Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

Tiểu luận cao học triết, học thuyết pháp trị của hàn phi tử và sự vận dụng vào công cuộc xây dựng xã hội việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.13 KB, 21 trang )

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..............................................................................................................2
NỘI DUNG...........................................................................................................4
Chương 1: Hoàn cảnh ra đời học thuyết Pháp Trị của Hàn
1.1.

Phi Tử............4

Bối cảnh lịch sử Trung Quốc thời kỳ Xuân Thu – Chiến Quốc...........4

1.2. Vài nét về thân thế và sự nghiệp của Hàn Phi Tử.................................5
Chương 2: Học thuyết “ Pháp trị” của Hàn Phi Tử trong lịch sử triết học
Trung Quốc..........................................................................................................7
2.1. Nội dung cơ bản học thuyết “ Pháp trị” của Hàn Phi Tử.....................7
2.1.1. Nội dung trị nước bằng “ pháp luật”................................................7
2.1.2. “Pháp” phải kết hợp với “ Thế”........................................................9
2.1.3. “ Pháp” kết hợp với “ Thuật”..........................................................10
2.2.

Những ưu điểm và hạn chế của học thuyết “ Pháp trị” của Hàn Phi

Tử....................................................................................................................12
2.2.1. Ưu điểm.............................................................................................12
2.2.2. Nhược điểm.......................................................................................12
Chương 3: Sự vận dụng học thuyết Pháp trị vào công cuộc xây dựng xã
hội Việt Nam hiện nay......................................................................................15
3.1. Vận dụng tư tưởng của Pháp trị trong quản lý xã hội và điều hành
đất....................................................................................................................15
3.2. Vận dụng trong quản lý doanh nghiệp................................................17
3.2.1. Nhìn từ góc độ quản lý nhà nước về doanh nghiệp........................17
3.2.2. Nhìn từ góc độ quản lý nội bộ doanh nghiệp.................................18


Kết luận..............................................................................................................20
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.........................................................21


MỞ ĐẦU
Trung Quốc cổ, trung đại là một trong hai trung tâm tư tưởng và văn hóa
lớn của thế giới cổ đại, Những tư tưởng triết học và văn hóa của Trung Quốc đã
có ảnh hưởng không nhỏ đối với nền văn hóa Việt Nam. Vì vậy nghiên cứu triết
học Trung Quốc cổ, trung đại là điều rất cần thiết để góp phần hiểu rõ hơn lịch
sử tư tưởng văn hóa phương Đông nói chung và của dân tộc Việt Nam nói riêng.
Nói đến triết học Trung Quốc đó là sự phát triển của một hệ thống triết
học đồ sộ với những trường phái chủ yếu có ảnh hưởng lâu dài trong lịch sử như
Nho gia, Đạo Gia, Pháp Gia, Âm Dương Gia… Triết học Trung Quốc ra đời và
phát triển vào thời kỳ Xuân Thu – Chiến Quốc từ thế kỷ VIII – thế kỷ III TCN.
Đây là thời kỳ tan rã của chế độ phong kiến cát cứ chuyển sang chế độ phong
kiến tập quyền, là một thời kỳ với những biến động xã hội và những mây thuẫn
xã hội sâu sắc. Trong bối cảnh lúc đó một câu hỏi lớn đặt ra là làm thế nào để
xã hội chuyển từ thời loạn sang thời trị. Vì vậy các nhà triết học cũng là các nhà
chính trị đã bày tỏ quan điểm của mình với những tư tưởng như “ Đức trị”, “ Vô
vi trị”, “ Kiêm ái”...Những học thuyết này đã được lịch sử Trung Quốc kiểm
nghiệm song chúng đều tỏ ra bất lực vì không đáp ứng được yêu cầu thời cuộc.
Trong lúc đó học thuyết “ Pháp Trị” của Hàn Phi Tử đã vươn lên trở thành
đường lối chiến lược chính trị góp phần đưa sự nghiệp thống nhất của nhà Tần
đi đến thắng lợi, thúc đẩy sự chuyển biến xã hội Trung Quốc từ phong kiến sơ
kỳ sang quân chủ chuyên chế đánh dấu một mốc quan trọng trong lịch sử Trung
Quốc. Không những thế những tư tưởng trong học thuyết Pháp Trị của Hàn Phi
Tử có ảnh hưởng rất lớn đến tư tưởng Việt Nam . Vậy nên việc nghiên cứu và
hiểu rõ học thuyết Pháp trị của Hàn Phi tử là một việc làm cấp thiết. Nó không
chỉ giúp ích cho sự hiểu biết về học thuyết Pháp trị của Hàn Phi Tử mà còn giúp
ích trong việc tìm hiểu và góp phần sự kế thừ quan điểm này ở Việt Nam như thế

nào trong quá trình xây dựng nhà nước xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

1


Vì vậy với những kiến thức đã được học, em đã quyết định chọn đề tài “
Học thuyết Pháp trị của Hàn Phi Tử và sự vận dụng vào công cuộc xây dựng xã
hội Việt Nam hiện nay” làm đề tài tiểu luận học phần “ Lịch sử Triết Học”

