Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Tieu luan mon chinh tri QUoc te duong dai vai trò của ASEM trong quá trình hội nhập hóa khu vực á âu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (186.24 KB, 29 trang )

MỤC LỤC
LƠI MƠ ĐẦU...................................................................................................1
NỘI DUNG.......................................................................................................3
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ ASEM..........................................................3
1. Hoàn cảnh ra đời.........................................................................................3
2. Mục tiêu, nguyên tắc hoạt động, cấu trúc và tiến trình ASEM..............4
2.1 Mục tiêu......................................................................................................4
2.2 Nguyên tắc hoạt động.................................................................................5
2.3 Cấu trúc và cơ chế hoạt động của ASEM.................................................6
3. Những cơ hội và thách thức của tiến trình ASEM trong thời gian tới.........11
CHƯƠNG II. TIẾN TRÌNH ASEM TRONG VIỆC THÚC ĐẨY MỐI
QUAN HỆ Á – ÂU.........................................................................................12
1. Vai trò của ASEM trong việc thúc đẩy mối quan hệ Á-Âu....................12
2. Hợp tác kinh tế ASEM..............................................................................13
2.1 Mục tiêu và nguyên tắc hợp tác...............................................................13
2.2 Lĩnh vực hợp tác.......................................................................................14
CHƯƠNG III: VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH ASEM......................18
1. Hoàn cảnh tham gia và vị thế của Việt Nam trong tiến trình ASEM................18
2. Những cơ hội và thách thức của Việt Nam trong tiến trình ASEM......20
3. Các giải pháp thúc đẩy Việt Nam trong tiến trình ASEM.....................22
3.1 Về nhận thức, tư tưởng............................................................................22
3.2 Về xây dựng tiến trình ASEM.................................................................24
3.3 Xây dựng và nâng cao năng lực của các cơ quan quản lý Nhà nước........25
KẾT LUẬN.....................................................................................................28


LỜI MỞ ĐẦU
Khu vực hoá cùng với xu thế hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang là
một trong những xu thế chủ yếu nhất chi phối sự vận động và phát triển của
thế giới ngày nay. Mọi quốc gia trên thế giới ngày càng ý thức sâu sắc được
rằng khu vực hoá và hội nhập kinh tế ảnh hưởng sâu rộng tới mọi mặt đời


sống kinh tế - chính trị - xã hội của toàn bộ cộng đồng quốc tế nói chung và
tới từng quốc gia nói riêng. Chính vì vậy hầu hết các quốc gia trên thế giới
cũng không nằm ngoài quy luật và ít nhất là thành viên của một tổ chức khu
vực nhất định. Đối với các nước Đông á và Tây Âu điều này cũng không
ngoại lệ. Đáng nói hơn, các quốc gia này lại cùng là thành viên của Hội nghị
Cấp cao Á-Âu (ASEM). Tham gia vào tiến trình ASEM, các quốc gia này
không chỉ có cơ hội chia xẻ những hiểu biết về văn hoá-xã hội của đất nước
mình với các nước thành viên khác mà còn giúp thúc đẩy phát triển kinh tế
của các quốc gia thành viên. Tiến trình ASEM mới đi vào hoạt động chưa đầy
một thập kỷ, chính vì vậy ngoài những cơ hội và tiềm năng to lớn mà ASEM
đem lại cho mỗi quốc gia, tiến trình này vẫn phải đối mặt với nhiều khó khăn,
thách thức.
Là một quốc gia đang phát triển và là thành viên sáng lập của ASEM,
Việt Nam đã và đang tham gia một cách tích cực vào tiến trình ASEM, góp
phần xử lý các vấn đề đặt ra trong hợp tác Á-Âu, trên cơ sở đó góp phần
tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau của hai châu lục, thúc đẩy quan hệ hợp tác
kinh tế, khoa học, công nghệ, văn hoá, giáo dục. Việc hội nhập vào nền kinh
tế thế giới nói chung và tham gia vào ASEM nói riêng là một vấn đề vô cùng
bức thiết không chỉ về mặt thực tiễn mà còn về mặt lý luận, nhận thức.
Những giải pháp thúc đẩy tiến trình ASEM đối với Việt Nam là một câu hỏi
làm trăn trở không chỉ các chính trị gia, các nhà văn hoá mà còn cả các nhà
kinh tế học. Chủ động tham gia và thúc đẩy tiến trình ASEM là cách để Việt
Nam thực hiện được các mục tiêu về kinh tế- văn hoá-xã hội nói riêng và
1


mục tiêu tổng thể về công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước của Đảng và
Nhà nước ta đã đề ra.
Trong thời gian gần đây đã có không ít những nghiên cứu, ý kiến đánh
giá về khu vực hoá, các mô hình khu vực hoá như ASEM và hội nhập kinh tế

khu vực của Việt Nam. Tuy nhiên, đó thường là những nghiên cứu sâu, chi tiết
về các vấn đề riêng lẻ mà ít có những nghiên cứu mang sâu chuỗi, liên kết
lôgic về các vấn đề này. Do đó, để có được một cách nhìn tương đối tổng quát
trên phương diện bộ môn “Chính trị quốc tế đương đại”, học viên chọn viết đề
tài: “Vai trò của ASEM trong quá trình hội nhập hóa khu vực Á - Âu”.

2


NỘI DUNG
CHƯƠNG I: KHÁI QUÁT VỀ ASEM
1. Hoàn cảnh ra đời
Tại Hội nghị kinh tế cấp cao châu Âu-Đông Á lần thứ ba tại Singapore
tháng 10 năm 1994, Thủ tướng Singapore Goh Chok Tong đã đưa ra sáng kiến
tổ chức một Hội nghị thượng đỉnh Á-Âu nhằm tăng cường sự hiểu biết và
thúc đẩy hợp tác giữa hai châu lục. Sáng kiến này cũng chinh thức được đặt ra
với Thủ tướng Pháp trong chuyến thăm Pháp cuối năm 1994 của Thủ tướng
Gok Chok Tong và ngay lập tức được nhiều nước Á-Âu hưởng ứng. Tháng 3
năm 1996, Hội nghị các nguyên thủ quốc gia về Hợp tác Á-Âu lần đầu tiên
được tổ chức tại Bangkok, Thái Lan với sự tham gia của các nguyên thủ quốc
gia 15 nước thuộc Liên minh châu Âu, 10 nước châu á (Nhật Bản, Hàn Quốc,
Trung Quốc, Inđônêxia, Thái Lan, Malaysia, Brunêi, Singapore, Philippines
và Việt Nam).
Sau Hội nghị thượng đỉnh này, Hợp tác Á-Âu chính thức ra đời và lấy
tên của Hội nghị Thượng đỉnh đầu tiên (ASEM) làm tên cho chương trình hợp
tác này. Thực chất, hiện nay ASEM là một diễn đàn hợp tác, cơ chế phối hợp
thông qua các nước điều phối viên và chưa có Ban thư ký điều hành. Các
nước vẫn tiếp tục nghiên cứu thảo luận hướng phát triển của ASEM trong thời
gian tới và có nhiều khả năng ASEM sẽ được nâng lên thành một tổ chức kinh
tế thương mại để giải quyết các vấn đề về về tự do hoá thương mại, đầu tư

