Tải bản đầy đủ (.pdf) (101 trang)

Giáo dục đạo đức phật giáo cho tín đồ phật giáo ở thành phố sa đéc tỉnh đồng tháp (nghiên cứu trường hợp chùa từ quang và một số chùa khác) ( Luận văn thạc sĩ)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (491.11 KB, 101 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN CAO LỘC

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO CHO TÍN ĐỒ
PHẬT GIÁO TẠI THÀNH PHỐ SA ĐÉC, TỈNH ĐỒNG
THÁP (NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP CHÙA TỪ QUANG
VÀ MỘT SỐ CHÙA KHÁC)

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC

HÀ NỘI - 2018


VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

TRẦN CAO LỘC

GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC PHẬT GIÁO CHO TÍN ĐỒ
PHẬT GIÁO THÀNH PHỐ SA ĐÉC TỈNH ĐỒNG THÁP
(NGHIÊN CỨU TRƢỜNG HỢP CHÙA TỪ QUANG
VÀ MỘT SỐ CHÙA KHÁC)

Ngành: TÔN GIÁO HỌC
Mã số: 8.22.90.09

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC



NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. TRẦN HỮU HỢP

HÀ NỘI - 2018


LỜI CAM ĐOAN
Tôi là Trần Cao Lộc, ngƣời thực hiện luận văn nầy.
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu riêng của tôi, các số liệu và
kết quả nghiên cứu nêu trong luận văn là trung thực và theo tài liệu đã đƣợc trích
dẫn. Những trích dẫn cần thiết trong luận văn đƣợc tôi chú thích rõ ràng và đúng
theo văn bản.
Tác giả luận văn

Trần Cao Lộc


LỜI CÁM ƠN
Luận văn này là thành quả của quá trình học tập, nghiên cứu của học viên tại
Khoa Tôn giáo học - Học viện Khoa học xã hội - Viện Hàn lâm Khoa học xã hội
Việt Nam.
Đầu tiên, tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành đến Học viện Khoa học xã hội, nhà
trƣờng đã tạo những điều kiện thuận lợi về mọi mặt để tôi học tập và nghiên cứu tại
đây.
Tôi xin trân trọng gửi lời cám ơn đến các thầy, cô giáo, những ngƣời phụ
trách khoa Tôn giáo học đã truyền đạt cho tôi những kiến thức và kinh nghiệm quý
báu trong suốt thời gian tôi học tập tại trƣờng.
Tôi xin chân thành cảm ơn TS Trần Hữu Hợp, thầy hƣớng dẫn và đã tận tình
chỉ dạy, truyền đạt cho tôi nhiều kiến thức, kinh nghiệm có giá trị, giúp tôi hoàn

thành luận văn này.
Tôi xin gửi lời cám ơn đến tất cả những bạn bè, những ngƣời đã gắn bó và giúp
đỡ tôi trong quá trình học tập cũng nhƣ trong quá trình thực hiện luận văn tốt nghiệp.
Cuối cùng, tôi xin cảm ơn gia đình tôi, anh chị em và những ngƣời thân đã
tạo điều kiện để tôi yên tâm học tập trong suốt thời gian qua./.
Xin cám ơn !
Học viên

Trần Cao Lộc


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU

Trang
1

Chƣơng 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC 12
PHẬT GIÁO Ở NƢỚC TA HIỆN NAY
1.1. Một số khái niệm đƣợc sử dụng trong luận văn

12

1.2. Cơ sở lý luận

15

1.3 Thực tiễn giáo dục Phật giáo ở nƣớc ta hiện nay

26


Chƣơng 2: THỰC TRẠNG GIÁO DỤC ĐẠO ĐỨC HIỆN NAY Ở
THÀNH PHỐ SA ĐÉC

44

2.1. Phƣơng thức học tập đạo đức tại các chùa

44

2.2. Các yếu tố tác động đến việc dạy đạo đức Phật giáo

51

2.3. Hệ quả của việc dạy đạo đức trong đời sống

55

Chƣơng 3: MỘT SỐ NHẬN XÉT ĐÁNH GIÁ VÀ KHUYẾN NGHỊ 63
GIẢI PHÁP
3.1. Một số nhận xét đánh giá