2


NỘI DUNG
Chương 1: Hoàn cảnh ra đời học thuyết Pháp Trị của Hàn

Phi Tử

1.1. Bối cảnh lịch sử Trung Quốc thời kỳ Xuân Thu – Chiến Quốc
Học thuyết Pháp Trị của Hàn Phi Tử ra đời cùng với sự hình thành và phát
triển của phái Pháp Gia vào cuối thời Chiến Quốc. Đây là thời kỳ bắt đầu hình
thành quan hệ sản xuất phong kiến ở Trung Quốc
Từ thế kỷ VIII – III TCN xã hội nhà Chu bước vào thời kỳ biến động lớn
toàn diện kéo dài. Giai đoạn lịch sử này gọi là thời kỳ Đông Chu, trong đó có
hai thời kỳ nhỏ là Xuân Thu và Chiến Quốc
Về kinh tế: đây là thời kỳ công cụ bằng sắt ra đời thay thế công cụ bằng
đồng, bằng đá vì vậy kinh tế nông nghiệp, tiểu thủ công nghiệp có sự phát triển
mạnh mẽ. Bước đầu hình thành và phát triển thương nghiệp nên thành thị có cơ
sở kinh tế tương đối độc lập.
Về xã hội: Tuy nhiên đất đai trước thuộc quyền sở hữu của nhà Vua nay bị
chiếm làm của tư. Giai cấp quý tốc nhà Chu bị mất đất mất dân địa vị kinh tế bị

xã sút, vai trò chính trị chỉ còn là hình thức. Các nước chư hầu không chịu phục
tùng mang quân thôn tính lẫn nhau tự xưng bá xưng vương. Từ đó làm nảy sinh
một loạt mâu thuẫn xã hội: mâu thuẫn giữa tầng lớp địa chủ mới lên với giai cấp
quý tộc cũ do giai cấp địa chủ mới lên tuy có tiềm lực kinh tế nhưng lại không
có địa vị chính trị. Mâu thuẫn thứ hai là mâu thuẫn giữa nhân dân lao động với
giai cấp địa chủ quý tộc nhà Chu Và mâu thuẫn cục bộ trong nội bộ tầng lớp quý
tộc nhà Chu đang bị phân hóa. Một số muốn bảo lưu chế độ nhà Chu một số
không thỏa mãn với chế độ ấy, đòi cải cách trật tự cũ.
Trong bối cảnh đó, câu hỏi lớn của thời đại đặt ra là nguyên nhân xã hội
đại loạn do đâu? Chữa trị cách nào? Từ đó một loạt các nhà tư tưởng xuất hiện.
Họ là những bậc trí thức quý tộc những kẻ sĩ, những nhà tư tưởng vĩ đại mang
nặng khát vọng cứu đời. Các bậc trí thức quý tộc đều đứng trên lập trường của
3


giai cấp mình, tầng lớp mình bày tỏ quan điểm, đòi xóa bỏ trật tự xã hội cũ, xây
dựng xã hội tương lai. Họ phê phán đả kích lẫn nhau. Người ta gọi đó là thời
kỳ “Bách gia tranh minh, Chư tử phong khởi” – nghĩa là Tram nhà đua tiếng, các
bậc thầy nổi lên như ong- gọi tắt là “ Bách gia Chư Tử”. Chính trong quá trình
tranh luận ấy, sản sinh những nhà tư tưởng lớn, hình thành các hệ thống triết
học, mở đầu cho nền triết học Trung Quốc.
Trung Quốc thời kỳ này có chín trường phái triết học chính là : Nho gia,
Mạc Gia, Đạo Gia, Âm Dương Gia, Danh gia, Pháp gia, Nông Gia, Tung hoành
gia, Tạp gia. Các trường phái đều đưa ra các tư tưởng giải pháp để đưa xã về
thời trị, Và tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi Tử cũng được ra đời vào thời kỳ này
cùng với các tư tưởng “ Đức trị” của Nho Gia. Tuy nhiên trong khi các thánh
Nho cố sức đi rao giảng đạo đức nhân nghĩa khắp nơi mà không ở đâu được
dùng. Đạo gia chủ trường vô vi trốn đời đi ẩn chỉ là giải pháp tiêu cực. Kiêm ái
cảu Mạc gia mang tính không tưởng để bị chê cười. Thì Pháp trị đã trở thành hệ
tư tưởng thống trị của chế độ phong kiến Trung Quốc suốt hàng ngàn năm lịch

sử và đã trở thành giải pháp chữa trị thiết thực và phù hợp với hoàn cảnh Trung
Quốc lúc đó.
1.2. Vài nét về thân thế và sự nghiệp của Hàn Phi Tử
Hàn Phi Tử sinh vào những năm 280 – 233 TCN, vốn thuộc dòng dõi quý
tộc nước Hàn, Ông là công tử nước Hàn từ nhỏ thông minh học giỏi. Vì là con
thứ không được kế vị nên ông nhận thức khá sâu sắc quan hệ vua tôi, vấn đề trị
nước. Ông say mê nghiên cứu Nho gia, Đạo gia, nhưng ham thích các học
thuyết Pháp trị hơn cả. Ông theo học Tuân Tử cùng với Lý Tư nhưng lại có tư
tưởng khác biệt với thầy. Tuân Tử chú trọng về giáo hóa Lễ Nghĩa, còn Hàn Phi
cùng với Lý Tư thì nặng về pháp chế và quyền thuật, đi theo con đường hoàn
toàn trái ngược với đạo Nho. Hàn Phi từng bảo “ Ngô ái ngô sư ngô bưu ái chân
lý”( Ta mến thầy ta nhưng ta càng chuộng chân lý hơn)
Thấy nước Hàn suy nhược người nhà vua nuôi không phải là người cần
dùng, người cần dùng không được nhà vua nuôi. Ông thương xót người tài giỏi
4


chính trực bị bọn gian thần làm hại. Vì vậy ông viết rất nhiều sách và đã nhiều
lần dâng kiến nghị lên vua bày cách trị nước, nhưng chẳng được trọng dụng.
Nước Tần đánh Hàn trong lúc lâm nguy vua Hàn cử ông đi sứ sang Tần. Vua
Tần xem sách của ông thì rất ngưỡng mộ và muốn trọng dụng
Đường thời, Lý Tư bạn học của Hàn Phi là tể tướng của nước Tần không
đồng ý với quan điểm của Hàn Phi lo sợ vua Tần sẽ trọng dụng Hàn Phi thay thế
cho địa vị của mình. Nên đã bất chấp tín nghĩa bạn học với nhau ngầm thông
đồng với Điêu Giả hãm hại Hàn Phi, kết thúc cuộc đời bi thống vào năm 233
TCN
Hàn Phi Tử đã tiếp thu tư tưởng ba phái trước đây, phát triển và hoàn
thành đường lối trị nước: hành pháp – chấp thuật- thị thế, viết thành sách 55
thiên gọi là “ Hàn Phi Tử”. Học thuyết “ Pháp trị của ông cũng được trình bày
rất cụ thể trong đó. Và đã trở thành học thuyết chính trị quan trọng nhất của

chính trị học Trung Quốc.

