Tải bản đầy đủ (.pdf) (69 trang)

Thực trạng sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh của người dân tại trạn y tế xã lam điền, huyện chương mỹ, hà nội năm 2018

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.08 MB, 69 trang )

BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI

PHÍ THÙY TIÊN

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG DỊCH VỤ
KHÁM CHỮA BỆNH CỦA NGƯỜI DÂN
TẠI TRẠM Y TẾ XÃ LAM ĐIỀN, HUYỆN
CHƯƠNG MỸ, HÀ NỘI NĂM 2018
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP DƯỢC SĨ

HÀ NỘI - 2018


BỘ Y TẾ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC DƯỢC HÀ NỘI

PHÍ THÙY TIÊN
MÃ SINH VIÊN: 1301411

THỰC TRẠNG SỬ DỤNG DỊCH VỤ
KHÁM CHỮA BỆNH CỦA NGƯỜI DÂN
TẠI TRẠM Y TẾ XÃ LAM ĐIỀN, HUYỆN
CHƯƠNG MỸ, HÀ NỘI NĂM 2018
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP DƯỢC SĨ
Người hướng dẫn:
Ths. Dương Viết Tuấn
Nơi thực hiện:
Bộ môn Quản lý và Kinh tế Dược

HÀ NỘI -2018




LỜI CẢM ƠN
Lời đầu tiên, tôi xin bày tỏ lòng biết ơn chân thành và sâu sắc nhất tới Ths.
Dương Viết Tuấn, Giảng viên Bộ môn Quản lý và Kinh tế Dược, Trường Đại học
Dược Hà Nội, là những người đã trực tiếp hướng dẫn, truyền đạt những kiến thức
quý báu, tận tâm chỉ bảo, giúp đỡ và động viên trong suốt thời gian tôi thực hiện đề
tài này.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo trong bộ môn Quản lý và Kinh tế
Dược, Trường Đại học Dược Hà Nội, đã giúp đỡ và tạo điều kiện thuận lợi trong
suốt quá trình thực hiện nghiên cứu tại bộ môn.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng biết ơn tới Ban Giám Hiệu và toàn thể các thầy cô
giáo trong trường đã truyền đạt kiến thức và dìu dắt tôi trong suốt 5 năm học tại
trường.
Tôi xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc đến toàn bộ cán bộ trạm y tế xã Lam
Điền, huyện Chương Mỹ đã nhiệt tình giúp đỡ, chỉ bảo đồng thời tạo mọi điều
kiện thuận lợi nhất giúp tôi hoàn thành đề tài.
Cuối cùng, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình và bạn bè, những
người luôn bên cạnh dành cho tôi mọi sự động viên, khích lệ và hỗ trợ để tôi

vượt qua mọi khó khăn trong quá trình học tập, nghiên cứu.
Hà Nội, ngày 16 tháng 5 năm 2018
Sinh viên

Phí Thùy Tiên


MỤC LỤC
LỜI CẢM ƠN
DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

DANH MỤC CÁC BẢNG
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
ĐẶT VẤN ĐỀ................................................................................................................. 1
CHƯƠNG I : TỔNG QUAN ........................................................................................ 3
1.1

Chăm sóc sức khỏe ban đầu ...................................................................... 3

1.2

Vai trò TYT trong CSSKBĐ ..................................................................... 4

1.3 Thực trạng sử dụng dịch vụ y tế và khả năng đáp ứng nhu cầu của
TYT….…………………………………………………………………………….5
1.3.1

Thực trạng tiếp cận dịch vụ khám chữa bệnh của người dân ..................... 5

1.3.2

Thực trạng sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh tại TYT ở Việt Nam ............. 6

1.3.3

Khả năng đáp ứng nhu cầu của trạm y tế về dịch vụ khám chữa bệnh ...... 9

1.4

Các yếu tố ảnh hưởng đến việc sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh ..... 11


