Tải bản đầy đủ (.docx) (18 trang)

Vị trí của điều ước quốc tế trong hệ thống pháp luật Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (123.89 KB, 18 trang )

A.

LỜI NÓI ĐẦU
Là chủ thể của luật quốc tế, nước ta là một phần không thể tách rời của đời
sống quốc tế. Cùng với quan điểm hội nhập với thế giới là một xu thế khách quan,
là con đường đúng đắn để đưa đất nước đi lên, phát triển vững mạnh về mọi mặt.
Những năm qua Việt Nam không ngừng tham gia nhiều tổ chức kinh tế, chính trị,
văn hóa trên thế giới với mục đích học hỏi, giao lưu, giúp đỡ cùng phát triển. Cùng
với đó là tiến hành tham gia, ký kết nhiều điều ước quốc tế song phương, đa
phương. Có thể thấy việc này là một bước đi đúng đắn của Đảng và Nhà nước.
Tuy nhiên khi đặt mình vào một khuôn khổ pháp lý ngoài pháp luật quốc gia
thì lại là một vấn đề khá phức tạp. Việt Nam là nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa,
theo quan điểm pháp luật quốc gia là tối thượng. Khi tham gia vào quan hệ được
điều chỉnh bởi điều ước quốc tế, ta vừa phải đảm bảo pháp luật quốc gia vẫn giữ
được vị trí tối thượng vốn có, vừa phải tạo điều kiện để điều ước quốc tế được thực
thi một cách tốt nhất, tránh ảnh hưởng đến lợi ích của những bên liên quan. Muốn
làm được điều đó phải đảm bảo tạo được sự hài hòa và thống nhất giữa hai hệ
thống này, mà trước hết là phải hiểu xác định rõ được tầm quan trọng, giải quyết tốt
được mối quan hệ giữa hai phạm trù luật này. Nắm bắt được vị trí của điều ước
quốc tế trong hệ thống pháp luật quốc gia có ý nghĩa lớn trong việc áp dụng, thực
thi pháp luật.
Nhận thấy được tầm quan trọng của vấn đề này. Trong bài viết này, bằng
phương pháp nghiên cứu phân tích, bình luận sẽ nghiên cứu về vấn đề “Vị trí của
điều ước quốc tế trong hệ thống pháp luật Việt Nam”. Nhằm giúp mọi người có
cái nhìn tổng thể, khách nhất về vấn đề này.

B.
I.
1.

NỘI DUNG


Một số vấn đề pháp lý về điều ước quốc tế.
Khái niệm, đặc điểm của điều ước quốc tế.


Khái niệm điều ước quốc tế được quy định tại điểm a Khoản 1 Điều 2 Công
ước viên năm 1969 về Luật Điều ước quốc tế thì “Thuật ngữ “Điều ước” dùng để
chỉ một Hiệp định quốc tế được ký kết bằng văn bản giữa các quốc gia và được
pháp luật quốc tế điều chỉnh, dù được ghi nhận trong một văn kiên duy nhất hoặc
trong hai hay nhiều văn kiện có quan hệ với nhau và bất kể tên gọi riêng của nó là
gì”.
Từ khái niệm trên có thể thấy điều ước quốc tế có những đặc trưng cơ bản
sau:
Thứ nhất, về chủ thể của điều ước quốc tế là chủ thể của luật quốc tế, chính
các chủ thể luật quốc tế (cơ bản là các quốc gia) là thực thể xây dựng và sáng tạo
nên các quy phạm điều ước quốc tế.
Thứ hai, về hình thức của điều ước quốc tế được tồn tại dưới hình thức văn
bản, tùy thuộc vào nội dung điều ước điều chỉnh, tùy thuộc sự thỏa thuận các bên
tham gia tên gọi của điều ước rất đa dạng.
Thứ ba, nội dung của điều ước quốc tế phản ánh sự thỏa thuận, thống nhất về
mặt ý chí giữa các chủ thể của Luật quốc tế với nhau và là kết quả của quá trình
đấu tranh nhân nhượng thỏa thuận giữa các bên tham gia điều ước quốc tế.
2. Hình thức điều ước quốc tế.
Hình thức điều ước quốc tế là những vấn để liên quan đến tên gọi và ngôn
ngữ của điều ước quốc tế:
Về tên gọi điều ước quốc tế: Thuật ngữ “điều ước quốc tế” là một danh từ
chung nhất để chỉ tất cả mọi sự thỏa thuận quốc tế được thể hiện dưới hình thức
văn bản do hai hay nhiều chủ thể của Luật quốc tế ký kết. Trong từng quan hệ quốc
tế cụ thể, tùy thuộc vào nội dung, lĩnh vực điều chỉnh của điều ước quốc tế, tùy
thuộc vào sự thỏa thuận của các bên tham gia mà điều ước quốc tế có thể có những
tên gọi rất khác nhau như: Hiệp ước, Hiệp định, Công ước, Tạm ước, Nghị định

thư, Công hàm.... Trong các văn bản pháp luật quốc tế hiện hành cũng như pháp
luật về điều ước của mỗi quốc gia (trong đó có pháp luật Việt Nam) không có một
quy định nào đưa ra một quy tắc chung nhằm ấn định tên gọi cho từng loại điều ước
quốc tế cụ thể. Thực tiễn ký kết điều ước quốc tế cho thấy, việc đặt tên cho từng


