Tải bản đầy đủ (.doc) (24 trang)

SKKN một số KINH NGHIỆM tổ CHỨC dạy học THEO NHÓM hằm TĂNG CƯỜNG GIÁO dục kĩ NĂNG SỐNG CHO học SINH ở TRƯỜNG TIỂU học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (199.46 KB, 24 trang )

SKKN :
MỘT SỐ KINH NGHIỆM TỔ CHỨC DẠY HỌC THEO NHÓM
HẰM TĂNG CƯỜNG GIÁO DỤC KĨ NĂNG SỐNG CHO HỌC SINH Ở
TRƯỜNG TIỂU HỌC
I. ĐẶT VẤN ĐỀ
Vấn đề giáo dục kĩ năng sống hiện nay đã được nhiều quốc gia trên thế
giới quan tâm đưa vào dạy cho học sinh trong các trường phổ thơng, dưới nhiều
hình thức khác nhau. Từ những năm 2000, chương trình hành động Dakar về
Giáo dục cho mọi người (Senegal – 2000) đã đặt ra trách nhiệm cho mỗi quốc
gia là phải đảm bảo cho người học được tiếp cận với chương trình giáo dục kĩ
năng sống phù hợp và kĩ năng sống được coi như một nội dung của chất lượng
giáo dục.
Ở Việt Nam, để nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện thế hệ trẻ, đáp ứng
nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố đất nước, đáp
ứng u cầu hội nhập quốc tế và nhu cầu phát triển của người học, giáo dục phổ
thông đã và đang được đổi mới mạnh mẽ theo bốn trụ cột của giáo dục thế kỷ
XXI, mà thực chất là cách tiếp cận các kĩ năng sống, đó là: Học để biết, Học để
làm, Học để tự khẳng định mình và Học để cùng chung sống. Theo quan niệm
của Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn hoá Liên Hợp Quốc (UNESCO): Học
để sống với người khác (Learning to live together) gồm nhiều kĩ năng xã hội
như: giao tiếp, thương lượng, tự khẳng định, hợp tác, làm việc theo nhóm, ...
Phương pháp dạy học theo nhóm là một trong những phương pháp dạy
học hay, phát huy được tính tích cực của học sinh. Khi vận dụng và tổ chức tốt
thì việc dạy học theo nhóm sẽ góp phần giáo dục học sinh nhiều kỹ năng sống và
đem lại hiệu quả tích cực trong giáo dục tồn diện cho học sinh: Bởi vì:
Thứ nhất: Dạy học theo nhóm sẽ nâng cao khả năng tương tác giữa các
thành viên trong nhóm.

1



Thứ hai: Thơng qua hoạt động nhóm sẽ giúp học sinh phát triển kĩ
năng giao tiếp và các kĩ năng xã hội khác.
Việc sử dụng phương pháp dạy học theo nhóm trong giảng dạy đem lại
nhiều hữu ích, phù hợp với xu thế phát triển và yêu cầu của xã hội hiện nay nên
nó được chú trọng triển khai ngay từ khi thực hiện đổi mới chương trình giáo
dục phổ thơng. Phần lớn học sinh trường Tiểu học cịn hạn chế về kĩ năng, nhất
là kĩ năng sống như: kĩ năng giao tiếp, thương lượng, tự khẳng định, hợp tác, làm
việc theo nhóm, … Vì thế một số giáo viên cịn gặp khó khăn khi vận dụng
phương pháp dạy học theo nhóm, ngại vận dụng phương pháp này hoặc có vận
dụng nhưng cũng không đem lại kết quả như mong muốn.Cần vận dụng phương
pháp dạy học theo nhóm như thế nào để mang lại hiệu quả cao nhất đối với học
sinh ? Đây cũng chính là điều tơi băn khoăn suy nghĩ trong nhiều năm qua.
Với mong muốn sẽ được cùng chia sẻ, trao đổi và học tập thêm kinh
nghiệm từ các đồng nghiệp để góp phần thực hiện đổi mới phương pháp dạy học
ở trường tiểu học nhằm phát huy tính tích cực chủ động sáng tạo, gắn với mục
tiêu giáo dục, rèn kĩ năng sống cho học sinh, trên cơ sở khai thác đặc điểm tâm
sinh lý của học sinh ; thơng qua việc nghiên cứu tìm hiểu về hình thức tổ chức
hoạt động nhóm, bản thân đúc rút kinh nghiệm sử dụng phương pháp một cách
có hiệu quả trong quá trình dạy học, giúp cho việc đổi mới PPDH đạt hiệu quả
cao hơn, góp phần đào tạo ra những con người phát triển toàn diện đáp ứng được
u cầu của xã hội. Vì vậy tơi dã tích lũy và viết thành sáng kiến kinh nghiệm:
“Một số kinh nghiệm tổ chức dạy học theo nhóm nhằm tăng cường giáo dục
kĩ năng sống cho học sinh ở trường tiểu học Vân Phú – Việt Trì- TỉnhPhú
Thọ”.

II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
1. Cơ sở lí luận :

2



1.1. Giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong trường phổ thông
Thuật ngữ kĩ năng sống bắt đầu xuất hiện trong các nhà trường phổ thông
Việt Nam từ những năm 1995-1996, thông qua Dự án “Giáo dục kĩ năng sống
để bảo vệ sức khoẻ và phòng chống HIV/AIDS cho thanh thiếu niên trong và
ngoài nhà trường” do Quỹ Nhi đồng Liên Hợp Quốc (UNIEF) phối hợp với Bộ
Giáo dục và Đào tạo cùng Hội Chữ thập đỏ Việt Nam thực hiện.
Giáo dục phổ thông nước ta những năm vừa qua đã được đổi mới cả về
mục tiêu, nội dung và phương pháp dạy học. Đặc biệt việc rèn kĩ năng sống cho
học sinh đã được Bộ Giáo dục và Đào tạo xác định là một trong năm nội dung
của phong trào thi đua “Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực” trong
trường phổ thơng giai đoạn 2008-2013.
Có nhiều quan niệm khác nhau về kĩ năng sống như theo Tổ chức Giáo
dục, Khoa học và Văn hoá Liên Hợp quốc (UNESCO), kĩ năng sống gắn với bốn
trụ cột của giáo dục, đó là: Học để biết (Learning to know) gồm các kĩ năng xã
hội như: tư duy phê phán, tư duy sáng tạo, ra quyết định, giải quyết vấn đề, nhận
thức được hậu quả,...; Học làm người (Learning to be) gồm các kĩ năng cá nhân
như: ứng phó với căng thẳng, kiểm soát cảm xúc, tự nhận thức, tự tin,...; Học để
sống với người khác (Learning to live together) gồm các kĩ năng xã hội như: giao
tiếp, thương lượng, tự khẳng định, hợp tác, làm việc theo nhóm, thể hiện sự cảm
thông,...; Học để làm (Learning to do) gồm các kĩ năng thực hiện công việc và
các nhiệm vụ như: kĩ năng đặt mục tiêu, đảm nhận trách nhiệm,....
Kĩ năng sống có nhiều tên gọi khác nhau, ví dụ: Kĩ năng tâm lý xã hội
(Social Emotional Skills), kĩ năng cá nhân, lĩnh hội và tư duy (Personal,
Learning and Thinking Skills). Một kĩ năng sống cũng có thể có nhiều tên gọi
khác nhau như: kĩ năng hợp tác còn gọi là kĩ năng làm việc theo nhóm; kĩ năng
kiểm sốt cảm xúc cịn gọi là kĩ năng xử lí cảm xúc, kĩ năng làm chủ cảm xúc; kĩ
năng thương lượng còn gọi là kĩ năng đàm phán, kĩ năng thương thuyết,...