63

3.2. Một số khuyến nghị giải pháp

67

KẾT LUẬN
DANH MỤC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ

TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

76


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nƣớc ta đang trong thời kỳ hội nhập nên việc tiếp cận với nền văn hóa nƣớc
ngoài tác động đến lối sống của ngƣời Việt, vì sự tiếp cận nào cũng có tác dụng hai
chiều, nếu ta biết sử dụng đúng thì rất có lợi, trái lại sẽ gây nên hậu quả tai hại. Đây là
một trong những nguyên nhân đƣa đến sự suy thoái về đạo đức của xã hội hiện nay.
Từ các giá trị xã hội bị băng hoại và các tệ nạn ngày càng gia tăng ảnh hƣởng
nhiều đến thế hệ trẻ. Qua bài: “ Hoằng pháp với chương trình tu học của tuổi trẻ”,
Ni sƣ Thích Tâm Chính, đơn vị Phật giáo Hải Phòng cho biết về thực trạng của tuổi
trẻ ngày nay đang trong tình trạng báo động về đạo đức nhƣ bạo lực học đƣờng,
thích thể hiện bản thân. Sự phát triển của khoa học công nghệ thông tin cũng có tác
dụng hai chiều nếu các em biết sử dụng đúng thì rất tốt trái lại sẽ có nhiều tai hại về
mặt đạo đức [19,tr154]..
Từ cá nhân, gia đình, xã hội đến nhân loại những giá trị đạo đức nhƣ đang
xuống cấp.. Chiến tranh giữa các quốc gia không ngừng xảy ra. Trong khi đó cuộc
sống nhân loại đang bị chao đảo theo đà tiến bộ của công nghệ thông tin nhƣ sống
ảo, thất vọng, stress...Do đó, việc giáo dục về đạo đức nói chung và đạo đức Phật
giáo nói riêng là điều cần thiết [19,tr.134].
Ngoài những nguyên nhân trên việc bảo vệ môi trƣờng sống cũng thể hiện giá
trị đạo đức của con ngƣời. Ngày nay, việc bảo vệ môi trƣờng đƣợc phát động mạnh vì
tình trạng ô nhiễm ngày càng gia tăng nhất là nững chất độc hóa học thải ra từ các
nhà máy, từ nguồn nƣớc đến không khí đều bị ảnh hƣởng đến đời sống con ngƣời.
Thêm vào đó việc đốn cây, phá rừng ...con ngƣời tàn phá thiện nhiên nên phải chịu sự
tàn phá khốc liệt của thiên tai nhƣ bão lụt, hạn hán...Trong khi đó, đặc điểm của đạo

đức Phật giáo là cuộc sống hài hòa với thiên nhiên làm cho môi trường sống vừa lành
vừa đẹp, ngay cuộc đời Đức Phật cũng gắn liền với thiên nhiên: sanh dƣới cây Vô ƣu,
thành đạo dƣới cây Bồ đề, thuyết pháp đầu tiên ở Vƣờn nai và viên tịch dƣới cây Sa
la. Ngày nay, chúng ta cũng phát động việc “trồng cây gây rừng” để bảo vệ môi

1


trƣờng. Có ngƣời cho rằng rừng chính là ngôi nhà thứ hai của chúng ta, nên phá rừng
tức là hủy diệt ngôi nhà thứ hai của nhân loại.
Giáo sƣ Hoàng Nhƣ Mai trong “Tập văn Phật đản” viết về “ Đạo đức Phật
giáo và sự phát triển của khoa học kỹ thuật” nhận xét về tình hình suy thoái đạo đức
trong xã hội hiện nay khá nghiêm trọng. Ông nhận xét sự phát triển của khoa học kỹ
thuật là cần thiết và ứng dụng sao cho có ích và hạn chế những hậu quả tai hại. Ngƣời
ta tin rằng khoa học tạo ra mọi giá trị nên đạo đức giảm giá. Có ý kiến cho rằng : loại
bỏ đạo đức thay vào đó môn khoa học về phong tục. Tác giả cho rằng đây là một sự
ngộ nhận vì nếu nhân danh khoa học thì những nguyên tắc và luân lý đạo đức không
khác gì khoa học. “...Trong khi đó đạo đức là chân lý mặc nhiên đã được mọi người
chấp nhận và không cần chứng minh... Lại nữa, phục vụ lợi ích cho nhân loại không
phải chỉ có khoa học và nó chỉ đề ra phương tiện không đề ra được mục đích... Những
thành tựu của khoa học giúp con người hưởng lạc mà không làm bớt đi khổ đau. Trong
khi đó đạo đức cũng thừa nhận những nỗi lo âu ấy nhưng lại có cách giải quyết.”
[52,tr.33]
Do đó, vấn đề dạy đạo đức cho mọi ngƣời hay dạy đạo đức Phật giáo cho
ngƣời tu tại gia cần đƣợc đặt ra. Bài viết sẽ nghiên cứu trƣờng hợp tại chùa Từ
Quang và một số chùa khác ở thành phố Sa Đéc, tỉnh Đồng Tháp đã và đang nổ lực
thực hiện việc này.
Trong luận văn, chúng tôi cố gắng nói lên giá trị của đạo đức Phật giáo để nâng
cao phẩm chất con ngƣời trƣớc tình trạng suy thoái đạo đức ngày nay. Vì vậy, để tìm
hiểu và đánh giá hiệu quả của công tác giáo dục này, chúng tôi chọn đề tài “Giáo dục