điều ước quốc tế không phải tùy tiện mà thường tuân theo những thông lệ quốc tế
nhất định : Chẳng hạn Công ước quốc tế là tên gọi dùng để chỉ các điều ước quốc tế
đa phương mang tính chất toàn cầu (có số lượng thành viên đông trên phạm vi thế
giới), nội dung của những điều ước quốc tế thuộc loại này điều chỉnh những vấn đề
mang tính chất chuyên môn được đông đảo các chủ thể luật quốc tế quan tâm. Hiệp
ước hay Hiệp định là tên gọi của loại điều ước quốc tế thường dùng để điều chỉnh
các quan hệ song phương hoặc đa phương trong phạm vi khu vực. Hoặc Nghị định
thư là một loại điều ước quốc tế không bao giờ đứng độc lập, nó luôn gắn với một
điều ước quốc tế khác vì nhiệm vụ của nó là nhằm sửa đổi hay bổ sung cho một
điều ước quốc tế đã được ký kết. Hay khi nói đến Hiến chương, Quy chế đây là
những điều ước quốc tế mang tính chính trị cao thường gắn với một tổ chức quốc tế
nhất định.
Về ngôn ngữ điểu ước quốc tế: Việc lựa chọn sử dụng ngôn ngữ nào khi xây
dựng điều ước quốc tế có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Với các điều ước quốc tế
song phương ngôn ngữ điều ước quốc tế thường là ngôn ngữ của hai bên ký kết trừ
khi có thỏa thuận khác (thể hiện nguyên tắc bình đẳng về chủ quyền quốc gia). Với
các điều ước quốc tế đa phương mang tính chất khu vực hoặc toàn cầu, ngôn ngữ
điều ước quốc tế do các bên tham gia kí kết thỏa thuận lựa chọn. Theo quy định của
Luật Điều ước quốc tế các văn bản điều ước quốc tế được soạn thảo bằng ngôn ngữ
đã thỏa thuận đều là văn bản gốc và có giá trị pháp lý như nhau.
3. Nội dung điều ước quốc tế ( hay còn gọi là cơ cấu điều ước quốc tế).
Nội dung điều ước quốc tế phản ánh hình thức bên trong (cơ cấu) của điều
ước quốc tế. Hầu hết các điều ước quốc tế song phương hoặc đa phương thường có
kết cấu gồm 3 phần như sau:

Thứ nhất phần lời nói đầu: Phần này không được chia thành các chương,
điều, khoản. Thường có nội dung ngắn gọn hơn so với các phần còn lại của điều
ước quốc tế. Trong phần này không chứa dựng các quy phạm cụ thể xác lập quyền
và nghĩa vụ cho các bên ký kết mà chỉ bao gồm các quy định chung như: Lý do ký
kết, mục đích ký kết, tên của các bên tham gia ký kết.


Thứ hai, phần nội dung chính: Đây là phần trọng tâm chính của điều ước
quốc tế, phần này bao gồm các chương, điều, khoản chứa đựng các quy phạm pháp
luật quốc tế thế hiện sự thỏa thuận về mặt ý chí của các bên nhằm xác lập quyền và
nghĩa vụ cho các bên tham gia ký kết điều ước quốc tế.
Thứ ba, phần cuối: Phần này bao gồm các điều khoản quy định về thời hạn,
thời điểm có hiệu lực của điều ước quốc tế, ngôn ngữ soạn thảo điều ước quốc tế
vấn để gia nhập, sửa đổi, bổ sung, bảo lưu điều ước quốc tế…
Ngoài 3 phần trên, trong một số điều ước quốc tế đa phương phổ cập còn có
một hoặc một số phụ lục đính kèm. Các phụ lục này cũng là một bộ phận cấu thành
không thể tách rời và luôn đi kèm với điều ước quốc tế đó
4. Phân loại điều ước quốc tế.
Trong khoa học pháp luật quốc tê có nhiều tiêu chỉ khác nhau để phân loại
điều ước quốc tế.
Căn cứ vào số lượng chủ thể tham gia ký kết, điều ước quốc tế được phân
-

thành các loại sau hai loại như sau:
Điều ước quốc tế song phương: Là những điều ước quốc tế được ký kết giữa hai

-

chủ thể của luật quốc tế
Điều ước quốc tế đa phương: Là những điều ước quốc tế được ký kết bởi nhiều chủ


-

thể của luật quốc tế (ít nhất từ 3 chủ thể trở lên).
Căn cứ vào lĩnh vực điều chỉnh của điều ước quốc tế có ba loại như sau:
Điều ước quốc tế về chính trị: Là những điều ước quốc tế song phương hoặc đa
phương điều chỉnh những nội dung mang tính chất chính trị quốc tế (về biên giới,

-

về hòa bình an ninh quốc tế về vũ khí hóa học...)
Điều ước quốc tế về kinh tế thương mại: Là những điều ước quốc tế song phương

-

hoặc đa phương điều chỉnh những nội dung mang tính chất kinh tế, thương mại.
Điều ước quốc tế về văn hóa, khoa học, kỹ thuật: Là những điều ước quốc tế song
phương hoặc đa phương điều chỉnh những nội dung mang tính chất văn hóa, khoa

-

học, kỹ thuật.
Căn cứ vào phạm vi áp dụng của điều ước quốc tế có hai loại như sau:
Điều ước song phương: Phạm vi áp dụng giữa hai chủ thể
Điều ước đa phương mang tính chất khu vực: Phạm vi áp dụng giữa chủ thể trong
khu vực địa lý nhất định


II.