1.4.1

Tiếp cận ..................................................................................................... 11

1.4.2

Yếu tố bệnh ................................................................................................ 12

1.4.3

Yếu tố giá cả .............................................................................................. 13

1.4.4

Yếu tố bên cung ......................................................................................... 14

1.4.5

Yếu tố cá nhân ........................................................................................... 15

1.4.5.1

Tuổi: ................................................................................................... 15

1.4.5.2

Giới tính .............................................................................................. 15

1.4.5.3


Trình độ học vấn................................................................................. 16

1.4.5.4

Nghề nghiệp ....................................................................................... 17

1.5

Khung lý thuyết ........................................................................................ 17

CHƯƠNG II: ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU ..................... 19
2.1

Đối tượng nghiên cứu .............................................................................. 19

2.1.1 Tiêu chuẩn lựa chọn. ................................................................................. 19
2.1.2 Tiêu chuẩn loại trừ ................................................................................... 19
2.2

Thời gian và địa điểm nghiên cứu .......................................................... 19

2.3

Thiết kế nghiên cứu ................................................................................. 19

2.4

Mẫu nghiên cứu........................................................................................ 19



2.4.1

Cỡ mẫu định lượng.................................................................................... 19

2.4.2

Cỡ mẫu định tính ....................................................................................... 20

2.5

Phương pháp thu thập số liệu ................................................................. 21

2.5.1

Số liệu định lượng ..................................................................................... 21

2.5.2 Số liệu định tính: ........................................................................................ 21
2.6

Phương pháp xử lý số liệu ....................................................................... 22

2.7

Các chỉ số, biến số nghiên cứu ................................................................ 22

2.8

Một số khái niệm, tiêu chuẩn dùng trong nghiên cứu .......................... 22

CHƯƠNG III. KẾT QUẢ VÀ BÀN LUẬN .............................................................. 24

3.1

Kết quả nghiên cứu .................................................................................. 24

3.1.1

Đặc điểm đối tượng nghiên cứu ................................................................ 24

3.1.2

Thực trạng mắc bệnh và sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh ...................... 26

3.1.3

Mối liên quan đến sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh tại trạm y tế xã ...... 34

3.2

Bàn luận .................................................................................................... 35

3.2.1 Đặc điểm đối tượng nghiên cứu ................................................................ 35
3.2.2 Thực trạng mắc bệnh và sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh tại xã ............ 38
3.2.3 Một số yếu tố liên quan đến sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh tại trạm y tế
xã………………………………………………………………………………...42
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ..................................................................................... 46
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC


DANH MỤC CÁC KÝ HIỆU, CÁC CHỮ VIẾT TẮT

TỪ VIẾT TẮT

GIẢI THÍCH

BHBB

Bảo hiểm bắt buộc

BHTN

Bảo hiểm tự nguyện

BHYT

Bảo hiểm Y tế

BS

Bác sĩ

CSSK

Chăm sóc sức khỏe

CSSKBĐ

Chăm sóc sức khỏe ban đầu

CSYT


Cơ sở y tế

DS-KHHGĐ

Dân số kế hoạch hóa gia đình

ĐTNC

Đối tượng nghiên cứu

DVYT

Dịch vụ y tế

HGĐ

Hộ gia đình

KCB

Khám chữa bệnh

PĐT

Phiếu điều tra

PVS

Phỏng vấn sâu


TC/CĐ/ĐH

Trung cấp/ cao đẳng/ đại học

THCS

Trung học cơ sở

THPT

Trung học phổ thông

TTB

Trang thiết bị

TTYT

Trung tâm y tế

TYT

Trạm y tế

WHO

World Health Organization - Tổ chức Y tế Thế giới


DANH MỤC CÁC BẢNG

Bảng 1.1: Thống kê cơ sở y tế 2016 trên cả nước[38] ....................................................6
Bảng 1.2: Tỉ lệ nhân lực y tế phân theo trình độ chuyên môn và theo tuyến năm 2008
trên cả nước[7] ...............................................................................................................14
Bảng 3.1: Đặc điểm điều kiện kinh tế, khoảng cách đến TYT của HGĐ .....................24
Bảng 3.2: Đặc điểm độ tuổi và giới tính đối tượng nghiên cứu ....................................24
Bảng 3.3: Phân bố ĐTNC theo nghề nghiệp .................................................................25
Bảng 3.4: Phân loại theo BHYT ....................................................................................25
Bảng 3.5: Phân bố ĐTNC theo tình trạng ốm bệnh trong 4 tuần trước điều tra ...........26
Bảng 3.6: Phân bố người ốm theo nhóm tuổi ................................................................26
Bảng 3.7: Phân loại bệnh theo cấp/mạn ........................................................................26
Bảng 3.8: Phân bố theo bệnh mạn tính ..........................................................................27
Bảng 3.9: Tỷ lệ người ốm trong 4 tuần theo tuổi .........................................................28
Bảng 3.10: Phân bố theo mức độ bệnh ..........................................................................28
Bảng 3.11: Cách xử trí đầu tiên trong lần ốm bệnh gần nhất ........................................28
Bảng 3.12: Lý do chọn nơi KCB là TYT xã .................................................................29
Bảng 3.13: Lý do không chọn nơi KCB là TYT xã ......................................................30
Bảng 3.14: Phương pháp điều trị và nơi mua thuốc ......................................................32
Bảng 3.15: Kết quả của đợt điều trị ...............................................................................33
Bảng 3.16:Mối liên quan giữa một số yếu tố nhân khẩu học và sử dụng dịch vụ KCB
tại TYT xã của người dân ..............................................................................................34
Bảng 3.17: Mối liên quan giữa điều kiện kinh tế, khoảng cách, mức độ bệnh, đến sử
dụng dịch vụ KCB tại TYT ...........................................................................................35


DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Hình 1.1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức trạm y tế……………………………………………..10
Hình 1.2: Khung lý thuyết…………………………………………………………….18
Hình 3.1: Biểu đồ phân bố ĐTNC theo trình độ học vấn ..............................................25
Hình 3.2: Biểu đồ phân bố người ốm theo nhóm bệnh .................................................27