giữa châu Á và châu Âu. Trong bối cảnh toàn cầu hoá và khu vực hoá nền
kinh tế thế giới hiện nay, Hợp tác Á-Âu có ý nghĩa hết sức to lớn. Các nước
châu Âu thành viên ASEM đã trở thành một trung tâm kinh tế quan trọng với
việc hình thành Liên minh tiền tệ châu Âu (EMU) và việc sử dụng đồng tiền
chung EURO vào tháng 1 năm 1999. Liên minh châu Âu cũng đang đẩy
nhanh quá trình nhât thể hoá cả về chiều rộng và chiều sâu. Song song với
EU, vai trò của châu Á ngày càng được củng cố trong hệ thống kinh tế và
3


chính trị thế giới với tiềm năng to lớn về cơ hội thương mại và đầu tư. Sự liên
kết giữa hai khối kinh tế này thông qua ASEM sẽ tạo nên một động lực mới
thức đẩy trao đổi thương mại và đầu tư giữa hai châu lục phát triển, tạo nên
một sức mạnh tổng hợp của ba khối kinh tế lín là EU-Nhật Bản- Các nước
châu Á đang phát triển. Ngoài ra trong bối cảnh Mỹ và các nước Bắc Mỹ
đang xây dựng và phát triển mạnh mẽ mối quan hệ kinh tế với các nước châu
Á trong khuôn khổ APEC, châu Âu đã có liên hệ chặt chẽ với Bắc Mỹ qua
quá trình lịch sử và mạng lưới dày đặc của những thể chế xuyên Đại Tây
Dương, ASEM còn có một ý nghĩa mang tính chất chiến lược, đó là cầu nối
thắt chặt hơn châu Âu với châu Á, tạo đối trọng quan hệ giữa các trung tâm
kinh tế lớn là EU-Mỹ-Nhật Bản và các nước châu á đang phát triển.
2. Mục tiêu, nguyên tắc hoạt động, cấu trúc và tiến trình ASEM
2.1 Mục tiêu
Mục tiêu chủ đạo của Hợp tác Á-Âu hiện nay (được thông qua tại Hội
nghị ASEM I) là Hợp tác để đạt sự tăng trưởng hơn nữa ở cả châu á và châu
Âu. Mục tiêu này đã được cụ thể hoá ở Khuôn khổ hợp tác Á-Âu (AECF)
thành các mục tiêu cơ bản sau:
- Thúc đẩy đối thoại chính trị để tăng cường hơn nữa sự hiểu biết lẫn
nhau và thống nhất quan điểm cuả hai châu lục đối với các vấn đề chính trị và
xã hội của thế giới.

- Xây dựng quan hệ đối tác một cách toàn diện và sâu rộng giữa hai châu
lục Á, Âu để thúc đẩy trao đổi thương mại và đầu tư giữa các nước thành viên.
- Tăng cường hợp tác trong lĩnh vực khoa học-kỹ thuật, môi trường,
phát triển nguồn nhân lực… để tạo sự tăng trưởng bền vững ở cả châu Á và
châu Âu.
Các mục tiêu trên đã và đang được thực hiện thông qua một loạt các
chương trình hành động của ASEM như Chương trình thuận lợi hoá thương
mại (TFAP), Chương trình xúc tiến đầu tư (IPAP), Trung tâm công nghệ môi
trường Á-Âu, Quỹ Hợp tác Á-Âu (ASEF), Quỹ tín thác…
4


Về mặt kinh tế, ASEM đặt ra mục tiêu cụ thể là:
- Thúc đẩy giao lưu giữa các doanh nghiệp.
- Cải thiện môi trường kinh doanh nhằm thúc đẩy môi trường thương
mại đầu tư.
- Tạo sự tăng trưởng kinh tế ổn định và bền vững.
Như vậy, trong lĩnh vực kinh tế, tuy ASEM chưa đề ra các mục tiêu về
giảm thuế và các nghĩa vụ mang tính chất bắt buộc như các tổ chức ASEAN,
WTO song ba mục tiêu cụ thể nêu trên đã tạo nền tảng cho việc phát triển
quan hệ hợp tác kinhtế chặt chẽ giữa hai châu lục, góp phần thuận lợi cho giao
lưu thương mại đầu tư và đóng vai trò như một chất xúc tác thúc đẩy thương
mại kinh tế khu vực.
2.2 Nguyên tắc hoạt động
Cũng như tất cả các diễn đàn hoặc tổ chức khu vực, ASEM hoạt dộng vơi
những nguyên tắc riêng của mình. Nguyên tắc cơ bản nhất của ASEM là tính
chất tự nguyện, không ràng buộc và quan hệ bình đẳng giữa các thành viên.
Nguyên tắc này tương đối phổ biến ở các diễn đàn đối thoại khu vực. Đi sâu vào
các lĩnh vực hợp tác, nguyên tắc này được cụ thể hoá hơn nhằm điều chỉnh một
cách sát sao quá trình Hợp tác Á-Âu. Căn cứ vào văn kiện khung của ASEM là

AECF, nguyên tắc hoạt động của ASEM được quy định như sau:
- Quan hệ giữa các thành viên trên cơ sở đối tác bình đẳng, tôn trọng
lẫn nhau và đôi bên cùng có lợi.
- ASEM sẽ là một tiến trình mở và liên tục phát triển, việc mở rộng số
thành viên phải được sự đồng thuận của các nguyên thủ quốc gia.
- Tăng cường thông tin và hiểu biết lẫn nhau thông qua đối thoại, định
ra các lĩnh vực ưu tiên phối hợp hành động.
- Triển khai hoạt động hợp tác đồng đều ở cả ba lĩnh vực: tăng cường
đối thoại chính trị, củng cố hợp tác kinh tế và xúc tiến hợp tác trong các lĩnh
vực khác.
- ASEM sẽ được duy trì như một tiến trình tự nguyện, không thể chế
5


hoá, hoạt động của ASEM sẽ nhằm hỗ trợ và tạo thuận lợi cho các hoạt động
ở các diễn đàn quốc tế khác.
- Xúc tiến đối thoại và hợp tác giữa các doanh nghiệp và cư dân giữa
hai khu vực; khuyến khích hợp tác giữa các học giả, các nhà nghiên cứu giữa
hai khu vực.
2.3 Cấu trúc và cơ chế hoạt động của ASEM
Bản chất của ASEM là một diễn đàn đối thoại, hoạt động hỗ trợ cho các
tổ chức hoặc diễn đàn đa phương khác (như xúc tiến đối thoại giữa các thành
viên ASEM về các vấn đề của Liên hợp quốc, Tổ chức thương mại thế giới,
các vấn đề nổi cộm của kinh tế thương mại toàn cầu và khu vực…nhằm đạt
được sự đồng thuận và quan điểm chung của các thành viên ASEM trong các
diễn đàn đa phương nêu trên). Ngoài ra, hoạt động của ASEM cũng có đặc
trưng là hoạt động đối thoại cấp cao, theo đó mọi vấn đề cơ bản của ASEM
cũng sẽ được thảo luận và thông qua tại Hội nghị cấp cao (Hội nghị thượng
đỉnh). Các hội nghị cấp thấp hơn sẽ thực hiện hoặc điều phối thực hiện các
quyết định mà các nguyên thủ quốc gia đưa ra tại Hội nghị thượng đỉnh.