Điều ước đa phương mang tính chất phổ cập (toàn cầu): Phạm vi áp dụng rộng liên
quan đến các chủ thể trên phạm vi toàn thế giớỉ.
Một số học thuyết về mối quan hệ giữa điều ước quốc tế với pháp luật quốc
gia.
Điều ước quốc tế là một trong các nguồn chính của luật pháp quốc tế bên
cạnh tập quán quốc tế và các nguyên tắc pháp luật chung. Mối quan hệ giữa điều
ước quốc tế và pháp luật quốc gia thường được xem xét theo hai học thuyết về mối
quan hệ giữa pháp luật quốc tế nói chung và pháp luật quốc gia: thuyết nhất nguyên
luận và thuyết nhị nguyên luận.
Theo thuyết nhất nguyên luận, 1điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia là hai
bộ phận của cùng một hệ thống pháp lý, do đó các quy định của luật pháp quốc tế
sẽ được áp dụng trực tiếp vào bên trong các quốc gia. Nói cách khác, điều ước quốc
tế trở thành một nguồn chính thức của pháp luật quốc gia, có thể được viện dẫn, áp
dụng trực tiếp bởi các cơ quan, tổ chức, cá nhân hay trước các toà án quốc gia. Các
quốc gia không cần thiết phải ghi nhận lại các quy định của điều ước quốc tế vào
trong pháp luật quốc gia, mà chỉ cần có quy định mang tính nguyên tắc chung để
công nhận hiệu lực của điều ước quốc tế.
Về hiệu lực pháp lý của điều ước quốc tế, có hai quan điểm chính. Từ quan
điểm thứ nhất, có thể có ý kiến cho rằng thuyết nhất nguyên luận xem luật pháp
quốc tế có hiệu lực pháp lý cao hơn so với pháp luật quốc gia. Quan điểm thứ hai
cho rằng luật pháp quốc tế có hiệu lực thấp hơn so với quy định pháp luật quốc gia.
Khác với thuyết nhất nguyên luận, thuyết nhị nguyên luận cho rằng luật pháp
quốc tế và pháp luật quốc gia là hai hệ thống pháp lý riêng biệt. Sự tách biệt này là
do cách thức hình thành, đối tượng điều chỉnh và phương pháp điều chỉnh của luật
pháp quốc tế khác biệt hẳn so với pháp luật quốc gia. Do đây là hai hệ thống pháp
1 Trần Hữu Minh Duy , Hiệu lực pháp lí và việc áp dụng điều ước quốc tế tại Việt Nam, tạp chí Luật học số 3.
Tháng 3 năm 2016. tr 38- 46


lý riêng biệt nên sẽ không thể so sánh hiệu lực pháp lý của luật pháp quốc tế và

pháp luật quốc gia. Từ góc độ luật quốc tế thì pháp luật quốc gia có vị trí thấp hơn,
ngược lại luật pháp quốc gia có thể công nhận hoặc không công nhận hiệu lực pháp
lý của điều ước quốc tế.
Mỗi hệ thống có đối tượng điều chỉnh riêng của mình. Luật quốc tế điều chỉnh
quan hệ giữa các chủ thể của luật quốc tế, trong khi pháp luật quốc gia điều chỉnh
quan hệ giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân trong phạm vi chủ quyền và quyền tài
phán quốc gia. 2Luật pháp quốc tế nói chung chỉ quan tâm đến kết quả thực hiện
các cam kết và xem các biện pháp cụ thể được áp dụng là vấn đề nội bộ của từng
quốc gia. Các quốc gia có thể tự do lựa chọn việc cho phép điều ước quốc tế có
hiệu lực pháp lý trong hệ thống pháp luật quốc gia và được áp dụng trực tiếp hoặc
không công nhận hiệu lực pháp lý của điều ước quốc tế và thực hiện điều ước quốc
tế thông qua nội luật hoá các quy định này vào trong hệ thống pháp luật quốc gia.
Trên đây là một số điểm cốt lõi trong hai học thuyết pháp lý và đôi khi không
thực sự phản ánh thực tế hay đưa ra một giải pháp thực tế và hiệu quả. Các quốc gia
có thể lựa chọn áp dụng thuyết nhất nguyên luận hoặc thuyết nhị nguyên luận hoặc
kết hợp áp dụng cả hai học thuyết trên trong chừng mực quốc gia đó thấy hợp lý để
thực thi các điều ước quốc tế mà mình là thành viên. Tuỳ theo sự lựa chọn của quốc
gia mà hiệu lực pháp lý và vị trí của điều ước quốc tế trong quan hệ với pháp luật
quốc gia sẽ khác nhau, theo đó hệ quả pháp lý cũng sẽ khác nhau.
III.
1.