ĐẶT VẤN ĐỀ
Y tế cơ sở (YTCS) ở nước ta là tuyến y tế ban đầu gần dân nhất, bảo đảm cho mọi
người dân được chăm sóc sức khoẻ cơ bản với chi phí thấp nhất và hiệu quả nhất.
Mạng lưới YTCS ngày càng có vai trò quan trọng trong bảo vệ, chăm sóc và nâng cao
sức khoẻ nhân dân, thực hiện các nội dung của chăm sóc sức khoẻ ban đầu, nhất là
việc khám chữa bệnh cho người dân khu vực nông thôn, miền núi. Trong những năm
qua, mạng lưới YTCS ở Việt Nam liên tục được củng cố và chú trọng phát triển. Nhà
nước luôn xác định mạng lưới YTCS có vị trí chiến lược trong CSSK nhân dân vì có
thể giải quyết 80% khối lượng phục vụ y tế tại chỗ [3].
Đặc biệt những năm gần đây, khi nhu cầu CSSK tăng nhanh, cơ cấu bệnh tật thay
đổi, ngành y tế tiếp tục thực hiện đổi mới YTCS một cách toàn diện, đồng bộ, tiếp tục
triển khai các hoạt động thiết thực để nâng cao chất lượng YTCS như: Đưa trạm y tế
thuộc TTYT huyện để luận phiên cán bộ từ huyện xuống và từ xã lên, nâng cao kỹ
thuật chuyên môn cho cán bộ trạm y tế. Đáng chú ý, Bộ Y tế đã ban hành Thông tư số
39/2017/TT-BYT về gói dịch vụ y tế cơ bản để khuyến khích người dân đến khám
chữa bệnh, chăm sóc sức khoẻ tại trạm y tế xã. Đồng thời thực hiện đẩy mạnh việc
quản lý sức khoẻ, theo dõi các bệnh không lây nhiễm tại trạm y tế xã, góp phần nâng
cao hiệu quả hoạt động YTCS [4].
Mặc dù được xã hội quan tâm và dành nhiều nguồn lực đầu tư, tuy nhiên hiện nay
YTCS đặc biệt là trạm y tế còn rất nhiều bất cập chưa được giải quyết. Trên thực tế, tại
nhiều trạm y tế, người dân đến để được chăm sóc sức khoẻ ban đầu, được tư vấn về
sức khoẻ lại chiếm tỷ lệ chưa cao. Có nhiều yếu tố ảnh hưởng, có yếu tố thuộc về bên
cung cấp dịch vụ như cơ sở vật chất, trang thiết bị thiếu, nhân lực y tế chưa đảm bảo
về số lượng và chất lượng, thái độ phục vụ còn bất công, phân biệt đối xử… cho đến
yếu tố thuộc về phía người sử dụng bao gồm tuổi, giới, dân tộc, trình độ học vấn, nơi
cư trú,… được xác định là có ảnh hưởng ở các mức độ khác nhau tới tiếp cận và sử
dụng dịch vụ y tế của người dân [14].
Trong những năm gần đây, đã có rất nhiều nghiên cứu được tiến hành nhằm tìm
hiểu các yếu tố ảnh hưởng đến việc sử dụng dịch vụ y tế của người dân đồng thời đánh

giá chất lượng các cơ sở y tế ban đầu, đặc biệt là ở trạm y tế xã khu vực nông thôn,
vùng sâu, vùng xa. Lam Điền là một xã trong vùng phân lũ của thành phố Hà Nội, hệ
thống giao thông không được tốt và xa trung tâm huyện. TYT xã Lam Điền trước đây
1


đã được chọn để tiến hành nghiên cứu về sử dụng dịch vụ y tế của người cao tuổi, tuy
nhiên vẫn chưa có những nghiên cứu đề cập về vấn đề này trên các đối tượng khác
nhau để có một bức tranh toàn cảnh về tình trạng sức khỏe của xã. Chính vì những lý
do trên, nghiên cứu:”Thực trạng sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh của người dân
tại trạm y tế xã Lam Điền, huyện Chương Mỹ, Hà Nội năm 2018” đã được thực
hiện với mục tiêu sau:
1.

1. Mô tả thực trạng mắc bệnh và sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh của người dân xã
Lam Điền, huyện Chương Mỹ, Hà Nội năm 2018.
2. 2. Xác định một số yếu tố liên quan đến việc sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh của
người dân ở trạm y tế xã Lam Điền, huyện Chương Mỹ, Hà Nội năm 2018.

2


CHƯƠNG I : TỔNG QUAN
1.1 Chăm sóc sức khỏe ban đầu
Chăm sóc sức khỏe ban đầu là một khái niệm được Tổ chức y tế thế giới (WHO)
đưa ra và mục tiêu chính là nâng cao sức khỏe cho tất cả mọi người. Theo WHO, sức
khỏe được định nghĩa như sau: “Sức khỏe là trạng thái thoải mái toàn diện về thể chất,
tinh thần và xã hội và không phải chỉ bao gồm tình trạng không có bệnh hay thương
tật”. Người ta ngày càng nhận ra rằng sức khỏe được duy trì và cải thiện không chỉ
qua những thành tựu và ứng dụng của khoa học y tế, mà còn qua những cố gắng và