5


Chương 2: Học thuyết “ Pháp trị” của Hàn Phi Tử trong lịch
sử triết học Trung Quốc
2.1. Nội dung cơ bản học thuyết “ Pháp trị” của Hàn Phi Tử
Trên cơ sở những luận điểm triết học cơ bản về bản thể luận, về con
người, Hàn Phi Tử đã đề ra học thuyết “ Pháp trị” nhấn mạnh sự cần thiết phải
cai trị xã hội bằng luật pháp. Ông cho rằng muốn thu phục được thiên hạ nhất
thiết phải có sức mạnh áp đảo cả về kinh tế lẫn quân sự chứ không phải cổ động
“ nhân”, “ nghĩa”,” lễ”, “ hiểu”, “ trung”... và để có sức mạnh phải tập trung mọi
quyền lực vào tay một ông vua. Ông vua đó phải dùng pháp trị. Pháp trị gồm 3
yếu tố : pháp – thế - thuật.
Trước Hàn Phi Tử thì Thận Đáo đề cao “ thế”. Thân Bất Hại đề cao “
Thuật”, Thương Ưởng đề cao “ Pháp” trong phép trị nước thì Hàn Phi Tử là
người đầu tiên coi trọng cả ba yếu tố đó. Ông cho rằng “ Pháp”, “ Thế”, “
Thuật” là ba yếu tố thống nhất không thể tách rời trong đường lối trị nước bằng
pháp luật.
Trong sự thống nhất đó thì “ Pháp” là luật hay sự quy định luật lệ được
viết thành văn bản quốc gia. Nó được chép để ở công đường công khai rõ ràng
đối với trăm họ. “Thế” là công cụ phương tiện tạo nên sức mạnh. Còn “ Thuật”
là phương pháp cách thức để thực hiện nội dung chính sách cai trị. Tất cả đều là
công cụ của bậc đế vương.
2.1.1. Nội dung trị nước bằng “ pháp luật”
Trước hết trong ba yếu tố của đường lối trị nước của Hàn Phi Tử thì “
Pháp” được coi là yếu tố đầu tiên. Trong tư tưởng Trung Quốc cổ đại thì “
Pháp” là phạm trù triết học được hiểu theo hai nghĩa: Theo nghĩa rộng thì “
Pháp” là thể chế quốc gia là chế độ chính trị xã hội của đất nước. Theo nghĩa

hẹp “ Pháp” là những điều luật, luật lệ những luật lệ mang tính nguyên tắc và
khuôn mẫu, kế thừa và phát triển lý luận pháp trị của pháp gia thời trước. Hàn
Phi Tử cho rằng “Pháp là hiến lệnh công bố của các công sở thưởng hay phạt
6


đều được dân tin chắc là thi hành, thưởng người cẩn thận, giữ pháp luật, phạt kẻ
phạm pháp, như vậy bề tôi sẽ theo Pháp”.
Như vậy theo Hàn Phi Tử nội dung chủ yếu của thi hành pháp luật là
thưởng phạt mà ông gọi là “ nhị cán” – hai cánh tay vua. Ông phê phán Thương
Uổng trước đây chỉ phạt tội mà không thương công và cho rằng cần phải thực
hiện toàn diện cả hai mặt khuyến khích và răn đe thông qua thường và phạt.
Trước hết ông khẳng định thưởng phạt phải trúng. Muốn vậy trước hết
phải có những điều luật, luật lệ những quy định mang tính nguyên tắc làm tiêu
chuẩn, tương tự như dây mực cái quy, cái của…để đo đạc đúng sai. Phải thông
báo cho mọi người biết luật “Luật là cái được con người biên chép vào sổ sách
đặt ở nơi quan phủ để ban khắp cho trăm họ. Do luật pháp đó mà trăm họ được
báo cho biết những gì phải làm, những gì không được làm”.
Thứ hai, thưởng phạt phải công bằng, không thiên lệch không vị thân.
Mọi người đều bình đẳng trước pháp luật. Ông cho rằng sự trừng phạt không
cần biết tước vị của giới quý tộc vì luật không xu nịnh gới quý tộc.
Thứ ba, Hàn Phi Tử cho rằng thưởng hậu phạt nặng để răn đe kẻ vi phạm
khuyết khích người làm việc tốt. Bởi vì “ thường mà hậu thì điều mình muốn
cho dân làm, dân mới mau mắn mà làm phạt mà nặng thì điều mình ghét và cấm
đoán, dân mới mau mắn mà tránh thưởng hậu không phỉa chỉ để thưởng công mà
còn để khuyến khích dân chúng nữa, phạt mà nặng không phải chỉ phạt một kẻ
gian mà còn để năng kẻ bậy trong nước”.
Bên cạnh việc thưởng phạt Hàn Phi còn khẳng định sự vật luôn luôn biến
đổi nên “ không có thứ pháp luật nào luôn luôn đúng” từ đó phải thưởng xuyên
thay đổi “ Pháp” cho phù hợp với xã hội. Có như vậy “Pháp” mới thực sự làm