Vị trí của điều ước quốc tế trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Khái quát điều ước quốc tế trong pháp luật Việt Nam.
Là thành viên của Công ước Viên năm 1969 về Luật điều ước quốc tế, khái
niệm điều ước quốc tế của pháp luật Việt Nam cũng tương đồng với khái niệm của
pháp luật quốc tế. Theo khoản 1 Điều 2 Luật Điều ước quốc tế 2016 “ Điều ước
2 Trần Hữu Minh Duy , Hiệu lực pháp lí và việc áp dụng điều ước quốc tế tại Việt Nam, tạp chí Luật học số 3.
Tháng 3 năm 2016, tr 38- 46



quốc tế là thỏa thuận bằng văn bản được ký kết nhân danh Nhà nước hoặc Chính
phủ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam với bên ký kết nước ngoài, làm phát
sinh, thay đổi hoặc chấm dứt quyền, nghĩa vụ của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam theo pháp luật quốc tế, không phụ thuộc vào tên gọi là hiệp ước, công
ước, hiệp định, định ước, thỏa thuận, nghị định thư, bản ghi nhớ, công hàm trao
đổi hoặc văn kiện có tên gọi khác.”
Theo đó, nhận thấy trong pháp luật Việt Nam, hình thức điều ước quốc tế
cũng tồn tại dưới hình thức văn bản không phụ thuộc vào tên gọi của nó là gì. Điều
ước được ký kết nhân danh Nhà nước hoặc Chính phủ với các chủ thể khác pháp
luật quốc tế. Dù được ký kết với danh nghĩa nào, bản chất của điều ước quốc tế thể
hiện sự thỏa thuận về mặt ý chỉ giữa Việt Nam với các chủ thể khác của pháp luật
quốc tế.
2.

Địa vị pháp lý của Điều ước quốc tế trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Trong Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam quy định cụ thể
tại Điều 12 “Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam thực hiện nhất quán đường
lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển; đa phương
hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập, hợp tác quốc tế trên cơ
sở tôn trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi; tuân thủ Hiến chương Liên hợp quốc
và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên; là bạn,
đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng đồng quốc tế vì lợi ích
quốc gia, dân tộc, góp phần vào sự nghiệp hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội trên thế giới”. Như vậy, Hiến pháp 2013 đã quy định cụ thể việc tuân
thủ các quy định của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, cho thấy vai trò
quan trọng của điều ước quốc tế trong hệ thống pháp luật Việt Nam.
Trước đó, Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế của Việt Nam
năm 2005 đã quy định: “Nhà nước Cộng hòa XHCN Việt Nam tuân thủ ĐƯQT mà



Cộng hòa XHCN Việt Nam là thành viên…” nhưng hiến định nghĩa vụ tuân thủ
Điều ước quốc tế trong Hiến pháp là minh chứng khẳng định mạnh mẽ nhất, có giá
trị pháp lý cao nhất với các nước trên thế giới rằng, nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là quốc gia tôn trọng luật quốc tế, hành xử đúng luật quốc tế và
thực hiện các mối quan hệ trên cơ sở luật quốc tế.
Theo đó, Luật điều ước quốc tế 2016 cũng quy định cụ thể tại Điều 6
“Trường hợp văn bản quy phạm pháp luật và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề
thì áp dụng quy định của điều ước quốc tế đó, trừ Hiến pháp”.
Từ các điều luật trên, có thể nhận thấy thứ tự ưu tiên áp dụng pháp luật của
nước ta như sau: Đầu tiên, luôn áp dụng quy định của Hiến pháp, tôn trọng Hiến
pháp. Tiếp đến, áp dụng quy định của Điều ước quốc tế. Cuối cùng mới áp dụng
các văn bản quy phạm pháp luật khác. Tuy nhiên cũng có quan điểm cho rằng, quy
định ưu tiên áp dụng và cho phép áp dụng trực tiếp không đồng nghĩa với hiệu lực
pháp lý của điều ước quốc tế cao hơn quy định của pháp luật Việt Nam. Về mặt câu
chữ trong pháp luật không có bất kỳ nội dung nào ghi nhận hiệu lực pháp lý cao
hơn. Do đó chỉ có thể kết luật rằng điều ước quốc tế được “ưu tiên áp dụng”, không
thể suy diễn xa hơn đến mức cho rằng điều ước quốc tế có hiệu lực pháp lý cao hơn
pháp luật trong nước như quan điểm nêu trên. Hơn nữa, việc ưu tiên áp dụng này
chỉ giới hạn trong một số trường hợp hẹp – khi có sự khác nhau giữa quy định của
điều ước quốc tế và pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên, việc quy định các văn bản quy
phạm pháp luật mới ban hành không được làm cản trở việc thực hiện điều ước quốc
tế cũng phần nào cho thấy vị trí pháp lý của điều ước quốc tế trong pháp luật Việt
Nam có vị trí cao hơn văn bản quy phạm pháp luật. Quy định như vậy hoàn toàn
phù hợp với nguyên tắc pacta sunt servanda trong luật quốc tế, theo đó thì các quốc
gia có nghĩa vụ thực hiện điều ước quốc tế mà mình là thành viên một cách tự
nguyện và thiện chí.



