Tải bản đầy đủ (.docx) (32 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, sự vận dụng của đảng cộng sản việt nam trong cách mạng nước ta

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (157.37 KB, 32 trang )

MỤC LỤC


QUY ĐỊNH TỪ VIẾT TẮT
CNXH

Chủ nghĩa xã hội

XHCN

Xã hội chủ nghĩa

CNCS

Chủ nghĩa cộng sản

CNĐQ

Chủ nghĩa đế quốc

CMXHCN

Cách mạng xã hội chủ nghĩa

CNTB

Chủ nghĩa tư bản

GCCN

Giai cấp công nhân



GCTS

Giai cấp tư sản

GCVS

Giai cấp vô sản

TLTT

Tầng lớp trí thức


MỞ ĐẦU
1. Lý do nghiên cứu đề tài:
Con thuyền lịch sử của dân tộc Việt Nam đã trải qua trùng dương của
sự khó khăn gian khổ, phải đối mặt với đàn cá dữ thực dân và cơn đại hồng
thủy đế quốc để có thể tiến tới bến bờ của sự độc lập và xây dựng thành công
lâu dài xã hội chủ nghĩa. Hệ tư tưởng có vai trò “kim chỉ nam” trong việc
vạch định đường lối giải phóng dân tộc đó là Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Tư tưởng Hồ Chí Minh không chỉ là sự vận dụng mà còn là sự phát
triển một cách sáng tạo học thuyết Mác - Lênin. Luận điểm về mối quan hệ
giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là một trong những sáng tạo đó. Hồ
Chí Minh đã kế thừa và tiếp thu có chọn lọc, vận dụng và phát triển lý luận
này một cách sáng tạo, hoàn toàn xa lạ với những gì là giáo điều, kinh viện.
Những vấn đề lý luận và thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã
được Người luận giải trên cơ sở gắn nguyên lý với hành động, lý luận với
thực tiễn, những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin với tinh hoa
văn hóa Việt Nam và phương Đông.

Mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề giai cấp và dân tộc trong tư tưởng
Hồ Chí Minh là mối quan hệ cơ bản có tác động mạnh mẽ đối với công cuộc
giải phóng dân tộc cũng như sự phát triển của toàn xã hội. Vì vậy trong quá
trình nghiên cứu Tư tưởng Hồ Chí Minh nghiên cứu vấn đề giai cấp, dân tộc
và mối quan hệ giữa chúng là điều hết sức cần thiết.
Nhìn lại lịch sử dân tộc ta thế kỉ 20 một thế kỷ vận động và phát triển
phức tạp của tình hình quốc tế, chúng ta ngày càng thấy sự đúng đắn, sáng tạo
của tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giai cấp. Vấn đề đó đã được
kiểm nghiệm bằng thực tế, cả trong chiến tranh ác liệt vẫn trong khó khăn của
hòa bình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực tiễn cách mạng Việt Nam đã chỉ
ra rằng khi nào và ở đâu, vấn đề giai cấp và dân tộc không được kết hợp một
cách đúng đắn; quan điểm giai cấp và dân tộc được vận dụng một cách cứng
3


nhắc, giáo điều thì ở đó cách mạng sẽ không chỉ gặp khó khăn và thậm chí
còn bị tổn thất nặng nề. Qua đó, chúng ta có thể rút ra được bài học trong việc
vận dụng xem xét vấn đề giai cấp, đấu tranh giai cấp và mối quan hệ của
chúng với vấn đề dân tộc trong tình hình hiện nay và trong giai đoạn sắp tới
của thời kỳ quá độ khi mà nền kinh tế nước nhà phát triển mạnh mẽ theo
hướng thị trường và hội nhập quốc tế, sự phát triển chắc chắn sẽ đem lại cho
chúng ta nhiều cơ hội nhưng cũng kéo theo không ít những nguy cơ, thách
thức cũng như muôn vàn khó khăn.
Trước tình hình trên đó, một nhiệm vụ cấp bách được đặt ra cho công
tác tư tưởng, lý luận trong thời kỳ mới là phải kế thừa, bảo vệ và phát triển
những nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trong
đó tư tưởng về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, để vận
dụng vào thực tiễn Việt Nam.
Là sinh viên chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học, nhận thấy tầm
quan trọng của nhiệm vụ đó, tôi chọn vấn đề: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối

quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, sự vận dụng của Đảng Cộng
sản Việt Nam trong cách mạng nước ta” làm đề tài tiểu luận kết thúc học
phần: “Tác phẩm Hồ Chí Minh về Chủ nghĩa xã hội khoa học”.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài:
Về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là đề tài thu hút
được sự quan tâm của nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài nước. Nghiên cứu
vấn đề này không chỉ bảo vệ và phát triển lý luận Mác-Lênin liên minh giai
cấp, tư tưởng Hồ Chí Minh, mà còn tạo cơ sở lý luận cho công cuộc xây dựng
thành công CNXH ở tất cả các nước trong thời đại ngày nay. Trong đó có thể
kể đến một số công trình tiêu biểu sau:
Những công trình nghiên cứu, những bài báo về về vấn đề dân tộc và
giai cấp bao gồm cả lý luận và thực tiễn ở nước ta rất phong phú, nhưng do
xuất phát từ nhiệm vụ đáp ứng thực tiễn nên các tác giả thường tập trung
nhiều vào các mảng đề tài lớn có tính chất tổng hợp, ít có những công trình
4


chuyên sâu, đặc biệt là về tư tưởng Hồ Chí Minh về liên minh GCCN với
GCND và TLTT. Trong tiểu luận, tôi sẽ tập trung đi sâu làm rõ vấn đề này qua
một số tác phẩm của Hồ Chí Minh
3. Phạm vi và giới hạn nghiên cứu:
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng nghiên cứu của đề tài này chính là: Tư tưởng Hồ Chí Minh
về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp.
3.2. Khách thể nghiên cứu:
Mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là một trong những
vấn đề lý luận quan trọng được Hồ Chí Minh tập trung thể hiện trong nhiều
tác phẩm của mình, nhưng sự hạn chế về khả năng nhưng có sự cố gắng của
bản thân, tôi cố gắng khái quát, trình bày và làm rõ tư tưởng của Hồ Chí Minh
thông qua các tác phẩm đã được nghiên cứu trong quá trình học tập chuyên

ngành có liên quan đến chủ đề nghiên cứu.
4. Mục tiêu, nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu nghiên cứu của tiểu luận là làm rõ tư tưởng của Hồ Chí Minh
mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Từ đó thấy được ý nghĩa
lý luận và thực tiễn tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và vấn đề giai
cấp trong quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam cũng như ở các nước khác
trên thế giới.
4.2. Nhiệm vụ nghiên cứu:
Để đạt được mục tiêu ấy, tác giả tiểu luận xác định cần hoàn thiện
những nhiệm vụ nghiên cứu chủ yếu dưới đây:
- Tìm hiểu những quan điểm cơ bản của học thuyết Mác - Lênin về
quan điểm giai cấp, dân tộc
- Làm rõ tư tưởng của Hồ Chí Minh về mối quan hệ giữa vấn đề giai
cấp và vấn đề dân tộc.