Với đặc điểm nêu trên, hoạt động của ASEM hiện nay chưa được thể
chế hoá. Các hoạt động hợp tác được tổ chức thông qua hai nước điều phối
viên châu Á và hai nước điều phôi viên châu Âu với nhiệm kỳ 2 năm. Các
nước điều phối viên nhóm họp khi cần thiết thông qua các nhóm công tác
chuyên về từng lĩnh vực chính trị hoặc kinh tế. Cơ quan điều phối ASEM tại
mỗi nước là Bộ Ngoại Giao. Có thể khi hoạt động đi vào chiều sâu, ASEM sẽ
được cơ cấu lại với các ban và nhóm công tác hoàn chỉnh.
Về cấu trúc và tiến trình, Hội nghị thượng đỉnh Á-Âu được họp 2 năm
một lần. ASEM 1 lần đầu tiên được tổ chức tại Bangkok, Thái Lan tháng 3 năm
1996. Các Hội nghị thượng đỉnh tiếp theo là: ASEM 2 (London, 1998), ASEM
3 (Seoul, 2000) và gần đây nhất là ASEM 4 (Copenhagen, 2002). Có thể thấy 3
vấn đề cơ bản tạo nên cấu trúc của ASEM chính là kinh tế, chính trị và văn
hoá- xã hội. Trong đó, kinh tế vẫn là mảng lớn nhất và rất được chú trọng.
6


Các Hội nghị Bộ trưởng về các vấn đề Ngoại giao, Kinh tế, Tài chính
và Môi trường cũng được diễn ra trong thời gian 12-18 tháng. Bên cạnh đó là
các hoạt động và chương trình đi kèm cũng đồng thời được diễn ra. Những
chương trình đó bao gồm: Diễn đàn Kinh doanh Á-Âu (Asia-Europe Busines
Forum-AEBF), Kế hoạch Hành động thúc đẩy Thương mại (Trade Facilitation
Action Plan- TFAP), Kế hoạch hành động xúc tiến đầu tư (Investment
Promotion Action Plan-IPAP), Quỹ tín thác ASEM (ASEM Trust Fund), Quỹ
tín thác ASEM cho các nhà lãnh đạo trẻ Á-Âu (Asia-Europe Young Leaders
ASEM Trust Fund), Hội nghị chuyên đề của các nhà lãnh đạo trẻ Á-Âu (AsiaEurope Young Leaders Symposium), Sức khoẻ trẻ em ASEM (ASEM
Children Welfare), Liên kết ASEM (ASEM Connect)…
Như thế, cụ thể hoá, hiện tại các kênh Hội nghị chính của ASEM bao gồm:
 Hội nghị Thượng đỉnh ASEM (ASEM)
 Hội nghị cấp Bộ trưởng
 Hội nghị quan chức cấp cao ngoại giao (GOM)

 Hội nghị quan chức cấp cao thương mại và đầu tư (SOMTI)
 Hội nghị Thứ trưởng Tài chính
 Hội nghị Bộ trưởng Khoa học và Công nghệ
 Diễn đàn doanh nghiệp Á-Âu
Ngoài các kênh hội nghị chính nêu trên, ASEM còn có các nhóm công
tác ở cấp chuyên viên để giải quyết những vấn đề kỹ thuật cụ thể của các
chương trình của ASEM. Hiện nay, ASEM có các nhóm công tác sau:
- Các nhóm công tác hoạt động theo khuôn khổ của TFAP như Nhóm
về tiêu chuẩn chất lượng, thủ tục hải quan, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ
(Intellectual Property Rights-IPR), SPS, mua sắm của chính phủ…
- Nhóm chuyên gia về đầu tư (Investment Expert Group-IEG) hoạt
động trong khuôn khổ IPAP.
- Một số các cuộc họp trong lĩnh vực văn hoá, xã hội như các diễn đàn
7


về các nhà lãnh đạo trẻ, bảo tồn di sản văn hoá, phúc lợi trẻ em…
- Các hoạt động giao lưu văn hoá và tri thức trong khuôn khổ hợp tác
Á-Âu Dưới đây là một số nét chính về các hội nghị trên:
* Hội nghị Thượng đỉnh ASEM:
Hội nghị Thượng đỉnh ASEM được tổ chức hai năm một lần để bàn về
các vấn đề chiến lược của ASEM và phê chuẩn các chương trình hợp tác.
Hội nghị Thượng đỉnh ASEM 1: được tổ chức từ ngày 1/3/1996 đến
ngày 2/3/2996 tại Bangkok, Thái Lan. Hội nghị đã chính thức thành lập diễn
đàn ASEM và bước đầu định ra phương hướng, đường lối và một số nguyên
tắc cơ bản điều tiết hoạt động của diễn đàn này.
Hội nghị Thượng đỉnh ASEM 2: được tổ chức từ ngày 3/4/1998 đến
ngày 4/4/1998 tại Luân Đôn, Anh trong bối cảnh nền kinh tế châu Á đang bị
khủng hoảng nghiêm trọng. Ngoài các chủ đề thảo luận sâu rộng về chính trị,
tài chính, Hội nghị đã đặt ra cơ sở cho quan hệ đối tác lâu dài giữa hai châu

lục đi vào thế kỉ XXI với việc thông qua 6 văn kiện quan trọng: “Khuôn khổ
hợp tác Á-Âu là cơ chế khung để điều phối và định huớng các hoạt động
ASEM. Khuôn khổ này bao gồm các mục tiêu, nguyên tắc hoạt động và các
lĩnh vực ưu tiên cảu Hợp tác Á-Âu”. Trong khuôn khổ này, các nội dung ưu
tiên của ASEM được đề ra trên ba lĩnh vực chính trị, kinh tế-tài chính và văn
hoá-xã hội là:
- Đối thoại chính trị: tập trung vào các vấn đề như cải tổ Liên hợp quốc,
các vấn đề an ninh thế giới và khu vực, quy tắc ứng xử chung, giải trừ quân bị.
- Hợp tác kinh tế và tài chính: tập trung vào các vấn đề như cải thiện
môi trường kinh doanh, đóng góp của ASEM vào việc thực hiện WTO, triển
khai TFAP, IPAP, chống rửa tiền, đối thoại tài chính…
- Hợp tác văn hoá xã hội: tập trung vào các lĩnh vực như liên kết trao
đổi sinh viên, học sinh, giao lưu văn hoá, hợp tác xây dựng cơ sở hạ tầng.
Hiện nay, ASEM đang hoàn chỉnh bản khuôn khổ này thành: “Khuôn
khổ hợp tác Á-Âu toàn diện” để sử dụng như một công cụ chính thức nhằm
8


điều phối có hiệu quả các chương trình của ASEM “Chương trình hành động
thuận lợi hoá thương mại” (TFAP) “Chương trình hành động xúc tiến đầu tư”
(IPAP). Hội nghị cũng thông qua Chương trình công tác ASEM 1998-2000 và
một số sáng kiến hợp tác mới do các nước đưa ra.
Hội nghị ASEM 3: Hội nghị ASEM 3 thảo luận về tiến trình ASEM trên
các lĩnh vực chủ yếu: Trao đổi kinh nghiệm về các vấn đề an ninh khu vực và
thế giới; Tăng cường hợp tác theo hướng khu vực hóa trên các lĩnh vực
thương mại, kinh tế và bao gồm cả các diễn đàn về vấn đề chính sách xã hội;
Thỏa thuận tăng cường trao đổi giáo dục giữa hai khu vực.
Hội nghị ASEM 4: Hội nghị ASEM 4 được tổ chức tại Copenhagen từ
ngày 18-19/9/2002. Hội nghị thông qua các vấn đề về: Tăng cường hợp tác
kinh tế giữa châu Á và châu Âu; WTO; Triển vọng kinh tế qua ASEM; Phát