Hiến pháp là văn bản luật gốc, có tính chất thượng tôn, cho nên phải tôn trọng
và áp dụng đúng quy định của Hiến pháp trước tiên. Khi tham gia hoặc ký kết một
điều ước quốc tế nào đó đều phải đảm bảo tuân thủ các quy định của Hiến pháp,
không được trái với quy định của Hiến pháp, trong trường hợp các quy định có sự
mâu thuẫn với Hiến pháp thì buộc phải sửa đổi Hiến pháp mới được phép tham gia
hoặc ký kết. Điều này đảm bảo với nguyên tắc “Không trái với Hiến pháp nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam” được quy định tại Khoản 1 Điều 3 của Luật
Điều ước quốc tế 2016. Việc quy định rõ “Trường hợp văn bản quy phạm pháp
luật và điều ước quốc tế mà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành
viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của điều ước
quốc tế đó, trừ Hiến pháp” đã có đầy đủ cơ sở pháp lý để khẳng định, Hiến pháp có
vị trí tối thượng khi áp dụng pháp luật, mọi nguồn của pháp luật Việt Nam đều phải
tôn trọng và tuân thủ Hiến pháp. Chính vì điều này nên thông thường, các quy định
của Hiến pháp và điều ước quốc tế Việt Nam tham gia thường ít mâu thuẫn nhau về
mặt nội dung.
Đối với các văn bản quy phạm pháp luật chuyên ngành, mặc dù được xây
dựng trên cơ sở Hiến pháp. Tuy nhiên, do tính chất và đối tượng điều chỉnh khác
nhau nên sẽ có những khác biệt so với điều ước quốc tế mà Việt Nam tham gia, ký
kết. Do đó, việc quy định cụ thể việc áp dụng các quy định trong điều ước quốc tế
mà Việt Nam khi có mẫu thuẫn với các văn bản quy phạm pháp luật dưới Hiến
pháp là cần thiết, cho thấy tầm quan trọng của Điều ước quốc tế trong hệ thống
pháp luật Việt Nam. Đồng thời cũng ngầm hiểu khi Việt Nam chưa có các quy định
cụ thể về vấn đề nào đó mà trong điều ước quốc tế Việt Nam tham gia có quy định
thì có thể áp dụng điều ước quốc tế đó để giải quyết vấn đề. Điều 26 Công ước
Viên về Luật điều ước quốc tế năm 1969 mà Việt Nam tham gia quy định nguyên
tắc Pacta sunt servand như sau "mọi điều ước đã có hiệu lực đều ràng buộc các bên
tham gia điều ước và phải được các bên thi hành với thiện ý". Trong trường hợp



Điều ước quốc tế và văn bản quy phạm pháp luật cùng quy định một vấn đề và
không có sự mâu thuẫn thì sẽ áp dụng văn bản quy phạm pháp luật của nước ta.
Trong các văn bản quy phạm pháp luật của Việt Nam cũng có những quy định
thấy rõ giá trị ưu thế của Điều ước quốc tế, cụ thể tại một số văn bản pháp luật sau:
Khoản 5 Điều 156 Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015 quy định
về áp dụng văn bản quy phạm pháp luật “ Việc áp dụng văn bản quy phạm pháp
luật trong nước không được cản trở việc thực hiện điều ước quốc tế mà Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên. Trong trường hợp văn bản quy phạm
pháp luật trong nước và điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là thành viên có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của
điều ước quốc tế đó, trừ Hiến pháp.”
Bộ luật dấn sự 2015 cũng quy định Điều 665. Áp dụng điều ước quốc tế đối
với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài của
”1. Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là
thành viên có quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia quan hệ dân sự
có yếu tố nước ngoài thì quy định của điều ước quốc tế đó được áp dụng.
2.

Trường hợp điều ước quốc tế mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành
viên có quy định khác với quy định của Phần này và luật khác về pháp luật áp
dụng đối với quan hệ dân sự có yếu tố nước ngoài thì quy định của điều ước quốc
tế đó được áp dụng.”
Thấy rằng hầu hết các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật hiện
hành của Việt Nam có quy định khác hoặc trái với điều ước quốc tế mà Cộng hoà
xã hội chủ nghĩa Việt Nam gia nhập, thì điều ước quốc tế có giá trị ưu tiên áp dụng.
Từ đó cho thấy, điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã ký


kết hoặc gia nhập có giá trị pháp lý ưu tiên hơn so với pháp luật trong nước, trừ
Hiến pháp.

2.

Vai trò của Điều ước quốc tế trong pháp luật Việt Nam.
Điều ước quốc tế đóng vai trò quan trọng trong hệ thống pháp luật Việt Nam,
việc quy định cụ thể về địa pháp lý của điều ước quốc tế giúp giải quyết nhiều vấn
đề trong thực thi và áp dụng pháp luật. Nhận thấy, qua những cơ sở pháp lý quy
định trong Hiếp pháp và các văn bản quy phạm pháp luật có thể thấy, 3“Việt Nam
thừa nhận pháp luật quốc tế như một nguồn luật nằm ngoài hệ thống pháp luật quốc
gia, được ưu tiên bổ sung cho pháp luật quốc gia để giải quyết các vấn đề phát sinh
trong quá trình hội nhập, nhằm đảm bảo chuẩn mực quốc tế vẫn được tôn trọng một
khi pháp luật quốc gia chưa thể tiếp cận pháp luật quốc tế.”
Việt Nam đi áp dụng luật quốc tế dựa trên mối quan hệ tác động qua lại với
nhau, áp dụng kết hợp cả thuyết nhất nguyên và thuyết nhị nguyên. Theo khoa học
luật quốc tế thì Luật quốc tế và luật quốc gia có là hai hệ thống pháp luật khác
nhau, tồn tại song song và có mối quan hệ tác động qua lại. Do đó, đối với điều ước
quốc tế và các văn bản quy phạm pháp luật trong nước của Việt Nam cũng có mối
quan hệ tác động qua lại lẫn nhau. Giúp hoàn thiện, phát triển, bổ sung cho nhau.
Điều ước quốc tế giữ vai trò giải quyết những vấn đề mà pháp luật Việt Nam chưa
quy định, theo đó hạn chế được tối đa những bỏ ngỏ về mặt pháp lý đối với các vấn

3.
3.1.