đạo đức Phật giáo cho tín đồ Phật giáo ở Thành phố Sa Đéc tỉnh Đồng Tháp
(nghiên cứu trường hợp chùa Từ Quang và một số chùa khác)” làm luận văn thạc sĩ,
chuyên ngành Tôn giáo học.
2. Tình hình nghiên cứu của đề tài
Đã có rất nhiều sách, đề tài, bài viết...về đề tài đạo đức Phật giáo. Những tác
phẩm tiêu biểu của một số tác giả trong nƣớc và ngoài nƣớc nhƣ sau:

2


2.1. Các nghiên cứu trong nước
* Hòa thƣợng Thích Minh Châu với quyển “Đạo đức Phật giáo & Hạnh
phúc con người” gồm 29 bài viết về những vấn đề có liên quan đến đạo đức .Trong
lời nói đầu đã bao quát toàn bộ vấn đề khi cho rằng “ Phật học chính là đạo đức
học” và “Đạo đức Phật giáo là một nếp sống đem lại hạnh phúc cho con người”.
[6,tr.3]. Những kinh sách nhà Phật đƣợc coi nhƣ là những pháp môn để thực hành
và tu tập. Do đó 29 bài viết nhằm triển khai ý nghĩa về đạo đức Phật giáo.
Trong bài đầu cũng chính là tên quyển sách Hòa thƣợng cho chúng ta biết
rằng “những lời dạy của Đức Phật đều trực tiếp hay gián tiếp liên hệ đến vấn đề
đạo đức”[6,tr.7] Điểm nổi bật trong trong đạo đức Phật giáo là vai trò trí tuệ vì nó
giúp ta phân biệt thiện / ác, chánh / tà. Một đặc điểm khác của đạo đức Phật giáo là
xây dựng một nếp sống hài hòa với thiên nhiên, làm lành, làm đẹp môi trƣờng sống.
Chính đời sống của Đức Phật cũng thể hiện điều đó : sanh ra, thành đạo, thị tịch đều
ở dƣới gốc cây. Không những hài hòa với thiên nhiên mà còn hài hòa với con ngƣời
nhƣ từ, bi, hỷ, xả...
Do đó đạo đức Phật giáo là nếp sống đem đến niềm an lạc. Trong bài viết
Ngài cho rằng chiến tranh đem đến đau khổ, chỉ có giải pháp hòa bình mới tránh sự
xung đột. Trong quyển sách có bài viết “Sống đạo đức là trách nhiệm của mỗi
người chúng ta” khiến mọi ngƣời phải suy nghĩ . Qua đó Đạo Phật đã nhấn mạnh
đến vai trò cá nhân đối với đạo đức. Nó đòi hỏi sự quan tâm của mọi ngƣời để đem

lại hạnh phúc cho cá nhân, gia đình và xã hội, đạo đức thể hiện qua cách con ngƣời
ứng xử với nhau. Do đó mọi ngƣời đều có trách nhiệm trong mối quan hệ với nhau,
thiếu tinh thần này là thiếu đạo đức của tự thân và ảnh hƣởng đến mọi ngƣời vì cuộc
sống của mỗi ngƣời đều dự phần vào cuộc sống chung. Đạo đức không phải là tín
điều tôn giáo mà nói lên trách nhiệm chung của mỗi con ngƣời trong xã hội. Nó
cũng không phải là một ƣớc lệ xã hội hay có trách nhiệm đối với ngƣời nầy mà
không đối với ngƣời kia. Xã hội ta đang tăng tốc trong mọi lãnh vực, nhƣng khi đời
sống vật chất đầy đủ lại tỉ lệ nghịch với đời sống đạo đức.