triển kinh tế toàn cầu.
* Các Hội nghị cấp Bộ trưởng.
Hội nghị cấp Bộ trưởng Ngoại giao (FMM) : chịu trách nhiệm xủ lý,
theo dõi các vấn đề về chính trị, xã hội, điều phối công tác chuẩn bị cho Hội
nghị thượng đỉnh ASEM thông qua các Hội nghị quan chức cấp cao (GOM).
Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao lần thứ nhất (FMM1) được tổ chức vào
tháng 2 năm 1997 tại Singapore để thông qua một số vấn đề về hợp tác an
ninh, chính trị và văn hoá của ASEM, chuẩn bị cho Hội nghị Thượng đỉnh
ASEM2.
Hội nghị Bộ trưởng Ngoại giao lần thứ hai (FMM2) được tổ chức vào
tháng 3 năm 1999 tại Berlin, Cộng hoà Liên bang Đức thảo luận các vấn đề
xoay quanh cuộc khủng hoảng và thông qua “Chương trình hành động ASEM
đến năm 2000”
Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế (EMM) là diễn đàn để thực hiện theo dõi
việc thực hiện hoạt động hợp tác kinh tế á-Âu xem xét và có thể thông qua
những đề xuất hợp tác mới, trực tiếp báo cáo các vấn đề kinh tế lên Hội nghị
Thượng đỉnh ASEM.
9


Hội nghị Bộ trưởng ASEM lần thứ nhất (EMM1) được tổ chức vào
tháng 9 năm 1997 tại Makuhari, Nhật Bản. Hội nghị thông qua 3 văn kiện cơ
bản hợp tác kinh tế ASEM để trình lên Hội nghị cấp cao ASEM 2 là Khuôn
khổ hợp tác á-Âu (AECF).
Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEM lần thứ hai (EMM2) được tổ chức
tại Berlin, Cộng hoà liên bang Đức vào tháng 10 năm 1999. Nét nổi bật của
Hội nghị này là tập trung vào của ASEM đối với các vấn đề của Hội nghị Bộ
trưởng WTO tại Seattle, Mỹ. ASEM đã thảo luận sâu và cố gắng thống nhất
quan điểm chung đối với các vấn đề của chương trình nghị sự WTO như vấn
đề trợ cấp nông nghiệp, thương mại và môi trường, thương mại điện tử, tiêu

chuẩn lao động…Điều này lại một lần nữa thể hiện đặc trưng của diễn đàn
ASEM là đối thoại để hỗ trợ, bổ sung cho các diễn đàn đa phương khác.
Thông qua EMM lần này, các nước thành viên phát triển và đang phát triển
của ASEM đã có một cái nhìn xích lại gần nhau hơn, tạo điều kiện cho việc
giải quyết các vấn đề của WTO được tiến triển nhanh chóng, thuận lợi hơn.
Ngoài ra một nét định hướng quan trọng của EMM2 là định hướng lại
các hoạt động kinh tế của ASEM theo đúng các mục tiêu chỉ đạo của các
nguyên thủ quốc gia, trong đó có định hướng quan trọng đối với việc thực
hiện TFAP là ưu tiên xác định và giải toả những hàng rào phi thuế trong
thương mại và đầu tư giữa hai khu vực. Hiện nay ASEM đã cơ bản xác định
một cách toàn diện cho các rào cản dưới dạng các quy định về tiêu chuẩn chất
lượng, kiểm dịch động thực vật, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ, thủ tục hải quan,
5

kinh tiêu sản phẩm trên thị trường nội địa . Các nhóm công tác của ASEM sẽ
tiếp tục bàn thảo các kế hoạch hành động nhằm từng bước giải toả các rào
cản nêu trên.
Hội nghị Bộ trưởng Tài chính: thảo luận các vấn đề về tài chính trong khu
vực, xây dựng các chương trình hợp tác về quản lý tài chính, chống rửa tiền.
* Các Hội nghị quan chức cấp cao: Hội nghị quan chức cấp cao ngoại
giao (SOM): nhiệm vụ chính cơ bản của SOM là bàn luận các vấn đề về đối
10


thoại chính trị, hợp tác văn hoá, xã hội của ASEM, xây dựng các chương trình
hành động trong các lĩnh vực trên để báo các các Bộ trưởng ngoại giao.
3. Những cơ hội và thách thức của tiến trình ASEM trong thời gian tới.
Trong xu thế hoà bình, hợp tác và phát triển tiếp tục là xu thế chính
trong quan hệ quốc tế, các thành viên ASEM càng thấy rõ hơn tầm quan trọng
của tiến trình hợp tác Á-Âu trong nỗ lực chung nhằm củng cố xu thế đó.

Trong mỗi khu vực đang diễn ra nhiều chương trình liên kết kinh tế
mạnh mẽ hơn cả về chiều rộng và chiều sâu. Không gian kinh tế đang mở
rộng này tạo ra những cơ hội mới để khai thác tối đa tiểm năng và cơ hội để
xây dựng quan hệ đối tác kinh tế chặt chẽ hơn giữa hai châu lục.
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ tiếp tục phát triển mạnh trên các
lĩnh vực đột phá về lượng tử, tin học… cùng với kinh tế tri thức trở thành
lực lượng sản xuất mở ra những cơ hội hợp tác mới rộng lớn hơn trong
ASEM, nhằm phát huy những thế mạnh và khả năng bổ xung giữa các nền
kinh tế Á-Âu.
Kể từ Cấp cao ASEM 4 đến nay, tình hình quốc tế và khu vực đã có
nhiều chuyển biến nhanh chóng và khó lường, đặt ra những thách thức mới
đối với ASEM. Có thể thấy, những thách thức lớn đó là:
- Sự kiện 11/9, đặc biệt là cuộc chiến tranh Iraq đã tạo ra sự thay đổi
sâu sắc trong quan hệ quốc tế tác động tới sự phát triển của tất cả các quốc
gia, quan hệ giữa các nước cũng như các tổ chức quốc tế và khu vực, trong
đó có ASEM.
- Kinh tế châu Á tuy phục hồi nhưng chưa vững chắc, kinh tế châu
Âu tiếp tục phát triển chậm.
- Tác động tích cực của toàn cầu hoá và tự do hoá, chủ nghĩa bảo
hộ mậu dịch gia tăng.
- Khoảng cách phát triển và kỹ thuật số giữa các quốc gia tăng.
- Khuynh hướng hướng nội của EU có thể gia tăng đặc biệt là sau khi
EU kết nạp thêm 10 thành viên mới.
11


CHƯƠNG II. TIẾN TRÌNH ASEM TRONG VIỆC THÚC ĐẨY MỐI
QUAN HỆ Á – ÂU
1. Vai trò của ASEM trong việc thúc đẩy mối quan hệ Á-Âu
ASEM là diễn đàn ngày càng có vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy

quan hệ hợp tác Á-Âu trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá thông qua
sự hiểu biết lẫn nhau giữa hai khu vực. Vai trò của ASEM có thể thấy rõ thông
qua các mục tiêu cụ thể được đề ra tại các Hội nghị thượng đỉnh cấp Bộ
trưởng được tổ chức 2 năm một lần cũng như hàng loạt các cuộc họp cũng
như hoạt động trong khuôn khổ ASEM ở mức thấp hơn.
Hội nghị thượng đỉnh Á-Âu 1 diễn ra tại Bangkok tháng 3 năm 1996 đã
đề xướng quan hệ hợp tác Á-Âu, tăng cường mối quan hệ giữa hai khu vực
thông qua các diễn đàn chính trị, kinh tế và kể cả trên các lĩnh vực khác như
văn hoá, xã hội … ASEM2 được diễn ra tại London vào tháng 4 năm 1998,
đẩy nhanh tiến trình hoạt động của 2 năm trước, đồng thời đi sâu vào việc
khắc phục hậu quả của khủng hoảng tài chính ở châu á năm 1998. ASEM 3
được tổ chức tại Seoul tháng 10 năm 2000, đã vạch ra hướng đi trong tương
lai của ASEM trong thập kỷ đầu của thế kỷ 21. ASEM 4 tổ chức tại
Copenhagen từ 22-24/9/2002 với mục đích thảo luận, đưa ra những phương
hướng giải pháp nhằm làm thuận lợi hoá chuẩn bị cho Hội nghị thượng đỉnh
về dịch vụ với bài viết về: “ Sức mạnh của hợp nhất trong đa dạng”.
Ngoài các cuộc họp thượng đỉnh, vai trò của tiến trình ASEM còn được
thể hiện trong hàng loạt các cuộc họp cấp Bộ trưởng và cấp thấp hơn cũng
như hàng loạt các hoạt động đi kèm. Chẳng hạn như các cuộc họp của Bộ
trưởng Bộ ngoại giao, Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ trưởng Kinh tế, Bộ trưởng
Môi trường giữa các nước Á-Âu được tổ chức 2 năm một lần.
Như vậy, có thể thấy vai trò của ASEM ngày càng quan trọng đối với
sự phát triển và thịnh vượng chung của hai khu vực Á-Âu. Điều này có thể
thấy rõ trong những vấn đề và mục tiêu thuộc ASEM:
12


- Về lĩnh vực chính trị: ASEM đưa ra và giải quyết những vấn đề về
chống khủng bố, việc kiểm soát luồng người di cư, nhân quyền, bảo vệ trẻ em
và ảnh hưởng của quá trình toàn cầu hoá.

- Về lĩnh vực kinh tế và tài chính, ASEM giải quyết những vấn đề giảm
hàng rào thuế quan đối với thương mại và đầu tư, đưa ra các chính sách cải
cách về mặt tài chính-xã hội cũng như tăng cường củng cố thêm những vấn đề
thuộc WTO.
- Về lĩnh vực văn hoá và quyền sở hữu trí tuệ, ASEM nhấn mạnh vào
việc tăng cường trao đổi và liên lạc mật thiết hơn nữa giữa hai khu vực đồng
thời không ngừng củng cố những di sản và di tích văn hoá của mỗi nước
thuộc ASEM nói riêng và của mỗi khu vực Á-Âu nói chung.
2. Hợp tác kinh tế ASEM
2.1 Mục tiêu và nguyên tắc hợp tác
Mục tiêu:
- Đẩy mạnh quan hệ hợp tác kinh tế giữa hai khu vực và quan hệ giữa
các doanh nghiệp với các chính phủ trong quá trình xây dựng và triển khai các
chương trình hợp tác ASEM.
- Cải thiện môi trường kinh doanh cho 2 khu vực.
- Tạo thuận lợi cho thương mại và đầu tư giữa các nước thành viên, đẩy
mạnh quan hệ đối tác giữa các doanh nghiệp của hai khu vực, tạo ra sự tăng
trưởng kinh tế ổn định và bền vững thông qua các chương trình hợp tác công
nghiệp, năng lượng và môi trường.
Nguyên tắc:
- Các nước thành viên phải thực hiện cải cách kinh tế và thực hiện nền
kinh tế thị trường.
- Các nền tảng kinh tế được dựa trên các nguyên tắc của WTO.
- Tự do hoá thương mại dựa trên cơ sở không phân biệt đối xử, hợp tác
trên cơ sở bình đẳng, có lưu ý đến sự đa dạng về kinh tế trong nội bộ và giữa
châu Á-châu Âu.
13


- Thực hiện minh bạch hoá các luật lệ và chính sách hiện hành.

- Tăng cường sự phối hợp giữa khu vực kinh tế nhà nước và khu vực
kinh tế tư nhân, tạo cơ chế hỗ trợ về tài chính, tiếp cận thị trường , nghiên cứu
khoa học dành cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ, coi doanh nghiệp vừa và
nhỏ là những nhân tố quan trọng trong sự phát triển năng động của các nền
kinh tế.
2.2 Lĩnh vực hợp tác
Hiện nay hợp tác kinh tế ASEM đặt ra mục tiêu hàng đầu là tăng cường
thương mại và đầu tư giữa hai khu vực. Một số chương trình cụ thể đã được
thông qua nhằm thúc đẩy giao lưu và hợp tác giữa các doanh nghiệp.
Thuận lợi hoá thương mại:
Khuôn khổ chung cho TFAP đã được nguyên thủ các nước thông qua
tại ASEMII. Đây là chương trình trụ cột của hợp tác kinh tế ASEM. Mục tiêu
chính của TFAP là tạo thuận lợi cho việc trao đổi thương mại hàng hoá, dịch
vụ giữa hai khu vực. Để thực hiện mục tiêu này, TFAP được xây dựng như
một khuôn khổ chung để các nước thực hiện minh bạch hoá chính sách quản
lý thương mại và hài hoà, đơn giản háo các thủ tục hành chính liên quan đến
thương mại.Ngoài 7 lĩnh vực ưu tiên hành động: tiêu chuẩn và đánh giá sự
phù hợp, kiểm dịch động thực vật, thủ tục hải quan, quyền sở hữu trí tuệ, mua
sắm chính phủ, phân phối lưu thông và đi lại của doanh nhân. TFAP hiện nay
đang tập trung xác định các rào cản trong thương mại giữa các nước thành
viên ASEM để từ đó có cơ chế đối thoại/ hành động nhằm giải toả dần những
rào cản này.
Nguyên tắc của TFAP là không phân biệt đối xử, các kết quả của TFAP
sẽ được áp dụng đối với các nước thành viên và cả những nước không phải là
thành viên (tuy nhiên trên thực tế hầu như các nước không phải là thành viên
không tiếp cận được với những thành quả của tiến trình ASEM). Đồng thời,
hoạt động của TFAP phải phù hợp, hỗ trợ và thúc đẩy những hoạt động thuận
lợi hoá song phương và đa phương khác đã và đang được tiến hành, trong đó
14