5


- Liên hệ sự vận dụng những quan điểm của Hồ Chí Minh của Đảng
cộng sản Việt Nam trong quá trình xây dựng CNXH ở Việt Nam.
5. Đóng góp mới của tiểu luận
Là một sinh viên chuyên ngành CNXHKH, Khoa CNXHKH, Học viện
Báo chí và Tuyên truyền, tiểu luận giúp tôi hiểu rõ hơn nữa những tư tưởng,
quan điểm của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Từ đó,
thấy được tầm quan trọng của việc nghiên cứu vấn đề này đối với con đường
tiến lên CNXH ở nước ta hiện nay.
6. Phương pháp nghiên cứu
Môn học sử dụng phương pháp luận chung nhất là chủ nghĩa duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử của triết học Mác-Lênin. Chỉ có dựa trên

phương pháp luận khoa học đó mới có thể luận giải đúng đắn những luận
điểm về chủ nghĩa xã hội khoa học trong các tác phẩm của Hồ Chí Minh. Vận
dụng phương pháp chủ đạo là phân tích và so sánh để qua đó làm rõ nội dung
tư tưởng Hồ Chí Minh về liên minh công nông trí. Đồng thời kết hợp một số
phương pháp cụ thể logic - lịch sử và diễn dịch, quy nạp.
7. Kết cấu tiểu luận
Ngoài phần mở đầu và danh mục tài liệu tham khảo, kết cấu tiểu luận
gồm 3 chương và 9 tiết.

6


CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN VỀ VẤN ĐỀ GIAI
CẤP VÀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC
1.
1.1.

Quan niệm của chủ nghĩa Mac – Lênin về vấn đề giai cấp
Khái niệm về giai cấp
Trong tác phẩm Phát kiến vĩ đại V.I.Lênin đã định nghĩa người ta gọi
giai cấp, những tập đoàn to lớn của những người khác nhau về địa vị của họ
trong một hệ thống sản xuất xã hội nhất định trong lịch sử, sự khác nhau về
quan hệ của họ đối với tư liệu sản xuất về vai trò của họ trong tổ chức lao
động xã hội, là khác nhau về cách hưởng thụ về phần của cải ít nhiều mà họ
được hưởng. Giai cấp là những tập đoàn người mà tập đoàn này có thể chiếm
đoạt lao động của tập đoàn khác, so chỗ các tập đoàn có địa vị khác nhau
trong một chế độ kinh tế xã hội nhất định.

1.2.


Đặc trưng của giai cấp
Mỗi giai cấp có những đặc trưng riêng, giải cấp không phải là sản phẩm
của sản xuất nói chung và là sản phẩm của hệ thống sản xuất xã hội nhất định
trong lịch sử. Đặc trưng cơ bản của giai cấp là khác nhau về việc nắm giữ tư
liệu sản xuất trong cùng xã hội, khác nhau về phân phối sản phẩm, khác nhau
về địa vị trong nền sản xuất. Như vậy giai cấp không phải là phạm trù xã hội
thông thường mà là phạm trù kinh tế - xã hội có tính chất lịch sử.
Giai cấp được hình thành từ 2 nguồn gốc. Nguồn gốc trực tiếp của sự
hình thành giai cấp là sự ra đời của chế độ chiếm hữu tư nhân về tư liệu sản
xuất. Về sau ra đó là sự phát triển của lực lượng xã hội ở trình độ nhất định.
Trong xã hội có giai cấp tất yếu nảy sinh đấu tranh giai cấp.V.I.Lenin
định nghĩa đấu tranh giai cấp là cuộc đấu tranh của quần chúng bị tước đoạt
hết quyền, bị áp bức và lao động chống bọn có đặc quyền, đặc lợi, bọn áp bức
và bọn ăn bám, cuộc đấu tranh của những người công nhân làm thuê hay
những người vô sản chống lại những người hữu sản hay giai cấp tư sản. Trong
xã hội có giai cấp, giai cấp thống trị chiếm đoạt lao động của các giai cấp và

7


tầng lớp bị trị không chỉ về lợi ích kinh tế mà còn về chính trị, tinh thần. Lễ
của giai cấp bị trị hoàn toàn đối lập với lợi ích của giai cấp thống trị. Áp bức
thì tất có đấu tranh và chống áp bức. Vì vậy đấu tranh giai cấp không ra một
lý thuyết xã hội nào tạo ra mà là động lực phát triển và là hiện tượng tất yếu
không thể thiếu được trong xã hội có áp bức.
2.

Quan niệm chủ nghĩa Mác – Lênin về vấn đề dân tộc
Khái niệm dân tộc được dùng để chỉ một cộng đồng người ổn định làm
thành nhân dân một nước có lãnh thổ quốc gia, nền kinh tế thống nhất quốc

ngữ chung có ý thức về sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi những
quyền lợi về chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa truyền thống đấu tranh
trong suốt quá trình dựng nước và bảo vệ đất nước.
Dân tộc có tính thống nhất cao thể hiện được sự cộng đồng về lãnh thổ,
về kinh tế, về ngôn ngữ về văn hóa. Dân tộc có tính ổn định, bền vững, đảm
bảo bởi nguyên tắc pháp lý cao tôn trọng quyền tự quyết của mỗi dân tộc.
Dân tộc là một vấn đề rất rộng lớn và Các mác và Ăngghen đã không đi
sâu giải quyết vì thời đó ở tây âu vấn đề dân tộc được giải quyết trong Cách
mạng tư sản. Trong giai đoạn đế quốc chủ nghĩa, cách mạng giải phóng dân
tộc trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản thế giới, Lênin có cơ sở thực
tiễn để phát triển về vấn đề dân tộc thuộc địa thành một hệ thống lý luận. Vì
cả Các mác và Ăngghen và Lênin đã nêu lên những quan điểm cơ bản về mối
quan hệ biện chứng giữa vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc, nhưng từ thực tiễn
cách mạng vô sản ở Châu Âu các ông tập trung nhiều hơn và vấn đề giai cấp.
Điều kiện những năm đầu thế kỷ XX trở đi, đặt ra yêu cầu vận dụng và phát
triển sáng tạo lý luận Mác Lênin cho phù hợp với thực tiễn ở các thuộc địa.
Chính Hồ Chí Minh là người đã đáp ứng được yêu cầu đó.

3.