3


Trong bài viết “Đạo Phật thiết thực và hiện tại” Đức Phật đã khai thị cho
mọi ngƣời biết rằng nếu ai cố gắng tu tập đều có thể đạt đến con ngƣời tốt và
đem an lạc đến cho chính mình. Điều nầy nói lên tính chất nhân bản của Đạo
Phật vì giáo pháp của Đức Phật không hứu hẹn về cõi siêu thế nào mà chỉ hƣớng
đến thực tại, giải quyết các vấn đề của cuộc sống nhân sinh. Ngài đã độ cho cả
tƣớng cƣớp và kỷ nữ để trở thành thánh nhân. Những lời Phật dạy đều đem đến
một cuộc sống hƣớng thƣợng và đạo đức. Do đó Ngài khuyên chúng ta nên tu tập
tâm để có nếp sống đạo đức bỏ ác hành thiện để đem lại an lạc cho bản thân, gia
đình và xã hội.
Với bài “Đạo Phật và nền văn hóa Việt Nam” tác giả cho ta thấy Phật giáo cùng
thăng trầm với nền văn hóa Việt và con ngƣời Việt. Bụt đã hiện trong giấc mơ của trẻ em
và hiện thân cho một bậc gƣơng mẫu ở ngƣời lớn. Và hơn hai ngàn năm qua bóng chân
Ngài ngã dài theo lịch sử thăng trầm của ngƣời Việt.
Trong bài “Một môi trường giáo dục tốt phải được khởi nguồn xây dựng
bởi những người có ý thức và trách nhiệm” tác giả cho rằng con ngƣời sống
trong thế giới ngày nay là phải làm trong sạch môi trƣờng sống mà đạo đức là
căn bản. Ngày nay con ngƣời đã làm ô nhiễm và “phá vỡ môi trường sống tốt
đẹp của mình” vì thế cần phải “xây dựng nhiều môi trường sinh hoạt mang tính

giáo dục cao cả cho con người.”
* Ngoài ra Hòa thƣợng Minh Châu với tác phẩm “Tâm từ mở ra khổ đau
khép lại” cho thấy Ngài rất quan tâm đến nền giáo dục Phật giáo và cho rằng “Đạo
Phật là một đạo của giáo dục và Đức Phật là một nhà đại giáo dục”[8,tr.226]. Do
đó giáo lý của Đức Phật là đƣờng hƣớng và phƣơng pháp giáo dục chân chính. Nội
dung của đƣờng hƣớng giáo dục đó gồm những tiêu điểm nhƣ tƣơng quan giữa con
ngƣời với hoàn cảnh, hành động, trí thức, đạo đức, thời gian và chân lý. Những
đƣờng hƣớng đó để tiến tới một con ngƣời thật sự thể hiện tính chân, thiện và mỹ.
* Quyển “Đạo đức học Phật giáo” của Hòa thƣợng Minh Châu gồm 34 bài
viết của nhiều tác giả khác nhau do Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam ấn hành.

4


Nội dung nói lên vai trò và đặc điểm của đạo đức Phật giáo trong thời đại ngày nay
với hai điểm chính là :
+ Một là, thực hành hạnh từ bi và thái độ bất hại để con ngƣời đến gần nhau
hơn, các dân tộc hiểu biết nhau hơn để cùng xây dựng một cuộc sống tốt đẹp trên
hành tinh nầy.
+ Hai là, giáo dục đạo đức Phật giáo cần thiết để phát huy truyền thống dân tộc
trong bối cảnh giao lƣu văn hóa hiện nay. Ngoài ra môi trƣờng và xã hội bị ô nhiễm do
tâm con ngƣời xuất phát từ ba độc tham , sân, si nên cần phải loại trừ.
* Thích Nữ Nhƣ Thái trong Luận văn tốt nghiệp với đề tài “ Vài nét về
tinh thần trách nhiệm trong giáo dục Phật giáo”, tác giả cho rằng “tinh thần
trách nhiệm là yếu tố căn bản trong hệ thống giá trị đạo đức của nhân loại” [ 55
,tr.1]. Nó tùy thuộc vào nhận thức của mỗi ngƣời để hƣớng đến đời sống cao đẹp.
Trƣớc tình trạng đạo dức xã hội bị suy thoái, vấn đề giáo dục đạo đức và tinh
thần trách nhiệm cần phải đƣợc đặt ra. Tinh thần trách nhiệm trong giáo dục Phật
giáo gồm có: trách nhiệm trong đòi sống xã hội, trong giáo lý Đạo Phật, đối với
tự thân, tha nhân, với môi trƣờng, là chuẩn mẫu của hành vi đạo đức xã hội và