3



Kĩ năng sống khơng phải tự nhiên có được mà phải hình thành dần trong
quá trình học tập, lĩnh hội và rèn luyện trong cuộc sống. Quá trình hình thành kĩ
năng sống diễn ra cả trong và ngoài hệ thống giáo dục.
Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong các nhà trường phổ thơng
có tầm quan trọng rất lớn. Bởi, kĩ năng sống sẽ thúc đẩy sự phát triển của cá
nhân và xã hội; giáo dục kĩ năng sống là yêu cầu cấp thiết đối với thế hệ trẻ,
nhằm thực hiện đổi mới yêu cầu giáo dục phổ thông; đặc biệt việc giáo dục kĩ
năng sống là xu thế chung của nhiều nước trên thế giới.
Giáo dục kĩ năng sống trong nhà trường với mục tiêu quan trọng là: Trang
bị cho học sinh những kiến thức, giá trị, thái độ và kĩ năng phù hợp. Trên cơ sở
đó hình thành cho học sinh những hành vi, thói quen lành mạnh, tích cực; loại bỏ
những hành vi, thói quen tiêu cực trong các mối quan hệ, các tình huống và hoạt
động hàng ngày. Tạo cơ hội thuận lợi để học sinh thực hiện tốt quyền, bổn phận
của mình và phát triển hài hồ về thể chất, trí tuệ, tinh thần và đạo đức.
Việc giáo dục kĩ năng sống cho học sinh trong các nhà trường phổ thông
được thực hiện thông qua dạy học các môn học và tổ chức các hoạt động giáo
dục chứ khơng phải lồng ghép, tích hợp thêm vào các môn học và hoạt động giáo
dục, mà theo một cách tiếp cận mới, đó là sử dụng các phương pháp và kĩ thuật
dạy học tích cực để tạo điều kiện, cơ hội cho học sinh được thực hành, trải
nghiệm kĩ năng sống trong quá trình học tập. Với cách tiếp cận này, sẽ không
làm nặng nề, quá tải thêm nội dung các môn học và hoạt động giáo dục, mà
ngược lại còn làm cho các giờ học và hoạt động giáo dục trở nên nhẹ nhàng hơn,
thiết thực và bổ ích hơn đối với học sinh.
1.2. Dạy học theo nhóm trong trường tiểu học
Nhiều nhà nghiên cứu sư phạm trên thế giới cũng như ở Việt Nam đã
nghiên cứu và rút ra những vấn đề lý luận cũng như thực tiễn về vấn đề học “hợp
tác nhóm”. Đặc biệt có những nước nền giáo dục tiên tiến như Hoa Kì, Canada,


4


Anh, Pháp lại càng chú trọng đến vấn đề xây dựng cách học “ hợp tác nhóm”.
Hợp tác nhóm (HTN) khơng phải là tư tưởng mới, nó xuất hiện cùng với quá
trình phát triển của nhân loại khi mọi người cần hợp tác với nhau để tồn tại.
Lịch sử loài người đã chỉ ra rằng, có những cá nhân có thể tổ chức, phối hợp
nỗ lực mọi thành viên để đạt mục tiêu chống lại kẻ thù chung. Thực tế từ xa xưa
con người đã biết hợp tác trong săn bắn, khai thác miền đất mới,…
Nhiều nhóm nghiên cứu và những nhà thực hành ở Mĩ, Canada và nhiều
nước khác đã quan tâm nghiên cứu và áp dụng phương thức học tập hợp tác vào
q trình dạy học. Các cơng trình nghiên cứu ở nhiều nơi đã thu được những kết
quả và những thành cơng có giá trị.
Từ những năm 1920 đã có nhiều nghiên cứu về hiệu quả phương pháp học
hợp tác nhóm, phương pháp thi đua, phương pháp nỗ lực cá nhân xoay quanh
hiệu quả học tập của học sinh. Phân tích 122 nghiên cứu từ năm 1924 đến 1981
về các phương pháp giảng dạy cho học sinh ở các độ tuổi khác nhau về các thao
tác tư duy như: hình thành khái niệm, giải quyết vấn đề bằng lời, phân loại, ghi
nhớ và học thuộc lòng, các hoạt động thực hành, phỏng đoán, xem xét, dự đoán
đã chỉ ra rằng hợp tác nhóm có hiệu quả hơn hẳn so với các phương pháp khác
như thi đua và nỗ lực cá nhân, vì:
Dạy học hợp tác nhóm hay dạy học theo nhóm là một phương pháp
dạy học có nhiều ưu thế để giáo dục nhiều kĩ năng sống cho học sinh.
Đặc biệt, đối với học sinh tiểu học, các em vừa trải qua tuổi mẫu giáo,
hoạt động chủ đạo của các em đã có sự thay đổi về chất, chuyển từ hoạt động vui
chơi sang hoạt động học tập, các em phải tiếp nhận một hình thức học tập hoàn
toàn mới so với mẫu giáo. Do vậy các em rất dễ mất tập trung và không tự tin.
Các kĩ năng sống của các em còn mờ nhạt hoặc chưa được hình thành, nhất là
học sinh dân tộc thiểu số càng hạn chế về kĩ năng sống.
Việc dạy học theo nhóm sẽ tạo điều kiện cho các em hoạt động thoải mái