đúng nhiệm vụ thước đo công lý được.
Có thể nói “Pháp” để cứu loạn cho dân chúng, trừ họa cho thiên hạ khiến
cho kẻ mạnh không lấn kẻ yếu, đám đông không hiếp đáp số ít, người ra không
được hưởng hết tuổi đời, bọn trẻ mồ côi được nuôi lớn, biên giới không được
7


xâm phạm, vui tôi thân nhau, cha con bảo vệ nhau, không lo bị giết hay bị cầm
tù”.
Với nội dung và mục đích như trên “Pháp” thật sự là tiêu chuẩn khác quan
để phân định danh phận, phải trái, tốt xấu thiện ác và sẽ làm cho nhân tâm và
vạn sự đều qui về một mối, đều lấy pháp làm chuẩn. Vì vậy “Pháp” trở thành
gốc của thiên hạ.
2.1.2. “Pháp” phải kết hợp với “ Thế”
Trong học thuyết “ pháp trị” của Hàn Phi Tử bên cạnh yếu tố “ Pháp” thì “
Thế” là yếu tố không thể thiếu được. Pháp gia cho rằng muốn có luật pháp rõ
ràng minh bạch và được dân tuyệt đối tôn trọng thi hành thì vua phải có “ thế”.
“ Thế” theo Hàn Phi có nghĩa là địa vị , thế lực, quyền lực, quyền uy của
vua. Địa vị quyền uy này là độc tôn nhất nhất mọi người phải tuân phục. Thế
có vị trí quan trọng đến mức có thể thay thế được hiền nhân” chỉ có bậc hiền trí
không đủ trị dân mà địa vị quyền thế lại đủ đóng vai trò của bậc hiền vậy… Kiệt
làm thiên tử chế ngự được thiên hạ không phải vì hiền mà vì có quyền thế.
Nghiêu thất phu không trị nổi ba nhà không phải vì hiền mà vì địa vị thấp”.
“ Thế” không chỉ là địa vị, quyền hành của vua mà còn là sức mạnh của
dân của đất nước, của vạn nước của xu thế lịch sử “ Nếu không có gió kích động
thì làm sao có cái nỏ yếu lại bắn được mũi tên đi xa nếu không có trợ giúp của
quần chúng sao kẻ kém tài lại cai trị được thiên hạ”.
Muốn xây dựng củng cố thế, theo Hàn Phi phải trông vào hai việc nông
và chiến làm cho nước giàu binh lực mạnh, có nhiều lúa để nuôi quân để chiến
thắng. Ông cũng phê phán các học phái khác chỉ gỏi bàn hão không lo việc thiết

thực là nông và chiến. “ Học rộng khôn ngoan, biện luận giỏi như Khổng Tử,
Mặc Tử là nhất. Nhưng Khổng Tử, Mặc Tử không lo cày bừa thì nước được lợi
cái gì? Trau dồi chữ hiếu , ít ham muốn như Tăng Sâm, Sử Ngư là nhất. Nhưng
Tăng Sâm, Sử Ngư không đánh giặc thì nước được lợi cái gì?”.

8


Như vậy Hàn Phi Tử đã khẳng định mối quan hệ giữa “ Pháp” và “ Thế. “
Pháp” muốn cai trị được thì phải có “ thế”. Một vị vua muốn cai trị đất nước
phải có “ pháp” và “ thế”. Vì có “ pháp” thì dân mới yên mà muốn dân nghe
theo “ pháp” thì vua phải có “ thế”
2.1.3. “ Pháp” kết hợp với “ Thuật”
Sau “ Pháp” và “ Thế” Hàn Phi Tử cũng rất chú ý đến yếu tố “ Thuật”
trong đường lối pháp trị. “ Thuật” trước hết là cách thức, phương thức mưu lược,
thủ đoạn trong việc tuyển người, dùng người giao việc, xét đoán sự vật, sự việc
mờ nhờ nó pháp luật được thực hiện và nhà vua có thể “ trị quốc bình thiên hạ”.
Nhiệm vụ chủ yếu của “ Thuật” cai trị là phân biệt rõ ràng những quan lại trung
thành tận tâm và những quan lại xu nịnh ma giáo, thử năng lực của họ, kiểm tra
công trạng và những sai lầm của họ với mục đích tăng cường bộ máy cai trị trên
cơ sở bộ máy luật pháp và chế độ chuyên chế”.
Theo Hàn Phi thì “ thuật” khác “ pháp” ở 3 điểm : Một là “Pháp” để trị
dân còn “ Thuật” là để nắm giữ quan lại. Hai là “ Pháp” thì vua quan cùng giữ.
“ Thuật” là chuyên để vua dùng. Ba là “ Pháp” thì công bố cho mọi người rõ
còn “ Thuật” là cơ trí ngầm của nhà vua không nên cho quan dân biết”.
Hàn Phi Tử cũng chỉ rõ ra 5 thuật cơ bản đó là : bổ nhiệm, khảo hạch, bí
mật, nắm quyền thưởng phạt, đề phòng kẻ gian: Thứ nhất là thuật bổ nhiệm
Hàn Phi khẳng định “ Dùng công việc để sử dụng người đó là cái then chốt
cửa sự
còn hay mất, trị hay loạn”. Việc chọn và sử dụng quan lại phải dựa vào tài năng

,không dựa vào dòng dõi đức hạnh. Bàn về những điều mất nước ông cũng
khẳng đinh “ Nghe vì căn cứ theo tước mà không đợi tra xét chỉ dùng người làm
vây cánh cho mình thì mất. Các quan của các nhà riêng được dùng mà những
người lập công không được dùng có thể mất”.
Thứ hai là thuật “ Khảo hạch” Tiếp thu thuyết “ Chính danh” của Nho gia,
Hàn Phi chủ trường theo danh và thực mà khảo hạch. Danh là chức vụ phận vị
9