đề liên quan đến quốc tế.
Thực trạng áp dụng điều ước quốc tế.
Cách thức áp dụng nội dung Điều ước quốc tế và thực tế pháp luật.
Theo khoản 2 Điều 6 Luật điều ước quốc tế 2016 quy định “Căn cứ vào yêu
cầu, nội dung, tính chất của điều ước quốc tế, Quốc hội, Chủ tịch nước, Chính phủ
khi quyết định chấp nhận sự ràng buộc của điều ước quốc tế đồng thời quyết định
áp dụng trực tiếp toàn bộ hoặc một phần điều ước quốc tế đó đối với cơ quan, tổ

chức, cá nhân trong trường hợp quy định của điều ước quốc tế đã đủ rõ, đủ chi tiết
3 Bùi Ngọc Toàn, Pháp luật Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế, tạp chí nghiên cứu lập pháp số 02(69), tháng
2/2006


để thực hiện; quyết định hoặc kiến nghị sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ hoặc ban hành
văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế đó.”
Theo đó, có thể thấy, pháp luật Việt Nam thừa nhận hai cách áp dụng điều
ước quốc tế vào pháp luât là áp dụng trực tiếp và áp dụng gián tiếp.
Áp dụng trực tiếp nghĩa là khi điều ước quốc tế đã được ký kết và có hiệu lực
thì mọi cá nhân, tổ chức là đối tượn điều chỉnh của điều ước quốc tế đó đều có
nghĩa vụ thi hành và công dân của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam hoàn
toàn có thể viện dẫn các quy định của điều ước quốc tế đó trước Tòa để bảo vệ
quyền, lợi ích chính đáng của mình. Ở nước ta thường hiểu rằng pháp luật chỉ bao
gồm các quy phạm pháp luật do Nhà nước ban hành chứ không bao gồm cả các
cam kết quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Đây là hệ quả của công tác tuyên
truyền các điều ước còn chưa thực sự sâu rộng . Tuy nhiên trong thực tiễn cũng đã
có một số quy định của điều ước quốc tế được áp dụng trực tiếp vào đời sống pháp
luật. Chẳng hạn như trong Nghị quyết của Quốc hội phê chuẩn Nghị định thư gia
nhập WTO đã liệt kê các quy định liên quan đến nội dung cam kết được áp dụng
trực tiếp của Việt Nam là: Luật doanh nghiệp, Luật luật sư, Luật kinh doanh bảo
hiểm, Luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, Luật Sở hữu trí tuệ,... Hoặc
Hiệp định về thuế chẳng hạn, đây là loại hiệp định luôn có hiệu lực cao hơn nội luật
và được áp dụng trực tiếp, bởi lẽ có hay không có hành vi chuyển hóa hầu như
không có ý nghĩa thực tế trong trường hợp áp dụng mức thuế đã cam kết giữa các
quốc gia. Ví dụ điển hình là việc Quốc hội ban hành Nghị quyết số71/2006/QH11
về việc Phê chuẩn Nghị định thư gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại
thế giới (WTO) của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, trong đó quyết định
: "2. Áp dụng trực tiếp các cam kết của Việt Nam được ghi tại Phụ lục đính kèm
Nghị quyết này và các cam kết khác của Việt Nam với Tổ chức thương mại thế giới

được quy định đủ rõ, chi tiết trong Nghị định thư, các Phụ lục đính kèm và Báo cáo
của Ban công tác về việc Việt Nam gia nhập Hiệp định thành lập Tổ chức thương


mại thế giới. Trong trường hợp quy định của pháp luật Việt Nam không phù hợp
với quy định của Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới, Nghị định thư
và các tài liệu đính kèm thì áp dụng quy định của Hiệp định thành lập Tổ chức
thương mại thế giới, Nghị định thư và các tài liệu đính kèm."
Còn áp dụng gián tiếp là việc quốc gia thành viên ban hành một đạo luật để
chuyển hóa các quy định của điều ước quốc tế vào nội luật. Trường hợp này xảy ra
khi nội dung điều ước quốc tế chưa rõ ràng, cụ thể. Tại khoản 5 Điều 5 Luật ban
hành văn bản quy phạm pháp luật cũng đề cấp đến các nguyên tắc xây dựng văn
bản quy phạm pháp luật “…không làm cản trở việc thực hiệncác điều ước quốc tế
mà Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên.” Đây là một biện pháp bảo
đảm cho việc thực hiện các nghĩa vụ pháp lý quốc tế phát sinh từ điều ước quốc
tế được tuân thủ nghiêm túc tại Việt Nam. Để có thể áp dụng trực tiếp vào thực tiễn
áp dụng pháp luật hoặc nội dung của điều ước đó trái hoặc chưa quy định cụ thể
trong Hiếp pháp, cách thức này đã được tiến hành để chuyển hóa một số điều ước
liên quan về quyền ưu đãi, miễn trừ ngoại giao, lãnh sự trong pháp lệnh về quyền
ưu đãi, miễn trừ dành cho cơ quan đại diện ngoại giao, cơ quan lãnh sự và cơ quan
đại diện của tổ chức quốc tế tại Việt Nam, hay tội cướp biển được nội luật hóa vào
quy định của Bộ luật hình sự 2015…. Rất nhiều quy định của các điều ước quốc tế
được nội luật hóa nhằm đảm bảo phù hợp với pháp luật trong nước như Bộ luật dân
sự, luật cạnh tranh, luật thương mại, luật sở hữu trí tuệ,…được chuyển hóa phù hợp
với quy định của Công ước BERN về bảo hộ tác phẩm văn học, nghệ thuật, công
ước Paris về bảo hộ sỡ hữu công nghiệp,… Mục đích cơ bản của vấn đề chuyển
hoá là bảo đảm thuận lợi cho việc thực hiện các điều ước quốc tế.
Như vậy, có thể thấy, việc quy định cụ thể về việc áp dụng trực tiếp và gián
tiếp điều ước quốc tế mang lại hiệu quả cao trong áp dụng pháp luật trong thực