5


hơn, mạnh dạn hơn, các em sẽ có được cảm giác gần gũi thân thiện như đang
trao đổi chứ không phải là gò ép học tập. Trẻ em vốn ưa hoạt động, thích quan
sát, tị mị, thích nhận xét, so sánh, thích được vui chơi, ln mong muốn được
thi đua để trở thành người chiến thắng. Vì vậy việc tổ chức các hoạt động nhóm
trong học tập là rất phù hợp với tâm lý lứa tuổi và đáp ứng được nhu cầu học tập
của học sinh tiểu học.
2. Thực trạng của việc dạy học theo nhóm ở Trường Tiểu học Vân
Phú.
Là một đơn vị giáo dục nằm ở phía Bắc của thành phố Việt Trì, tỉnh Phú
Thọ, Trường Tiểu học Vân Phú có trên 700 học sinh, có 1/3 học sinh là con em
gia đình nơng nghiệp.Việc giao tiếp, ứng xử của các em còn hạn chế.
Mặt khác, đội ngũ nhà giáo đã được tập huấn về các phương pháp dạy học
tích cực, trong đó có phương pháp dạy học theo nhóm, nhưng điều kiện cho giáo
viên trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm về khả năng tổ chức các hoạt động dạy học
tích cực cho học sinh cịn ít nên việc thực hiện đổi mới PPDH theo hướng tích
cực để giờ học diễn ra “Tự nhiên, nhẹ nhàng, hiệu quả”, góp phần nâng cao hiệu
quả giáo dục của nhà trường cịn gặp khơng ít khó khăn.
Mặc dù biết rằng, phương pháp dạy học theo nhóm có nhiều tích cực
nhưng giáo viên kinh nghiệm tổ chức còn chưa nhiều, phải mất nhiều thời gian
để chuẩn bị đồ dùng dạy học và thiết kế nhiệm vụ cho nhóm, do phải tổ chức
một cách hợp lí và học sinh phải quen với hoạt động nhóm thì mới đem lại kết
quả tốt. Chính vì vậy, một bộ phận giáo viên ngại dạy học theo nhóm, hoặc tổ
chức hoạt động nhóm chỉ mang tính hình thức qua các tiết học có người dự, chưa
phù hợp với nội dung bài dạy, dẫn đến hiệu quả dạy học chưa cao. Một số giáo
viên trẻ nhiệt tình hưởng ứng song chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc tổ chức
hoạt động nhóm nên cũng khơng đạt kết quả như mong đợi.


6


Việc dạy theo theo hướng phát huy tính tích cho của học sinh trong nhà
trường chưa thực sự đồng đều và hiệu quả, đồng nghĩa với việc giáo dục kĩ năng
sống cho học sinh bị hạn chế. Một số học sinh chưa có nhiều cơ hội thể hiện khả
năng, trí tuệ vốn có của bản thân, chưa có nhiều cơ hội để giao tiếp, học hỏi.
Qua trao đổi, phỏng vấn học sinh về việc học tập với các phương pháp
dạy- học truyền thống, dạy-học tích cực, đa số học sinh được hỏi đều trả lời là:
“thích được học theo nhóm”. Quan sát cho thấy các giờ học theo nhóm, học sinh
đều phấn khởi, tích cực và nhiệt tình tham gia các hoạt động học tập. Song học
sinh cũng còn nhiều hạn chế trong việc hợp tác nhóm, nhiều em khơng tập trung
vào nhiệm vụ được giao, nhiều em hiểu nhưng khơng biết cách trình bày, trao
đổi, một số em ln trông chờ vào kết quả suy nghĩ, làm việc của bạn mà không
tham gia cùng suy nghĩ, cùng làm việc hoặc thẳng thắn trao đổi, thể hiện ý kiến
bản thân,...
Từ những nguyên nhân khách quan, chủ quan ấy đã gây khó khăn cho việc
tổ chức dạy học theo nhóm do vậy mà hình thức dạy học này được áp dụng ít
dần và học sinh thì vẫn mong đợi được hoạt động tích cực trong từng bài học.
3. Các biện pháp thực hiện.
Trong nhiều năm trăn trở, nghiên cứu, tìm tịi, học hỏi và áp dụng thử
nghiệm nhiều lần, trong nhiều giờ dạy và đến nay cũng đã đem lại những thành
công nhất định trong từng giờ học. Các tiết dạy học theo nhóm sinh động hơn,
học sinh đã chủ động, hứng thú, tự tin, sẵn sàng nhận nhiệm vụ, biết chú ý lắng
nghe ý kiến người khác, biết phân tích dữ liệu, thu thập thông tin, biết lựa chọn
nội dung khi giao tiếp, biết hợp tác với bạn trong các hoạt động và biết cách giải
quyết vấn đề đơn giản nhất,...Do vậy, chất lượng học tập cũng ngày một cao hơn.
Để tiến hành dạy học theo nhóm cho học sinh các lớp có đầy đủ các đối
tượng học sinh (Giỏi, Khá, trung bình, Yếu), tơi đã tiến hành nghiên cứu và thực

hiện một số biện pháp cụ thể như sau:

7


3.1. Tìm hiểu, nắm vững cấu trúc, đặc điểm và các vấn đề cần lưu ý của
quá trình dạy học theo nhóm để vận dụng thực hiện cho phù hợp với đối
tượng học sinh.
3.1.1. Cấu trúc tổ chức dạy học theo nhóm
Để thực hiện dạy học theo nhóm, trước hết giáo viên cần nắm vững cấu trúc
dạy học theo nhóm để hướng dẫn và hình thành cho học sinh thói quen thực hiện
các bước học theo nhóm.
Cấu trúc của quá trình dạy học theo nhóm được trình bày qua sơ đồ sau:

NHẬP ĐỀ VÀ GIAO NHIỆM VỤ

- - Giới thiệu chủ đề.

Làm việc toàn lớp

- Xác định nhiệm vụ các nhóm.
- Thành lập các nhóm .

NHĨM
3.1.2. Cần phải chú ý đến việc LÀM
thành VIỆC
lập nhóm
hợp lý, phù hợp trong

- Chuẩn bị chỗ làm việc.

mỗi tiết dạy. Cụ thể là:
- Lập kế hoạch làm việc.
Làm việc nhóm
- Thoả thuận quy tắc làm việc.
* Việc phân chia nhóm trong
thường
- Tiến một
hànhtiết
giảihọc
quyết
nhiệmđược
vụ. căn cứ vào:
- Chuẩn bị báo cáo kết quả .

+ Số lượng học sinh trong lớp.
+ Nội dung của bài học.

