Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

TÍNH NHÂN NGHĨA TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MINH CỦA NGHĨA QUÂN LAM SƠN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (367.91 KB, 21 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HUẾ
KHOA LỊCH SỬ
--------------------

TIỂU LUẬN
HỌC PHẦN: NGHỆ THUẬT QUÂN SỰ VIỆT NAM CỔ TRUNG ĐẠI

Đề tài:
TÍNH NHÂN NGHĨA TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MINH CỦA NGHĨA QUÂN LAM SƠN

Huế, tháng 12 năm 201

Giảng viên hướng dẫn

Sinh viên thực hiện

TS. Huỳnh Công Bá

Lê Văn Viện


A. PHẦN MỞ ĐẦU
I.
LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Việt Nam là một nước, đất không rộng người không đông, thế nhưng dân tộc Việt
Nam từ đời này sang đời khác đã bao phen đứng lên chiến đấu bảo vệ non song đất nước,
giữ vững nền độc lập cho Tổ quốc, làm nên những chiến công oanh liệt như Bạch Đằng, Chi
Lăng, Đống Đa, Điện Biên Phủ,… Qua đó cho thấy quy luật lịch sử của dân tộc ta là quá
trình dựng nước đi đôi với quá trình dựng nước. Vậy nên, như chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói:
“Lịch sử ta đã có nhiều cuộc kháng chiến vĩ đại chứng tỏ tinh thần yêu nước của dân ta.
Chúng ta có quyền tự hào về những trang lịch sử vẻ vang thời đại Bà Trưng, Bà Triệu, Trần


Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, v.v… Chúng ta phải ghi nhớ công lao của các vị anh hùng
dân tộc vì các vị ấy là tiêu biểu của một dân tộc anh hùng”.
Chính trong hoàn cảnh ấy “thời thế sinh anh hùng”, đã sản sinh ra biết bao thế hệ anh
hùng như Ngô Quyền, Lê Hoàn, Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Nguyễn
Huệ,v.v… thể hiện niềm tin dân tộc “tuy mạnh yếu có lúc khác nhau, song hào kiệt không
bao giờ thiếu” vậy nên “Trải Triệu, Đinh, Lý, Trần nối đời dựng nước, cùng Hán, Đường,
Tống, Nguyên đều chủ một phương”.
Dân tộc ta luôn kiên cường, đầy bản lĩnh, giữ vững tinh thần “quân điếu phạt trước lo
trừ bạo”. Điều này đã được chứng minh rõ nét trong dòng chảy của lịch sử dân tộc ta, tiêu
biểu như Ngô Quyền chống quân Nam Hán (938), hai lần chống quân Tống của nhà Tiền Lê
(981), và nhà Lý (1076), 3 lần kháng chiến chống quân Nguyên - Mông (1258,1285,1288),
chống quân Minh của Nhà Hồ (1409) và nghĩa quân Lam Sơn (1418-1427), chống quân
Thanh của vương triều Tây Sơn (1789).
Việc phải liên tục đứng dậy cầm vũ khí chống kẻ thù xâm lược, đã tôi luyện cho dân
tộc ta tinh thần tự vệ, từ đó mà nảy sinh cách đánh của người Việt. Trong đó nổi lên việc
“Đem đại nghĩa để thắng hung tàn, Lấy chí nhân để thay cường bạo”. Nhân nghĩa là sức
mạnh để chiến thắng, “chí nhân, đại nghĩa” là nền tảng của chủ nghĩa nhân đạo mà dân tộc
ta bao đời nay đeo đuổi để tạo dựng nền văn hiến mang bản chất truyền thống con người
Việt nam. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi còn nổi bật đối với cách đối xử với kẻ thù
khi chúng đã bại trận, đầu hàng. Nó thể hiện được đức hiếu sinh, sự “khoan dung của dân
tộc Việt Nam nói chung cũng như tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi nói riêng”. Vì vậy
với tâm nguyện mong muốn góp chút ít về vấn đề trên cũng như vận dụng phát huy tính
nhân nghĩa trong đời sống hiện nay, tôi mạnh dạn chọn đề tài này làm đề tài Tiểu luận.
2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
Đã có nhiều đề tài viết khởi nghĩa Lam Sơn như: Phan Huy Lê, Phan Đại Doãn, Khởi nghĩa
Lam sơn; Nguyễn Lương Bích, Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước…v.v nhưng mỗi đề tài nghiên
cứu đều mang một dấu ấn và đặc trưng, sự đóng góp nhất định của một người và nhóm nghiên
cứu do vậy đề tài của tôi, không nhiều thì ít cũng có sự đóng góp vào đề tài nêu trên.
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Đề tài sử dụng cơ sở lý luận sử học mácxít và lí luận của nghành lịch sử.

Sử dụng phương pháp sưu tầm, tập hợp, chọn lọc, xử lý, tổng hợp các tài liệu liên quan đến
đề tài Tính nhân nghĩa trong cuộc kháng chiến chống Minh của nghĩa quân Lam Sơn.
4. ĐÓNG GÓP ĐỀ TÀI


Đề tài góp phần làm rõ hơn về tính nhân nghĩa trong từng đối tượng và biểu hiện của nó
trong cuộc kháng chiến chống Minh của nghĩa quân Lam Sơn qua đó phát huy và vận dụng tính
nhân nghĩa đó trong cuộc sống hiện nay.
5. GIỚI HẠN NGHIÊN CỨU
 Không gian và thời gian: Tính nhân nghĩa được thực hiện trong cuộc kháng chiến chống Minh của
nghĩa quân Lam Sơn từ năm 1418-1427.

B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG I. TÍNH NHÂN NGHĨA TRONG ĐỜI SỐNG DÂN TỘC VIỆT NAM
I.1. Quan điểm về tư tưởng nhân nghĩa
Tư tưởng nhân nghĩa của Khổng Tử: Một trong những nội dung cơ bản của học thuyết nhân
nghĩa của Khổng Tử xuất phát từ quan điểm: Nhân là yêu người. Nhưng để yêu người thực sự
bằng lòng "Nhân" thì phải"hiểu người" . Do đó, "Nhân" và "Nghĩa" lại có nội dung gần nhau.
Vì nghĩa được nhấn mạnh là sự "cư xử cho thích hợp" – dựa trên việc "hiểu người”. Chính với
những quan điểm cơ bản phản ánh mối quan hệ giữa cá nhân với cá nhân; cá nhân với cộng
đồng, và cả hai mối quan hệ đó lại đều xuất phát từ lòng nhân và sự hiểu biết về sự đối xử phải
theo đúng lòng nhân hợp với mệnh trời, thì đây lại chính là cơ sở của tư tưởng công bằng - thể
hiện ở điều nghĩa.
Khổng Tử quan niệm không chỉ người quân tử mới có lòng nhân mà còn phải đem lòng
nhân đó thực hiện khắp trong thiên hạ, trước hết là với những người thân với mình: "đạo nhân,
nghĩa là người, trước hết phải yêu thương người thân của mình". Và thực hiện được lòng
nhân còn thể hiện ở việc "đề cao tu dưỡng bản thân để đưa trăm họ đến cuộc sống thái bình.
Tư tưởng của Mạnh Tử về nhân nghĩa: Kế tục những tư tưởng của Khổng Tử
về nhân, nghĩa với tư cách là thực hiện lẽ công bằng thể hiện ở mối quan hệ của lòng nhân bên
trong hướng ra thực hiện việc nghĩa nơi ngoài, Mạnh tử đã đưa ra tư tưởng đầy đủ hơn về sự

gắn liền giữa nhân và nghĩa, hay đó cũng chính là tư tưởng "nhân nghĩa". Với quan niệm ấy,
Mạnh Tử đã nhấn mạnh chủ yếu đến sức mạnh của nhân nghĩa nhằm vào mục tiêu việc gạt bỏ
được chiến tranh bạo tàn, củng cố ổn định trật tự xã hội. Theo Mạnh Tử “nhân nghĩa là phẩm
chất cần thiết cho tất cả mọi người và khi nó đã được ứng dụng vào việc trị nước sẽ trở thành
nhân nghĩa”.
Đến Nguyên Trãi thì quan niệm nhân nghĩa của ông không phải bao hàm nội dung như vậy.
Đối với ông, nhà lãnh đạo tài ba thì nhân nghĩa chính là yên dân: Nhân nghĩa chi cử vụ tại an
dân (Làm việc nhân nghĩa cốt để yên dân). Nhân nghĩa duy trì quốc thể an (Nhân nghĩa duy trì
thế nước yên). Dân yên là dân yên ổn làm ăn, no ấm, không lầm than khổ cực. Thế nước yên là
thế nước “yên vững” ( diện an), “ bốn biển từ nay yên tĩnh” “quốc gia trường cửu”, “non sông
đẹp tươi”, “ thái bình muôn thưở”.
1.2. Biểu hiện tính nhân nghĩa trong đời sống dân tộc Việt Nam
1.2.1. Tính nhân nghĩa trong cuộc kháng chiến chống Tống của nhà Lý
Nhà Lý lúc này đang là triều đại Nhân Tông (1072-1128), theo lệ thường vua Nhân Tông chịu sắc
phong của nhà Tống là Giao Chỉ Quận Vương. Vua Lý Nhân Tông “trán cao mặt rồng, tay dài quá gối,


sáng suất thần võ, trí tuệ nhân hiếu, nước lớn thì sợ, nước nhỏ thì mến, thần giúp đỡ, người ứng theo,
thông âm luật, chế khúc hát, dân giàu đông, mình nên thái bình, là vua giỏi của triều Ly” [3, tr. 199].
Trong triều đình lại có hiền thần như Lý Đạo Thành, Lý Thường Kiệt phò trợ, mẹ là Linh Nhân (Ỷ Lan
Hoàng Thái phi) chăm nom, vì vậy mà quốc sự thịnh trị, quốc dân thái bình, cương giới lãnh thổ do tổ tiên
để lại vẫn vẹn nguyên.
Bấy giờ nhà Tống ở phương Bắc đang túng quẫn, phải dựa vào kế thanh mưu, trợ dịch để mưu cầu
thoát nguy nan. Để tiếp tục kế hoạch vượt nguy đó, nhà Tống âm mưu xâm chiếm nước ta một lần nữa.
Vua Tống luôn nuôi hy vọng lấy lại Giao Châu bị mất, thị uy với các nước ở phương Bắc và Tây Bắc là
Liêu và Hạ, cũng để chuyển mâu thuẫn trong nước ra bên ngoài. Năm 1075, nhân việc Chiêm Thành quấy
phá ở mạn biên giới nước ta, Vương An Thạch cầm quyền, “dâng lời nói với vua Tống rằng nước ta bi
Chiêm Thành đánh phá, quân còn sót lại không đầy vạn rưỡi, có thể dùng kế đánh lấy được” [3, tr. 200].
Vậy nên, đất nước Đại Việt lại phải đối mặt với nguy cơ xâm lược của phương Bắc. Lúc này “ vua Tống
sai Thẩm Khởi và Lưu Di làm tri châu Quế Châu, ngầm lấy binh người Man động, đóng thuyền bè, tập

