4. Vai trò của hoạt động kể chuyện đối với trẻ em
16
Mỗi câu chuyện có vai trò to lớn không gì có thể thay thế được trong việc hình
thành phát triển nhân cách trẻ một cách toàn diện. Việc cho trẻ em lứa tuổi mầm non
làm quen với tác phẩm văn học từ lâu đã được đặt ra như một nội dung, một phương
tiện vô cùng quan trọng trong chương trình giáo dục trẻ. Là loại hình nghệ thuật ngôn
từ, câu chuyện có khả năng đi vào lòng người một cách tự nhiên và sâu sắc. Có thể
nói, đó là một trong những phương tiện hữu hiệu nhất để hình thành và phát triển nhân
cách cho trẻ em một cách toàn diện.
V.G Biêlinxki đã từng nói: “Một cuốn sách viết cho thiếu nhi là để giáo dục, mà
giáo dục là một sự nghiệp vĩ đại, vì nó quyết định số phận con người” trong Giáo trình
phương pháp đọc, kể diễn cảm thơ, truyện cho trẻ em lứa tuổi mầm non phần 1. Tuy
nhiên, cũng không nên cực đoan mà cho rằng sau khi đọc xong, nghe xong một câu
chuyện là ngay lập tức các em có thể trở thành người tốt được. Nó tác động một cách
từ những giá trị nhân văn của nó thì có thể tạo nên sức mạnh, ảnh hưởng sâu sắc tới sự
hình thành và phát triển nhân cách cách của trẻ.
* Vai trò của hoạt động kể chuyện đối với việc giáo dục thẩm mĩ cho trẻ
Ngôn ngữ có vai trò quan trọng trong quá trình tác động có mục đích, có hệ
thống nhằm phát triển ở trẻ năng lực cảm thụ cái đẹp và hiểu đúng cái đẹp trong tự
nhiên, trong đời sống xã hội, trong nghệ thuật, giáo dục cho trẻ lòng yêu cái đẹp và
năng lực tạo ra cái đẹp.
Cũng như văn học nói chung, những câu chuyện dành cho trẻ mầm non có ảnh
hưởng lớn đến việc giáo dục thẩm mĩ cho các em. V.G Biêlinxki gọi tình cảm thẩm mĩ
là “cội nguồn của mọi cái đẹp, mọi cái vĩ đại” trong Đọc và kể chuyện văn học ở vườn
trẻ, tr. 15. “ Trẻ em như búp trên cành…” non tơ và trong trắng. Sự nhận thức của trẻ
thường thông qua con đường cụ thể, trực tiếp, cảm tính, gắn liền với những xúc cảm,
tình cảm, nhất là những xúc cảm về cái đẹp. Vì thế, có thể thông qua giáo dục thẩm mĩ
mà giáo dục các mặt khác, đặc biệt là giáo dục đạo đức cho trẻ, bởi vì đối với trẻ mầm
non thì cái đẹp và cái tốt là một, khó có thể chia cắt rạch ròi. Ở tuổi mẫu giáo, là thời
kì phát cảm của những xúc cảm thẩm mĩ, tức là những xúc cảm tích cực, được nảy
sinh khi trẻ tiếp xúc trực tiếp với cái đẹp khiến trẻ thấy gắn bó tha thiết với con người
và cảnh vật xung quanh. Chính vì thế, đây là thời điểm vô cùng thuận lợi cho việc giáo
dục thẩm mĩ và việc giáo dục thẩm mĩ mang lại một hiệu quả to lớn đối với sự phát
triển nhân cách toàn diện nhân cách cho trẻ.
17