+ Đặc điểm, trình độ của học sinh.
TRÌNH BÀY KẾT QUẢ /
Làm
việc
tồn
lớp
GIÁ xun thay đổi cách chia
Trong từng giờ dạy, tơi đã nghiên cứuĐÁNH
và thường
- Các nhóm trình bày kết quả

nhóm theo mục tiêu cần đạt của mỗi- hoạt
Đánhđộng.

giá kếtCó
quảhai
. kiểu nhóm thường xun
được tơi áp dụng đó là:
♦ Nhóm ngẫu nhiên: Giáo viên chia nhóm một cách ngẫu nhiên. Có thể:
+ Chia nhóm theo biểu tượng.
+ Ghép hình; Đếm số; Tháng sinh nhật,…
+ Đặc điểm bên ngoài.

8


Khi cần thay đổi và đa dạng hoá đối tượng hợp tác cho học sinh, tơi lựa
chọn cách chia nhóm ngẫu nhiên, nhằm mục đích tạo ra nhiều cơ hội nhất cho
học sinh trong lớp được hợp tác với nhau, cùng nhau trao đổi, chia sẻ kiến thức,
giúp đỡ lẫn nhau. Đặc biệt, những học sinh có lực học yếu hơn hoặc cịn nhút
nhát, chưa mạnh dạn cũng có thể dễ hồ đồng hơn với các bạn trong lớp. Qua
đó, tạo niềm tin, tinh thần đoàn kết cho học sinh.
♦ Nhóm chủ định: Trên cơ sở mục tiêu cần đạt của hoạt động, căn cứ nội
dung của hoạt động, giáo viên nắm bắt trình độ từng đối tượng học sinh và chủ
động đưa ra yêu cầu chia nhóm. Với kiểu chia này tơi thường áp dụng các cách
chia nhóm như :
+ Theo giới tính.
+ Theo sở thích của đa số học sinh.
+ Theo chun mơn sâu.
+ Theo trình độ: khác nhau hoặc tương đồng (đa dạng hoặc đồng nhất).
Với các cách chia này sẽ tạo cho học sinh niềm tự hào về nhóm của mình,
học sinh sẽ có ý chí phấn đấu để giành thắng lợi. Đây là cơ hội để giáo viên có
thể khích lệ hay giúp đỡ từng nhóm học sinh phấn đấu, vươn lên. Sự thay đổi
thường xuyên về các cách chia nhóm giúp học sinh hứng thú với từng hoạt động

nhóm, đồng thời tạo cho mọi học sinh có nhiều cơ hội giao lưu, học tập kinh
nghiệm, trao đổi kiến thức, rèn các kĩ năng sống qua sự đa dạng của hoạt động
nhóm.
3.1.3. Số lượng HS trong nhóm phải phù hợp với từng hoạt động.
Tuỳ theo yêu cầu, nội dung hoạt động học tập để xác định số lượng học
sinh trong nhóm: Khi cần rèn kĩ năng (đọc, viết hay tính tốn) cho nhiều học sinh
trong lớp nhất, tơi đã lựa chọn cách chia nhóm nhỏ (2-3 học sinh).

9


Khi cần sự cộng tác để có thể huy động được nhiều kiến thức nhất hay
cùng hợp tác để hoàn thành một sản phẩm, một nhiệm vụ trong thời gian ít nhất,
tơi đã sử dụng nhóm vừa (4 - 5 học sinh) hoặc nhóm lớn (6 - 8 học sinh).
3.1.4. Thành phần nhóm ( Các thành viên trong nhóm)
Hai yếu tố cần thiết cho sự thành công của hoạt động nhóm là sự an tồn
và sự thách thức. Nhóm “bạn bè” sẽ cho HS cảm giác an tồn nhất, nhưng
khơng phải lúc nào cũng có sự thách thức cần thiết để giúp trẻ mở rộng suy nghĩ
cũng như không mở rộng thêm những kĩ năng xã hội cần thiết để giao tiếp với
những người khơng quen, thậm chí khơng thích.
Trong lớp học có đầy đủ các đối tượng học sinh: giỏi, khá, trung bình, yếu.
Do vậy, thành phần nhóm cũng được tơi lựa chọn, thay đổi tuỳ theo mục đích bài
học. Ngồi cách chia nhóm với thành phần học sinh có cùng khả năng để cùng
hợp tác thực hiện nhiệm vụ nhằm phát huy cao độ trí tuệ, sức sáng tạo của học
sinh, tơi thường xun dùng cách chia nhóm đa thành phần. Cách chia nhóm đa
thành phần sẽ tạo điều kiện cho học sinh, nhất là học sinh còn hạn chế về nhiều
mặt có cơ hội để giao lưu, lắng nghe, học hỏi, tìm kiếm sự giúp đỡ, hỗ trợ của
bạn bè và tham gia góp sức mình để cùng hồn thành một nhiệm vụ.
3.1.5. Thời gian duy trì nhóm cần được cân nhắc hợp lý.
Thơng thường nhóm cần được duy trì sao cho đủ thời gian để các thành

viên hiểu nhau và thực hiện các kỹ năng cần thiết để hồn thành nhiệm vụ,
khơng nên lâu, q dễ gây ra sự nhàm chán, làm phát sinh tình trạng trì trệ thiếu
năng động, dựa dẫm vào nhau.
Bởi vậy, thời gian hoạt động nhóm phụ thuộc vào dung lượng nội dung
của từng hoạt động. Thơng thường, mỗi hoạt động nhóm có thời gian từ 5 đến 7
phút. Thời gian đầu tiên khi mới tổ chức hoạt động nhóm, do học sinh chưa có kĩ
năng hợp tác giữa các thành viên của nhóm nên thời gian cần thiết cho nhóm từ
tăng từ 2-3 phút. Khi giáo viên tham gia giảng dạy tăng cường hoạt động nhóm

10


học sinh có nhiều kĩ năng tham gia hoạt động nhóm thì thời gian “chết” khơng
cịn.
3.1.6. Thiết kế nhiệm vụ cho hoạt đợng nhóm phải đảm bảo tính vừa
sức, phù hợp với nhóm học sinh.
Nhiệm vụ nhóm phải đủ độ khó, cần đến sự hợp tác của nhiều học sinh
mới có thể giải quyết tốt vấn đề. Chẳng hạn:
+ Vấn đề địi hỏi cần phải thảo luận, giải thích. Các nhóm tìm hiểu và
thảo luận một chủ đề cho trước (bức tranh, một bài thơ hay một hiện vật,…), tập
hợp những ý tưởng, chia sẻ kinh nghiệm.
+ Khi phải giải quyết một vấn đề / bài tập. Các nhóm tìm hiểu một vấn đề
hay một tình huống cịn bỏ ngỏ và quyết định xem có thể làm gì. Ví dụ: Giải
quyết một vấn đề về môi trường hay xã hội, giải quyết một bài tốn khó,…
+ Khi thực hành, làm ra sản phẩm nào đó. Các thành viên trong nhóm
cùng làm việc để tạo ra một kết quả vật chất. Chẳng hạn: Tạo ra các thành phần
khác nhau của một sản phẩm chung (làm một tờ báo tường,…);
* Khi thiết kế nhiệm vụ cho nhóm tơi ln xác định rõ:
- Nhiệm vụ cần cho kiểu nhóm chủ định hay nhóm ngẫu nhiên?
- Nhiệm vụ đó phù hợp với kích cỡ nhóm nào?