những lựa chọn cách sống của một cá nhân hay xã hội. Theo WHO, các yếu tố chính
quyết định đến sức khỏe là môi trường kinh tế và xã hội, môi trường vật lý, và đặc
điểm và ứng xử của mỗi cá nhân. Sức khỏe tốt là một yếu tố quan trọng không chỉ với
mỗi cá nhân mà còn là cả cộng đồng, xã hội [56].
Chăm sóc sức khỏe ban đầu (CSSKBĐ) là nền tảng cho các chính sách của WHO,
nhằm xây dựng hệ thống y tế phù hợp, đáp ứng tình hình mới với sự thay đổi của mô
hình bệnh tật, dân số, kinh tế - xã hội trên thế giới. Hội nghị quốc tế về CSSKBĐ được
tổ chức ở Alma Alta, Kazakhstan với 134 nước tham dự ( có Việt Nam ) và 67 tổ chức
quốc tế tham dự do WHO và UNICEF bảo trợ. Tại hội nghị đã thống nhất đưa ra bản
tuyên ngôn Alma Alta gồm 10 điều về CSSKBĐ nhằm đạt được mục tiêu : “Sức khỏe
cho mọi người” [50]. Từ đó đến nay, đã có 4 hội nghị quốc tế khác cũng đưa ra chiến
lược CSSKBĐ để phù hợp sự phát triển của thế giới. Tuy có những sự thay đổi nhưng
cơ bản vẫn tuân theo 10 điểm trong tuyên ngôn Alma Alta, CSSKBĐ vẫn giữ vai trò
quan trọng trong sự phát triển của hệ thống sức khỏe.
Trong tuyên ngôn Alma Alta, CSSKBĐ được định nghĩa: “là sự chăm sóc sức
khỏe thiết yếu, dựa trên những phương pháp và kỹ thuật thực hành, có cơ sở khoa học
và chấp nhận được về mặt xã hội, có thể phổ biến đến các cá nhân và các gia đình
trong cộng đồng xã hội để mọi người tự nguyện tham gia và thực hiện…”.Đó là tiếp
xúc đầu tiên của người dân với hệ thống y tế, đưa CSSK đến gần với người dân hơn
nhằm đáp ứng nhu cầu y tế thiết yếu của phần đông dân số. Đây là công việc của nhân
viên y tế, trạm y tế, bệnh viện đa khoa, phòng khám khu vực. Hoạt động CSSKBĐ còn
gồm cả những hoạt động tự chăm sóc sức khỏe của các hộ gia đình. Bên cạnh 8 yếu tố
được đề cập trong Alma Alta thì Việt Nam bổ sung thêm 2 ý để gộp thành 10 nội dung
CSSKBĐ của mình bao gồm: giáo dục các vấn đề sức khỏe phổ biến cũng như đưa ra
3


các biện pháp phòng ngừa và kiểm soát; cung cấp nước sạch và các vấn đề vệ sinh cơ
bản; tăng cường việc cung cấp thực phẩm và dinh dưỡng hợp lý; tiêm chủng phòng
bệnh lây nhiễm; chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em bao gồm kế hoạch hóa gia đình; điều