Quan niệm của chủ nghĩa C.Mac – Ph.Lênin về mối quan hệ giữa vấn đề
giai cấp và vấn đề dân tộc
Theo Mác-Lênin, mỗi thời đại sản sinh ra một giai cấp nhất định và giai
cấp ấy luôn là lực lượng đóng vai trò to lớn đối với mọi vấn đề của dân tộc.
8


Nếu giai cấp ấy là lực lượng tiên tiến, tiến bộ thì sẽ thúc đẩy sự phát triển của
xã hội và ngược lại. Cũng theo Mác-Lênin, chỉ có giai cấp vô sản mới thống
nhất được lợi ích của mình với lợi ích của nhân dân và của cả dân tộc, mới

thực hiện được sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp và giải
phóng nhân loại.
Tuy nhiên, theo C.Mác, Ph.Ăngghen và Lênin thì so với vấn đề giai cấp
vô sản thì vấn đề dân tộc chỉ là thứ yếu và tương lai của cách mạng giải phóng
dân tộc ở thuộc địa chủ được nhìn nhận trong sự phụ thuộc vào thắng lợi của
cách mạng vô sản ở chính quốc. Xuất phát từ yêu cầu và mục tiêu của cách
mạng vô sản ở châu Âu, C.Mác và Ph.Ăngghen và V.I.Lênin đều tập trung
nhiều hơn vào vấn đề giai cấp. Trong Tuyên ngôn của Đảng cộng sản, C.Mac
– Ph.Angghen đề cập đến vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp như sau:
Cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản ở giai đoạn đầu mang tính chất dân
tộc, vì phong trào vô sản là phong trào độc lập của khối đại đa số, mưu lợi ích
cho khối đại đa số. Vì vậy, cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chống lại giai
cấp tư sản, không phải là cuộc đấu tranh dân tộc, nhưng lúc đầu mang hình
thức dân tộc. Như vậy, Mác, Ăngghen đã thấy được mối quan hệ gắn bó giữa
vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Hai ông không xem nhẹ vấn đề dân tộc.
Tuy nhiên, hai ông không đi sâu giải quyết vấn đề dân tộc vì: Tại các nước
này, mâu thuẫn cơ bản của xã hội là mâu thuẫn giữa hai giai cấp đối kháng: tư
sản và vô sản. Về cơ bản, ở châu Âu, vấn đề dân tộc đã được giải quyết trong
cách mạng tư sản.Vào thời của Mác, hệ thống thuộc địa đã có, nhưng các
cuộc đấu tranh giành độc lập chưa phát triển mạnh.
Do vậy, trong sự nghiệp giải phóng hai ông nhấn mạnh đến giải phóng
giai cấp công nhân. Mác, Ăngghen viết: "Hãy xóa bỏ tình trạng người bóc lột
người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác sẽ được xóa bỏ" và: "Khi
mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn nữa thì sự
thù địch giữa các dân tộc cũng đồng thời mất theo". Như vậy theo C.Mác,
Ph.Ăngghen, để giải quyết sự đối kháng dân tộc, trước hết phải giải quyết sự
9


đối kháng giai cấp, giải phóng giai cấp là nhiệm vụ trung tâm, là điều kiện để

giải phóng dân tộc. V.I.Lenin từng nhận xét, đối với C.Mac so với vấn đề giai
cấp vô sản thì vấn đề dân tộc chỉ là vấn đề thứ yếu thôi.
Đến thời V.I.Lenin, khi chủ nghĩa đế quốc trở thành hệ thống thế giới,
cách mạng giải phóng dân tộc trở thành một bộ phận của cách mạng vô sản,
ông mới có cơ sở thực tiễn để phát triển vấn đề dân tộc thuộc địa thành một
hệ thống lý luận. Ông cho rằng cuộc đấu tranh của giai cấp vô sản chính quốc
sẽ không giành được thắng lợi, nếu nó không liên minh với cuộc đấu tranh
của các dân tộc bị áp bức. Từ đó Người cùng với Quốc tế cộng sản bổ sung
khẩu hiệu nêu trong Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản: "Vô sản tất cả các nước
và các dân tộc bị áp bức đoàn kết lại."
Sau khi V.I.Lenin mất, Ban lãnh đạo Quốc tế cộng sản một thời gian dài
đã nhấn mạnh vấn đề giai cấp, coi nhẹ vấn đề dân tộc, vì vậy không mấy quan
tâm đến chủ nghĩa yêu nước, tinh thần dân tộc của các nước thuộc địa, thậm
chí còn coi đó là biểu hiện của chủ nghĩa quốc gia hẹp hòi, trái với chủ nghĩa
quốc tế vô sản.
Tóm lại, Mác, Ăngghen, Lenin đã nêu ra những quan điểm cơ bản về
mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp. Tuy nhiên, xuất phát từ
yêu cầu, mục tiêu của cách mạng vô sản châu Âu, các ông vẫn tập trung nhiều
hơn vào vấn đề giai cấp, vẫn "đặt lên hàng đầu và bảo vệ những lợi ích không
phụ thuộc vào dân tộc và chung cho toàn thể giai cấp vô sản".
Tiếp thu chủ nghĩa Mác, Ăngghen trên nền tảng truyền thống yêu nước
và nhân ái của dân tộc Việt Nam, Hồ Chí Minh có quan điểm riêng, độc đáo
về vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc. Người cho rằng: Phải kết hợp và giải
quyết hài hòa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp, song phải đặt lợi ích dân tộc
lên trên hết và trước hết.

10


CHƯƠNG II: TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ VẤN ĐỀ DÂN TỘC

VÀ VẤN ĐỀ GIAI CẤP
1. Khái quát tư tưởng Hồ Chí Minh
Hồ Chí Minh - một vị lãnh tụ vĩ đại của đất nước, một người chả của
dân tộc, một nhân vật mang tầm vóc thế giới. Trước khi đi vào cõi vĩnh hằng,
Người đã để lại cho chúng ta một di sản tinh thần vô giá và trường tồn. Đó là
“tư tưởng Hồ Chí Minh” với hạt nhân là chủ nghĩa Mác-Lênin. Điều này
không chỉ góp phần to lớn vào thắng lợi của dân tộc vào những năm qua, Đại
hội Đảng lần thứ IX (2001) đã nêu: “Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống
quan điểm toàn diện và sâu sắc về những vấn đề cơ bản của Cách Mạng Việt
Nam, là kết quả của sự vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác-Lênin
vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế thừa và phát triển các giá trị tốt đẹp của
truyền thống dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại”.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sản phẩm của sự tổng hòa và phát triển biện
chứng tư tưởng về văn hóa truyền thống của dân tộc, tình hoa tư tưởng văn
hóa của Phương Đông và phương Tây với chủ nghĩa Mác - Lênin làm nền
tảng cùng thực tiễn của dân tộc và thời đại qua sự tiếp biến và phát triển của
Hồ Chí Minh - một con người có tư duy sáng tạo, có phương pháp biện
chứng, có nhân cách, phẩm cách cách mạng cao đẹp tạo nên. Đó là tư tưởng
về giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng con người; về độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, kết hợp với sức mạnh dân tộc với sức
mạnh thời đại; về sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết dân tộc; về
quyền làm chủ của nhân dân, xây dựng nhà nước thực sự của dân, do dân và
vì dân; về quốc phòng toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân; về
phát triển kinh tế và văn hóa, không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân; về đạo đức cách mạng, cần, kiệm, liêm, chính, chí, công,
vô, tư; về chăm lo bồi dưỡng cho thế hệ cách mạng cho đời sau; về xây dựng
cho Đảng trong sạch, vững mạnh, cán bộ, đảng viên vừa là người lãnh đạo,
11