- Nhiệm vụ này thì thành phần nhóm cần những đối tượng nào?
- Nhiệm vụ nhóm cần khoảng bao nhiêu thời gian mới đủ hoàn thành?
- Một nhiệm vụ chung cho cả lớp hay mỗi nhóm một nhiệm vụ?...
Căn cứ vào khả năng của học sinh, khi thiết kế nhiệm vụ của mỗi nhóm tơi
ln đưa ra những việc vừa sức đối với học sinh “yếu” hơn và có cả nhiệm vụ để
phát huy sức sáng tạo của học sinh giỏi.
3.1.7. Các bước tổ chức hoạt đợng nhóm phải được giáo viên hiểu rõ
và tiến hành thuần thục.
Bước 1: Chuẩn bị cho tổ chức hoạt động nhóm.

11


- Xác định các nội dung cho hoạt động nhóm: Nội dung học tập thích hợp
cho hoạt động hợp tác theo nhóm thường là các vấn đề, câu hỏi, bài tập địi hỏi
phải có tư duy và sự đóng góp của nhiều người để giải quyết. Các bước chuẩn
bị bao gồm:
- Xác định mục tiêu hoạt động, thành phần nhóm.
- Xác định quy mơ nhóm.
- Xác định thời gian phù hợp cho từng hoạt động học nhóm.
Bước 2: Tiến hành tổ chức dạy học theo nhóm.
- Chia nhóm và phân cơng nhiệm vụ cho các thành viên nhóm.
- Giao nhiệm vụ cho hoạt động nhóm.
- Hỗ trợ và hướng dẫn các nhóm khi cần thiết.
- Tổ chức cho các nhóm báo cáo kết quả làm việc của nhóm mình ( Dự
kiến cách tổ chức cho các nhóm trình bày kết quả và xử lý tình huống khi học
sinh khơng có ý kiến nhận xét; mỗi nhóm có các nhiệm vụ khác nhau).
Bước 3: Tổng kết hoạt động học nhóm.
- Tổng hợp, phân tích ý kiến và kết luận.
- Đánh giá kết quả hoạt động nhóm.

Khi tổ chức bất kì một hoạt động nhóm nào, tơi cũng thực hiện nghiêm túc
theo các bước trên. Ngoài ra giáo viên cũng cần phải sử dụng tốt các kĩ năng
trong quá trình tổ chức hoạt động nhóm như: kĩ năng quan sát, giúp đỡ, động
viên, khích lệ học sinh. Thơng qua hoạt động nhóm, giáo viên thực hiện rèn các
kĩ năng sống cho học sinh.
3.2. Giáo viên phải thực hiện tốt vai trò của mình trong khi tổ chức
hoạt đợng nhóm nhằm rèn được nhiều nhất các kĩ năng sống cho học sinh.
- Để hoạt động nhóm có hiệu quả, trước hết giáo viên cần cung cấp nhiệm
vụ có tính thách thức, địi hỏi sự nỗ lực của nhiều người, sau đó tổ chức và tạo
điều kiện để các nhóm hồn thành nhiệm vụ.

12


- Phải ln chú ý cân nhắc việc chia nhóm, thay đổi nhóm, tạo nhóm mới
để đảm bảo 2 yếu tố an tồn và thách thức trong hoạt động nhóm.
- Việc quản lí hoạt động nhóm đóng vai trị quan trọng nhất (giáo viên phải
quan sát quá trình hoạt động nhóm, hỗ trợ và hướng dẫn khi cần thiết, khen ngợi
và động viên học sinh kịp thời). Cụ thể:
+ Giáo viên phải là người điều động các nhóm làm việc nhằm thu được
hiệu quả cao nhất.
+ Phải quan sát và theo dõi hoạt động, cơng việc của từng nhóm để tìm ra
cách hỗ trợ kịp thời và cách giải quyết hợp lý nhất.
+ Trong q trình quan sát các nhóm làm việc, giáo viên phải phát hiện
các sai lầm mà các nhóm mắc phải, những sai lầm mang tính điển hình và chưa
được sữa chữa để cuối phần thảo luận nhóm có nhận xét, góp ý cho học sinh.
+ Giáo viên phải chốt lại các ý kiến mà nhóm đã trình bày khẳng định lại ý
kiến của nhóm để xem nhóm có cần bổ sung ý kiến hay khơng. Nhấn mạnh các
khái niệm, các ý quan trọng của bài học. Sau đó tóm tắt, tổng hợp, liên kết các ý
kiến của từng nhóm thảo luận theo thứ tự để nêu bật được nội dung bài học.

+ Người giáo viên là người hướng dẫn và giúp đỡ khi các nhóm có gặp
khó khăn trong q trình thảo luận. Chú ý khơng nên can thiệp sâu vào q trình
làm việc của nhóm ( khơng đóng góp ý kiến như một thành viên của nhóm hoặc
hỏi nhiều câu hỏi làm ảnh hưởng đến sự tập trung của nhóm).
+ Tuỳ thuộc vào số lượng thành viên của mỗi nhóm mà giáo viên đề ra các
chức danh phù hợp u cầu: Ví dụ nhóm trưởng, thư ký, báo cáo, quản lý thời
gian, giám sát, liên lạc,…
Trong các thành viên, nhóm trưởng là người đóng vai trị quan trọng nhất.
Đó là người biết khởi động buổi thảo luận bằng cách vào đề sinh động, chân tình
và tạo được khơng khí thoải mái. Trong khi thảo luận: Người nhóm trưởng phải
điều động được tất cả các thành viên trong nhóm tham gia tích cực vào buổi thảo