tiễn.. 4Trường hợp nội dung điều ước quốc tế đã cụ thể, rõ ràng, Nhà nước sẽ không
cần phải thực hiện thủ tục chuyển hóa điều ước quốc tế bằng việc ban hành các văn
bản quy phạm pháp luật truyền thống vừa phức tạp, vừa tốn kém mà chỉ cần ra
quyết định thừa nhận toàn bộ hoặc thừa nhận một phần nội dung của điều ước quốc
tế để nội dung điều ước có thể đi vào thời kỳ thực hành.
Mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn phát sinh trong quá trình thực thi điều ước

3.2.

quốc tế Việt Nam.
Để có thể ký kết và tham gia vào một điều ước quốc tế cụ thể, các cơ quan có
thẩm quyền đã phải xem xét rất kỹ lưỡng về tính hợp hiến của điều ước quốc tế đó.
Nhưng một thực tế rằng, khi áp dụng nội dụng cụ thể của điều ước quốc tế lại vẫn
có thể phát sinh những mâu thuẫn nhất định giữa pháp luật quốc gia và pháp luật
quốc tế. Nguyên nhân do nước ta có nhiều văn bản quy phạm pháp luật, các văn
bản hướng dẫn chi tiết cho nên dễ gây ra mẫu thuẫn giữa các văn bản trên. Nguyên
nhân nữa là mặc dù phát hiện ra những sai sót, mâu thuẫn nhưng lại chưa sửa chữa,
toàn kiện hệ thống pháp luật.
Tuy nhiên, trong xu thế hội nhập quốc tế, nước ta phải hoàn thiện hệ thống
pháp luật nhằm đáp ứng những yêu cầu bức thiết trong đời sống quốc tế. Do vậy
đỏi hỏi phải có những giải pháp nhất thiết nhằm đảm bảo cho pháp luật quốc gia và
pháp luật quốc tế, cụ thể là điều ước quốc tế có mâu thuẫn.
Do đó, trước khi tham gia một điều ước quốc tế cụ thể, cần phải đi sâu,
nghiên cứu, phân tích điều ước quốc tế nhằm đảm bảo không xâm phạm Hiến pháp,
vừa có thể xây dựng được quy phạm pháp luật phù hợp với điều ước mà chúng ta
4.

ký kết trong tương lai.
Trình tự thực hiện điều ước quốc tế.

Để áp dụng một điều ước quốc tế, không phải đơn giản như áp dụng một quy
phạm pháp luật trong nước, mà cần đảm bảo thực hiện đúng và đủ nhằm bảo đảm

4 Bùi Ngọc Toàn, Pháp luật Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế, tạp chí nghiên cứu lập pháp số 02(69), tháng
2/2006


bảo được quyền, nghĩa vụ phát sinh từ điều ước. Theo đó, Luật điều ước quốc tế
2016 đã có những quy định cụ thể về việc trình tự thực hiện điều ước quốc tế.
Theo khoản 4, Điều 76 Luật điều ước quốc tế 2016 quy định cụ thể Kế hoạch
thực hiện điều ước quốc tế bao gồm những nội dung sau đây: Lộ trình thực hiện
điều ước quốc tế; Dự kiến phân công trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong
việc tổ chức thực hiện điều ước quốc tế; Dự kiến nội dung sửa đổi, bổ sung, bãi bỏ
hoặc ban hành văn bản quy phạm pháp luật để thực hiện điều ước quốc tế; Các biện
pháp tổ chức, quản lý, tài chính và các biện pháp cần thiết khác để thực hiện điều
ước quốc tế; Tuyên truyền, phổ biến điều ước quốc tế. Việc áp dụng điều ước quốc
tế phải dựa vào hoàn cảnh cụ thể và điều kiện thực tế trong từng giai đoạn phát
triển của nước ta. Chính vì thế, việc đề ra kế hoạch thực hiện điều ước quốc tế là
phù hợp, nhằm đảm bảo thực hiện một cách có kế hoạch, đồng bộ phù hợp với tiến
trình, kế hoạch phát triển đất nước của Việt Nam giai đoạn hiện nay.
Việc xác định cơ quan có thẩm quyền thực hiện điều ước quốc tế đống vai trò
quan trọng, đảm bảo thực hiện đúng quy định của pháp luật, tránh sự chồng chéo,
không đồng bộ trong việc xử lý. 5Trong phạm vi, nhiệm vụ và quyền hạn của mình,
các Bộ, ngành và các cấp chính quyền có trách nhiệm đề ra kế hoạch cụ thể và biện
pháp bảo đảm khả thi các cam kết mà Việt Nam đưa ra trong điều ước quốc tế.
trường hợp có những khó khăn phát sinh trong quá trình áp dụng, các cơ quan có
thẩm quyền kiến nghị với Chính phủ để đưa ra những biện pháp giải quyết cần
thiết, đảm bảo quyền nghĩa vụ phát sinh trong quan hệ quốc tế.
IV.