thuỷ trận, cấm các châu huyện không được mua bán với nước ta” [3, tr. 200]. Nhận thấy được âm mưu
của kẻ địch, triều đình bèn lấy kế “tiên phát chế nhân”, lệnh cho Lý Thường Kiệt đưa quân sang đất Tống
phá hủy tiềm lực chiến tranh của chúng, đồng thời kéo dài thời gian để xây dựng lực lượng của ta. Tuy
rằng, trước đó viên quan coi Ung Châu là Tô Giám đã nói rằng “phải bỏ ngay ba việc đang làm: tập lính,
đóng tàu, cấm thợ, để người Giao Chỉ không có danh nghĩa để cất quân” [4, tr. 25]. Dã tâm của chúng quá
lớn nên khó lòng che đậy được, vậy nên quân ta tiến công là để phòng thủ, một cách tự vệ chủ động.
Theo lệ xưa, khi một đạo quân đi chinh phạt thường gửi tờ lộ bố đến trước, nêu rõ tính chính nghĩa
của mình. Vậy nên, trên đường tiến quân Lý Thường Kiệt đã phát hịch nêu rõ tính chính nghĩa của cuộc
tiến quân tự vệ, đồng thời nói rõ tính phi nghĩa cuộc chiến mà nhà Tống chuẩn bị xâm lược Đại Việt. Lời
hịch nói: Trời sinh ra dân chúng, vua hiền ắt hòa mục. Đạo làm chủ dân, cốt ở nuôi dân. Nay nghe vua
Tống ngu hèn, chẳng tuân theo khuôn phép thánh nhân, lại tin kế tham tàn của Vương An Thạch, bày
những phép “thanh miêu”, “trợ dịch”, khiến trăm họ mệt nhọc lầm than mà riêng thỏa cái ngầm mưu nuôi
mình béo mập. Nay bản chức vâng mệnh quốc vương chỉ đường tiến quân lên Bắc, muốn dẹp yên làn
sóng yêu nghiệt, chỉ có ý phân biệt quốc thổ, không phân biệt chúng dân [15, tr. 195].
Về trận này, sách Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng: “Ly Thường Kiệt đánh các châu Khâm, Liêm,
Đảng, vây châu Ung, đô giám Quảng Tây nhà Tống là Trương Thủ Tiết đem quân đến cứu. Thường Kiệt
đón đánh ở cửa ải Côn Lôn (nay là phủ Nam Ninh ở Quảng Tây) chém được Thủ Tiết tại trận” [3, tr. 200].
Với tính chính nghĩa của cuộc tiến công sang đất Tống, quân ta đã nhanh chóng giành thắng lợi. Kế tiên
phát chế nhân đã đưa lại thành tựu to lớn, kéo dài thời gian “chiến bi” cho ta.
Đến năm 1076, quân Tống phát binh xâm lược nước ta. Trận lần trước đã khiến nước Tống dè dặt
hơn nên trận này chúng kêu gọi sự góp sức của quân nước Chiêm Thành và Chân Lạp. Mùa xuân tháng 3


năm Bính Thìn (1076), “nhà Tống sai tuyên phủ sứ Quảng Nam là Quách Quỳ và Chiêu thảo sứ, Triệu
Tiết làm phó, đem quân 9 tướng hợp với Chiêm Thành và Chân Lạp sang lấn nước ta” [3, tr. 201]. Lúc
này tình thế chiến tranh xuất hiện và trong nước đã chuẩn bị được các điều kiện để đối phó. Lý Thường
Kiệt cho lập nhiều phòng tuyến trên đường tiến công của địch, vừa để ngăn chặn bước tiến của chúng vừa
nhằm tiêu hao bớt sinh lực địch, để cuối cùng quyết chiến với chúng tại phòng tuyến Như Nguyệt. Tại đây
vận mệnh của quân địch đã được ấn định sẵn: “Chúng bay sẽ bi đánh tơi bời” (Nam Quốc Sơn Hà). Buổi
đầu quân địch thế hăng bao nhiêu thì đến nay thì suy giảm bấy nhiêu, đến nổi Quách Quỳ đã ra lệnh “Ai

bàn đánh sẽ chém”. Tại phòng tuyến Như Nguyệt, quân địch sau hai lần tấn công quân ta đều thất bại và
thương vong đã phải chuyển sang thế phòng ngự.
Như vậy, một lần nữa tính chính nghĩa thuộc về ta đã làm cho kẻ địch nhanh chóng lâm vào tình
thế quẫn bách, tiến lùi đều gặp khó: cái khó của tiến là thiếu sức, cái khó của lùi là sợ mất thể diện của
“Thiên triều”. Còn nếu như cứ đứng chân mãi như vậy thì tự nó sẽ tiêu hao bởi ốm đau bệnh tật, tinh thần
hoang mang, mất liên lạc với thủy quân... Sau những lần phản công của quân ta, quân địch thực sư bị dồn
vào cảnh thế cùng lực kiệt, đến nỗi “các tướng tá phải than thở với nhau: “số quân đem đi 10 vạn, phu 20
vạn, nay đã chết mất quá nữa, số còn lại thì ốm đau, lương ăn đã cạn”” [4, tr 67]. Nắm bắt được tình thế
của giặc, Lý Thường Kiệt chủ động cho sứ “đi hòa”, nhằm mục đích mở cho địch một lối thoát trong danh
dự và kết thúc chiến tranh trong điều kiện có lợi cho ta. Như lời Lý Thường Kiệt: “dùng biện sĩ bàn hòa,
không nhọc tướng tá, khỏi tốn xương máu mà bảo toàn được tôn miếu” [6, tr. 162]. Thế giặc lúc này như
đói mà được cho ăn, khát mà có được nước uống, như giữa lúc chết đuối mà vớ được sào, như lời bình của
các học giả nhà Tống: “May được lời giặc nói nhũn, liền nhân đó giảng hòa. Nếu không có lời quy thuận
của giặc thì làm thế nào” [4, tr. 68]. Tuy vậy, để vớt vát phần nào thể diện nên Quách Quỳ nói rằng: “Ta
không thể đạp đổ được sào huyệt của giặc (quân ta), bắt được Càn Đức (vua Ly Nhân Tông) để báo mệnh
triều đình. Tại trời vậy! Thôi đành liều một thân ta để cứu hơn 10 vạn nhân mạng” [4, tr. 68]. Vậy nên,
chúng vội vàng chấp nhận giảng hòa, mong bảo toàn tính mạng. Việc này, sách Việt Nam Sử Lược chép
rằng: “Ly triều sợ đánh lâu không lợi, bèn sai sứ sang Tống xin hoãn binh. Vua Tống thấy quân mình
không tiến lên được, mà đóng lại ở chỗ chướng đia, quân sĩ trước sang hơn 8 vạn sau chết quá nửa, cho
nên cũng thuận hoãn binh lui về” [8, tr. 100]. Trên thực tế chúng chỉ là đám bại binh, bại tướng tháo chạy
hỗn loạn. Chính sử nước Tống cũng đã chép rằng: “Quỳ muốn rút quân về, sợ giặc tập kích bèn bắt quân
khởi hành ban đêm, hàng ngũ không được chỉnh tề, tình hình hỗn loạn giẫm xéo lên nhau” [4, tr. 68].
Trong cuộc kháng chiến chống Tống, bài thơ thần Nam Quốc Sơn Hà đã thể hiện tinh thần quyết
chiến quyết thắng của quân và dân ta, đồng thời cũng là lời cảnh báo nghiêm khắc đối với với hành động
xâm lược của kẻ thù:
Nam quốc sơn hà Nam đế cư,
Tiệt nhiên đinh phận tại thiên thư,


Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm,

Nhữ đẵng hành khang thủ bại hư.
Dịch:
Sông núi nước Nam, vua Nam ở
Rành rành định phận tại sách trời.
Cớ sao lũ giặc sang xâm phạm,
Chúng bay sẽ bị đánh tơi bời.
Về sau vua Lý nhận tước phong của vua Tống là An Nam Bình Vương, việc đất đai cũng được giải
quyết ổn thỏa. Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng: “(theo An Nam Chí) năm đầu Giao Chỉ sang cống, xin
trả lại các châu Quảng Nguyên, nhà Tống hẹn nếu trả dân (Tống) bi bắt thì sẽ cho như lời. Năm sau trả
về người ba châu, bèn trả lại Thuận Châu… (theo Tống Sử, q. 488) Tống trả cả 4 châu 1 huyện do Quách
Quỳ đã chiếm, tức Quảng Nguyên, Tư Lang, Môn, Tô Mậu, Quảng Lang”[3, tr. 203]. Đến năm 1084, trong
việc định biên giới “nhà Tống trả lại cho ta 6 huyện 3 động. Người Tống có thơ rằng:“Nhân tham Giao
Chỉ tượng, khước thất Quảng Nguyên kim”, (nghĩa là: “Vì tham voi Giao Chỉ, bỏ mất vàng Quảng
Nguyên”)” [3, tr. 203-204].
1.1.3. Tính nhân nghĩa trong kháng chiến chống quân Mông-Nguyên của nhà Trần
Năm 1225, nhà Trần được xác lập, việc này Ngô Sĩ Liên bàn rằng: “Tam đại xưa (ba triều đại ở
Trung Quốc là Hạ, Thương, Chu) lấy được thiên hạ là vì lòng nhân, cho nên những vua có đức lớn mà
không làm nhiều việc ác quá lắm thì trời chưa bao giờ vội dứt…Họ Ly được nước không kém gì Tam đại,
truyền đến Huệ Tôn không có con trai, lại mắc bệnh tật, chắc là ơn trạch của tiên vương đến đây là hết
rồi, cho nên họ Trần mới lên thay (lấy được nước)”[3, tr. 265]. Sách Đại Việt sử ký toàn thư nhận định về
vị vua mở triều Trần Thái Tông: “là người khoan dung đại độ, có lượng đế vương, cho nên có thể mở
nghiệp, truyền sau, đặt giường giăng mối (cho) chế độ nhà Trần tốt đẹp” [3, tr. 264]. Nhờ vậy, dưới sự chỉ
đạo của triều Trần, trải qua ba lần đánh ghi danh thiên sử, ba lần thắng giặc Mông – Nguyên, một thế lực
hiếu chiến - bành trướng bậc nhất nhân loại, từ đó dân tộc ta đã xây dựng nên cơ đồ “nghìn thuở vững âu
vàng”.
Tháng 8 năm 1257, quân Mông Thát cho người đi sứ nước ta, ngay sau đó nhà Trần đã có kế hoạch
phòng thủ ở mạn biên giới và gấp rút sửa sang binh khí, luyện tập võ bị. Tháng 12 năm ấy, tướng giặc là
Ngột Lương Hợp Thai đưa quân xâm lấn Bình Lệ Nguyên, mở màn cho cuộc kháng chiến chống Mông –
Nguyên lần thứ nhất của nhân dân ta. Lúc này vua tự làm tướng đem quân đi đánh giặc. Đối mặt với thế
lực bành trướng cực mạnh nên lòng quân dao động là điều khó có thể tránh khỏi. Như quân Tinh Cương