13


luận, bên cạnh đó người nhóm trưởng phải biết lắng nghe, khuyến khích thành
viên rụt rè, ngăn chặn những người nói nhiều, theo dõi và quan sát phản ứng của
từng thành viên để điều chỉnh buổi thảo luận. Khai thác nội dung bằng cách đặt
câu hỏi kích thích tư duy của từng người. Phát hiện những mâu thuẫn trong cách
trình bày của mỗi thành viên, tổng kết lại ý kiến của nhóm ở cuối buổi thảo luận.
Vì vậy cần hướng dẫn cho học sinh ngay từ những lần đầu tiên làm việc theo
nhóm bằng các hình thức khác nhau cho đến khi quen việc, các em phải cùng
nhau hợp sức để hồn thành nhiệm vụ được giao. Thơng qua vai trị nhóm
trưởng, các em được ren luyện kĩ năng giao tiếp, kỹ năng xác định giá trị, kỹ
năng giải quyết vấn đề, kỹ năng giải quyết mâu thuẫn …
+ Khi làm việc tơi ln khuyến khích các nhóm tự lựa chọn cách thực hiện
nhiệm vụ sao cho đạt được yêu cầu được giao. Các thành viên trong nhóm được
thay phiên làm nhóm trưởng, thư ký, báo cáo viên,… ở mỗi lần làm việc nhóm.
Cách làm này sẽ tránh được tình trạng học sinh làm qua loa, hình thức khi khơng
có sự kiểm tra theo dõi của giáo viên, một số em yếu, thụ động không chịu động

não, suy nghĩ, hoặc thuộc lịng đọc vẹt, khơng bày tỏ ý kiến của mình ngược lại
những em nhanh nhẹn thì tự quyết định vấn đề mà khơng có sự thảo luận trong
nhóm. Đồng thời với sự thay đổi vai trò của các thành viên trong nhóm sẽ tạo cơ
hội cho tất cả các học sinh được rèn luyện các kĩ năng như: Kĩ năng điều hành, kĩ
năng hợp tác, kĩ năng giao tiếp, kĩ năng tổng hợp thơng tin, phân tích, giải quyết
vấn đề,…
+ Để tất cả học sinh đều tham gia làm việc một cách chủ động tơi ln
khuyến khích động viên các em, nhất là các em còn nhút nhát, giao nhiệm vụ cho
nhóm trưởng quản lí và theo dõi phân cơng các thành viên trong nhóm làm việc.
Khi giao việc cho các nhóm tơi thường theo dõi, quan sát nếu các em làm việc
trầm hoặc nhốn nháo, lúng túng thì tôi hướng dẫn, gợi ý cho các em nhưng
không can thiệp quá sâu.

14


+ Cần tổ chức cho các nhóm thi đua với nhau qua bảng điểm làm việc giữa
các nhóm, trong quá trình diễn ra hoạt động nhóm, nhóm nào làm việc tốt khơng
gây ồn ào khơng có thành viên làm việc riêng nhóm đó được cộng điểm và
ngược lại, nhóm trưởng sẽ chịu trách nhiệm khi có bạn trong nhóm khơng hợp
tác, để tránh nhóm làm nhanh phải chờ đợi sẽ sinh ra nói chuyện, làm việc riêng
tơi tổ chức cho các nhóm trưởng chọn nhóm kiểm tra chéo, hay trao đổi thêm các
thơng tin có liên quan đến bài học.
+ Đối với những học sinh học chưa tốt, tuỳ theo bài học, tơi có thể xếp các
em thành một nhóm và tự mình tham gia là thành viên trong nhóm của các em để
giúp các em điều khiển nhóm làm việc. Sau đó luân phiên cho học sinh giỏi làm
nhóm trưởng thay thế vai trị của tơi cịn mình thì quan sát, giúp đỡ các nhóm
làm việc.
+ Việc tổ chức cho các nhóm báo cáo kết quả thảo luận cũng được tơi đặc
biệt quan tâm vì đây cũng là một cơ hội để các em được tập dượt cách diễn đạt

trước chỗ đông người và kỹ năng giải quyết nhanh các tình huống khi các bạn
trong lớp phỏng vấn lại. Nếu nhóm khác nhiệm vụ thì đại diện từng nhóm lên
báo cáo trước lớp. Thành viên báo cáo không nhất thiết phải là báo cáo viên mà
có thể là thành viên khác trong nhóm như thư kí, nhóm trưởng, quản lý thời gian
hay giám sát, để em nào cũng chủ động, tránh ỷ lại, các thành viên trong nhóm
đều phải tham gia trả lời, các nhóm khác nghe, nhận xét, bổ sung ý kiến. Qua
hoạt động này tơi có thể kiểm tra được sự hợp tác của các thành viên trong nhóm
và đánh giá được khả năng kiểm tra chéo của các nhóm trưởng.
Nếu nhóm cùng nhiệm vụ thì đại diện một đến hai nhóm lên báo cáo, các
nhóm khác quan sát và so sánh với kết quả của nhóm mình sau đó nhận xét, bổ
sung. Làm như vậy thì tất cả các em đều có cơ hội tham gia giao tiếp, bày tỏ
quan điểm, suy nghĩ của mình về kiến thức bài học. Từ đó các em sẽ hiểu vấn đề

15


một cách sâu sắc hơn, nhớ bài lâu hơn và cũng tăng cường rèn kĩ năng sống cho
các em tốt hơn..

MỘT SỐ VÍ DỤ MINH HOẠ
1. Trong q trình vận dụng tôi nhận thấy mỗi phương pháp phù hợp với
một dạng bài tập, một kiểu bài.
Ví dụ:
Phương pháp nhóm lắp ghép tôi sử dụng nhiều trong phân môn Luyện từ
và câu với kiểu bài Mở rộng vốn từ. Chẳng hạn:
Bài Mở rộng vốn từ Cái đẹp, bài tập 1 yêu cầu học sinh tìm từ:
+ Thể hiện vẻ đẹp bên ngoài của con người.
+ Thể hiện nét đẹp tâm hồn, tính cách của con người.
* Ở lớp 4B khi tổ chức cho học sinh làm việc theo nhóm đơi, tơi nhận thấy
học sinh thực hiện tốt nhưng số lượng từ khơng nhiều ( Nhóm tìm được nhiều

nhất chỉ đạt 6 từ đúng yêu cầu).
* Ở lớp 4A tôi sử dụng phương pháp nhóm lắp ghép để học sinh giải quyết
yêu cầu của bài tập như sau:
- Đầu tiên tôi giao việc cho học sinh thực hiện cá nhân, mỗi học sinh thực
hiện một yêu cầu. Ở bước này học sinh tự tìm từ, số lượng từ học sinh tìm được
có thể ít hay nhiều.