theo danh mà trách thực, làm cho quan lại phải chịu trách nhiệm về bổn phận
của mình. “ Bề tôi tỏ lời muốn làm việc gì thì vua sẽ theo lời mà trao việc, cứ
theo việc mà trách công.Công xứng việc, việc xứng lời thì thưởng. Công không
xứng việc, việc không xứng lời thì phạt”. Nghĩa là phải kiểm tra từng lời một,
kiểm tra từng người một, coi trọng sự thực, không văn hoa mĩ miều. Bọn quyền
cao chức trọng hay lợi dụng địa vị cầu lợi mà nói dối. Phải nghe cho hết, không
bộc lộ thái độ rồi kiểm chứng.
Thứ ba là thuật “ Bí mật” Hàn Phi Tử khẳng định “ Phàm việc làm mà
thành là do chỗ bí mật, lời nói mà thất bại là do chỗ tiết lộ”. Ông cho rằng có bí
mật mới lừa được kẻ địch thậm chí bất chấp nhân nghĩa. ”Nhà vua chớ để lộ
cho người ta biết mình muốn gì, bỏ điều mình ham bỏ điều mình ghét mới thấy
rõ bụng dạ bề tôi”.
Thứ tư là thuật “ nắm quyền thưởng phạt”: Vua phải nắm quyền thưởng
phạt, Hàn Phi gọi là “ nhị cán”.Quyền thưởng phạt vua không nắm thì sẽ bị hại.
Điền thường nắm quyền thưởng phạt của vua Tề Giản Công, Tử Hãn nắm quyền
phạt của vu Tống. Kết quả Tề Giản Công bị giết, vua Tống bị cướp ngôi” Vì
vậy nhà vua không thể trao cho người ta công cụ sắc bén này. Nắm quyền
thưởng phạt vừa là thuật vừa là giữ thế.
Thứ năm là thuật “ Đề phòng kẻ gian” : “Cái lợi thế của bề tôi là không
có khả năng mà được làm quan, không có công lao mà được giàu sang”[5;11]
cho nên họ tìm mọi cách lợi dụng, lừa dỗi vua cầu lợi, phải đề phòng. Hàn Phi

đã viết 14 thiên nói về bày tôi gian dối, thiên 15 nêu ra 47 điều nước mất, thiên
30 nêu 7 thuật thường dùng, thiên 47 nêu 8 thuyết sai lầm đều là những thuật cụ
thể dùng người, phòng kẻ gian.
Tóm lại học thuyết Pháp trị của Hàn Phi tử là sự kết hợp “ pháp” – “
thuật” – “ thế”. Trị nước, trừ gian chỉ có thể thực hiện được nếu kết hợp hài hòa
bau yếu tố này. Ba yếu tối này hỗ trợ nhau, không tách rời trong đó mỗi bộ phận
có vai trò nhất định trong một chỉnh thể tạo nên giá trị học thuyết của Hàn Phi
Tử. Do đó tư tưởng “ pháp trị” mặc dù đã hình thành khá sớm trong lịch sử tư
10


tưởng Trung Quốc cổ đại với Quản Trọng là người khởi xướng. Nhưng Hàn Phi
Tử là người duy nhất hoàn thiện vừa thống nhất các tử tưởng về “ Thế”, “
Thuật”, “ Pháp” . Nêu lên tư tưởng chủ đạo của pháp gia là muốn trị nước, yên
dân phải lấy pháp luật làm trọng và nếu dùng pháp trị thì xã hội có phức tạp bao
nhiêu, nức có đông dân bao nhiều thì vẫn “ trị quốc bình thiên hạ được”.
2.2.

Những ưu điểm và hạn chế của học thuyết “ Pháp trị” của Hàn Phi

Tử
2.2.1. Ưu điểm
Trong thời thế loạn lạc, chiến tranh liên miên, lòng người phân tán trong
khi học thuyết của Khổng Tử - Mạnh Tử lúc này trở thành quá lý tưởng, xa rời
thực tế, không thể coi là giải pháp cho thời cuộc lúc đó. Bối cảnh ấy thúc đẩy sự
ra đời của học thuyết “ Tính ác” của Tuân Tử và hệ quả tất yếu của nó là học
thuyết pháp trị của Hàn Phi.
Trong học thuyết Pháp trị, Hàn Phi là người đầu tiên nêu cao tư tưởng
pháp trị : “ nước phải có phép, xã hội phải có lề luật”, đó là cái mà xã hội hiện
đại gọi là “ xây dựng nhà nước pháp quyền”. Trong tư tưởng pháp trị ấy, Hàn

Phi Tử có những luận điểm rất “ hiện đai”, đặc biệt là tư tưởng công bằng. “ Mọi
người đều bình đẳng trước pháp luật” đó là chủ trương trong các hiến pháp của
các nước hiện đại. Mặt khác Hàn Phi đã có cái nhìn hết sức sâu sắc về thực tiễn
để đưa ra các tư tưởng pháp trị. Ông khác với Khổng Tử mượn đời xưa để phê
phán đời nay hay lấy cái quá khứ được tuyệt đối hóa để đo hiện tại. Ông cho
rằng mọi suy nghĩ, mọi hành động, mọi lý luận đều phải được bắt nguồn từ
chính thực tiễn của đất nước. Các nhà Nho trên mây trên gió bàn việc chính sự
chẳng qua chỉ như trẻ con nghịch đất không thể đem lại hiệu quả thực tế.
2.2.2. Nhược điểm
Tuy nhiên bên cạnh những ưu điểm đó khi bàn đến học thuyết Pháp trị
của Hàn Phi Tử cũng có thể thấy rõ những nhược điểm của nó.Trước hết ta có
thể thấy Hàn Phi Tử đã xây dựng học thuyết Pháp trị dựa trên quan điểm bản
11


tính con người là ác mà không thấy thiện chỉ thấy ham lợi mà không thấy hết
nhân nghĩa. Có lẽ cũng vì vậy mà ông đã quá chú trọng đến hình phạt, pháp luật
của ông đưa ra quá hà khắc. Cũng vì vậy mà học thuyết của ông được Tư Mã
Thiên nhận xét : “ khắc bạc, ít ân đức”. Với ảnh hưởng của nó đến quá trình
hình thành chính sách cai trị cảu Tần Thủy Hoàng, Hàn Phi Tử cũng phải chịu
một phần trách nhiệm đối với sự bạo tàn cũng như sự sụp đổ của đế quốc Tần.
Nhược điểm thứ hai trong tư tưởng của ông đó là Hàn Phi dựa trên quyền
lợi của một ông vua trong chế độ quân chủ. Pháp luật đặt ra vì quyền lợi của
vua, không phải vì lợi ích của đại đa số nhân dân lao động. Cho nên ở thời quân
chủ khi đã đạt mục đích thì vua quan lại trở lên sa đọa hư hỏng. Khát vọng tốt
lành của Hàn Phi khó có thể đạt được trong cái khuôn quân chủ ấy.
Có thể nói những nhược điểm này của Hàn Phi Tử là do thời thế lúc đó
vua vẫn là người đứng trên tất cả. Vua là con trời do đó hạn chế của Hàn Phi Tử
có thể coi là hạn chế của thời đại. Do đó chúng ta không thể phủ nhận những
đóng góp giá trị của học thuyết Pháp trị của Hàn Phi tử đã mang lại trong lịch sử