do Trần Nhật Hạo nắm giữ thì gọi mà không đến, ông còn khuyên vua nên “nhập Tống”, vì vậy mà Ngô Sĩ
Liên đã nhận xét về Nhật Hạo là: “Giặc đến khiếp sợ hèn nhác, không có phương kế gì chống giữ, lại xui
vua kiếm cách đi ở nhờ nước khác” [3, tr. 285]. Tuy trong nước kẻ sợ là nhiều, song người gan góc không


phải là ít, như Trần Thủ Độ tâu với vua Trần: “Đầu tôi chưa rơi xuống đất thì bệ hạ không cần lo ngại gì
cả”. Vì vậy, giao chiến không bao lâu thì quân xâm lược đã phải tháo chạy về nước.
Như vậy, nỗi cơn sóng dữ cũng đến kỳ biển lặng, qua kỳ giặc giã trăm họ lại về yên nghiệp như
xưa. Song an nguy chỉ như ngày đêm luân phiên đổi sắc, hiểu rõ điều này nên vua lo việc yên lòng quân
sĩ, cổ động nhân dân. Lúc này, vua luận công ban thưởng, khi xét tội Cự Đà vua nhận định: “Cự Đà tội
đáng giết cả họ”, song “Việc của Cự Đà là lỗi của ta; tha cho tội chết cho đánh giặc chuộc tội”, […] về
luận công, vua nói với Lê Phụ Trần rằng: “Trẫm không có khanh thì làm gì có được ngày nay. Khanh nên
cố gắng để cùng hưởng phúc sau này” [3, tr. 285]. Về phía địch, ngay sau trận này, “sứ Nguyên sang đòi
dâng hàng năm, tăng thêm vật cống... Bàn tính phân vân không quyết đinh, vua sai Lê Phụ Trần sang sứ,
Bác Lãm làm phó. Rốt cuộc đinh 3 năm một kỳ cúng làm lệ thường” [3, tr. 286]. Đến năm 1262, “nước
Nguyên sai bọn Mã Hợp Bộ 10 người sang hỏi lễ chúc mừng” [3, tr. 289].
Xét nghĩ, một nước có tham vọng bành trướng bậc nhất, nay một trận chưa thu phục được nước ta,
nên chúng chưa chịu ở yên, khi thời cơ đến chúng lại xua quân đánh chiếm nước ta lần nữa. Vì vậy, trong
nước vua tôi đã chuẩn bị sẵn điều kiện chiến tranh, đợi gặc đến là có thể đánh ngay được. Năm 1282,
“vua Nhân Tông ngự ra Bình Than đóng ở vũng Trần Xá, họp vương hầu trăm quan, bàn về kế sách đánh
giữ và chia đi đóng giữ những nơi hiểm yếu” [3, tr. 301]. Đến tháng 12 năm đó, vua Nguyên sai thái tử là
Trấn Nam Vương Thoát Hoan, bình chương A Lạt và bọn A Lý, Hải Nha lấy lý do mượn đường đánh
Chiêm nhưng thật ý là xâm lược nước ta lần nữa. Lúc này, vào khoảng cuối tháng 1 đầu tháng 2 năm
1285, Thượng Hoàng Trần Thánh Tông “cho gọi các phụ lão trong nước họp ở thềm điện Diên Hồng, cho
ăn và hỏi kế. Các phụ lão đều nói là “nên đánh”, muôn người cùng như một” [3, tr. 303]. Nói như Ngô Sĩ
Liên, đây là việc “để xét lòng yêu nước của nhân dân và để nhân dân nghe lời dụ hỏi mà cảm kích hăng
hái…” [3, tr. 303].
Đánh giặc trong tâm thế sẵn sàng của một đội quân chính nghĩa tất yếu chiến thắng cuối cùng thuộc
về ta. Đến lúc nhìn cảnh tượng Toa Đô phải rơi đầu, vua nói: “Người làm tôi phải nên như thế này rồi cởi
áo ngự sai hữu ti đem liệm chôn” [3, tr. 309]. Việc này, Ngô Sĩ Liên nhận định “nói rõ đại nghĩa để cho bề

tôi muôn đời biết trung với vua chết vì nước là vinh, tuy chết mà tiếng không mất, quan hệ lớn lắm; huống
chi lại cởi áo khiến khâm liệm mà chôn? Có thể phấn khởi khí sĩ tốt để trừ giặc mạnh là phải lắm ” [3, tr.
310]. Vì vậy, dù cho lần thứ ba (1287 - 1288) địch đưa quân hùng hậu đến bao nhiêu cũng đều nhận lấy
thất bại thảm hại.
Với ba chiến thắng thần kỳ đó đã khiến quân giặc khiếp vía đến nỗi khi quân giặc rút chạy, dẫm
đạp lên nhau để thoát khỏi đất Việt, tướng giặc Thoát Hoan “kìm cương nhìn lại, hắn cảm thấy hình như
núi rừng Đại Việt vẫn rùng rùng chuyển động đuổi theo ở phía sau. Và bên tai hắn đâu đây còn như vang
lên tiếng quân reo trống thúc và nổi bật hơn hết là tiếng hô “Sát Thát” [11, tr. 85]. Hay trong bài thơ “Ung
Châu” của Nguyễn Trung Ngạn viết khi đi sứ sang Nguyên có viết:


“Tòng quân lão thú tằng kinh chiến
Thuyết đáo Nam kinh các tự sầu”
Dịch:
Những lính thú già đã từng trãi chiến tranh
Nghe nói đến chinh chiến với nước Nam đều rầu rĩ [5, tr. 317].
Như vậy, có thể thấy thế kỉ XIII là thế kỉ đại thắng Mông – Nguyên với ba lần thắng lớn. Song nền
hòa bình cho dân tộc không chỉ được quyết định bởi đấu tranh quân sự mà còn bởi đấu tranh phi quân sự,
đặc biệt là bang giao thời chiến, mà hiểu rộng ra thì đó là lối ứng xử nhân nghĩa của tổ tiên ta. Qua đó thấy
được tinh thần hiếu hòa, dĩ bất biến ứng vạn biến trong đặc trưng khoan dung của dân tộc, từ đó mà đặt cơ
sở cho việc thiết lập tiềm lực chiến tranh của ta, góp phần quyết định đến thắng lợi cuối cùng của dân tộc.
Khi quân Mông – Nguyên tràn vào nước ta, chúng hăng say cướp phá nước ta, cho đào Chiêu
Lăng, đốt cung điện. Vua tôi nhà Trần sống ngày lam lũ, cực khổ, bần cùng, dân đói rét, ly tán, nạn diệt
vong đe doạ mà ngày đêm chẳng thể yên ổn được, vậy nên còn nỗi đau nào bằng. Thế nhưng, sau khi
giành thắng lợi, không vì đánh được giặc mà nghĩ việc lớn đã hoàn thành, phải dụng tâm mà lo cho nghiệp
lớn hơn, như lời vua Nhân Tông: “các ngươi quả biết rõ là giặc Hồ nhất đinh không dám lại xâm lấn nữa
thì nói rõ cho trẫm biết” [3, tr. 317]. Vậy nên, nước ta lúc này bên trong thì sử dụng chính sách tù binh rất
nhân đạo (chỉ trừng trị những tên tướng giặc tàn ác, có nhiều nợ máu với dân tộc), bên ngoài thì vua sai
người đi sứ cầu hòa, xin theo lệ cống hiến như xưa và trả bớt tù binh về nước.
Đi sứ lần này là Trung đại phu Trần Khắc Dụng và Tòng nghĩa lang Nguyễn Mạnh Thông được

lệnh mang biểu văn của vua Trần sang gửi Hốt Tất Liệt. Biểu văn gồm hai phần chính, phần đầu phê phán
những hành động xâm lược, những hành động sai trái của bọn vua chúa nhà Nguyên và kể tội bọn tướng
giặc gian ác; phần sau là thông cáo về việc trao trả cho chúng một số tù binh. Và cuối biểu văn, vua Trần
nói thẳng rằng: “Nước tôi vừa gặp binh lửa mà nay thì khí trời đương nóng rực, khó có ngay được cống
vật và sứ thần. Đợi đến mùa đông mới có người đi được” [5, tr. 322]. Qua đó thể hiện tinh thần tự chủ, ý
chí hùng cường của dân tộc ta.
Ngay sau đó, nước Nguyên cứ phái sứ đoàn mang chiếu của vua sang và kèm theo đó là những sứ
giả của ta mà nước họ giam giữ từ trước như Nguyễn Nghĩa Toàn, Nguyễn Đức Vinh tất cả 24 người đều
được trở về nước. Chiếu vua Nguyên ban ra bên ngoài thì tỏ ra cứng rắn, bên trong thì run sợ, khẩn thiết
yêu cầu. Lời chiếu viết: “Ngươi hãy đem bọn quan quân Ô Mã Nhi bạt đô trả về, như thế mới tỏ rỏ được
lòng trung thuận…Nếu bọn ấy cần phải xét xử như thế nào, trẫm sẽ xét xử đâu vào đấy. Ngươi phải cho
đưa họ về tất cả” [5, tr. 325]. Về phía ta, nhà Trần đã xử quyết nhưng tên tướng mang tội tày trời như Ô
Mã Nhi, Phàn Tiếp, nay trao trả cho chúng hơn tám ngàn tù binh để chúng đưa về nước, vợ con của Ô Mã
Nhi, Phàn Tiếp cũng được thả về nước và “khi sứ Nguyên về nước, vua Trần cử hai đại phu là Đàm Minh
và Chu An Chủng đi sứ sang Nguyên đem theo một thư của Thượng hoàng Trần Thánh Tông trả lời vua