cần thiết cho việc giáo dục con ngƣời. Theo tác giả trách nhiệm mang ý nghĩa
đạo đức học là hậu quả của hành động về thân, khẩu, ý trở thành định luật của
Nhân quả, của Nghiệp. Giáo lý Đạo Phật nhằm giáo dục con ngƣời sống có lý
tƣởng, trách nhiệm. Lƣơng tâm, đạo đức, trách nhiệm là tƣ tƣởng chủ đạo, là
điểm giao hòa của tƣ tƣởng Đông - Tây.
* Thích Nữ Nhƣ Tịnh trong Luận văn tốt nghiệp với đề tài “ Giới luật là nền
tảng Phật giáo” , tác giả cho rằng giáo dục đạo đức ngày nay là một nhu cầu hữu
ích cho xã hội. Ngày nay con ngƣời bị lôi cuốn vào cuộc sống vật chất nên tạo sự
trống vắng tâm linh khiến cho đạo đức suy đồi nên chỉ có lòng từ bi và trí tuệ mới
tạo nên cuộc sống đạo đức Phật giáo. Nếp sống đó dƣợc thực hiện trên nền tảng “
GIỚI-ĐỊNH-HUỆ”, vì từ việc giữ giới sẽ sanh định và từ định mới sanh huệ. Giới
chính là những điều ngăn chận bất thiện pháp xảy ra để hƣớng đến sự an lạc. Cho
nên con ngƣời phải sống và hành xử đúng trong mối tƣơng quan giữa ngƣời và
ngƣời để tạo nên hạnh phúc trong cõi đời nầy. Do đó giới luật là thọ mạng của Phật

5


pháp, thiếu giới luật Phật pháp sẽ bị hoại diệt. Vì thế trong giai đoạn này ngƣời học
Phật cần giữ gìn giới luật để đóng góp thiết thực vào cuộc sống và mọi ngƣời trong
xã hội có đƣợc một cuộc sống hạnh phúc và an vui thật sự.
* Trong Tập văn Phật đản của Giáo hội Phật giáo Việt nam, giáo sƣ Hoàng
Nhƣ Mai viết về “Đạo đức Phật giáo và sự phát triển của khoa học kỹ thuật” cho
rằng khoa học kỹ thuật đem lại cho con ngƣời những sự kỳ diệu nhƣng cũng gây
cho con ngƣời nhiều tai họa nhƣ môi trƣờng sống bị hủy hoại, những phƣơng tiện
giết ngƣời tinh vi, xã hội ngày càng sa đọa...Đó là do sự ứng dụng tiêu cực của con
ngƣời và con ngƣời tin vào khoa học vì nó tạo ra mọi giá trị. Khoa học loại trừ mọi
xúc động, tình cảm, không có yêu ghét, tốt xấu mà chỉ có đúng hay sai đối với thực
tế, với tƣ duy ấy nên rất khó thông cảm với đạo đức, vì vậy giá trị đạo đức bị xuống
cấp. Tác giả có sự đối chiếu sau :