Một số đánh giá và kiến nghị hoàn thiện pháp luật.
Từ những nội dung nghiên cứu trên, nhận thấy vị trí và mối quan hệ của điều
ước quốc tế trong hệ thống pháp luật Việt Nam đóng vai trò quan trọng, có những
ưu điểm nhất định trong việc quy định và áp dụng thực tiễn.

5 />

Thứ nhất, nước ta đã kết hợp áp dụng cả hai học thuyết, thuyết nhất nguyên
luận và nhị nguyên luận. việc áp dụng như vậy đảm bảo loại bỏ và khắc phục
những yếu điểm của từng học thuyết, Đảm bảo không bỏ ngõ những quy định của
pháp luật trong nước, vừa đảm bảo tôn trọng pháp luật quốc tế.
Thứ hai, việc áp dụng trực tiếp và gián tiếp điều ước quốc tế nhằm đảm bảo
tránh sự hạn chế trong áp dụng pháp luật của nước ta hiện nay, không phải mọi điều
ước đều có thể áp dụng một cách trực tiếp và ngược lại, không phải mọi điều ước
đều có thể áp dụng gián tiếp. Việc quy định của nước ta nhằm đảm bảo có thể điều
chỉnh mọi vấn đề phát sinh trong quan hệ quốc tế.
Tuy nhiên, bên cạnh đó không thể tránh khỏi những hạn chế về việc quy định
vị trí điều ước quốc tế trong hệ thống pháp luật và quy trình áp dụng nó.
Thứ nhất, về xác định địa vị pháp lý của điều ước quốc tế trong pháp luật
Việt Nam. Thấy rằng vẫn còn nhiều quan điểm trái chiều gây tranh cãi, có thể dẫn
đến áp dụng sai hoặc áp dụng không đúng. Do đó, đòi hỏi cần quy định một cách
cụ thể vị trí của điều ước quốc tế cao hơn các văn bản trong nước trừ Hiến pháp.
Cũng là một giải pháp để nâng cao nhận thức của cơ quan, tổ chức, cá nhân nắm rõ
được tầm quan trọng của điều ước quốc tế trong pháp luật Việt Nam.
Thứ hai, cần quy định việc áp dụng điều ước quốc tế trong hai trường hợp về
những vấn đề nào nhằm tránh lạm dụng điều ước quốc tế hay viện dẫn, áp dụng và
giải thích sai do thiếu trình độ áp dụng khoa học pháp lý quốc tế của nước ta hiện
nay.
C.


KẾT LUẬN.

Có thể thấy “vị trí của điều ước quốc tế trong hệ thống pháp luật Việt Nam”
là vấn đề quan trọng, mặc dù hiện nay Luật Điều ước quốc tế 2016 đã quy định khá
đầy đủ, chi tiết. Tuy nhiên, vì đây là một vấn đề có ý nghĩa sâu sắc trong việc áp
dụng, thực thi pháp luật, liên quan đến mối quan hệ quốc tế nên việc giải quyết
những vấn đề tồn đọng là cần thiết, nhất là trong bối cảnh tăng cường hội nhập như
hiện nay. Việc xử lý tốt điều này vừa có ý nghĩa về mặt lập pháp, vừa làm phong


phú cho hệ thống pháp luật lại góp phần thể hiện sự nghiêm túc trong các mối quan
hệ quốc tế.
Bài viết đã chỉ ra được những vấn đề chung liên quan đến điều ước quốc tế
như khái niệm, đặc điểm, hình thức,.... Đi sâu hơn nêu lên một số học thuyết tiêu
biểu về mối quan hệ giữa điều ước quốc tế và pháp luật quốc gia và từ đó đánh giá,
phân tích, bình luận vị trí của điều ước quốc tế trong hệ thống pháp luật Việt Nam
qua những quy định trong văn bản luật cụ thể; Đưa ra mâu thuẫn trong quá trình
thực thi điều ước quốc tế tại Việt Nam và kiến nghị ý tưởng hoàn thành pháp luật
liên quan đến điều ước quốc tế. Đây là những vấn đề chính có liên quan đến vị trí
của điều ước quốc tế được quy định trong hệ thống pháp luật Việt Nam hiện nay.
Do kiến thức và kỹ năng làm bài còn hạn chế nên trong bài viết này không thể
tránh khỏi những sai sót, rất mong thầy cô nhận xét, bổ sung để bài viết được hoàn
thiện hơn.
Em xin chân thành cảm ơn !

D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO,
1. Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Năm năm 2013;
2. Công ước viên năm 1969 về Luật Điều ước quốc tế;
3. Luật Điều ước quốc tế 2016;
4. Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật 2015;

5. Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện Điều ước quốc tế năm 2005;
6. Bộ luật dân sự 2015;


7. Bộ luật hình sự 2015;
8. Nghị quyết số71/2006/QH11 về việc Phê chuẩn Nghị định thư gia nhập
Hiệp định thành lập Tổ chức thương mại thế giới (WTO) của nước Cộng hoà xã hội
chủ nghĩa Việt Nam
9. Bùi Ngọc Toàn, Pháp luật Việt Nam trong tiến trình hội nhập quốc tế, tạp
chí nghiên cứu lập pháp số 02(69), tháng 2/2006;
10. Trần Hữu Minh Duy, Hiệu lực pháp lí và việc áp dụng điều ước quốc tế tại
Việt Nam, tạp chí Luật học số 3. Tháng 3 năm 2016.
11. Giáo trình Luật quốc tế, trường Đại học luật Hà Nội;
12.

Trang

ItemID=1073

wed:

/>


×