triết học Trung Hoa nói riêng và lịch sử nhân loại nói chung.
 Tiểu kết
Tóm lại Hàn Phi Tử từ quan điểm bản tính con người là ác là ham lợi đã
xây dựng lên học thuyết pháp trị. Học thuyết pháp trị của Hàn Phi Tử là sự kết
hợp ba yếu tố “ pháp – thuật – thế”. Ba yếu tố này có mối quan hệ biện chứng
thống nhất với nhau, hỗ trợ nhau không tách rời trong đó mỗi yếu tố có vai trò
nhất định trong mộ chỉnh thể “pháp trị”. Nói cách khác muốn xã hội yên ổn thì
phải có “ pháp” mà muốn “ pháp” được thi hành thì phải có “thuật – thế”. Mà
nhà vua muốn đảm bảo “ thuật – thế” thì phải có “ pháp” sử dụng pháp như một
công cụ củng cố “ thế - thuật” của mình.
Học thuyết pháp trị của Hàn Phi mặc dù còn có những ưu điểm và hạn chế
nhất định nhưng những tư tưởng pháp trị của Hàn Phi Tử nói riêng và các tư
tưởng triết học của Hàn Phi nói chung vẫn giữ nguyên những giá trị tốt đẹp của
nó. Những giá trị đó đã được chứng minh trong chế độ quản lý đất nước dựa
12


trên pháp luật được thiết lập trên toàn thế giới và ở đâu cũng vậy pháp luật được
bảo vệ chủ yếu bằng hình pháp. Học thuyết pháp trị của Hàn Phi Tử đã trở
thành một học thuyết tiêu biểu trong các tư tưởng triết học thời Trung Hoa cổ
đại.

13


Chương 3: Sự vận dụng học thuyết Pháp trị vào công cuộc xây dựng xã
hội Việt Nam hiện nay
3.1. Vận dụng tư tưởng của Pháp trị trong quản lý xã hội và điều hành đất
nước
Hơn 15 năm qua, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước đã đạt được nhiều

thành tựu quan trọng. Đất nước ta bước vào thời kỳ phát triển mới, thời kỳ đẩy
mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá với mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh.
Để thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, chúng ta phải tiếp tục đổi mới toàn diện và triệt để các lĩnh vực đời sống
xã hội, đặc biệt là đổi mới hệ thống chính trị XHCN, xây dựng và hoàn thiện
nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân. Nhận thức rõ yêu cầu đó, Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã khẳng định: "Nhà nước ta là công cụ chủ yếu
để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, là Nhà nước pháp quyền của dân, do
dân và vì dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp
giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp. Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật".
Trong quá trình kiện toàn tổ chức, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu
quả hoạt động quản lý xã hội của nhà nước, việc kế thừa có chọn lọc những tư
tưởng và học thuyết quản lý xã hội trong lịch sử đóng vai trò đặc biệt quan
trọng. Bởi vì những tư tưởng và học thuyết quản lý xã hội, kể cả ở phương
Đông và phương Tây, đều là sản phẩm trí tuệ con người, đã được kiểm nghiệm
qua thực tiễn lịch sử. Chúng có giá trị nhất định trong việc giúp chúng ta tìm ra
những giải pháp hữu hiệu để xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền
XHCN ở nước ta trong giai đoạn hiện nay. Trong đó, thuyết pháp trị của Hàn
Phi Tử, một trong những tư tưởng chính trị - xã hội nổi bật trong thời kỳ Trung
Quốc cổ đại, đã để lại nhiều kinh nghiệm lịch sử to lớn đối với quá trình thực
hiện quản lý xã hội bằng pháp luật của nhà nước.
14


Theo tư tưởng của Hàn Phi Tử, then chốt của việc xây dựng đất nước giàu
mạnh là phải dựa vào pháp luật. Có pháp luật, pháp luật được thi hành một cách
phổ quát và đúng đắn thì xã hội mới ổn định, xã hội ổn định lại là tiền đề quan
trọng để xây dựng đất nước giàu mạnh, làm cho dân chúng được yên bình, hạnh

phúc.
Hàn Phi ví pháp luật với dây mực, cái quy, cái củ... tức là những đồ dùng
làm tiêu chuẩn để phân biệt đúng sai, phải trái. Pháp không tách rời khỏi Thế và
Thuật mà cùng tạo nên một cái kiềng ba chân. Luật pháp phải kịp thời. Hàn Phi
viết: “Thời thay mà pháp luật không đổi thì nước loạn, đời đã thay đổi mà cấm
lệnh không biến thì nước bị cắt”. Đối với Hàn Phi, pháp luật là thứ “phép công”
điều khiển hành vi của mọi người.
Vậy, thành công lớn nhất của hệ tư tưởng này, mặc dù còn bị hạn chế dưới
góc độ tư tưởng quản lý đã tạo lập nhiều quan điểm quản lý quan trọng thuộc
phạm vi quản lý vĩ mô, đã vạch ra được lôgích của quá trình quản lý xã hội bao
gồm các mức từ thấp đến cao: “Chính tâm, tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên
hạ”, đã đưa ra được trình tự tiến hành các hoạt động quản lý: “trị đạo, trị học, trị
thể, trị tài, trị phong, trị thuật” mà ngày hôm nay trong quản lý nói chung, và
quản lý kinh tế nói riêng vẫn còn có thể khai thác và sử dụng tốt.
Trên đây là một số ưu điểm nổi bật trong hệ tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi
Tử mà chúng ta có thể học hỏi và vận dụng trong quá trình quản lý và điều hành
đất nước.
Áp dụng vào thực tế, Tư tưởng Pháp gia là một trong những tư tưởng chủ
yếu và chi phối đời sống chính trị nước ta.
Nhờ pháp luật vì lẽ phải và phục vụ lợi ích chung mà trong những năm
qua công cuộc xây dựng xã hội chủ nghĩa của nhân dân ta đã đạt được một số
thành tựu đáng kể. Đó là thành tựu trong các lĩnh vực y tế, giáo dục, an ninh
quốc phòng. Nhân dân ta đoàn kết một lòng, xây dựng đời sống văn hóa ở khu
dân cư, xây dựng nếp sống tốt đẹp. Trong lĩnh vực chính trị, dân chủ hóa xã hội
15