vừa là người đầy tớ thật trung thành của nhân dân,….. “Tư tưởng Hồ Chí
Minh” soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài
sản tinh thần to lớn cáu Đảng và dân tộc ta. Về vấn đề dân tộc và giai cấp,
“Tư tưởng Hồ Chí Minh” không chỉ là sự vận dụng mà còn là sự phát triển
một cách sáng tạo học thuyết Mác-Lênin.
Luận điểm về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là
một trong những sáng tạo đó. Dân tộc là cộng đồng người ổn định làm thành
nhân dân một nước, có ý thức về sự thống nhất của mình, gắn bó với nhau bởi
quyền chính trị, kinh tế, truyền thống văn hóa và truyền thống đấu tranh
chung. Còn, giai cấp là tập đoàn người trong xã hội, có địa vị khác nhau, có
quan hệ sản xuất khác nhau, có quan hệ tư liệu sản xuất khác nhau, có phương
thức hưởng thụ khác nhau về tài sản xã hội. Tóm lại, vấn đê dân tộc và vấn đề
giai cấp có mối liên hệ mật thiết với nhau. Hồ Chí Minh đã nhìn nhận được
mối quan hệ đó một cách đúng đắn dựa trên quan điểm cơ bản của chủ nghĩa
Mác-lênin và đã tìm ra con đường giải phóng cho dân tộc.
2. Quá trình hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc
và vấn đề giai cấp
Xuất phát từ thực tiễn Việt Nam là một nước thuộc địa nửa phong kiến,
mâu thuẫn giữa dân tộc Việt Nam với bọn thực dân đế quốc và tay sai nổi trội
hơn mâu thuẫn giữa người nông dân với địa chủ phong kiến; giữa công nhân
và tư sản mại bản. Do đó, Hồ Chí Minh đã xác định phải giải quyết những vấn
đề dân tộc thì mới giải quyết được những vấn đề giai cấp. Quyền lợi dân tộc –
giai cấp là thống nhất và được thể hiện rõ nét ở Nghị quyết Trung ương VIII
năm 1941 do Nguyễn Ái Quốc chủ trì: “Trong lúc này quyền lợi của bộ phận
giai cấp phải đặt dưới sự tồn vong sinh tử của quốc gia dân tộc. Trong lúc này
nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không duy trì được tự
do độc lập cho toàn dân tộc thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc phải
chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai cấp đến vạn năm cũng
không đòi lại được.”
12



Từ việc nhận thức được rằng, thuộc địa là khâu yếu nhất trong hệ thống
của chủ nghĩa đế quốc, Hồ Chí Minh đã khẳng định: cách mạng giải phóng
dân tộc ở thuộc địa có thể nổ ra và giành thắng lợi trước cả cách mạng vô sản
ở chính quốc, và sau đó sẽ giúp đỡ cho cách mạng vô sản ở chính quốc. Đây
chính là điểm sáng tạo nổi bật nhất của Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc – giai
cấp so với chủ nghĩa Mác-Lênin.
Quá trình hình thành tư tưởng về vấn đề giai cấp và vấn đề dân tộc của
Hồ Chí Minh đã gắn liền với cuộc đời hoạt động cách mạng của người ngay
từ những năm cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. Trước khi học thuyết Mác Lênin được truyền bá vào Việt Nam thì các phong trào yêu nước của người
Việt Nam chống thực dân Pháp liên tục nổ ra, nhưng kết cục đều thất bại.
Nguyên nhân quan trọng nhất khiến cho các phong trào đấu thất bại chính là
dòng bế tắc về đường lối. Mặc dù, các bên lãnh tụ của các phong trào yêu
nước ấy đã dành nhiều tâm huyết cho sự nghiệp của mình nhưng rõ không
nhận thức được xu thế của thời đại nên không thể thấy được giai cấp trung
tâm của thời đại lúc này là giai cấp công nhân, giai cấp đại biểu cho một
phương thức sản xuất mới, một lực lượng tiến bộ xã hội. Do đó, mục tiêu đi
tới của những phong trào ấy không phản ánh đúng xu thế vận động của lịch sử
và thời đại, nên không thể đem lại kết quả triển vọng tốt đẹp cho sự phát triển
của xã hội Việt Nam.
Trước yêu cầu bức xúc của vấn đề giải phóng dân tộc, từ chủ nghĩa yêu
nước người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã quyết định ra đi tìm
đường cứu nước " công lao to lớn đầu tiên của Bác đối với sự nghiệp cách
mạng Việt Nam là đã tìm ra con đường cứu nước hay pháp con đường giải
phóng dân tộc và các dân tộc bị áp bức trên thế giới".
Trong quá trình ra đi tìm đường cứu nước qua khảo sát thực tế ở các
nước trên các châu lục châu Âu, Mỹ, Phi và ngay cả trên đất Pháp, Nguyễn Ái
Quốc đã rút ra nhận xét: Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa thực dân là nguồn gốc
của mọi sự đau khổ của công nhân, nông dân lao động ở cả chính quốc cũng

13


như thuộc địa. Nghiên cứu các cuộc cách mạng dân chủ tư sản Mỹ năm 1776,
Pháp năm 1789 Nguyễn Ái Quốc đã nhận thấy các cuộc cách mạng này tuy
nêu khẩu hiệu "tự do, bình đẳng, bắc ái" nhưng không đưa lại tự do bình đẳng
thực sự cho quần chúng lao động. Tuy không phục các cuộc cách mạng ấy
nhưng Nguyễn Ái Quốc cũng cho rằng đó là cách mạng chưa đến nơi. Vì thế,
Nguyễn Ái Quốc đã tích cực tham gia các hoạt động đấu tranh trong phong
trào giải phóng các dân tộc bị áp bức, phong trào giải phóng giai cấp công
nhân ở các nước tư bản. Chính vì vậy mà, Nguyễn Ái Quốc đã tìm đến đường
Cách mạng tháng 10 Nga, đến với V.I.Lênin như một tất yếu lịch sử. Cách
mạng tháng 10 Nga thắng lợi là một sự kiện chính trị đặc biệt quan trọng
trong quá trình hoạt động tìm đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc. Đặc
biệt, sau khi đọc Sơ thảo lần thứ nhất luận cương về dân tộc và thuộc địa của
Lênin, Nguyễn Ái Quốc đã thấy rõ hơn con đường đúng đắn và cách mạng
Việt Nam sẽ trải qua. Người khẳng định: "Chỉ có Chủ nghĩa xã hội chủ nghĩa
cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp bức và người lao động trên
thế giới khỏi ách nô lệ" [Hồ Chí Minh, toàn tập, Nxb, CTQG, Hà Nội,
2002,T.1, tr.416], rằng: " Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con
đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản" [Hồ Chí Minh, toàn tập,
Nxb, CTQG, Hà Nội, 2002, T.10, tr.9].
Kết luận của Nguyễn Ái Quốc là sự khẳng định đi một hướng mới,
nguyên tắc chiến lược mới mộc tiêu và giải pháp hoàn toàn mới hát với cân
bằng so với các lãnh tụ của phong trào yêu nước trước đó ở Việt Nam, đưa
cách mạng giải phóng dân tộc và qũy đạo của Cách mạng vô sản, tức là sự
nghiệp cách mạng ấy phải do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, lấy hệ tư
tưởng Mác Lênin làm nền tảng. Vì vậy, con đường phát triển tất yếu cuộc
cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành các mạng xã hội chủ
nghĩa. Người chỉ rõ "cách mạng giải phóng dân tộc phải phát triển thành cách