16


- Kế đến học sinh sẽ họp nhóm chun mơn. Lúc này những học sinh thực
hiện cùng một yêu cầu sẽ bổ sung từ cho nhau. Sau bước này số lượng từ học
sinh tìm được sẽ nhiều hơn.
- Tiếp theo các em sẽ lắp ghép, học sinh thực hiện yêu cầu (a) trình bày từ
mình tìm được cho học sinh thực hiện yêu cầu (b) và ngược lại. Sau bước này,
học sinh hoàn thành bài tập với số lượng từ tìm được rất phong phú.
Với cách thực hiện như trên, tơi nhận thấy số lượng từ học sinh tìm được
nhiều hơn, vốn từ của học sinh ngày càng phong phú (có nhóm tìm được đến 20
từ đúng u cầu). Tiết học diễn ra nhẹ nhàng, học sinh tích cực làm việc, tích cực
chuẩn bị bài ở nhà.
2. Khi vận dụng những phương pháp nhóm vào trong thực tế giảng dạy tôi
nhận thấy phải vận dụng linh hoạt sao cho phù hợp với đối tượng. Với học sinh
tiểu học, tôi sử dụng phương pháp nhóm lắp ghép khi bài tập có 2 câu và độ khó
tương đương nhau. Sau khi thực hiện cá nhân, học sinh tạo nhóm lắp ghép với
cách làm như sau:
Bước 1: Thảo luận nhóm chun mơn:
DÃY 1

DÃY 2


DÃY 3

DÃY 4

A

A

B

B

A

A

B

B

A

A

B

B

A


A

B

B

Bước 2: Thảo luận nhóm lắp ghép:
DÃY 1

DÃY 2

DÃY 3

DÃY 4

A

B

A

B

A

B

A

B


A

B

A

B

A

B

A

B

Khi thực hiện như thế học sinh dễ dàng trao đổi nhóm chun mơn và khi
lắp ghép học sinh di chuyển nhanh hơn, không làm mất nhiều thời gian. Với cách
làm như thế còn phù hợp với cách sắp xếp bàn ghế trong lớp học.
3. Đặc điểm của học sinh tiểu học là thích mới lạ do vậy khi sử dụng

17


phương pháp nhóm tơi thường xun thay đổi các thành viên trong nhóm bằng
các hình thức chia nhóm như chia nhóm theo từ đồng nghĩa, chia nhóm theo từ
ngữ cùng chủ đề…Ngồi ra, để các hoạt động nhóm có hiệu quả tơi cịn chia
nhóm theo khả năng theo sở thích.
Ví dụ: Bài Thành phố Hồ Chí Minh (mơn Địa lí)

Hoạt động 2: Giáo viên yêu cầu học sinh tìm hiểu thơng tin trong SGK và những
hiểu biết của mình để chứng tỏ Thành phố Hồ Chí Minh là một trung tâm kinh
tế, văn hóa, khoa học lớn. Để thực hiện yêu cầu trên, giáo viên chia lớp thành các
nhóm nhỏ có cùng sở thích:
- Nhóm kinh tế tìm hiểu, nêu ra các hiểu biết về các khu kinh tế, các ngành
cơng nghiệp… để chứng tỏ Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm kinh tế lớn.
- Nhóm văn hố tìm hiểu, nêu ra các hiểu biết về các hoạt động, cơ sở văn
hoá … để chứng tỏ Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm văn hố lớn.
- Nhóm khoa học tìm hiểu, nêu ra các hiểu biết về các hoạt động, các cơ
sở nghiên cứu khoa học… để chứng tỏ Thành phố Hồ Chí Minh là trung tâm
khoa học lớn.
Mỗi nhóm sẽ giải quyết một nội dung sau đó sẽ tổ chức cho các nhóm báo
cáo, phỏng vấn, tranh luận, hùng biện để bảo vệ ý kiến của mình. Như thế các
nhóm sẽ bổ sung kiến thức cho nhau và kết quả làm việc của các em có chiều
sâu, nội dung học tập sẽ được mở rộng hơn, các kỹ năng sống của các em cũng
có dịp được tương tác, trải nghiệm và nâng lên.
4. Tùy theo đặc điểm học sinh của từng lớp, khi sử dụng phương pháp dạy
học theo nhóm tơi chọn hình thức tổ chức, cách thức làm việc khác nhau cho
cùng một phương pháp.
Khi sử dụng các phương pháp dạy học theo nhóm, tơi cịn hướng dẫn học
sinh nhận xét ý kiến của bạn .Điều đó, giúp học sinh mạnh dạn, tự tin khi bày tỏ
ý kiến của mình và là một trong những động lực giúp học sinh cố gắng vươn lên

18


trong học tập. Tuy nhiên khi vận dụng phương pháp dạy học theo nhóm giáo
viên cần nghiên cứu, lựa chọn và phối hợp nhịp nhàng với các phương pháp
khác sao cho phát huy được khả năng học tập cao nhất của học sinh và giờ học
diễn ra nhẹ nhàng nhưng hiệu quả để mỗi ngày học sinh đến trường thực sự là

một ngày vui.

4 . Hiệu quả của Sáng kiến Kinh nghiệm
4.1. Kết quả đã đạt được của việc áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Trước khi áp dụng SKKN
Sau khi áp dụng SKKN
- Chưa biết cách nghiên cứu tài - Hình thành được ở học sinh thói quen sử
liệu, SGK.

dụng SGK và các tài liệu khác.

- Học còn thụ động, chưa biết cách - Biết cách tự học, tự nghiên cứu qua
tự học
nhiều nguồn học liệu.
- Chưa có những thắc mắc, suy luận - Biết đưa ra những suy luận ngược và
về vấn đề được học.
khắc sâu vấn đề.
- HS còn dựa giẫm, chưa tự giác
học tập.
- Dần cá biệt hố đối tượng.
- Lớp học chỉ có một số HS khá
- Cả lớp -> thoải mái, tránh đồng loạt.
giỏi phát biểu.
- Cá nhân -> tự giác, linh động, sáng tạo,
- Học sinh chưa chú ý, chủ quan
tự tin.
với kiến thức, lơ đãng.
- Nhóm -> hợp tác thích nghi, giúp đỡ
- HS chưa biết hoạt động nhóm,
trách nhiệm, giao tiếp học hỏi lẫn nhau, tự

chưa biết cách điều hành, thảo luận
tìm tịi, tự phát hiện, tự chiếm lĩnh kiến
để hồn thành nhiệm vụ của nhóm.
thức.
- Học sinh cịn nhút nhát, ít nói,
ngại giao tiếp, các kỹ năng sống
của học sinh chưa được phát huy.

- Học sinh mạnh dạn hơn, nhanh nhẹn
hơn, các kĩ năng sống được hình thành và
thể hiện ngày một rõ nét hơn.

19


- Đa số học sinh trong lớp đều hứng thú,
- Chỉ một số học sinh khá hăng hái vui vẻ, tập trung, tích cực thi đua học tập.
tham gia học tập, học sinh yếu thì - Tiết dạy nhẹ nhàng, tự nhiên, sinh động
thụ động.

và hiệu quả.