được mở rộng. Nhân dân là người bỏ phiếu để bầu ra lực lượng đại diện cho
mình.
Sự công bằng của pháp luật đã đảm bảo cho việc thực hiện nó một cách

nghiêm túc. Đó là điểm được áp dụng ở mọi quốc gia, không riêng gì Việt Nam.
Trong môi trường công bằng của pháp luật, mọi người dân đều có quyền phát
triển tự do và bình đẳng. Yếu tố này không những duy trì sự ổn định chế độ mà
còn kích thích việc tìm ra nhân tài cho đất nước.
3.2. Vận dụng trong quản lý doanh nghiệp
3.2.1. Nhìn từ góc độ quản lý nhà nước về doanh nghiệp
Theo quan điểm của Hàn Phi, bản tính con người, trong trường hợp này là
doanh nghiệp, vốn là “ác”. Chúng ta hiểu vấn đề này như sau. Mọi doanh
nghiệp khi thành lập đều hướng đến mục đích cuối cùng là lợi nhuận. Và để đạt
được mục đích đó, doanh nghiệp sẽ tìm đủ mọi cách, thậm chí là mọi thủ đọan
để thực hiện. Phải thừa nhận rằng, trong xã hội ngày nay, bên cạnh những doanh
nghiệp làm ăn chân chính vẫn còn có một bộ phận rất lớn các doanh nghiệp chỉ
chạy theo lợi nhuận trước mắt, thực hiện những hoạt động đi ngược lại sự phát
triển chung của xã hội. Vì lợi ích của mình, doanh nghiệp sẵn sàng, đôi khi là
vô tình hoặc cố ý, giẫm đạp lên những giá trị cơ bản nhất; cạnh tranh không lành
mạnh với các doanh nghiệp khác, sản xuất, tiêu thụ sản phẩm kém chất lượng
làm ảnh hưởng đến người tiêu dùng, xả chất thải ra môi trừơng ảnh hưởng đến
cuộc sống của cộng đồng, gian lận, trốn thuế làm thất thu ngân sách nhà nước,

Vì “bản tính ác” vốn có của các doanh nghiệp, chúng ta không thể trông
chờ hay kêu gọi sự thay đổi của họ, mà phải dùng “Pháp” để ngăn chặn họ lại.
Nhà nước cần ban hành những bộ luật, quy định hoạt động của các doanh
nghiệp, kèm theo đó là những chế tài, hình phạt thích đáng dành cho những vi
phạm. Và theo Hàn Phi, vì đời sống xã hội là không ngừng biến đổi, nên những
luật này cần phải liên tục thay đổi và cập nhật cho phù hợp với sự vận động và
16


phát triển của xã hội. Thực tế trong những năm qua, chính phủ và nhà nước ta
liên tục ban hành và sửa đổi những bộ lụât, quy định điều chỉnh trong lĩnh vực

này để làm cơ sở cho việc quản lý hoạt động của các doanh nghiệp.
Như vậy, hành vi ứng xử của một doanh nghiệp sẽ chịu sự chi phối của
hai yếu tố. Thứ nhất, xuất phát từ chính bản thân của doanh nghiệp. Đó là
phương châm, đường lối họat động mà doanh nghiệp đã xác định từ khi mới
thành lập và trong quá trình họat động. Thứ hai, đó là những ràng buộc pháp lý,
đó là “Pháp” buộc doanh nghiệp phải tuân theo. Một khi doanh nghiệp làm ăn
chân chính, vì lợi ích của chính mình và vì lợi ích cộng đồng thì lúc đó “Pháp”
đóng vai trò hỗ trợ, bảo vệ doanh nghiệp. Còn ngựơc lại, doanh nghiệp làm ăn
thiếu trách nhiệm, gây ảnh hưởng đến cộng đồng, đến xã hội thì “Pháp” sẽ đóng
vai trò như một công cụ trừng phạt doanh nghiệp.
3.2.2. Nhìn từ góc độ quản lý nội bộ doanh nghiệp
Doanh nghiệp là chủ thể kinh tế tiến hành các hoạt động kinh tế theo một
kế hoạch nhất định nhằm mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Để đạt được mục tiêu
đó, bên cạnh việc có một mục tiêu đúng, đường lối hoạt động tốt và kế hoạch
hoạt động hiệu quả thì trước hết doanh nghiệp cần có cơ cấu tổ chức chặt chẽ,
môi trường nội bộ thuận lợi, các nguyên tắc, kỷ luật được duy trì và phát huy vai
trò của nó. Hay nói cách khác, một doanh nghiệp trước khi muốn đạt được
thành công bên ngoài thì cần phải xây dựng nội bộ của mình thành một tập thể
vững mạnh, gây dựng một hình ảnh tốt đẹp trong mắt khách hàng, đối tác bên
ngoài.
Nhưng sức mạnh nội bộ ấy đến từ đâu? Nếu xem xét một cách rời rạc,
doanh nghiệp là một tập hợp của những con người cùng làm việc với nhau để
đạt đến mục tiêu chung đã được đặt ra. Nhưng khi nhắc đến con người thì đó là
một đối tượng tương đối phức tạp, từ suy nghĩ đến hành động. Theo Hàn Phi, vì
cũng là con người cho nên bản chất của mỗi nhân viên trong doanh nghiệp vốn
là “ác”. Nếu hiểu như vậy thì điều này có nghĩa là bên trong mỗi con người, mỗi
một nhân viên trong doanh nghiệp, ngoài lợi ích chung của doanh nghiệp thì
17