mạng Chủ nghĩa xã hội thì mới giành được thắng lợi hoàn toàn" [Hồ Chí
Minh, toàn tập, Nxb, CTQG, Hà Nội, 2002,tập12, tr.305]
14


Hồ Chí Minh đã có sự kế thừa biện chứng và vận dụng sáng tạo những
quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin về mối quan hệ giữa dân tộc –
giai cấp trong cách mạng giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô
sản. Luận điểm về mối quan hệ giữa vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp là một
trong những sáng tạo lớn của Hồ Chí Minh trong việc vận dụng và phát triển
chủ nghĩa Marx-Lenin. Nó có tác dụng lớn lao đối với việc tập hợp lực lượng
vào sự nghiệp giải phóng dân tộc ở Việt Nam cũng như ở các nước thuộc địa
nói chung.
3. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề
dân tộc và vấn đề giai cấp
3.1. Khái quát về mối quan hệ giữa giai cấp và dân tộc
Giai cấp và dân tộc có mối quan hệ mật thiết với nhau, song đó là phạm
trù chỉ các quan hệ xã hội khác nhau. Giờ đó giai cấp và dân tộc không thể thay
thế được cho nhau. trong dân tộc thì có giai cấp và quan hệ giai cấp có vai trò
quyết định đối với sự hình thành xu hướng phát triển, bản chất Xã hội của dân
tộc tính chất quan hệ giữa các dân tộc với nhau. Phương thức sản xuất sinh ra
giai cấp nên phương thức sản xuất gián tiếp quy định bản chất của dân tộc. Giai
cấp nào lãnh đạo dân tộc thì dân tộc đó mang bản chất của giai cấp đó.
Trong xã hội luôn có hiện tượng dân tộc này áp bức dân tộc khác. Việc
các nước đế quốc đi xâm lược thuộc địa thực chất giai cấp tư sản pháp nước
này đến đàn áp, bóc lột các dân tộc các nước thuộc địa nhằm vơ vét tài
nguyên, bóc lột sức lao động của nhân dân bản địa.Nhân tố giai cấp ảnh
hưởng một cách cơ bản đến dân tộc trong nhân tố dân tộc công tác động sâu
sắc tới giai cấp. Đấu tranh dân tộc da đỏ công tác động tới đấu tranh giai cấp.
3.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa giai cấp

và dân tộc qua các tác phẩm
Tư tưởng của Người về mối quan hệ giữa dân tộc và vấn đề giai cấp thể
hiệm qua những luận điểm: Vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp có quan hệ chặt
chẽ với nhau, giải phóng dân tộc là vấn đề trên hết, trước hết; độc lập dân tộc
15


gắn liền với CNXH, giải phóng dân tộc tạo tiền đề để giải phóng giai cấp, giữ
vững độc lập của dân tộc mình, đồng thời tôn
Với quyết tâm ra đi để tìm con đường cứu nước, cứu dân, sau gần mười
năm qua nhiều châu lục, tìm hiểu chủ nghĩa thực dân, đế quốc cả ở “chính
quốc” và thuộc địa của chúng, tích cực hoạt động trong trào giải phóng dân
tộc, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã đến với chủ nghĩa Mác – Lênin. Người khẳng
định: "Chỉ có chủ nghĩa cộng sản mới cứu nhân loại, đem lại cho mọi người
không phân biệt chủng tộc và nguồn gốc sự tự do, bình đẳng, bác ái, đoàn kết,
ấm no trên quả đất, việc làm cho mọi người và vì mọi người, niềm vui, hòa
bình, hạnh phúc...".[T.1, Tr. 461]
Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chỉ ra cho nhân dân Việt Nam và nhân dân
các nước thuộc địa thấy rằng công cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc không
thể đi theo con đường cách mạng tư sản, vì đó là “cách mệnh không đến nơi,
tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục công nông, ngoài
thì nó áp bức thuộc địa" [T.2, tr.296]. Theo Người, trong thời đại ngày nay,
cách mạng giải phóng dân tộc muốn thắng lợi phải đi theo con đường cách
mạng vô sản, do Đảng của giai cấp công nhân lãnh đạo, cách mạng giải phóng
dân tộc phải phát triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì mới giành được
thắng lợi hoàn toàn. Người chỉ rõ: "nếu nước độc lập mà dân không hưởng
hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì" [T.4, tr.64] . Theo Hồ
Chí Minh: chủ nghĩa xã hội là làm cho dân giàu, nước mạnh, mọi người được
ăn no, mặc ấm, sung sướng, tự do; về bản chất, chủ nghĩa xã hội là một xã
hội do nhân dân lao động làm chủ, một xã hội không có chế độ người bóc lột

người, một xã hội bình đẳng, ai làm nhiều hưởng nhiều, làm ít hưởng ít,
không làm không hưởng. Đó cũng là ước nguyện cháy bỏng của Người: "Tôi
chỉ có một sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn
áo mặc, ai cũng được học hành" [T.4, tr.187].
Người kết luận: “muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con
đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Đó là con đường cách mạng
16


dân chủ tư sản kiểu mới do Đảng tiên phong của giai cấp công nhân lãnh đạo
nhằm đánh đổ đế quốc và phong kiến tay sai, giành độc lập dân tộc, thực hiện
người cày có ruộng, sau đó tiến lên làm cách mạng xã hội chủ nghĩa, thực
hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản ở Việt Nam.
Khi thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam, trong Chính cương vắn tắt do
Người khởi thảo, đã đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc trong triển vọng tiến lên
chủ nghĩa xã hội. Người đã làm sáng tỏ mối quan hệ hữu cơ giữa giải phóng
dân tộc với giải phóng nhân dân lao động, giải phóng con người, đặt nền tảng
cho bước chuyển biến từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân lên cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Người khẳng định: “Chỉ có hoàn thành cách mạng
giải phóng dân tộc mới có điều kiện tiến lên chủ nghĩa xã hội, và chỉ có làm
cách mạng xã hội chủ nghĩa mới giữ vững những thành quả do sự nghiệp giải
phóng dân tộc mang lại.”
Năm 1954, miền Bắc được giải phóng, Người chỉ rõ nhiệm vụ của cách
mạng Việt Nam lúc này "là ra sức xây dựng và củng cố miền Bắc, đưa miền
Bắc tiến dần lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời đấu tranh thực hiện thống nhất
nước nhà, nhằm xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập,
dân chủ và giàu mạnh" [T.11, tr.383]. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
III của Đảng năm 1960, Người khẳng định: "Nhiệm vụ hiện nay của cách
mạng Việt Nam là: đưa miền Bắc tiến lên chủ nghĩa xã hội và đấu tranh thực