ưu tiên tập trung vào các những lĩnh vực chưa được giải quyết thoả đáng
trong các diễn đàn trên theo một cách tiếp cận riêng, hiệu quả nhất. TFAP đặc
biệt khuyến khích sự tham gia của giới doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, coi đây là động lực chính của chương trình này.
Cho đến nay, ASEM đã tổ chức được ba cuộc hội thảo về tiêu chuẩn và
đánh giá sự phù hợp. Các hội thảo đã tập trung thảo luận bốn chủ đề chính là:
các quy chế xây dựng văn bản pháp quy tốt, phù hợp với các tiêu chuẩn quốc
tế, các Hiệp định về thỏa thuận thừa nhận lẫn nhau (MRA) và hợp tác kỹ
thuật. Hội nghị nhấn mạnh sự cần thiết phải đạt được sự hiểu biết sâu sắc hơn
về các hệ thống tiêu chuẩn và đánh giá sự phù hợp của mỗi thành viên. Sau
hai Hội nghị này, các thành viên đã thống nhất chọn 5 lĩnh vực ưu tiên ban
đầu để thực hiện hài hòa hoá với các yêu cầu về tương thích điện tử, máy móc
thiết bị, thiết bị viễn thông, bao gồm cả các yêu cầu về tương thích điện từ,
sản phẩm cao su, thiết bị y tế.
Chương trình hành động xúc tiến đầu tư (IPAP)
Mục tiêu của IPAP là xây dựng môi trường đầu tư thuận lợi để gia tăng
dòng vốn đầu tư hai chiều giữa châu Á và châu Âu, xây dựng các chương trình
nhằm khuyếch trương đầu tư giữa các nước thành viên đồng thời tăng cường
cải thiện cơ chế, chính sách và quy định về đầu tư trong khu vực. IPAP cũng
nhằm kết nối các khu vực kinh tế tư nhân chặt chẽ hơn và giữa khu vực kinh tế
tư nhân với chính phủ các nước ASEM nhằm đem lại lợi ích cho hai bên.
IPAP sẽ được thực hiện trên nguyên tắc đảm bảo đối thoại thường
xuyên giữa khu vực nhà nước và tư nhân, phát triển hợp tác ở tất cả các lĩnh
vực có liên quan đến đầu tư theo hướng kinh tế thị trường, không phân biệt
đối xử và thực hiện minh bạch hoá các chính sách thương mại và đầu tư theo
đúng các nguyên tắc của WTO.
IPAP gồm 2 nội dung chính là: Xúc tiến đầu tư, Các chính sách và quy
định về đầu tư. Hoạt động chính trong phần này là tổ chức của cuộc đối thoại
cấp cao để bàn về các vấn đề then chốt liên quan đến khuôn khổ pháp lý và

15


các chính sách điều chỉnh môi trường đầu tư.
Những hoạt động cụ thể triển khai trong IPAP có tính đến sự khác biệt
về quy chế đầu tư giữa các nước thành viên, trong đó việc đầu tư vào các dự
án phát triển cơ sở hạ tầng sẽ là vấn đề được ưu tiên. Cho đến nay, các kết
quả đã đạt được trong việc thực hiện IPAP là: Phát động Hệ thống trao đổi
thông tin trên mạng Internet (VIE) để trao đổi thông tin và tăng cường tính
minh bạch của các quy định về đầu tư. Danh mục các biện pháp hiệu quả
nhất để thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài.
Từ ngày thành lập đến nay, ASEM đã tổ chức bốn kỳ Diễn đàn doanh
nghiệp và một Hội nghị doanh nghiệp. Diễn đàn doanh nghiệp đã và đang tập
trung vào các lĩnh vực bức xúc đối với cả hai khu vực, hỗ trợ doanh nghiệp
vửa và nhỏ, du lịch, xúc tiến thương mại, đầu tư, phát triển cơ sở hạ tầng,
năng lượng, dịch vụ tài chính, giao thông-vận tải, bưu chính -viễn thông và
nguồn nước tiêu dùng. Hiện nay, các đại diện doanh nghiệp đã thảo luận,
thống kê các vấn đề trở ngại trong việc kinh doanh và đầu tư vào các lĩnh vực
trên và đưa ra các khuyến nghị cụ thể đệ trình chính phủ các nước.
Diễn đàn doanh nghiệp là hoạt động rất thiết thực trong ASEM, không
những góp phần làm giải toả những rào cản thương mại và đầu tư trong lĩnh
vực mà còn tạo điều kiện để các doanh nghiệp Á-Âu gặp gỡ, xúc tiến cơ hội
kinh doanh và đầu tư đối với các nước đang phát triển hoặc các nước mới
tham gia hội nhập kinh tế quốc tế như Việt Nam, Diễn đàn doanh nghiệp còn
có ý nghĩa giúp các doanh nghiệp nắm bắt tốt hơn các thông tin thị trường và
xu hướng phát triển trong lĩnh vực sản xuất kinh doanh.
Nhiều ý kiến đề xuất xây dựng ASEM thành một khối hợp nhất, trong
đó các tri thức, của cải di sản văn hoá, tư tưởng chính trị, tư tưởng trí tuệ,
công nghệ mới… sẽ được trao đổi một cách chặt chẽ và sâu sắc hơn, Viễn
cảnh ASEM cũng hướng tới mở cửa thị trường ASEM, biến ASEM thành một

khu vực, nơi mà hàng hoá, dịch vụ có thể được luân chuyển tự do vào năm
2005. Nhìn vào viễn cảnh nay, có thể thấy ASEM đang tiến theo những bước
16


đi của EU trước đay, với mức độ hợp tác liên kết ngày càng sâu rộng hơn.
Hiện nay, Viễn cảnh ASEM đang tiếp tục được hoàn thiện, hài hoà các
ý kiến khác nhau của các nước.

17


CHƯƠNG III: VIỆT NAM TRONG TIẾN TRÌNH ASEM
1. Hoàn cảnh tham gia và vị thế của Việt Nam trong tiến trình ASEM
Nhằm xây dựng một thể chế liên kết kinh tế liên lục địa Á-Âu ngày 1-2
tháng 3 năm 1996, Hội nghị cấp cao về Hợp tác Á-Âu (ASEM) lần thứ nhất
diễn ra tại Bangkok-Thái Lan với sự tham gia của 15 nước thuộc Liên minh
châu Âu (EU) cùng 10 nuớc châu Á, trong đó có Việt Nam và 6 nước thành
viên ASEAN khác. Sự ra đời của ASEM phản ánh chiều hướng mới trong
quan hệ quốc tế khi quá trình toàn cầu hoá đang được thúc đẩy mạnh mẽ,
đồng thời mở ra một thời kỳ hợp tác phát triển mới giữa hai lục địa lơn của
thế giới.
Là một trong 25 thành viên sáng lập của ASEM từ năm 1996, Việt Nam
nhận thức rõ được rất rõ tầm quan trọng của Tổ chức này trong việc thúc đẩy
kinh tế liên lục địa. Cùng với việc gia nhập ASEAN và APEC, ASEM cũng
chính là một bước tiến quan trọng trong quá trình hội nhập quốc tế của Việt
Nam. Nó đóng vai trò không nhỏ trong việc đưa Việt Nam tiếp cận với những
đối tác kinh tế, thương mại quan trọng trong nền kinh tế toàn cầu.
Kể từ sau ASEM 3, Việt Nam trở thành Chủ tịch ASEAN đồng thời là
Điều phối viên Châu Á kể từ năm 2000 cùng với Trung Quốc trong ASEM có

vai trò điều hành và bảo vệ lập trường đa dạng của các nước Châu Á trong
Hội nghị ASEM. Với tư cách là Điều phối viên châu Á, Việt Nam đóng vai trò
quan trọng trong việc:
- Góp phần thúc đẩy hợp tác đi theo hướng triển khai đồng đều, thiết
thực, có hiệu quả, đi vào thực chất trên cả ba lĩnh vực hợp tác, phản ánh được
yêu cầu và quan tâm của tất cả các thành viên.
- Tích cực xúc tiến việc chuẩn bị cho Hội nghị cấp cao ASEM 5. Bên
cạnh trao đổi chính thức tại các phiên họp, Việt Nam đã tiến hành nhiều cuộc
họp riêng với các đoàn, đặc biệt là các điều phối viên để tăng cường phối hợp
chuẩn bị cho Hội nghị cấp cao.
18