trị các bệnh thông thường và chấn thương; phòng và kiểm soát bệnh dịch ở địa
phương; đảm bảo thuốc thiết yếu; củng cố mạng lưới y tế cơ sở và tăng cường công
tác quản lý sức khỏe tuyến cơ sở. Nhà nước ta đã xác định mục tiêu trong đảm bảo sức
khỏe của người dân trong thời kỳ mới: “ Bảo đảm mọi người dân được hưởng các dịch
vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu, mở rộng tiếp cận và sử dụng các dịch vụ y tế có chất
lượng” [8].
Không dừng lại ở việc đặt ra mục tiêu, Chiến lược quốc gia bảo vệ chăm sóc và
nâng cao sức khỏe nhân dân giai đoạn 2010-2020, tầm nhìn 2030 đã chỉ ra biện pháp
đầu tiên cần làm đó là phải phát triển và hoàn thiện hệ thống y tế “kiện toàn và ổn định
mô hình tổ chức hệ thống y tế thống nhất từ trung ương đến địa phương. Kết hợp hài
hòa giữa phát triển các trung tâm y tế chuyên sâu với kiện toàn, phát triển mạng lưới y
tế cơ sở…”. Có thể thấy để thực hiện CSSKBĐ thì cần thông qua mạng lưới y tế cơ sở.
Củng cố và hoàn thiện y tế cơ sở có ý nghĩa chiến lược trong hệ thống y tế nhà nước,
góp phần sự thành công của CSSKBĐ [5]. Hệ thống cung ứng dịch vụ y tế ở nước ta
chia làm 4 cấp: trung ương, tỉnh, huyện và xã. Theo hệ thống phân tuyến chuyên môn
thì hệ thống cung ứng dịch vụ y tế Việt Nam chia làm 3 tuyến: tuyến trung ương,
tuyến tỉnh, tuyến cơ sở. Hoạt động của hệ thống y tế bao gồm tất cả các hoạt động mà
mục đích cơ bản của nó là nhằm thúc đẩy, khôi phục và duy trì sức khoẻ [31].
1.2 Vai trò TYT trong CSSKBĐ
Trong hệ thống y tế, trạm y tế là nền tảng của tuyến cơ sở. Trạm y tế xã có 9
nhiệm vụ, vai trò chính. Trong đó quan trọng nhất là thực hiện các hoạt động chuyên
môn, kỹ thuật về y tế dự phòng; khám bệnh, chữa bệnh (kết hợp, ứng dụng y học cổ
truyền trong phòng bệnh và chữa bệnh); chăm sóc sức khỏe sinh sản; cung ứng thuốc
thiết yếu; quản lý sức khỏe cộng đồng và truyền thông, giáo dục sức khoẻ. Bên cạnh
đó, Trạm y tế xã cũng có nhiệm vụ hướng dẫn về chuyên môn và hoạt động đối với
đội ngũ nhân viên y tế thôn, bản; Phối hợp với các cơ quan liên quan triển khai thực
hiện công tác dân số - kế hoạch hóa gia đình; Tham gia kiểm tra các hoạt động hành
nghề y, dược tư nhân và các dịch vụ có nguy cơ ảnh hưởng đến sức khỏe nhân dân;
Thường trực Ban Chăm sóc sức khỏe cấp xã về công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao
4