hiện hòa bình thống nhất nước nhà, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ
nhân dân trong cả nước" [T.12, tr.673]. Những năm tháng cuối đời, Người vẫn
không quên căn dặn đảng viên: "không được phút nào quên lý tưởng cao cả
của mình là: suốt đời làm cách mạng phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn độc
lập, làm cho chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản thắng lợi hoàn toàn trên
Tổ quốc ta và trên thế giới" [T.15, tr.115] .Tháng 8 năm 1969, trả lời phỏng
vấn của phóng viên báo Nhân đạo, Người khẳng định lại một lần nữa: "chỉ có
chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa cộng sản mới giải phóng được các dân tộc bị áp
bức và giai cấp công nhân toàn thế giới"[T.15, tr.588]
17


Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại một hệ thống quan điểm toàn diện và
sâu sắc về những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, một cuộc cách
mạng vừa phải giành độc lập dân tộc, vừa phải giải phóng nhân dân lao động
khỏi áp bức, bóc lột. Luận điểm trung tâm, xuyên suốt để giải quyết triệt để cả
hai vấn đề ấy, theo Chủ tịch Hồ Chí Minh, là độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, vấn đề dân tộc phải được giải quyết theo lập trường của giai cấp
vô sản. Gần một thế kỷ qua, dưới sự lãnh đạo của Đảng, với đường lối độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân tộc Việt Nam đã giành được những
thắng lợi to lớn, có ý nghĩa lịch sử.
Tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về giải quyết mối quan hệ giữa
vấn đề dân tộc và vấn đề giai cấp trên lập trường vô sản đã bám sát thực tiễn
cách mạng Việt Nam, theo sát sự phát triển của thời đại. Tư tưởng ấy đã góp
phần làm sáng tỏ thêm mối quan hệ không tách rời giữa vấn đề dân tộc và vấn
đề giai cấp. Thật vậy, lịch sử đã cho thấy từ khi dân tộc xuất hiện cho đến nay,
dân tộc luôn gắn liền với giai cấp. Giai cấp đại biểu cho phương thức sản xuất
thống trị luôn nắm quyền thống trị dân tộc. Do đó, không có dân tộc phi giai
cấp và giai cấp thống trị dân tộc bao giờ cũng bảo vệ độc lập, tự chủ và phát
triển dân tộc theo hình ảnh và lợi ích của giai cấp mình. Vì thế, việc giải quyết

vấn đề dân tộc bao giờ cũng phụ thuộc vào lập trường, quan điểm của giai cấp
thống trị dân tộc. Gắn liền với các giai cấp đã nắm quyền thống trị dân tộc là
các cách tương ứng bảo vệ độc lập, tự chủ và phát triển dân tộc, giải quyết
vấn đề dân tộc.
Giai cấp phong kiến, tư sản và vô sản nhận thức và giải quyết vấn đề
dân tộc khác nhau. Nhân loại đã từng biết chủ nghĩa dân tộc truyền thống thể
hiện lòng yêu nước lâu đời của một dân tộc, chủ nghĩa dân tộc tư sản, chủ
nghĩa dân tộc vô sản, chủ nghĩa dân tộc cách mạng, chủ nghĩa dân tộc sô vanh
nước lớn, chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi... Chưa có và chừng nào còn giai cấp sẽ
không có dân tộc phi giai cấp. Ngay từ những năm đầu tiên đến với chủ nghĩa
Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã phân biệt rõ “chủ nghĩa dân tộc bản xứ” - chủ
18


nghĩa dân tộc truyền thống ở các nước thuộc địa, với “chủ nghĩa quốc tế” chủ nghĩa dân tộc theo lập trường của giai cấp vô sản. Người viết: “Chủ nghĩa
dân tộc là động lực lớn của đất nước… Phát động chủ nghĩa dân tộc bản xứ
nhân danh Quốc tế Cộng sản… Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng lợi… nhất
định chủ nghĩa dân tộc ấy sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế”.[ T.1, Tr.466-467]
Người luôn nhắc nhở khi giải quyết vấn đề dân tộc phải đứng vững trên lập
trường vô sản, tích cực đấu tranh chống chủ nghĩa dân tộc tư sản, chủ nghĩa
sô vanh cũng như chống chủ nghĩa giáo điều và chủ nghĩa xét lại.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về giải quyết quan hệ giữa vấn đề dân tộc và
vấn đề giai cấp thể hiện sâu sắc ở quan điểm độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội, đã định hướng chính trị, chỉ đạo nhận thức và hành động của
toàn Đảng, toàn dân ta, đồng thời đã được kiểm nghiệm, khẳng định trong
thực tiễn lịch sử cách mạng Việt Nam.
Trong quá trình hoạt động thực tiễn cách mạng, Nguyễn Ái Quốc đã
đấu tranh và chỉ đạo giải quyết mối quan hệ giữa giải phóng dân tộc và giải
phóng giai cấp, chống các quan điểm không đúng về vấn đề dân tộc và thuộc
địa, đã phát triển lý luận về cách mạng dân tộc. Ngay từ khi hoạt động trong

phong trào công nhân ở Pháp, người đã nhận thấy một hố sâu ngăn cách giữa
giai cấp công nhân và nhân dân lao động chính quốc với giai cấp công nhân
và nhân dân lao động thuộc địa. Đó là chủ nghĩa sôvanh nước lớn của các dân
tộc bị thống trị và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi đối với các dân tộc bị thống trị.
Trong đại hội Tua, thành lập Đảng Cộng sản Pháp năm 1920, Nguyễn
Ái Quốc đã kêu gọi những người xã hội ủng hộ phong trào giải phóng ở các
thuộc địa và lên án phái nghị viện đi theo đường lối cơ hội của Đệ nhị quốc
tế, Theo Đuổi bọn thực dân phản động, từ chối yêu cầu giải phóng của các
dân tộc thuộc địa.Trong nhiều tham luận tại các đại hội quốc tế và các bài
viết, Nguyễn Ái Quốc đã bảo vệ chủ nghĩa Mác Lênin cái bình một cách kiên
quyết và chân thành những sai lầm khuyết điểm của các đảng cộng sản chính
quốc. Các đảng cộng sản này tuy thừa nhận 21 điều của Quốc tế Cộng Sản
19