Nguyên Hốt Tất Liệt chủ yếu về việc giải quyết vấn đề tù binh, còn việc sang chầu cố nhiên bi bác bỏ” [5,
tr. 326].
Về sau quân Nguyên ở mạn biên giới không ít lần quấy phá cương giới nước ta, quấy nhiễu nhân
dân ta. Vì vậy, mà bị quân ta đánh sang tận đất Nguyên, bắt kẻ lộng quyền rồi cho quân ở lại lâu ngày
khiến cái uy của nhà Nguyên bị suy giảm. “Lúc này triều thần nhà Nguyên họp bàn xin vua Nguyên cho
người sang Đại Việt đòi đất, đòi dân và đòi ta xử trí những người đưa quân vào lãnh thổ Trung Quốc vua
Nguyên vội gạt đi. Vua nói: “Thôi, để khi sứ An Nam tới sẽ nói”. Nhưng sứ ta không tới, nhà Nguyên
đành cho sứ sang điều đình nhà Trần mới chấp nhận hoãn binh” [5, tr. 353]. Vì vậy mà Phan Huy Chú đã
viết trong Lich Triều hiến chương loại chí là: “Đời Trần, nhà Nguyên ba lần đem quân sang xâm lược,
quấy rối, nhưng không thành công. Nay tất cũng chột dạ về việc trước, chỉ mong được yên ổn, nên vua tôi
khu xử một niềm nhường nhin để được vô sự. Đó là sự khôn ngoan phủ dụ của nhà Nguyên, mà thế nước
ta thời Trần cũng tỏ ra cường thinh lắm” [5, tr. 353]. Đến đây sứ Nguyên sang sứ nước ta (năm 1314) vẫn
rất khiêm tốn kính trọng ta, đem lòng ngưỡng mộ vua Trần mà ca ngợi là “phong thái ung dung phơi phới

như thần tiên” [5, tr. 354]. Lời này lan truyền sâu rộng trong dân chúng đến nỗi khi sứ nước ta sang có
người hỏi rằng: “Có phải vua Việt Nam phong thái thanh tú ung dung như thần tiên không? Sứ Việt Nam
ung dung trả lời: đúng như thế, và đó cũng là phong thái của cả nước tôi vậy” [5, tr. 354].
CHƯƠNG II. TÍNH NHÂN NGHĨA TRONG CUỘC KHÁNG CHIẾN CHỐNG MINH
CỦA NGHĨA QUÂN LAM SƠN
2.1. Vài nét về cuộc khởi nghĩa Lam Sơn
Bước qua thế kỉ XV, đất nước lâm nguy, khắp nơi nhân tâm oán phản, giặc Minh nhân đó
xâm chiếm nước ta, khiến cho cả dân tộc phải chịu cảnh bị vùi dưới hầm tai vạ suốt hai mươi năm trời.
Lúc ấy có nhiều cuộc khởi nghĩa đã nổi lên như khởi nghĩa Trần Ngỗi (1404-1409), khởi nghĩa Trần
Quý Khoáng (1409-1414), song vận nước nguy nan chưa định, thời thế nghĩa binh chưa thành. Bấy
giờ, Lê Lợi dấy nghĩa ở núi Lam Sơn, nương mình nơi chốn hoang dã, nếm mật nằm gai bất kể năm
dài tháng rộng, lấy trí mà đánh giặc, trải qua nhiều giai đoạn: buổi đầu Chúa Lam Sơn xem “thiên
thời” mà dựng cờ đánh giặc (năm 1418), chọn “đia lợi” mà gầy dựng lực lượng suốt mấy năm trời
(1418-1423), chờ “nhân hòa” để mở rộng căn cứa địa (1424-1425), đợi “thời cơ” đến thì phản công
đuổi giặc giành lấy giang sơn (1426-1427). Việc khởi nghĩa của Lê Lợi được ghi chép rằng: “Ta sở dĩ
cất quân đánh giặc, không phải là có lòng tham phú quy, chỉ là muốn cho người ngàn năm về sau biết
ta không chiu làm tôi giặc tàn ngược thôi” [7, tr. 476].
Với một đội quân “bốn phương dân cày tập hợp” [8 tr. 422] đã dùng tinh thần đại nghĩa để thắng
đội quân xâm lược hung tàn, trải qua nhiều gian lao, vất vả, có khi “Linh Sơn lương hết mấy tuần”, đôi
lúc “Khôi Huyện quân không một đội…” (Bình Ngô Đại Cáo), song cũng đến lúc đánh cho “Tham tướng


Phương Chính, Nội quan Mã Kỳ […] hồn bay phách lạc; Tổng binh Vương Thông, Tham chính Mã Anh
[…] ngực đập chân run” [9, tr. 173-174].
Ngày 10 tháng 12 năm 1427, Hội thề Đông Quan diễn ra là để đảm bảo kết thúc chiến tranh trong
điều kiện thuận lợi nhất (cho cả hai bên). Theo đó, quân địch chính thức rút về nước ngày 29 thắng 12 năn
1427, suốt mấy ngày thì toán quân cuối cùng cũng đã lên đường (ngày 3-1-1428). Như vậy:
“Xã tắc từ đây vững bền,
Giang sơn từ đây đổi mới.
Kiền khôn bỉ rồi lại thái,

Nhật nguyệt hối mà lại minh
Muôn thuở nền thái bình vững chắc,
Ngàn thu vết nhục nhã sạch làu”.
(Bình Ngô đại cáo)
Lúc này, “kẻ địch càng đánh quân càng chết, dân càng khổ, tiền tài càng hao hụt, lương thực khí
giới càng thiếu thốn, trong nước càng loạn lạc, triều đình càng rối ren. Trong hơn hai mươi năm đô hộ
nước ta, nhà Minh đã thất bại liên tiếp, thua thiệt rất nhiều. Mấy chục vạn quân sĩ và hàng trăm tướng lĩnh
chết trận, hàng vạn lừa ngựa bị mất và bị chết, hàng trăm vạn thạch lương thực đổ ra chiến trường, chi phí
vận chuyển tốn kém tới 70 ức, và điều nguy hiểm hơn cả là luôn luôn trong hơn hai mươi năm lúc nào
cũng có phong trào nhân dân nổi dậy chống lại triều đình” [2, tr. 417-418]. Vậy nên, “Họ đã sợ chết tham
sống, mà hòa hiếu thật lòng – Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức” (Bình Ngô Đại Cáo). Đó là
việc thế của nghĩa quân đứng trên đầu thù, khi “tướng giặc cầm tù, như hổ đói, vẫy đuôi xin cứu mạng”
(Bình Ngô Đại Cáo), nghĩa quân Lam Sơn quyết định mở đường hiếu sinh cho quân Minh.
Trước đó, tướng sĩ ta khuyên vua đánh thành Đông Đô để triệt đường nội ứng. Vua nói: “Đánh
thành là hạ sách. Ta đánh thành bền vững, hàng năm, hàng tháng không lấy được, quân ta sức mỏi khí
nhụt, nếu viện binh giặc lại đến thì ta đằng trước đằng sau đều bi giặc, đó là đường nguy. Chi bằng nuôi
sức khỏe, chứa khí hăng để đợi quân viện đến, đánh phá được quân viện thì thành tất phải hàng. Thế là
một việc mà lợi hai, là kế vạn toàn” [2, tr. 508]. Như thế vừa bảo đảm giành thắng lợi trong điều kiện ít
tổn xương máu nhất, lại có thêm thời gian để định kế dụ hòa, mở ra lối thoát danh dự cho quân Minh để
kết thúc chiến tranh mà lại giữ vững được nền hòa bình dài lâu cho dân tộc. Lê Lợi cho rằng: “Việc dùng
binh cốt lấy bảo toàn cả nước là trên hết. Nay đã cho bọn Vương Thông trở về nói với vua Minh, trả lại
đất cho ta, không xâm lấn bờ cõi ta, đó là điều ta không cần gì hơn thế nữa. Hà tất phải giết hết bọn
chúng để gây oán với nước lớn làm gì” [6, tr. 317], đó là thấm nhuần lời dạy của Binh thư: “trăm trận
đánh, trăm trận thắng là giỏi, nhưng không phải đánh mà thắng mới thật là giỏi”.
Để việc bàn hòa thuận lợi, Nguyễn Trãi đã không ít lần ra vào nơi miệng cọp (sang thành Đông
Quan) và viết thư nói rõ thực hư, dùng lời lẽ chân thành để cảm hóa kẻ địch. Trong thư gửi Vương Thông,
ông viết: “Nay đem chân tình thật y, phúc báo để cùng biết. Nếu như các đại nhân lại theo đúng ước xưa
(trước đây có bàn hòa rồi nhưng không thành), tôi mong được Sơn đại nhân (một tên hoạn quan của đich



tên Sơn) sang qua sông cùng họp, tôi sẽ xin lui quân về các vùng Thanh Đàm, Ái Giang, để cho đại nhân
được thung dung trở về nước” [2, tr. 402]. Ngoài ra, trong thư phía ta còn hết sức bày tỏ thiện ý, tạo mọi
điều kiện tốt nhất để kẻ địch có thể rút về nước một cách an toàn. Thư viết: “Phàm đường sá, cầu cống,
lương thực cho đại quân ăn đường, cùng sản vật đia phương để tiến cống và biểu tấu cung kính, các thứ,
ta đều sẵn sàng” [2, tr. 408].
Cái đức sâu rộng như trời bể của nghĩa quân đã khiến cho kẻ địch không khỏi băn khoăn chuyện
thực hư, lo lắng phần nguy biến. Trong khi địch gửi thư xin hàng nhưng vẫn còn nghi ngại, Nguyễn Trãi
hiểu chuyện đã phân rõ trắng đen để yên lòng quân địch. Theo Quân trung từ mệnh tập, Nguyễn Trãi đã
chỉ rõ: “Chúng ta đã xét được việc được mất của cổ nhân, như Bạch Khởi nước Tần, Hạng Vũ nước Sở,
giết kẻ đầu hàng, trái lời đã ước, chúng ta quyết không làm như thế” [2, tr. 411] và “nếu như dùng mưu kế
nhất thời để bắt lấy, khiến nổi lo của bốn biển còn mãi đến vô cùng thì sao bằng khéo tính việc lâu dài,
đem phúc lại cho bàn dân thiên hạ. Cho nên đổi cái này lấy cái kia, bỏ ngắn lấy dài, vẫn là hơn ” [2, tr.
406-407].
Biết kẻ địch đang sức cùng lực kiệt, tính vốn hung tàn chẳng thể một lúc mà nhìn thấy cái đức lớn
của quân ta ngay được. Vậy nên, Nguyễn Trãi đã viết thư nói rõ: “Ta (y chỉ Lê Lợi) muốn Sơn đại nhân là
người cao tuổi qua sông cùng họp. Ta cũng cho một hai đầu mục hoặc người thân tín vào thành hầu tiếp.
Có như thế, hai bên mới khỏi nghi ngờ nhau. Ta lập tức lui quân, mở lại đường về. Đại nhân còn muốn
bảo gì ta điều nhất nhất nghe theo. Nếu không thế thì muôn nghìn lời cũng vô ích” [2, tr. 403-404].
Việc “tha chết cho kẻ thù đầu hàng, không những vì ly do chính tri, vì nghĩa lớn của dân tộc, vì
thiện chí hòa bình của nhân dân ta, mà còn vì lòng nhân đạo, vì đức lớn sẵn có của dân tộc ta ” [2, tr.
410]. Việc này đã được Đại Việt sử ký toàn thư chép rằng: Ngày 22, vua cùng với tướng tổng binh quan
nước Minh là thái tử thái bảo Thành Sơn hầu Vương Thông, tham tướng hữu đô đốc Mã Anh, thái giám
Sơn Thọ và Mã Kỳ, Vinh Xương bá Trần Trí, An Bình bá Lý An, đô đốc Phương Chính, chưởng Đô ty sự
đô đốc sự Trần Tuấn, đô chỉ huy thiêm sự Trần Hựu, giám sát ngự sử Chu Kỳ Hậu, cấp sự trung Quách
Vĩnh Thanh, hữu bố chính sứ Đặc Khiêm hữu tham chính Lục Quảng Bình, tả tham chính Hồng Binh
Lương và Lục Trinh, án sát sứ Dương Thì Tập, thiêm sự Quách Đoan, họp thề ở phía nam thành, hẹn đến
ngày 12 tháng 12 thì đem quân về nước. Bọn ấy lại sai người đem tờ xin trả lại đất đai của ta. Bấy giờ bọn
Thông ở trong thành quẫn lắm, chỉ dựa vào viện binh thì tên này lại bị ta đánh bại, cho nên giảng hòa xin
về [2, tr. 512].
Khi ấy các tướng sĩ và người nước ta bị khổ vì sự tàn ngược của giặc đã lâu, rủ nhau cố xin với vua