- Tiết dạy diễn ra không sinh động, - Lớp học trở nên thân thiện gần gũi đối
căng thẳng.

với học sinh, tạo cho các em có cảm giác
thực sự “Mỗi ngày đến trường là một ngày

- Lớp học khơng thân thiện, học vui”.
sinh ít có hứng thú học tập.

4.2. Tình trạng hiện nay của công việc so với thực trạng ban đầu:
- Trước đây:
+ Học sinh làm việc theo nhóm chỉ là thay đổi theo một hình thức khác
trong các hình thức tổ chức hoạt động trên lớp.
+ Các nhóm chưa thể hiện được tính đồn kết và tập trung chưa cao.
+ Học sinh chỉ làm những bài tập nhỏ chưa thể hiện được tính chủ động
sáng tạo và tự chiếm lĩnh kiến thức, cịn mang tính hình thức, mờ nhạt.
- Tình trang hiện nay: Sau quá trình tìm hiểu, nghiên cứu và tiến hành tổ
chức dạy học theo nhóm nhằm rèn kĩ năng sống cho học sinh, tôi nhận được kết
quả rất khả quan, với hình thức dạy học đó đã đem đến cho các lớp học kết quả
đáng kể như đã nêu ở phần trên ( Mục 4.1).
Năm học 2011-2012, song song với việc bản thân tiếp tục nghiên cứu, bổ
sung, thực hiện sáng kiến, tôi đã chỉ đạo các tổ chuyên môn áp dụng thực hiện.
Sau một số tháng học áp dụng sáng kiến của tôi, tất cả các giáo viên thực
hiện đều cho ý kiến: kết quả thu được đúng như sáng kiến đã đánh giá, song để
thực hiện được điều đó, địi hỏi giáo viên phải tâm huyết, phải tận tuỵ với học

20


sinh và phải bỏ nhiều công sức để chuẩn bị, thiết kế cũng như tổ chức điều hành
trên lớp.

III. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ
1. Kết luận.
- Phương pháp dạy học theo nhóm được đánh giá là một phương pháp dạy
học tích cực, hướng vào học sinh và đạt hiệu quả cao trong dạy học. Phát huy
cao độ tính tích cực, chủ động sáng tạo của người học, đồng thời phát huy cao độ
khả năng hợp tác, giúp đỡ học tập lẫn nhau, tạo cơ hội nhiều nhất để giáo dục và
rèn luyện các kĩ năng cơ bản cần thiết cho học sinh.

- Tuy nhiên mỗi phương pháp dạy học đều có những ưu, nhược điểm
riêng, do đó người giáo viên cần phải biết vận dụng kết hợp các phương pháp
sao cho phù hợp với đặc điểm riêng của lớp mình phụ trách.
- Phương pháp này thường bị hạn chế bởi không gian chật hẹp của lớp
học, bởi thời gian hạn định cho một tiết học nên giáo viên phải biết tổ chức hợp
lí và tổ chức thường xuyên để học sinh được làm quen với hoạt động này thì giờ
học mới đem lại kết quả tốt.
- Ta cần chú ý đến yêu cầu phát huy tính tích cực của học sinh và rèn
luyện năng lực hợp tác giữa các thành viên trong hoạt động nhóm. Nhưng cũng
cần tránh khuynh hướng tuyệt đối hố, hình thức và lạm dụng phương pháp này
mà cho rằng tổ chức hoạt động nhóm là dấu hiệu tiêu biểu nhất của đổi mới
phương pháp dạy học hoặc hoạt động nhóm càng nhiều thì càng chứng tỏ
phương pháp dạy học càng đổi mới hoặc chỉ có phương pháp dạy học này mới
có thể giáo dục và rèn được kĩ năng sống cho học sinh.

21


- Phương pháp hoạt động nhóm cũng khó phù hợp đối với những lớp quá
đông học sinh.
- Để tăng cường giáo dục và rèn kĩ năng sống cho học sinh thơng qua
nhiều hoạt động, nhiều hình thức, trong đó có hình thức dạy học theo nhóm
thành cơng thì người giáo viên trước hết phải nhiệt tình, tâm huyết với nghề;
phải hiểu rõ, đầu tư nghiên cứu kĩ nội dung bài dạy, thiết kế hoạt động cho nhóm
phù hợp, thay đổi các hình thức chia nhóm để gây hứng thú học tập cho học sinh
và thực hiện tốt việc tổ chức, quản lí hoạt động nhóm trên lớp cho học sinh.
2. Kiến Nghị.
- Phòng Giáo dục và Đào tạo tăng cường hình thức sinh hoạt chun
mơn cụm trường cho các nhà trường và tăng cường chỉ đạo các cụm thực hiện
đổi mới hình thức nội dung sinh hoạt, chú trọng hơn đến dạy kỹ năng sống cho

học sinh.
Trên đây là một số kinh nghiệm nhỏ về việc sử dụng phương pháp dạy học
theo nhóm trong các giờ học ở tiểu học nhằm tăng cường giáo dục kĩ năng sống
cho học sinh mà tôi đã sử dụng tương đối thành công trong những năm qua ở
Trường Tiểu học Vân Phú. Rất mong nhận được chia sẻ cùng đồng nghiệp và
cũng hy vọng nhận được sự đóng góp ý kiến nhiệt thành của các bạn bè đồng
nghiệp gần xa để có thể tổ chức được các giờ học thành cơng hơn nữa, góp phần
từng bước nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện học sinh của tỉnh nhà.
Tôi xin chân thành cảm ơn !
Vân Phú, ngày 5 tháng 4năm 2013
Người thực hiện

22


C. TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Tài liệu tập huấn Oxpam Anh về dạy học lấy học sinh làm trung tâm
2. Sách giáo khoa các lớp : 1

5

3. Sách giáo viên các lớp : 1

5

4. Phương pháp dạy học các môn ở tiểu học ( Nhà xuất bản giáo dục).
5. Tài liệu giáo dục kỹ năng sống trong các môn học ở Tiểu học ( Nhà xuất bản
giáo dục)

23



D. MỤC LỤC
Trang
A Phần mở đầu
.1 Lý do chọn SKKN :

B

1
1

2. Mục đích nghiên cứu:

2

phương pháp nghiên cứu

3

Phần nợi dung

4

Cơ sở lí luận

4

Thực trạng


4

Nội dung biện pháp thực hiên
Một số ví dụ minh hoạ
Một số kĩ thuật dạy học tích cực hỗ trợ cho hoạt động nhóm
Hiệu quả của skkn
Kết luận, kiến nghị
Tài liệu tham khảo

24



×