trong đó có Điều 8 quy định các Đảng cộng sản ở chính quốc phải ủng hộ và
hoạt động một cách thiết thực, giúp đỡ phong trào giải phóng dân tộc Nhưng
trên thực tế hoạt động rất ít giao không nhận thức đúng tầm quan trọng vấn đề
thuộc địa.
Đối với Đảng Cộng sản Việt Nam, ngay từ khi mới thành lập trong
Chính cương vắn tắt do Nguyễn Ái Quốc khởi thảo đã khẳng định: "Chủ
trương làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội
cộng sản". Như vậy là, lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng Việt Nam, voi Hồ
Chí Minh sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc gắn liền với cách mạng xã
hội chủ nghĩa. Cuộc cách mạng này là kết hợp trong bản thân nó tiến trình của
hai sự nghiệp giải phóng đó là giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ thực dân và
giải phóng giai cấp khỏi ách áp bức bóc lột. Vấn đề dân tộc được giải quyết
trên Lập trường của giai cấp công nhân điều đó phù hợp với xu thế thời đại và
lợi ích của các giai cấp và lực lượng tiến bộ trong dân tộc. Sức mạnh đi từ
thắng lợi của cách mạng Việt Nam không phải là cái gì khác mà là mục tiêu

dân tộc luôn thống nhất với mục tiêu dân chủ trên cơ sở định hướng xã hội
chủ nghĩa. Điểm nổi bật của cách mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân triệt để, tạo tiền đề cho mức chuyển sang thời kỳ quá độ lên
Chủ nghĩa xã hội tức là cách mạng xã hội chủ nghĩa là bước kế tiếp ngay sau
khi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân thắng lợi vào giữa hai cuộc cách
mạng này không có một bức tường nào ngăn cách. Đây là quan điểm hết sức
căn bản của tư tưởng Hồ Chí Minh: chỉ có hoàn thành cách mạng giải phóng
dân tộc mới có điều kiện để tiến lên chủ nghĩa xã hội và chỉ của cách mạng xã
hội chủ nghĩa với giữ vững được thành quả cách mạng giải phóng dân tộc,
mới mang lại cuộc sống ấm no, tự do,
Tư tưởng Hồ Chí Minh về sự kết hợp gắn bó hữu cơ giữa hai quá trình
đấu tranh cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản không phải chỉ
là chứng minh cho sự đúng đắn của chủ nghĩa mác-lênin mà còn là sự phát
triển sáng tạo có giá trị định hướng rất cơ bản. Qua thực tiễn đấu tranh và lãnh
20


đạo cách mạng Việt Nam, luôn bám sát đặc điểm thực tiễn Việt Nam và tham
khảo kinh nghiệm các nước khác, Hồ Chí Minh đã có những giải pháp đúng
đắn sáng tạo đáp ứng đòi hỏi của lịch sử, góp phần làm phong phú thêm kho
tàng lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin Đó cũng chính là nguồn gốc sức mạnh
của cách mạng nước ta trong suốt các thập kỷ qua vì:
Một là, cách mạng giải phóng dân tộc trong thời đại ngày nay muốn
thành công triệt để nhất định phải đi theo quỹ đạo và là một bộ phận khăng
khít của cách mạng vô sản. cuộc cách mạng đó phải dựa vào lực lượng của
nhân dân nòng cốt là liên minh công nông, do chính Đảng của giai cấp công
nhân lãnh đạo. Hồ Chí Minh nhận thức rất rõ, Nếu chỉ được vào lực lượng của
giai cấp công nhân thậm chí cả giai cấp nông dân là hoàn toàn không đủ, mà
theo người chỉ có phát động cả dân tộc tham gia với biến sức mạnh dân tộc
thành lực lượng vô địch.

Hai là, cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giai cấp trong nội bộ dân
tộc (mâu thuẫn địa chủ- nông dân, mâu thuẫn tư sản - vô sản) không thể tách
rời cuộc đấu tranh giải quyết mâu thuẫn giữa Toàn thể dân tộc với các thế lực
đế quốc xâm lược. Người đã triệu tập và chủ trì hội nghị Ban Chấp hành
Trung ương lần thứ Tám của Đảng (5-1941). Hội nghị khẳng định: “Trong lúc
này, nếu không giải quyết được vấn đề dân tộc giải phóng, không đòi được
độc lập, tự do cho toàn thể dân tộc, thì chẳng những toàn thể quốc gia dân tộc
còn chịu mãi kiếp ngựa trâu, mà quyền lợi của giai cấp đến vạn năm cũng
không đòi lại được” [Đảng Cộng sản Việt Nam. Văn kiện Đảng toàn tập, Nxb
CTQG, Hà Nội, 2000, t.7, tr.113]. Ở giai đoạn đầu của cách mạng cần đặt vấn
đề dân tộc độc lập dân tộc lên trên hết: "nếu không giải quyết được vấn đề
dân tộc, không đời được độc lập tự do cho toàn thể dân tộc thì chẳng những
toàn thể dân tộc còn chịu mãi kiếp ngựa trâu mà quyền lợi của bộ phận giai
cấp đến hàng vạn năm cũng không thể đòi lại được". "chính lập trường và lợi
ích giai cấp công nhân đòi hỏi trước hết phải giải phóng dân tộc". Ở đây rõ
ràng cái giai cấp được biểu hiện ở cái dân tộc, cái dân tộc được giải quyết
theo lập trường của giai cấp nhân.
21


Ba là, cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản ở chính quốc
phải thực hiện sự liên minh giữa vô sản ở chính quốc với vô sản và nhân dân
các nước thuộc địa thì cách mạng mới thắng lợi. Cách mạng giải phóng dân tộc
ở các nước thuộc địa không phụ thuộc một chiều và cách mạng vô sản ở chính
quốc mà có thể và phải chủ động tiến lên giành thắng lợi thậm chí có thể giành
thắng lợi trước Từ đó góp phần tích cực hỗ trợ cho cách mạng ở nước tư bản.
Đó là nhận định hết sức đúng đắn, táo bạo và sáng tạo của Hồ Chí Minh. Đánh
tiếc là có lúc quan điểm này của Hồ Chí Minh không được một số người trong
đó có một vài người của Quốc tế Cộng sản không thừa nhận.
Bốn là, sau khi giải phóng dân tộc khỏi ách thống trị ngoại bang, khỏi