rằng giặc nhiều khóe biến trá, nên lấy binh mà đánh thắng, khuyên vua giết hết đi. Duy có hành khiển
Nguyễn Trãi ở nơi tham mưu, được xem thư bọc sáp của Vương Thông gửi về nước nói: “Chớ tham chổ
đất một góc mà làm nhọc quân đi muôn dặm; giả sử dùng quân được như số quân đi đánh khi đầu, lại
được 6, 7, 8 đại tướng như bọn Trương Phụ thì mới có thể đánh được; tuy nhiên có thể đánh được cũng


không thể giữ được”, nên biết rõ thế mạnh yếu của giặc, mới chuyên chủ mặc hòa. Vua nghe theo và hạ
lệnh cho các quân giải vây lui ra. Bấy giờ người Minh cho Sơn Thọ và Mã Kỳ ra dinh Bồ Đề để làm con
tin với vua. Vua cũng sai tư đồ Từ Tề và Lê Nhân Chú vào thành Đông Quan làm con tin với người Minh.
Cuối cùng thành hòa ước [2, tr. 513].
Trong nội bộ lúc này có người lại vì căm thù tột độ mà nếu thả giặc về thì chẳng yên lòng nên khẩn
thiết xin vua cho giết ngay. Lê Lợi khuyên răn: “phục thù báo oán là cái thường tình của mọi người,
nhưng cái bản tâm của người có nhân không muốn giết người bao giờ. Vả người ta đã hàng mà lại còn
giết thì không hay. Nếu mình muốn thỏa cơn giận một lúc, mà chiu cái tiếng muôn đời giết kẻ hàng, thì
sao bằng để cho muôn vạn con người sống mà khỏi được cái mối tranh chiến về đời sau, lại để tiếng thơm
lưu truyền thiên cổ trong sử xanh” [10, tr. 216-217]. Vậy nên, tổ tiên ta lúc này đã tha cho hơn 10 vạn
quân địch về nước. Ngay sau hội thề Đông Quan diễn ra, quân ta một mặt chuẩn bị lương thực, thuyền,
ngựa để cung cấp cho quân Minh lên đường về nước, cho dân các lộ Bắc Giang, Lạng Giang sửa chửa lại
cầu đường, khiến bọn người Minh hành quân được dễ dàng, một mặt tập hợp những người Minh đã ra
hàng hoặc bị bắt từ trước, để trả lại cho nhà Minh [8, tr. 418].
Quân địch bắt đầu rút quân từ ngày 29-12-1427 đến ngày 3-1-1428 thì đội bộ binh cuối cùng của
Vương Thông cũng đã lên đường. Còn 2 vạn người đã ra hàng và đã bị bắt thì giao cho Mã Anh quản lĩnh
đem về nước. Trong số đó đã có những người “được nghĩa quân chăm sóc chu đáo, đời sống đã ổn đinh,
nên nhiều người xin cho được ở lại Việt Nam, không về nước” [8, tr. 419].
Phần quân Minh vì đó mà cảm động, kéo đến dinh Bồ Đề để lạy tạ ơn tha mạng, cảm tạ lòng khoan
dung, nhân đạo của nghĩa quân Lam Sơn. Đó là việc “Trước ngày lên đường Vương Thông đã sang chào
từ biệt tại bản doanh của nghĩa quân và ở lại một đêm cùng lãnh tụ và tướng lĩnh nghĩa quân vui chơi, trò
chuyện rất cởi mở thân mật. Sáng hôm sau, Vương Thông lên đường, các lãnh tụ nghĩa quân tiễn tặng rất
trọng hậu: trâu rượu, cờ thêu, trướng vẽ và nhiều tặng vật khác” [8, tr. 420]. Như vậy, việc làm của ông
cha ta là hợp với tinh thần “người quân tử không giữ oán cũ, ví như mưa to gió dữ, chốc lại tạnh quang”

[8, tr. 410], đó là “nghĩ kế nước nhà trường cửu, tha cho mười vạn hàng binh - Gây lại hòa hảo cho hai
nước, dập tắt chiến tranh cho muôn đời” (Chí linh sơn phú) [8, tr. 420].
2.2 Tính nhân nghĩa thể hiện ở các đối tượng khác nhau
2.2.1. Đối với bọn Vương Thông và quân sĩ
Địch sợ hàng sẽ bị cầm tù, không được thả cho về nước. Nguyễn Trãi đã vạch rõ cho chúng
biết: cầm tù cũng chẳng để làm gì, giữ lại mấy vạn địch để làm công việc phục dịch, hầu hạ, cũng
chẳng có ích gì cho người Việt Nam, nhất là không có ích gì cho một việc lớn là đem lại hòa bình
cho hai nước. Trong thư này cũng như trong nhiều thư trước, Nguyễn Trãi đều nhấn mạnh cái đại
ý “đại tướng cầm quân ở nước ngoài, có quyền tự chuyên, không cần chờ lệnh vua Minh”. Nguyễn
Trãi đã dựa vào chính những binh thư nổi tiếng thời xưa để nêu ra ý đó với Vương Thông.


Đối với quân đội ta, những người chống xâm lược, Nguyễn Trãi yêu cầu phải tuyệt đối phục
tùng kẻ luật, phải tuân mệnh lệnh trên, phải chết cho người trưởng. Nhưng với những kẻ cầm quân
đi xâm lược nước khác, như Vương Thông thì Nguyễn Trãi mượn lời Tôn Tử khuyên tự chuyên,
quyết định rút quân về. Lời khuyên ấy của Nguyễn Trãi là đúng và cũng rất cần thiết đối với
những kẻ cầm quân đi xâm lược nước ngoài, ở tất cả thời đại. Nguyễn Trãi tỏ ra là người nghiên
cứu binh pháp cổ rất sâu, vận dụng binh pháp cổ rất giỏi, với tinh thần độc lập rất cao.
Những lời khuyên dụ của Nguyễn Trãi đã tác độnh mạnh tới tinh thần tướng địch. Chúng xin
làm theo lời Nguyễn Trãi, “bất tuân mệnh”, không đợi lệnh vua, tự định rút quân về nước. Nhưng
chúng vẫn sợ. Chúng sợ quân dân Việt Nam trừng trị. Chúng không thể nghĩ rằng quân dân Việt
Nam lại có lòng nhân đạo cao cả, sẵn sàng tha chết cho chúng, hàng chục vạn tên cướp nước giết
người, đã tàn phá đất nước Việt nam, gây bao nhiêu đau thương, tang tóc cho nhân dân Việt nam
lại được an toàn trở về nước. Cho nên chúng hết sợ bị cầm tù lại sợ bị giết chết tại dọc đường.
Chúng sợ, không phải hoàn toàn vô lý. Quả thật, trong quân và dân Việt nam, vì lòng căm
thù giặc rất sâu sắc, vẫn có người muốn giết chết hết chúng. Nhiều người đã bao nhiêu năm phải
đau khổ vì những hành động tàn ác của địch, mất cha, mất mẹ, mất vợ, mất con, mất họ hàng thân
thích, mất nhà cửa, ruộng vườn. Họ không thề đội trời chung với địch.
Nhưng vì nghĩa lớn dân tộc, vì lợi ích của nước nhà, Nguyễn Trãi và các lãnh tụ nghĩa quân
từ lâu vẫn chủ trương dụ hàng quân địch trong thành, tha chết cho chúng và thả cho chúng được

toàn quân, toàn mạng về nước. Chủ trương này, các lãnh tụ nghĩa quân đã nhiều lần nói rõ, và
Nguyễn Trãi đã nhiều lần nhắc lại:
Nghĩ kế nước nhà trường cửu, tha cho mười vạn hàng binh
Gây lại hòa hảo cho hai nước, dập tắt chiến tranh muôn đời
(Chí Linh Sơn Phú)
Và:
Nó đã sợ chết tham sống, phải thành khẩn cầu hòa
Ta để cho giặc toàn quân, mà dân ta được nghĩ
Chẳng những là mưu kế cực sâu xa
Mà cũng thật cổ kim chưa đã thấy
(Bình Ngô Đại Cáo)
Tha chết cho kẻ địch đầu hàng, không những vì lí do chính trị, vì nghĩa lớn của dân tộc, vì
thiện chí hòa bình của nhân dân ta, mà còn vì lòng nhân đạo, vì đức lớn sẵn có của dân tộc ta.
Nguyễn Trãi nhiều lần nói rõ điều đó. Ông thường nhắc đi nhắc lại với quân dân ta và với kẻ địch
rằng:
“Người quân tử không giữ oán cũ, ví như mưa to gió dữ, chốc lại tạnh quang”
“Lấy thù trả thù, tai vạ không thôi”
Và:


“Chúng ta đã xét những việc được mất của cổ nhân, như Bạch Khởi nước Tần, Hạng Vũ
nước Sở, giết kẻ đầu hàng, trái lại đã ước, chúng ta quyết không làm như thế”
Tới đây, Lê Lợi nhân danh lãnh tụ tối cao của chính quân và của cả dân tộc, tuyên bố rõ
chính sách nhân đạo của ta đối với kẻ địch đầu hàng.
“Trả thù báo oán là chuyện thường tình của con người. Nhưng không hiếu sát là bản tâm của
người nhân giả. Và chăng người đã hàng mà mình lại giết, thì chẳng còn gì ghê rợn hơn việc
chẳng lành đó. Nếu chỉ cốt hả giận trong một chốc lác, để mang tiếng muôn đời là giết kẻ đầu
hàng, thì sao bằng để cho hàng ức vạn con người được toàn mạng, dập tắt được chiến tranh cho
hậu thế, sử sách ghi chép, nghìn thưở còn thơm, như thế thì há chẳng lớn lắm sao”.
2.2.2. Đối với ngụy quan, ngụy quân làm tay sai cho nhà Minh

Song song với việc đấu tranh ngoại giao với nhà Minh là việc đối xử với những ngụy quan,
ngụy quân cũ đã làm việc với nhà Minh. Nói chung, đối với ngụy quan, ngụy quân, Lê Lợi nhất
loạt tha tội chết, kể cả những tên ngụy đầu sỏ như Trần Phong, Lương Nhữ Hốt, v.v…cũng không
bị tội. Nhưng để cảnh giác đề phòng những hoạt động lén lút, phá hoại của địch và bọn tay sai của
chúng, ngay từ đầu năm 1428, khi quân xâm lược vừa rút khỏi nước ta, Lê Lợi đã hạ lệnh cho các
lộ “phải dò xét những người dị dạng qua lại” và ai dung túng cho ngụy quan trốn sang nước địch
thì phải tội tử hình. Đối với bọn ngụy đầu sỏ, chính sách của ta là khoan hồng. Nhưng, mặc dầu
được tha tội chết, chúng vẫn chứng nào tật ấy. Chỉ vài tháng sau chiến tranh, bọn Trần Phong,
Lương Nhữ Hốt, An Vinh, Sĩ Văn, Sùng Lê Trung, Tồn, Xác, là những tên có nhiều nợ máu với
nhân dân, đã tập hợp nhau lại, ngầm kết đảng mưu phản. Chúng cho một đồng đảng lẻn theo
đường tắt sang nước Minh, đưa thư của chúng yêu cầu nhà Minh lại sang xâm lược và chúng xin
làm nội ứng. Tên đồng đảng mang thư bị thượng tướng Hoàng Nguyên Ý, trấn thủ Thái Nguyên
bắt được và giải về triều đình. Lê Lợi ra lệnh xử tử tên đồng đảng mang thư, nhưng vẫn giấu việc
này đi, không làm tội bọn Trần Phong, Lương Nhữ Hốt. Tới tháng 9 năm 1428, một tên trong đảng
nghịch lại cáo giác mưu phản của bọn ngụy đầu sỏ. Việc đã rõ ràng, Lê Lợi cho báo cáo hết tội
trạng của chúng với nhân dân khắp nước rồi bắt hết cả bọn ngụy đầu sỏ phải chịu tội chết.
2.2. Biểu hiện tính nhân nghĩa
Nguyễn Trãi đã vận dụng ngay lý lẽ trong binh thư cổ để khuyên Vương Thông nên sớm
quyết định rút quân về nước, không cần chờ mệnh vua Minh: “Nay đại nhân mang tiết việt,
chuyên việc đánh dẹp thì việc quân ở cõi ngoài có thể tùy tiện mà xử trí. Huống chi, viện binh
không thể ở xa mà ức đạc được, việc có hoãn có cấp, có thể nhất nhất đợi mệnh của triều đình
được ư?” ... Câu nói “đại tướng ở ngoài cõi, mệnh vua có thể không tuân theo cũng được, lại
không đánh tin ư?”
Đặc biệt Nguyễn Trãi phân tích một cách có tình có lý để xóa những mối ngờ vực, lo lắng
của Vương Thông và bọn tướng giặc.
Chúng sợ bị bắt làm tù binh, không được an toàn trở về nước. Nguyễn Trãi nói rõ: “Trước
đây ta có bắt được quan và quân các thành, bắt tất nói làm gì. Nay ta lại mới bắt được quân lính
đến hơn 2 vạn, các chức thượng thư, đô đốc, đô ty, chỉ huy, thiên bách hộ hơn 100 người, ngựa
3.000 con, đều là ta làm sự giả dối mà bắt được chăng? Hay là bất đắc dĩ mà phải bắt chăng? Nay
ta giữ lại mấy vạn người phục dịch cho ta thì cũng không ích gì, mà triều đình mất mấy vạn người

ấy thì cũng chẳng tổn hại gì. Nay ta liệu tính số quân của các đại nhân ở trong thành chẳng qua chỉ


vài vạn người mà thôi. Ta có tìm cách lừa dối để bắt thì cũng chẳng lợi ích gì cho công việc của ta
cả. Nếu như dùng mưu kế nhất thời để mối lo của bốn biển đến mãi vô cùng thì sao bằng khéo tính
việc lâu dài để làm phúc cho bàn dân thiên hạ. Cho nên sao bằng đổi cái này lấy cái kia, bỏ cái
ngắn để lấy cái dài. Cứ thế mà bàn ta thành thực hay giả dối”.
Nguyễn Trãi chỉ rõ: “Ví bằng đại nhân không nghĩ đến lợi hại riêng mình, chuyên vì thiên hạ
mưu tính công việc thì cốt ở một tấm lòng thành thực mà thôi. Nếu quả có lòng thực thì nên đem
lòng thực của mình đặt vào lòng người, quả là không có thực thì trăm thứ lo, vạn thứ nghĩ, phòng
giữ quá cẩn thận mà rồi việc đưa đến tất co điều xảy ra ngoài ý nghĩ của mình”.
Để cho Vương Thông hết nỗi lo ngại, nghi ngờ, Nguyễn Trãi nêu lên việc trao đổi “con tin”:
“Nếu đại nhân thực cho lời nói của ta là phải thì nên theo lời ước trước, xin được Sơn thái giám
sang sông cùng hội họp. Ta cũng sai người thân tín vào thành hầu tiếp để cho lời giao ước được
chắc chắn”.
Trước đây, Lê Lợi, Nguyễn Trãi, đã cho Lê Quốc Trinh và Lê Như trì vào thành Đông Quan
làm con tin. Cũng trong thời gian này, bản thân Nguyễn Trãi đã có lần: “Miệng hổ lăn mình, quyết
nghị hòa để hai nước can qua được nghỉ”. Đến đây trong một bức thư gửi Vương Thông, Nguyễn
Trãi lại sẵn sàng cùng với Lưu Nhân Chú vào thành Đông Quan để làm yên lòng địch. Bức thư có
đoạn viết: “Nhân Chú là con ta, Nguyễn Trãi là mưu sĩ của ta. Tất cả mội việc phá thành đánh trận
đều là công của hai người ấy. Các đại nhân há lại không biết Nhân Chú, Nguyễn Trãi mà làm con
tin thì lòng ngờ vực của các đại nhân có thể tiêu tan được chứ”.
Cuối cùng, Lê Lợi cho chính con trai của mình là Tư Tề cùng với Lưu Nhân Chú vào thành
Đông Quan. Và Vương Thông phái Sơn Thọ, Mã Kỳ sang dinh Bồ Đề làm con tin, bằng việc trao
đổi “con tin” như vậy, Vương Thông đã thực sự chịu đầu hàng rút quân về nước.
Trả lời thư Vương Thông, Nguyễn Trãi nói: “Ta tiếp được thư, thấy lòng thành của đại nhân
có thể động đến trời đất, cảm được quỷ thần. Quả đúng như lời, thì không những may riêng cho
nước An Nam mà cũng là may chung cho cả nhân dân trong thiên hạ. Chí nguyện ta từ đây thỏa
mãn rồi, không cần phải nói gì nữa. Xin cùng với các đại nhân giết muông sinh uống máu đối
chứng với quỷ thần, rồi sau ta sai người đại đầu mục thân thích của ta hoặc dăm ba đại tiểu đầu

mục thay ta, đến thành lĩnh ý. Đại nhân thì sai Sơn đại nhân sang sông nói chuyện để cho lời nói
được chắc chắn thêm”.
Như vậy là cuộc đàm phán về việc rút toàn bộ quân địch ra khỏi nước ta đã kết thúc. Hai bên
thỏa thuận tổ chức một hội thề để xác nhận những điều đã cam kết.
Trong hai mươi năm thống tri ở nước ta, quân địch đã tàn phá xóm làng, cướp bóc của cải,
gây ra không biết bao nhiêu tội ác đối với nhân dân. Trong việc thương lượng giảng hòa, bọn
tướng giặc như Vương Thông, Sơn Thọ… lại tỏ ra ngoan cố, dối trá. Quân dân ta căm thù quân
cướp nước đến tận xương tủy. Vì vậy khi nghe tin Lê Lợi cho quân địch được an toàn rút lui về
nước, một số tướng sĩ nghĩa quân và nhân dân kéo đến đại bản doanh yêu cầu Lê Lợi không giảng
hòa với quân địch và cho được thừa thắng tiêu diệt hết bọn cướp nước.
Trong những phút giây giằng co giữa tình cảm và lí trí, giữa sự “phục thù báo oán thường
tình của con người” và đường lối sách lược của cuộc khởi nghĩa, Nguyễn Trãi luôn luôn tỏ ra tỉnh
táo và sáng suốt. Toàn thư chép rằng: lúc ấy “duy chỉ có hành khiển Nguyễn Trãi ở nơi màn
trướng…biết rõ chỗ mạnh yếu của giặc nên mới chuyên chủ về mặt hòa nghị”.