- Để tiếp tục góp phần thúc đẩy một cách thiết thực hợp tác ASEM, Việt
Nam tích cực ủng hộ việc thông qua và đồng ý với đề nghị của Trung Quốc về
đồng sáng kiến, tổ chức Hội thảo ASEM về xử lý dịch bệnh bùng phát trong
cộng đồng.
Năm 2004 Việt Nam là nước chủ nhà của Hội nghị thượng đỉnh ASEM
5 tại Hà Nội. Chủ đề tại Hội nghị thượng đỉnh lần này sẽ là những tranh luận
xung quanh vấn đề về chính sách kinh tế và toàn cầu hoá. Việt Nam cùng với
các nước thành viên khác luôn tìm kiếm những cơ hội và giải pháp nhằm khắc
phục những ảnh hưởng tiêu cực của quá trình toàn cầu hoá. Ngoài ra trong
Hội nghị thượng đỉnh lần này, dự kiến các vấn đề về phát triển nguồn nhân
lực, xoá đói giảm nghèo, tăng cơ hội việc làm, vấn đề an ninh quốc tế và
chống nạn khủng bố, môi trường cũng như việc thu hẹp khoảng cách kỹ thuật
số cũng sẽ được thảo luận.
Là một trong những nước sáng lập ASEM, Việt Nam tham gia đẩy đủ
vào 3 chương trình mang tính thử nghiệm của ASEM là IPAP, TFAP và Hợp
tác các doanh nghiệp Á-Âu.
- Về hợp tác kinh tế : Việt Nam nhấn mạnh các hoạt động của ASEM

trong thời gian tới cần dành ưu tiên cao cho hợp tác kinh tế, giải quyết tác
động của toàn cầu hoá, trong đó ưu tiên thu hẹp khoảng cách về phát triển,
chênh lệch về kỹ thuật số, phát triển nguồn nhân lực, xoá đói giảm nghèo…
- Trong lĩnh vực tài chính : Việt Nam tranh thủ được Quỹ tín thác
ASEM tài trợ kỹ thuật cho 7 dự án trị giá hơn 5 triệu USD về “Cải cách và
phát triển hệ thống ngân hàng”, “Chương trình phát triển mạng lưói bảo đảm
xã hội tạo công ăn việc làm”, “Thúc đẩy cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà
nước trong khu vực giao thông vận tải”, “Cải cách các doanh nghiệp nhà nước
Việt Nam”, “Cơ cấu lại khu vực ngân hàng”, “Thành lập cơ quan xử lý nợ tồn
đọng và tư vấn pháp lý hỗ trợ cải cách ngân hàng ” và “Trợ giúp đánh giá tình
hình hoạt động và khả năng tài chính của 10 Ngân hàng thương mại cổ phần
Việt Nam”.
19


- Về thương mại và đầu tư : Việt Nam cử các đoàn tham dự Hội nghị
Bộ trưởng, Thứ trưởng, các cuộc họp quan chức cao cấp về thương mại và
đầu tư, các Diễn đàn và Hội nghị doanh nghiệp nói chung và các doanh
nghiệp vừa và nhỏ… Nét nổi bật nhất là tại Hội nghị Cấp cao ASEM 3, Việt
Nam đã tuyên bố đồng ý đảm nhận vai trò điều phối viên châu á trong ASEM
từ sau ASEM 3 đến Hội nghị Cấp cao ASEM 4 tại Đan Mạch mùa thu năm
2002 và nhận đăng cai Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEM lần thứ 3 tại Hà
Nội 10-11/9/2001.
Việt Nam cũng có những đóng góp không nhỏ cho sự thành công của
ASEM 4 trong việc thúc đẩy và tăng cường quan hệ hợp tác Á-Âu vì hoầ bình
và phát triển bền vững của hai châu lục. Bằng việc tham gia một cách tích cực
vào ASEM 4 Việt Nam có cơ hội tăng sự hiểu biết về các thành viên ASEM từ
đó có thêm được các mối quan hệ hợp tác trong các lĩnh vực đầu tư, thương
mại, khoa học và công nghệ từ các nước phát triển và các nước NICs.
Ngoài ra, Việt Nam cũng xây dựng phương án tham dự Hội nghị các

quan chức cao cấp lần thứ 7, Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế lần 3 và tổ chức
đoàn doanh nghiệp tham dự diễn đàn Á-Âu lần thứ 6.
2. Những cơ hội và thách thức của Việt Nam trong tiến trình
ASEM
Trong quá trình tham gia ASEM những năm vừa qua, Việt Nam cũng
đã đạt được những thành tựu nhất định tạo ra những cơ hội mang tính triển
vọng. Chẳng hạn như Việt Nam đã tranh thủ được Quỹ tín thác Á-Âu triển
khai 5 dự án tại Việt Nam; tham gia tất cả các Hội nghị quan trọng của
ASEM, đóng góp nhiều ý kiến xây dựng vào các văn kiện của ASEM, cử
người tham gia Hội đồng Thống đốc Quỹ Á-Âu (ASEF) cũng như tham gia
tích cực các hoạt động khác của Tổ chức này…
Thông qua những hoạt động tích cực này, nhìn chung Việt Nam trong
ASEM đã và đang đạt được những cơ hội mới như:
- Đạt được sự ủng hộ của các nước trong EU đối với việc gia nhập
20


WTO của Việt Nam đồng thời tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau hơn nữa giữa
các nước ASEAN, từ đó xây dựng và thắt chặt mối quan hệ Á-Âu.
- Việt Nam trở thành một trong mục tiêu trọng điểm trong chính sách
kinh tế đối ngoại của các nước như Thuỵ Điển, Anh, Pháp, Đức.
- Việt Nam học hỏi và đạt được những kinh nghiệm trong quá trình đảm
nhận vai trò là Chủ tịch Ban thường trực ASEAN và Điều phối viên châu Á
của ASEM.
Đồng thời qua ASEM4, Việt Nam được khẳng định có vị thế mới đối
với thế giới. Đặc biệt, trong các cuộc hội đàm và tiếp xúc song phương giữa
Việt Nam với EU và giữa Việt nam với các nước, các nước không những ủng
hộ Việt Nam gia nhập WTO mà còn coi Việt Nam là đối tác viện trợ ODA và
đẩy mạnh hợp tác huớng vào kinh tế trên cơ sở hai bên cùng có lợi. EU đã
quyết định tiếp tục cho hàng dệt may của Việt Nam nhập khẩu vào EU và kể

từ ngày 20/9/2002 không kiểm tra mặt hàng thuỷ sản của Việt Nam nhập khẩu
vào EU.
Những thách thức:
Về mặt kinh tế nói chung hay môi trường và thương mại nói riêng, Việt
Nam gặp phải một số thách thức do các quy định của các khu vực thị trường
tạo ra các rào cản đối với doanh nghiệp Việt Nam. Khó khăn đối vói doanh
nghiệp Việt Nam có thể liệt kê một số vấn đề như:
- Hệ thống các quy định đối với tiêu chuẩn môi trường và thương mại
Việt Nam còn thiếu cập nhật không đồng bộ. Có rất nhiều các tiêu chuẩn quốc
tế xây dựng vượt quá khả năng của doanh nghiệp.
- Các doanh nghiệp Việt Nam chưa đầu tư thích đáng đối vói hoạt động
nghiên cứu thị trường, nghiên cứu các quy định, các rào cản kỹ thuật đối với
sản phẩm.
- Trình độ công nghệ của các doanh nghiệp còn lạc hậu có ảnh hưởng
rất lớn đến chất lượng và việc kiểm soát sản phẩm. Điều đó gây khó khăn rất
lớn trong việc đảm bảo các điều kiện tiêu chuẩn về vệ sinh môi trường tài thị
21