luôn tồn tại những suy nghĩ về lợi ích riêng, và những lợi ích riêng đó đôi khi lại
làm ảnh hưởng đến lợi ích chung. Những xung đột về lợi ích riêng của các nhân
viên có nguy cơ làm cản trở việc đạt đến mục tiêu tổ chức. Vì vậy, nếu chiếu
theo tư tưởng Hàn Phi thì không thể trông chờ vào việc họ sẽ hy sinh hay
nhượng bộ lợi ích riêng, mà cần phải có những biện pháp để ngăn chặn họ lại.
Đó là sự cần thiết của việc cần phải có những nội quy của doanh nghiệp để
hướng các nhân viên đến những nguyên tắc ứng xử chung.
Thế nhưng, để những nội quy, quy tắc ứng xử đó được tuân thủ và thực
hiện đầy đủ thì không thể trông chờ vào sự tự nguyện chấp hành của mỗi nhân
viên, mà cần phải có một sự áp đặt, cưỡng chế thi hành, tức là phải có “Thế”.
Những quy định ấy phải được tuân thủ một cách triệt để và phải có những hình
thức thưởng phạt nghiêm minh áp dụng cho tất cả nhân viên.
Việc quản lý con người trong doanh nghiệp thì phải được thực hiện trên
hai khía cạnh. Thứ nhất, đó là chính từ bản thân người lao động trong doanh
nghiệp. Đó là ý thức mỗi người về trách nhiệm, lợi ích chung, từ việc phải biết
hy sinh lợi ích cá nhân vì lợi ích tập thể. Thứ hai, khi khi mà ý thức đó chưa đủ
mạnh thì cần phải có những quy định ràng buộc, ở đây là những nội quy của tổ
chức, doanh nghiệp với những quy định chặt chẽ và chế độ thưởng phạt thích
đáng.

18


Kết luận
Những tư tưởng về pháp trị của pháp gia đã có những đóng góp to lớn cho
sự phát triển của tư tưởng Trung Quốc cổ đại và nhất là cho sự nghiệp thống
nhất đất nước Trung Hoa lúc bấy giờ. Cần phải khẳng định rằng trong bối cảnh
xã hội Trung Hoa cuối thời Chiến Quốc tư tưởng pháp trị của pháp gia mà tiêu
biểu nhất là của Hàn Phi Tử có nhiều yếu tố tích cực đáp ứng được yêu cầu phát
triển của lịch sử.

Học thuyết pháp trị của Hàn Phi Tử đã phản ánh đúng quy luật khách
quan nên đã đáp ứng được yêu cầu của lịch sử. Tuy nhiên do đã thủ tiêu những
giá trị nhân đạo, nhân văn là hạt nhân tích cực trong nội dung các học thuyết “
Đức trị”, “ Kiêm ái”... nên ở phương diện này Pháp trị lại phản ánh một bước lùi
lịch sử. Mặc dù vậy học thuyết pháp trị của Hàn Phi Tử vẫn để lại những bài
học kinh nghiệm quý giá cho chúng ta hiện nay.
Ngày nay, chúng ta đang xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa cảu nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân thì một yêu cầu quan trọng là
phải xây dựng hệ thống pháp luật thống nhất đồng bộ, tạo môi trường pháp lý ổn
định cho phát triển kinh tế - xã hội. Qua thực tiễn hơn mười năm đổi mới, bên
cạnh những thành tựu không thể phủ nhận trong quá trình hoạt động thực thi
pháp luật trên thực tế còn nhiều yếu kém là nguyên nhân làm cho kỷ cương phép
nước không nghiêm. Những hạt nhân tiến bộ của Học thuyết pháp trị chắc chắn
sẽ cho chúng ta nhiều suy nghĩ trong công tác xây dựng và hoàn thiện bộ máy
nhà nước và hệ thống pháp luật hiện nay.

19


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Bộ Giáo dục và đào tạo : Giáo trình triết học , NXB chính trị - hành chính,
Hà Nội , 2012 Khoa Triết học – Học viện báo chí tuyên truyền : Giáo trình lịch
sử
triết học trung Quốc thời kỳ cổ - trung đại, NXb chính trị - Hành chính ,Hà Nội,
2009
2. Bùi Thanh Hương – Nguyễn Văn Đại : Khái lược lịch sử triết học – NXB
chính trị hành chính, Hà Nội, 2011
3. Doãn Chính (chủ biên), Đại cương triết học Trung Quốc, NXB Chính trị quốc
gia Hà Nội 197, tr.348
4. Giản Chi – Nguyễn Hiến Lê: Đại Cương Triết học Trung Quốc gồm 2 tập,

NXB Thanh Niên, Hà Nội 2004
5. Hàn Phi: Hàn Phi Tử, NXB Văn Hoá, 9 -2005
6. TS.KH Lê Cảm :Học thuyết nhà nước pháp quyền – Một số vấn đề trong việc
hh́nh thành và phát triễn. Tạp chí nghiên cứu lập pháp, số 10/2002.
7. Lan P.MrGreal : Những tư tưởng gia vĩ đại phương Đông, NXB Lao động
Hà Nội 2005
8. Lại Thuần Mỹ- Trần Tử Linh : Hàn Phi Tử - Tinh hoa trí tuệ qua danh nghôn
– NXB Văn Hóa, 03 – 2008
9. Tạp chí khoa học và công nghệ, Đại học Đà Nẵng - Số 3(26).2008.137

20



×