Nguyễn Trãi bàn với Lê Lợi: “Tình hình quân giặc trong lúc này, mình muốn phá vào sào
huyệt, ăn gan uống máu để rửa mối thâm thù không phải là việc khó khăn. Nhưng thần trộm e như
vậy sẽ kết mối thù với triều Minh, vì sự cứu vớt lấy thể diện của một nước lớn, vua nhà Minh tất
phải phái binh sang, như thế cái vạ binh đao biết đến bao giờ dứt được. Chi bằng ta nên thừa lúc
này kẻ kia lâm vào thế cùng họ hòa hiếu để tạo phúc cho cả sinh linh hai nước”.
Lê Lợi hoàn toàn tán thành chủ trương đúng đắn đó của Nguyễn Trãi và giải thích cho các
tướng sĩ và nhân dân như sau: “Dùng binh cốt lấy bảo toàn cả nước làm trên hết. Để cho bọn
Vương Thông trở về nói với vua nhà Minh trả lại đất đai cho ta, không xâm lấn bờ cõi ta, đó là
điều ta không cần gì hơn thế nữa. Hà tất phải giết hết bọn chúng để gây oán với nước lớn làm gì?”.
Lê Lợi và Nguyễn Trãi trước sau vẫn kiên trì chủ trương phát động cuộc đấu tranh vũ trang
để giành lại nền độc lập cho đất nước, để giải phóng cho nhân dân khỏi ách thống trị tàn bạo của
ngoại bang, nhưng cũng luôn luôn sẵn sàng giảng hòa với nhà Minh để giảm bớt đau thương và
tổn thất cho nhân dân hai nước miễn là việc giảng hòa đó phải tiến hành trên cơ sở đất nước phải
được thực sự độc lập. Cho Vương Thông đầu hàng dưới danh nghĩa giảng hòa, điều đó không

những có nghĩa là tha chết cho một số bại binh của nhà Minh mà còn có tác dụng mở đường rút lui
ổn thỏa nhất cho nhà Minh để chấm dứt nạn can qua giữa hai nước.
Chủ trương của Lê Lợi và Nguyễn Trãi thật là đúng đắn và sáng suốt, vừa biểu thị lòng nhân
đạo cao cả, ý chí hòa bình tha thiết của nhân dân ta, vừa là một sách lược khôn khéo đối với kẻ thù
vốn là triều đình của một quốc gia phong kiến to lớn.
Khi quân Minh đã rút khỏi nước ta, việc ngoại giao với địch tuy không căng thẳng lắm như
khi đương chiến tranh, nhưng đòi hỏi ta phải đấu tranh liên tục, vừa mềm dẻo vừa kiên quyết, để
bác bỏ những yêu sách của chúng. Sau chiến tranh, triều đình nhà Minh luôn luôn cho sứ sang ta,
hạch sách, đòi hết cái này tới cái khác. Họ đòi những người Minh trú ngụ ở Việt Nam, đòi những
vũ khí ta thu được của quân Minh trong chiến tranh, đòi ta phải lập ngôi vua cho dòng họ nhà
Trần, không thừa nhận Lê Lợi là vua Việt Nam, đòi ta hàng năm phải nộp cống trọng hậu, v.v. Ta
cũng luôn luôn cho các đoàn sứ giả đem biểu văn (văn kiện ngoại giao) sang triều đình nhà Minh.
Ta đấu tranh rất cương quyết, không những ta bác bỏ những yêu sách của triều đình nhà Minh, mà
ngược lại, ta cũng đưa ra cho họ những đòi hỏi của ta. Ta đòi hỏi phải trả lại những người Việt
nam mà trước kia họ đã đưa sang làm lại nhân (quan lại nhỏ) phục vụ tại các nha môn (cơ quan
hành chính) bên nước Minh, đòi hỏi phải trả lại vợ con Lê Lợi mà họ đã bắt đưa về Yên kinh từ
những ngày đầu của khởi nghĩa Lam Sơn. Cuộc đấu tranh ngoại giao với triều đình nhà Minh đã
kéo dài suốt thời kì Lê Lợi làm vua. Trước sự đấu tranh kiên quyết của ta, triều đình nhà Minh
phải rút dần những yêu sách của họ và nhượng bộ trước những đòi hỏi chính đáng của ta. Ba năm
sau khi chiến tranh kết thúc, triều đình nhà Minh phải thừa nhận Lê Lợi là vua Việt Nam. Trước
đó, họ cũng phải đưa sang trả ta bà Phạm Thị Nghiêu vợ Lê Lợi, và những lại nhân Việt Nam làm
việc tại nước Minh, mặc dầu nhà Minh đã cấp ruộng đất cho họ, với ý đồ buộc họ sống đời đời
bên nước Minh (người con gái Lê Lợi khi bị địch bắt mới lên 9 tuổi, người Minh nói là đã bị chết
từ trước vì bệnh đậu mùa). Cuộc đấu tranh ngoại giao kiên trì này đã thắng lợi, và Nguyễn Trãi đã
góp phần công sức nhất định vào những thắng lợi đó.
Những biện pháp trên cùng đường lối ngoại giao tài giỏi của ta đã góp phần bảo đảm nền
độc lập của dân tộc không bị quân cướp và bọn bán nước xâm phạm. Nhưng muốn bảo đảm một
nền độc lập lâu dài thì phải giữ vững được sự thống nhất của Tổ Quốc.



Sau khi “hội thề” với Vương Thông, Lê Lợi sai Nguyễn Trãi viết Biểu cầu phong xin nhà
Minh cho lập con cháu nhà Trần làm vua. Tờ biểu nài viết thành hai bản gửi sang hai tỉnh Quảng
Tây và Vân Nam, nhờ chuyển lên triều đình nhà Minh. Tướng trấn thủ Vân Nam là Mộc Thạnh và
tướng trấn thủ Quảng Tây là Cố Hưng Tổ nhận được biểu văn liền chuyển ngay về triều.
Ngày 17 tháng 12 năm 1427 (ngày 29 tháng 11 năm Đinh Mùi), Lê Lợi lại cử một phái đoàn
chính thức sang cầu phong nhà Minh. Phái đòan này do Hàn lâm đãi chế Lê Thiếu Dĩnh và chủ
thư sứ Lê Cảnh Quang làm thẩm hình viện sứ, quốc sử bác sĩ Lê Đức Huy và Kim ngô vệ tướng
quân Đặng Hiếu Lộc làm thẩm hình viện phó sứ. Cùng đi với phái đoàn này còn có mấy viên
tướng Minh do Vương Thông phái về nước. Ngoài biểu cầu phong và phẩm vật, phái đoàn này
mang theo chiếc song hổ phù của Chính lỗ phó tướng quân Liễu Thăng, hai quả ấn bạc của hai
viên thượng thư Lý Khánh và Lương Minh, và một bản danh sách tù binh gồm 13.587 quân lính,
280 viên tướng, 137 viên quan, 13.180 kỳ quân cùng với 1.200 con ngựa mà rồi đây nghĩa quân sẽ
trao trả cho nhà Minh.
Biểu cầu phong cùng với cống phẩm và danh sách tù binh như vậy chứng tỏ thái độ mềm
mỏng nhưng kiên quyết của nghĩa quân. Đây rõ ràng là phái đoàn sứ giả của một nước chiến thắng
nhưng vẫn mang danh nghĩa chịu thần phục và đi cầu phong chỉ vì muốn nhanh chóng kết thúc
chiến tranh và khôi phục lại quan hệ bang giao hòa bình giữa một quốc gia phong kiến nhỏ với
một quốc gia phong kiến lớn.
Cũng từ sau hội thề, các lãnh tụ nghĩa quân một mặt chuẩn bị lương thực, thuyền, ngựa để
cung cấp cho quân Minh lên đường về nước, cho dân các lộ Bắc Giang, Lạng Giang sửa chữa lại
cầu đường, khiến cho bọn người Minh hành quân được dễ dàng, một mặt tập hợp những người
Minh đã ra hàng hoặc bị bắt từ trước để trả lại cho nhà Minh. Chỉ trong một thời gian ngắn, các
lãnh tụ nghĩa quân đã cung cấp đủ số lương ăn đường cho hơn mười vạn quân Minh và cho chúng
hơn 500 chiếc thuyền để đi đường thủy và mấy nghìn con ngựa để đi đường bộ.
Những người Minh đã ra hàng hay bị bắt từ trước, được nghĩa quân chăm sóc chu đáo, đời
sống đã ổn định, nên nhiều người xin cho được ở lại Việt Nam, không về nước. Số tù hàng binh
cũ, về nước chỉ có khoảng 2 vạn người, gồm những quân sĩ mới bị bắt trong các đạo viện binh của
Liễu Thắng, Thôi Tụ mà thôi. Các lãnh tụ nghĩa quân đã trao hai vạn người này cho Mã Anh quản
lĩnh để đưa về nước. Như vậy, tổng số quân địch được thả cho về nước, kể cả tù hàng binh cũ và
những người ở mấy thành mới ra hàng là trên mười vạn người. Trong lịch sử chiến tranh chống

xâm lược của dân tộc Việt Nam, tổ tiên ta đã nhiều lần đánh thắng quân xâm lược và sau mỗi lần
chiến thắng, tổ tiên đều tha cho tù hàng binh được về nước rất nhiều. Nhưng chưa lần nào số tù
hàng binh được thả cho về nước đông tới trên mười vạn như lần này.
Đúng ngày 29 tháng 12 năm 1427, tức 12 tháng 12 năm Đinh Mùi, hơn mười vạn quân
Minh bắt đầu lên đường về nước. Chủ tướng Vương Thông đi sau cùng, ngày 3 tháng giêng năm
1428, tức 17 tháng 12 năm Đinh Mùi, mới lên đường, Vương Thông đã sang chào từ biệt tại đại
bản doanh của nghĩa quân và ở lại một đêm cùng các lãnh tụ và tướng lĩnh nghĩa quân vui chơi,
trò chuyện rất cởi mở, thân mật. Sáng hôm sau, Vương Thông lên đường, các lãnh tụ nghĩa quân
tiễn tặng rất trọng hậu: trâu rượu, cờ thêu, trướng vẽ và nhiều tặng vật khác. Vương Thông vô
cùng cảm động. Không những chủ tương địch cảm động, tỏ tình lưu luyến khi chia tay, mà toàn
quân đich đều cảm động, vui sướng trước thái độ khoan hồng, nhân đạo và trước những cử chỉ cao
đẹp của quân dân ta. Trước ngày lên đường, tất cả trên mười vạn người Minh được tha về nước, cả
quân lẫn tướng đều tới quân doanh Bồ Đề, lạy tạ Bình Đình Vương Lê Lợi, người lãnh tụ tối cao


của nghĩa quân Lam Sơn, người đã cùng Nguyễn Trãi và quân dân cả nước ta kiên quyết thi hành
một đường lối kết thúc chiến tranh rất sáng tạo, rất nhân nghĩa:
“ Nghĩ kế nước nhà trường cửu, tha cho mười vạn hàng binh
Gây lại hòa hảo cho hai nước, dập tắt chiến tranh cho muôn đời”
Đường lối chiến tranh ấy đã thực hiện tốt đẹp mục đích vô cùng cao cả của những cuộc
chiến tranh chống xâm lược của dân tộc ta, là:
Nước nhà từ nay bền vững
Non sông trở lại đẹp tươi
Càn khôn hết bĩ lại thái
Nhật nguyệt hết mờ lại trong
Mở rộng nền thái bình muôn thưở
Rửa sạch đều hổ thẹn nghìn thu…
(Bình Ngô Đại Cáo)
CHƯƠNG III. VẬN DỤNG, PHÁT HUY TÍNH NHÂN NGHĨA TRONG ĐỜI SỐNG HIỆN
NAY