chế đo thuộc địa dân tộc vừa được giải phóng phải quá độ lên Chủ nghĩa xã
hội và trong bước quá độ ấy phải tự mình tìm tòi con đường, phương thức
riêng phù hợp với tình hình và đặc điểm của đất nước tránh giáo điều, dập
khuôn những hình thức bước đi biện pháp của nước khác.
Các nhân tố cơ bản để có thể làm thắng lợi cách mạng giải phóng dân tộc:
Với những quan điểm mới đó, Hồ Chí Minh đã chỉ ra những nhân tố cơ
bản để có thể giành thắng lợi như sau:
Thứ nhất, động lực lớn của đất nước là chủ nghĩa yêu nước và tinh thần
dân tộc. Theo đó, dân tộc và giai cấp, quyền lợi dân tộc và quyền lợi giai cấp
luôn thống nhất và phù hợp với lịch sử của xã hội Việt Nam. Bởi vì, Trong
lịch sử “Chủ nghĩa dân tộc là động lực lớn của đất nước”. Còn ở thời đại Hồ
Chí Minh, chủ nghĩa dân tộc đã chuyển thành “chủ nghĩa dân tộc bản xứ” hay
chủ nghĩa yêu nước Việt Nam hiện đại. Ở Việt Nam, “cuộc đấu tranh giai cấp
không diễn ra giống như ow phương Tây”. Vì thế, chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam hiện đại vừa kế thừa tinh thần dân tộc được hun đúc qua hàng nghìn năm
lịch sử đấu tranh chống ngoại xâm, vừa khác về bản chất so với chủ nghĩa dân
tộc Sô-vanh và chủ nghĩa dân tộc hẹp hòi. Nó có nhiệm vụ giải quyết đồng
thời hai mâu thuẫn cơ bản của cách mạng Việt Nam là mâu thuấn giữa dân tộc
Việt Nam với thực dân Pháp và mâu thuẫn giữa nông, công và tư sản, phong
22


kiến trong nội bộ dân tộc. Từ đó, Người đề nghị: “phát động chủ nghĩa dân
tộc bản xứ nhân danh Quốc tế cộng sản… Khi chủ nghĩa dân tộc của họ thắng
lợi, nhất định sẽ biến thành chủ nghĩa quốc tế”.
Thứ hai, đường lối cứu nước là đặt cách mạng giải phóng dân tộc trong
quỹ đạo của cách mạng vô sản, nghĩa là độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội. Trên cơ sở ấy, Hồ Chí Minh chỉ rõ: Hai giai đoạn của cách mạng
Việt Nam là làm tư sản dân quyền và cách mạng thổ địa để đi tới xã hội cộng
sản và mục tiêu giải phóng dân tộc, giai cấp, con người của cuộc cách mạng

ấy. Khi cách mạng thành công, phải thiết lập chế độ sở hữu công cộng về tư
liệu sản xuất và xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân, đảm bảo hài hòa
giữa độc lập dân tộc với tự do, hạnh phúc con người. Do vậy, giành được độc
lập dân tộc rồi, phải đi lên chủ nghĩa xã hội. Người viết: “nếu nước độc lập
mà dân không được hạnh phúc, tự do thì độc lập cũng chẳng có ý nghĩa gì”.
Như vậy, sự phát triển đất nước theo con đường xã hội chủ nghĩa là một bảo
đảm vững chắc cho nền độc lập dân tộc.
Thứ ba, mục đích của đấu tranh không chỉ cho độc lập dân tộc mình mà
còn cho độc lập của tất cả các dân tộc bị áp bức bóc lột trên thế giới. Với mục
đích đó, ở Người, chủ nghĩa yêu nước chân chính luôn thống nhất với sức
mạnh thời đại. Theo Hồ Chí Minh, mỗi Đảng Cộng sản trước hết phải chịu
trách nhiệm trước dân tộc mình. Nêu cao tinh thần tự quyết, nhưng Người
không quên nghĩa vụ quốc tế. Người ủng hộ nhiệt liệt cuộc kháng chiến chống
Nhật của nhân dân Trung Quốc, cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân
Lào và Campuchia, đề ra khẩu hiệu “giúp bạn là tự giúp mình”, đóng góp vào
thắng lợi chung của cách mạng thế giới.
Có thể nói tư tưởng Hồ Chí Minh đã soi đường cho cuộc đấu tranh của
nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản to lớn của Đảng và dân tộc ta. Tư tưởng
Hồ Chí Minh về sự kết hợp, gắn bó hữu cơ giữa hai quá trình đấu tranh cách
mạng; cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng vô sản không chỉ là minh
chứng tiêu biểu cho chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã có sự kế thừa biện
23


chứng và vận dụng sáng tạo những quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về
mối quan hệ giữa dân tộc và giai cấp trong cách mạng giải phóng dân tộc theo
con đường cách mạng vô sản. Trên cơ sở đó, Người đã phát triển nhận thức và
xử lý mối quan hệ ấy theo quan điểm phù hợp với nhiệm vụ cụ thể của cách
mạng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa nói chung và Việt Nam nói
riêng.


24


CHƯƠNG III: SỰ VẬN DỤNG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ
LIÊN MINH CÔNG TRÍ THỨC CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
TRONG CÁCH MẠNG NƯỚC TA
1. Thực trạng việc giải quyết vấn đề dân tộc và giai cấp ở Việt Nam
hiện nay:
Ngày nay, xây dựng chủ nghĩa xã hội trong bối cảnh trong nước và quốc
tế có nhiều thay đổi nhưng tư tưởng Hồ Chí Minh vẫn luôn là cở sở lý luận và
phương pháp luận để Đảng và Nhà nước tìm ra con đường sáng suốt để đưa
Việt Nam ngành càng phát triển và bền vững. Trong thực tiễn công cuộc xây
dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc XHCN hiện nay, việc vận dụng và phát triển
sáng tạo tư tưởng Hồ Chí Minh về mối quan hệ biện chứng giữa vấn đề dân tộc
và vấn đề giai cấp càng có ý nghĩa cực kỳ quan trọng hết sức cấp thiết. Bởi vì,
thực tế cho ta bài học là, có thời kỳ, khi triển khai các nhiệm vụ xây dựng
CNXH, đã có lúc Đảng ta phạm sai lầm nóng vội, chủ quan, duy ý chí, quá
nhấn mạnh vấn đề giai cấp nên đã xem nhẹ vấn đề dân tộc trong việc hoạch
định và thực hiện chiến lược phát triển kinh tế xã hội, dẫn đến lợi ích các giai
cấp, tầng lớp không được tính đến đầy đủ và kết hợp hài hoà, sức mạnh dân tộc
không được phát huy như một trong những động lực chủ yếu nhất. Nhưng ngay
sau đó, Đảng ta đã kịp thời khắc phục có hiệu quả cả về phương điện nhận thức
lý luận cũng như trong hoạt động thực tiễn về vấn đề này.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, ở một số vùng ở nước ta đã nảy
sinh ra ý kiến cho rằng: chỉ nên đề ra và giải quyết các vấn đề dân tộc, còn
vấn đề giai cấp không nên đặt ra. Trong quá trình đổi mới Đảng vẫn kiên trì
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Maclenin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Đảng luôn ý thức rõ rằng đây là môi trường
chính trị xã hội bất biến của nước ta. Luôn lấy tư tưởng của người làm cơ sở
xây dựng một đất nước: “dân giàu-nước mạnh-xã hội công bằng-dân chủvăn minh”.

25


×