- Quy tắc và luận lý khoa học không khác đạo đức: chân lý đạo đức đƣợc
mọi ngƣời chấp nhận nên không cần chứng minh, chúng bảo đảm cho cuộc sống xã
hội tốt đẹp.
- Khoa học không thể đơn độc phục vụ cho lợi ích của nhân loại: khoa học dạy
chúng ta những hiểu biết về sự vật, những gì có tồn tại nhƣng không dạy trực tiếp
những gì nên có. Khoa học đề ra phƣơng tiện không đề ra mục đích.
- Những thành tựu của khoa học chỉ nhằm phục vụ bản năng thấp của con
người. Những sáng chế máy móc tinh vi không làm bớt những đau khổ tinh thần
của con ngƣời. Đạo đức cũng thừa nhận những nỗi lo âu của con ngƣời nhƣng có
cách giải quyết.
Cuối cùng tác giả cho rằng năm điều giới cấm của Phật giáo là cần thiết để ngăn
ngừa dòng thác phi đạo đức và duy trì nền tảng đạo đức của dân tộc và nhân loại.
2.2. Các công trình nghiên cứu ở nước ngoài
* Pháp sƣ Maha Thongkham Medhivongs thuộc Phật giáo nguyên thủy biên
soạn “ 38 pháp hạnh phúc”. Ngài đã trình bày những pháp có tính cách thiết thực
nhƣ : giữ mình theo lẽ chánh, học nhiều hiểu rộng, có nghề, ngƣời nói lời chân thật,
nết hạnh phụng dƣỡng mẹ cha, nết hạnh tiếp độ con, làm xong việc của mình, nết
hạnh bố thí, giúp đỡ quyến thuộc, nết hạnh bố thí, nết hạnh khiêm nhƣờng, nhẫn

6


nại...Trong đó có thể chia làm hai loại: hạnh phúc của các bậc học bác uyên thâm tự
tìm thấy nguyên do của hạnh phúc và hạnh phúc của các bậc giác ngộ thuyết theo
chánh pháp. Trong 38 pháp nầy có thể phân ra ba chủ đề :
+ Từ pháp 1 đến 18: những điều để tạo đời sống hạnh phúc trong xã hội.
+ Từ pháp 19 đến 30: dạy tâm thanh tịnh không bị vật chất lung lay.
+ Từ pháp 31 đến 38: cách dứt phiền não để đƣợc an vui
Đây chính là 38 pháp để ngƣời Phật tử chân chính tìm đƣợc an lạc cho cuộc
sống đời thƣờng.

*Ven. Thubten Chodron với tác phẩm “Thuần hóa tâm hồn” do Tiến sĩ
Thích Minh Thành dịch. Nội dung gồm bốn phần: Phần một nói lên những mối
quan hệ của chúng ta nhƣ: cha mẹ đối với con cái, tình bạn, đồng nghiệp và khách
hàng...Phần hai là cái nhìn bao quát thế gian và nếp sống theo chánh pháp với
những nội dung nhƣ: pháp tu học cao thƣợng về đạo đức, đời của một ngƣời là quý
báu, lòng thƣơng, tâm từ ái...Phần ba là truyền thừa lời Phật dạy gồm có Phật giáo
tác động vào đời sống xã hội nhƣ thế nào, các lễ hội Phật giáo...Phần bốn nói về
Phật giáo ngày nay, nói về sự hài hòa giữa Phật giáo và những tôn giáo khác và sự
đối thoại giữa các tôn giáo...
Tác phẩm có cái nhìn chung về Phật giáo với tấm lòng rộng mở và những tƣ
tƣởng nhập thế để mọi ngƣời đến và thấy về Phật giáo với lòng ngƣỡng mộ chân chánh
của một con ngƣời dù không phải là tín đồ của Đạo Phật .
*Trong diễn từ của ông Sanae Shirata, Tùy viên văn hóa tòa Đại sƣ Nhật có viết
cái băn khoăn sâu thẳm nhất của con ngƣời là hiểu biết về bản thân mình và nhân quần
xã hội để giáo dục đến đƣờng ngay lẽ phải. Vì khuyng hƣớng học hỏi và trau luyện trí
tuệ là nét trổi vƣợt trong trào lƣu tiến hóa của con ngƣời. Từ đó con ngƣời phân biệt
mình với loài vật. Do đó Đạo Phật là đạo của trí tuệ và Đức Phật là ngƣời giúp con
ngƣời ra khỏi bờ mê. Ngài đã dấn thân qua mọi thử thách để truy nguyên chân lý tìm
đƣờng thoát khổ cho chúng sinh. Học thuyết của Ngài là hệ thống giáo dục toàn diện vì
có thể hƣớng dẫn mọi ngƣời ở mọi trình độ khác nhau. Ngài không tự nhận mình là
mặt trăng mà là ngón tay chỉ mặt trăng để mọi ngƣời tự thể hiện lấy.

7


Luận vận đậy đu ở file:Luận vận Full















×