Tính nhân nghĩa từ lâu đã trở thành một đặc tính của dân tộc ta. Nó hình thành và phát triển cùng
với quá trình tồn tại và phát triển của truyền thống đất nước. Trải qua nhiều thế hệ, nhiều biến cố, nhiều
giai đoạn lịch sử, tính nhân nghĩa ấy ngày càng được sàng lọc, bồi đắp thêm. Ngày nay, việc nghiên cứu
lối ứng xử của cha ông ta để đúc kết thành bài học là điều hết sức cần thiết. Đó là bài học về đức tính quý
báu của dân tộc - bài học về tính nhân nghĩa.
Đối với con người: Nhân nghĩa trước hết là một quy phạm đạo đức, hướng con người đến sự rộng
lượng, tha thứ… nó được thể hiện trong cách đối nhân xử thế của con người Việt Nam từ bao đời nay. Đó
là chiếc cầu bắt ngang qua đôi bờ thiện - ác, đẹp - xấu, chân lý - sai lầm…qua đó có thể điều chỉnh hành vi
đạo đức của con người, dẫn dắt con người đi từ bóng tối ra ánh sáng, nơi đó con người tha thứ cho nhau,
tôn trọng, tiếp nhận và thừa nhận lẫn nhau. Trong quá khứ, dân tộc ta đã thẩm thấu những bài học về
khoan dung, được thể hiện trong cả thời bình và thời chiến. Trong hoàn cảnh càng khó khăn bao nhiêu thì
tinh thần nhân nghĩa của dân tộc càng to lớn bấy nhiêu. Nó vượt lên tất cả mọi chướng ngại để trở thành
phúc đức lớn cho dân tộc muôn đời thụ hưởng. Và ngày nay, lòng tự hào dân tộc đi kèm lòng biết ơn sâu
sắc đối với tổ tiên, những người đã sống, chiến đấu và chết không những cho độc lập tự do mà còn cho
phong hóa của người Việt Nam đời đời tươi đẹp, chính vì vậy mà mỗi người chúng ta đều phải ý thức
được sự rèn dũa phẩm chất đức hạnh sao cho xứng đáng với tổ tông, nòi giống Rồng Tiên. Người nay nhìn
vào tấm gương của người xưa, phải đặt mình vào “khuôn phép của thánh nhân” để huấn tập sao cho “thấu


tình đạt lý” trong từng ý nghĩ và đi đến “có lý có tình” trong từng hành động, đem tâm lý cá nhân hòa
nhập với tâm lý dân tộc và thăng hoa cùng lương tri nhân loại.
Đối với nền văn hóa dân tộc: Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội. Nó là động lực và là mục
tiêu phát triển của mỗi xã hội. Vì vậy, bất cứ thời đại nào con người đều phải giữ gìn và nâng cao bản sắc
vốn có của văn hoá dân tộc, kết hợp với việc kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp dân tộc, đồng thời
tiếp thu tinh hoa của các nền văn hóa bên ngoài, cùng với sự đấu tranh chống lại sự xâm nhập của các loại
văn hoá độc hại. Đặc biệt trong “thời đại toàn cầu hoá” thì “sự xâm lăng về văn hoá” càng diễn ra mạnh
mẽ. Điều này đã diễn ra ở nhiều nơi trên thế giới. Vì thế, vấn đề giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá của
dân tộc mình là có một ý nghĩa sống còn đối với tất cả các quốc gia trên thế giới. Trong điều kiện như vậy,
văn hóa Việt Nam cần nuôi dưỡng tâm hồn, hun đúc khí phách, bản lĩnh của dân tộc, dùng “ tư duy và
phương pháp luận “Tổ quốc luận”, […] làm trung hòa và nhào nặn những yếu tố ngoại lai”, tiến hành

giao lưu cộng sinh làm giàu cho bản sắc văn hóa của dân tộc trước thềm hội nhập, tạo lập nền văn hóa
Việt Nam “tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc”.
Đối với vấn đề thời sự: Hiện nay, nhân nghĩa một lần nữa được đặt ra để giải quyết vấn đề Biển
Đông. Đó là đề cao tính dĩ bất biến ứng vạn biến, hiếu hòa, hiếu sinh… thể hiện qua cách ứng xử về vấn
đề Biển Đông của Việt Nam là luôn kiên trì chủ trương giải quyết mọi tranh chấp liên quan đến Biển
Ðông bằng các biện pháp hòa bình, căn cứ theo luật pháp quốc tế, trong đó có Công ước Luật Biển năm
1982, và thúc đẩy thực hiện đầy đủ “Tuyên bố ứng xử giữa các bên ở Biển Đông được ký kết giữa
ASEAN và Trung Quốc” (DOC) , tiến tới xây dựng “Bộ quy tắc ứng xử trên Biển Đông” (COC) vì mục
đích góp phần duy trì hòa bình, ổn định ở Biển Ðông.
Như vậy, tính nhân nghĩa là tài sản quý báu của dân tộc ta, là nguồn động lực to lớn cho sự tiến bộ
xã hội. Từ sức mạnh của tính nhân nghĩa, chúng ta mới có thể tạo lập thế vững chắc, hướng tới chuyển
hóa tính đa dạng của thực tế xã hội để trở thành nguồn lực phát triển của đất nước. Đồng thời, tính nhân
nghĩa đưa đến khuôn mẫu ứng xử tiến bộ, văn minh: con người văn minh, xã hội văn minh, dân tộc văn
minh. Con người, xã hội và dân tộc ngày càng yêu thích sự hài hòa, chọn lối sống hiếu sinh, hiếu hòa, hòa
đồng, tôn trọng các mối quan hệ và các yếu tố cấu thành nên các mối quan hệ, vì vậy mà càng thêm cởi
mở để giải quyết các vấn đề của cuộc sống. Ngày nay, triết lí nhân nghĩa là sự lựa chọn tối ưu cho mọi dân
tộc, là phương thuốc cho toàn thể nhân loại, là sự lựa chọn cấp bách và tất yếu để đi đến mục tiêu “dân
giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”
PHẦN KẾT LUẬN
Tư tưởng chính trị của Nguyễn Trãi và nghĩa quân Lam Sơn không đóng khung trong phạm
vi nhận thức và tình cảm, mà thể hiện ra hành động rất mạnh và mang tính chiến đấu cao: yêu
nước yêu dân phải cứu nước cứu dân, phải đấu tranh cho độc lập thống nhất Tổ Quốc, phải “trừ
độc, trừ tham, trừ bạo ngược” cho nhân dân, phải làm cho nhân dân khỏi lầm than khổ cực. Tư
tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi và nghĩa quân Lam sơn là sự khái quát toàn bộ tư tưởng chính


trị. Nhân nghĩa là làm yên dân, là giữ yên thế nước, là lấy đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí
nhân để thay cường bạo. Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi và nghĩa quân Lam Sơn thể hiện
ra hành động là sự kết hợp tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc và ý thức dựa vào dân, vì dân, lấy
dân làm chủ, để đánh thắng xâm lược và giải quyết mọi vấn đề quốc kế dân sinh.

Tư tưởng quán triệt và chi phối toàn bộ chí hướng và hoạt động của Nguyễn Trãi và nghĩa
quân Lam Sơn là tư tưởng nhân nghĩa. Nguyễn Trãi nói: “phàm mưu việc lớn phải lấy nhân nghĩa
làm gốc, nên công to phải lấy nhân nghĩa làm đầu: duy nhân nghĩa có gồm đủ thì công việc mới
thành được. Nguồn gốc sức mạnh và nguyên nhân thắng lợi của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, theo
Nguyễn Trãi cũng không ngoài “đại nghĩa” và “chí nhân”: “Rút lại, lấy đại nghĩa mà thắng hung
tàn, lấy chí nhân mà thay cường bạo”.
Là một sĩ phu phong kiến, một người được đào luyện trong trường học của Nho giáo, tư
tưởng của Nguyễn Trãi lẽ dĩ nhiên có chịu ảnh hưởng của Nho giáo. Nguyễn Trãi có tiếp thu
những yếu tố tích cực của Nho giáo, chủ yếu là tư tưởng nhân nghĩa của Khổng Mạnh. Nhưng rõ
ràng Nguyễn Trãi không dừng lại và giới hạn mình trong khuôn khổ có sẵn của Khổng Mạnh. Tư
tưởng nhân nghĩa của Khổng Mạnh đã được biến hóa, phát triển, sáng tạo trên cơ sở thực tiễn đấu
tranh giải phóng dân tộc mà chính Nguyễn Trãi là một người lãnh đạo và truyền thống quật cường,
bất khuất của dân tộc mà chính Nguyễn Trãi là một người tiêu biểu.
Nội dung tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi và nghĩa quân Lam Sơn cơ bản là tinh thần
yêu nước, thương dân tha thiết kết hợp với ý chí hòa bình và lòng nhân đạo cao cả.
Tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi và nghĩa quân Lam Sơn là tư tưởng chính trị, nhưng
chứa đựng một nội dung luân lý, đậm nét nhân dạo, bình đẳng và bác ái, yêu thương căm ghét rõ
ràng trong quan hệ người với người. Về mặt đạo đức, nhân nghĩa của Nguyễn Trãi và nghĩa quân
Lam Sơn chan chứa tình người và bao hàm một ý thức sâu sắc về quyền sống của con người, nhất
là quyền sống của quảng đại quần chúng nhân dân.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phan Huy Lê, Phan Đại Doãn (1977), Khởi nghĩa Lam sơn, Nhà xuất bản Khoa học xã hội, H.,
1977
2. Nguyễn Lương Bích (1973), Nguyễn Trãi đánh giặc cứu nước, Nhà xuất bản Quân đội nhân
dân, H. 1973
3. Ngô Sĩ Liên (2013), Đại Việt sử ky toàn thư (Bản dịch), NXB Thời đại, Hà Nội.
4. Phan Huy Lê, Bùi Đăng Dũng, Phan Đại Doãn, Phạm Thị Tâm, Trần Bá Chí (2004), Một số
trận quyết chiến chiến lược trong lich sử dân tộc, NXB Quân đội nhân dân, Hà Nội.
5. Nguyễn Lương Bích (2012), Việt Nam ba lần đánh Nguyên toàn thắng, NXB Hồng Bàng, Gia
Lai.

6. Trương Hữu Quýnh (Chủ biên) (2010), Đại cương Lich sử Việt Nam (tập 1), NXB Giáo dục,
Hà Nội.
7. Trần Trọng Kim (2003), Việt Nam sử lược, NXB Đà Nẵng, Đà Nẵng.


8. Huỳnh Công Bá, Lich sử Việt Nam cổ trung đại, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế.
9. Viện Văn Học (1980), Nguyễn Trãi khí phách và tinh hoa dân tộc, NXB Khoa học xã hội, Hà
Nội.
10. Duy Phi, Đặng Tiến Huy, Vũ Huy Ba, Nguyễn Tiến (1998), Thơ văn thời Ly, NXB Văn hóa
thông tin, Hà Nội.
11. Nguyễn Nhã, Huy Cầu (1977), Kể chuyện bốn nghìn năm giữ nước, NXB Quân đội nhân dân,

Hà Nội.



×