trường nhập khẩu, đặc biệt là các khu vục phát triển.
- Hệ thống nguồn nhân lực của Việt Nam còn rẻ nhưng còn thiếu
bất cập, thíếu công nhân kỹ thuật có tay nghề cao, ý thức kỷ luật kém
3. Các giải pháp thúc đẩy Việt Nam trong tiến trình ASEM
Hội nhập kinh tế quốc tế là một trong những xu thế phát triển chủ yếu
của quan hệ kinh tế quốc tế hiện đại. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
đã và đang thúc đẩy mạnh mẽ quá trình chuyên môn hoá và hợp tác hoá giữa
các quốc gia, làm cho lực lượng sản xuất được quốc tế hoá cao độ. Những tiến
bộ của khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin đã đưa các quốc
gia gắn kết lại gần nhau, dẫn tới sự hình thành những mạng lưới toàn cầu.
Tiến trình ASEM là đại diện cho xu thế khu vực hoá, chuẩn bị cho toàn cầu

hoá cao độ. Có thể thấy, ASEM là một diễn đàn đàm phán trực tiếp trên các
lĩnh vực về kinh tế, chính trị, xã hội là nền tảng pháp lý cho quan hệ kinh tế
quốc tế của nhiều nước thành viên. Đây là một tiến trình được phát triển dựa
trên cơ sở vừa hợp tác vừa cạnh tranh. Do đó, thành viên ASEM nào biết đề ra
các biện pháp tận dụng những cơ hội và biết vượt qua những khó khăn thử
thách thì quốc gia đó có thể đứng vững trên trường quốc tế, khẳng định vị trí
của quốc gia đó và tạo nên sức mạnh cho quốc gia đó phát triển. Việt Nam là
một thành viên của ASEM cũng không nằm trong ngoại lệ. Để thúc đẩy tiến
trình ASEM, những giải pháp cần thiết cho Việt Nam có thể thấy đó là:
3.1 Về nhận thức, tư tưởng
Để thúc đẩy tiến trình ASEM đối với Việt Nam trong thời gian tới,
trước hết cần quán triệt những quan điểm, nguyên tắc chủ yếu được nêu trong
các Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, VIII, IX. Tại Đại hội
Đảng lần thứ VII, Việt Nam chủ trương đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ
kinh tế đối ngoại, đánh dấu bước khởi đầu cho quan hệ kinh tế quốc tế. Tiếp
đó, Nghị quyết Đại hội Đảng VIII đã quyết định “Nhiệm vụ đối ngoại quan
trọng trong thời gian tới là củng cố môi trường hoà bình và tạo điều kiện
quốc tế thuận lợi hơn nữa để đẩy nhanh quá trình hội nhập khu vực và quốc
22


tế” và Nghị quyết số 07- NQ/TW, ngày 27-11-2001 của Bộ chính trị Ban
Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX “Về hội nhập kinh tế quốc tế”. Cụ thể
là, quán triệt chủ trương được xác định tại Đại hội IX là : “Chủ động hội
nhập kinh tế quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng
cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng xã hội
chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá
dân tộc, bảo vệ môi trường”. Cụ thể hơn, thúc đẩy tiến trình ASEM là để đáp
ứng mục tiêu chung của bản thân Việt Nam trong quá trình phát triển, nhằm
lấy nội lực kết hợp với ngoại lực, đẩy mạnh sự nghiệp CHN-HĐH theo định

hướng XHCN, bảo đảm hiệu quả kinh tế-xã hội và tăng trưởng bền vững của
nền kinh tế quốc dân, hạn chế tối đa ảnh hưởng tiêu cực của những chao đảo,
biến động từ bên ngoài.
Tuy nhiên, thúc đẩy tiến trình ASEM phải dựa trên nguyên tắc giữ vững
độc lập tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là yêu cầu chính trị cao
nhất đối với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế nói chung và thúc đẩy tiến
trình ASEM nói riêng. Tham gia hợp tác Á-Âu phải tuân thủ các nguyên tắc
chung là bảo vệ độc lập, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ, bình đẳng cùng có
lợi, bảo vệ và phát triển sản xuất, giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn và phát
huy truyền thống, bản sắc của dân tộc.
Bên cạnh đó, cần quán triệt rằng ASEM là quá trình vừa hợp tác, vừa
cạnh tranh, vừa có nhiều cơ hội, vừa không ít thách thức, do đó cần tỉnh táo,
khôn khéo và linh hoạt trong việc xử lý tính hai mặt tuỳ theo đối tượng, vấn
đề, trường hợp, thời điểm cụ thể; phải đề phòng tư tưởng ỉ lại, thụ động vừa
phải chống tư tưởng giản đơn, nôn nóng. Hơn nữa, phải biết tận dụng những
cơ hội do tiến trình ASEM đem lại cũng như phải biết sàng lọc những mặt
hạn chế và vượt qua những thách thức trong tiến trình ASEM.
Thúc đẩy tiến trình ASEM không chỉ là công việc riêng của chính phủ
mà cần có sự nhận thức đúng đắn và tham gia đầy đủ của nhiều tầng lớp
trong xã hội chẳng hạn như các doanh nghiệp, sinh viên…Chính vì vâỵ, công
23


tác quảng cáo, tuyên truyền những tri thức liên quan đến tiến trình ASEM là
rất cần thiết.
Thúc đẩy tiến trình ASEM là một phần của hội nhập quốc tế, là một bộ
phận hữu cơ của đường lối đổi mới do Đảng đề ra và để thực hiện các nhiệm
vụ kinh tế, xã hội ngắn, trung và dài hạn của Đảng và Nhà nước. Do vậy, thúc
đẩy tiến trình ASEM phải phù hợp với chủ trương “Việt Nam muốn làm bạn
với tất cả các nước” và “phát triển kinh tế đối ngoại theo hướng xây dựng hệ

thống kinh tế mở”, hình thành thị trường đồng bộ, thông suốt trong cả nước,
gắn với kinh tế và thị trường thế giới.
Cần kết hợp với nhận thức đẩy đủ các đặc điểm của nền kinh tế Việt
Nam, để từ đó đề ra kế hoạch, lộ trình hợp lý, vừa phù hợp với trình độ của
đất nước, vừa đáp ứng các qui định chung của ASEM đặt ra cho các nước
thành viên, từ đó Việt Nam đang tham gia và tranh thủ những ưu đãi do
ASEM mang lại.
3.2 Về xây dựng tiến trình ASEM
Xây dựng tiến trình ASEM là một trong những trọng tâm của chiến
lược hội nhập. Để thích ứng với yêu cầu của hội nhập, đáp ứng các cam kết
của nước ta về mở cửa thương mại, đầu tư, dịch vụ, về thuế và phi thuế, việc
xây dựng tiến trình cần dựa vững chắc trên các nguyên tắc và nguyên lý căn
bản sau:
- Giữ vững nguyên tắc độc lập và chủ quyền quốc gia, bảo đảm định
hướng xã hội chủ nghĩa của sự phát triển trên cơ sở đặt lợi ích quốc gia lên
trên hết, kiên trì, bền bỉ điều chỉnh lại hệ thống cơ chế chính sách cho phù
hợp với những quy tắc và chuẩn mực của ASEM. Coi việc điều chỉnh cơ chế
chính sách trong tiến trình ASEM là tạo ra động lực bên trong để thúc đẩy
việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đổi mới cơ chế quản lý, bảo đảm hiệu quả
kinh doanh của các doanh nghiệp và của toàn bộ nền kinh tế.
- Tiến trình ASEM được xây dựng theo hướng bậc thang và hợp lý,
được xác định trên cơ sở các cam kết, quy định của ASEM đề ra với các nước
24


×