sức khỏe nhân dân trên địa bàn [9]. Trong hệ thống chăm sóc sức khỏe công lập, trạm
y tế xã là nơi đầu tiên người dân có thể tiếp cận khi ốm đau. Nhiệm vụ của trạm y tế xã
là thực hiện các dịch vụ kỹ thuật chăm sóc sức khoẻ ban đầu, phát hiện sớm và phòng
chống dịch bệnh. Chính vì vậy, vai trò của trạm y tế xã là vô cùng lớn trong chăm sóc
sức khoẻ ban đầu.
Bên cạnh đó, không thể không nói đến những thành tựu mà trạm y tế đã đạt được:
kết quả chăm sóc sức khỏe ban đầu, cốt lõi là việc chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em
được bảo đảm tốt hơn. Công tác giám sát dịch bệnh ngày càng chặt chẽ, chẩn đoán và
điều trị kịp thời khi người dân đến cơ sở y tế, góp phần giảm tỷ lệ mắc bệnh và tỷ lệ tử
vong do nhiều dịch bệnh nguy hiểm, đặc biệt giảm tỷ lệ tử vong sơ sinh, trẻ dưới 1
tuổi và bà mẹ mang thai. Mạng lưới y tế cơ sở đã góp phần thanh toán bệnh bại liệt từ
năm 2000, uốn ván sơ sinh từ năm 2005 và đưa Việt Nam trở thành một trong 8/74
quốc gia đạt tiến độ thực hiện Mục tiêu phát triển thiên niên kỷ về giảm tử vong trẻ
em; một trong 9/74 quốc gia đạt tiến độ thực hiện về mục tiêu giảm tử vong mẹ; một
trong 3 quốc gia đạt được mức độ giảm hơn 75% tỷ số tử vong mẹ trong giai đoạn từ
1990 - 2010. Tỷ lệ mắc và tử vong của hầu hết các bệnh truyền nhiễm lưu hành như
tay-chân-miệng, dại, sốt rét… năm 2014 đều giảm so với năm 2013 và giảm nhiều so
với giai đoạn 2010 – 2013, đặc biệt giảm 50% số mắc và tử vong do sốt xuất huyết (từ
67/10000 dân xuống còn 27/10000 dân) [3].
Mạng lưới YTCS đã đạt được nhiều thành tựu trong lĩnh vực phòng chống dịch,
kiểm soát các bệnh lây nhiễm, trong công tác DS-KHHGĐ và chăm sóc sức khỏe sinh
sản, tuy nhiên vẫn tồn tại không ít hạn chế trong sử dụng dịch vụ CSSKBĐ, khám và
xử trí các bệnh thông thường ngay trong cộng đồng.
1.3 Thực trạng sử dụng dịch vụ y tế và khả năng đáp ứng nhu cầu của trạm y tế
1.3.1 Thực trạng tiếp cận dịch vụ khám chữa bệnh của người dân
Hiện nay, số lượng các cơ sở chăm sóc sức khỏe tăng lên nhanh chóng nên người
dân có thể tiếp cận, sử dụng một cách dễ dàng tùy từng trường hợp. Người dân đã tiếp
cận và sử dụng dịch vụ KCB tại mạng lưới YTCS nhiều hơn, nhờ việc thực hiện một

số giải pháp nâng cấp và cải thiện về cơ sở vật chất, TTB, tài chính. Một số dịch vụ kỹ
thuật, thuốc thuộc tuyến trên cũng đã dần được triển khai tới tận tuyến huyện, xã. Kết
quả là có sự gia tăng đáng kể việc sử dụng dịch vụ KCB tại bệnh viện đa khoa huyện,
phòng khám đa khoa khu vực và TYT xã. Việc KCB tại trạm theo BHYT ngày càng
5


phổ biến giúp người dân có thẻ không còn e ngại việc đến trạm. Tính đến năm 2014,
đã triển khai KCB BHYT tại 80% tổng số TYT xã, tỷ lệ thẻ BHYT đăng ký KCB ban
đầu tại TYT xã chiếm 41% và tại bệnh viện huyện chiếm 45% tổng số thẻ đăng ký
KCB ban đầu [6]. Ngoài KCB bằng tây y, trạm y tế cũng phát triển các loại hình khác
như thuốc đông y, xoa bóp, bấm huyệt…giúp người dân có thể tiếp cận nhiều loại hình
chữa trị hơn. Năm 2014, các cơ sở KCB tuyến huyện và xã đã thành lập các tổ YHCT.
Tỷ lệ điều trị ngoại trú bằng YHCT so với tổng điều trị ngoại trú chung ở tuyến xã là
26,8% [3].
Bảng 1.1: Thống kê cơ sở y tế 2016 trên cả nước[39]
Cơ sở
Tổng số
Bệnh viện
Bệnh viện điều dưỡng và phục hồi chức năng
Phòng khám đa khoa khu vực
Trạm y tế xã phường
Trạm y tế của cơ quan, xí nghiệp
Cơ sở khác

Số lượng
13.597
1.077
62
609

11.102
710
31

Số lượng TYT chiếm đến 81,7% số cơ sở y tế, bao phủ hầu hết các xã phường trên
cả nước nên người dân dễ dàng tiếp cận. Theo số liệu thống kê năm 2016, trong
11.102 trạm y tế thì có 584 trạm y tế xã ở Hà Nội. Điều này tạo thuận lợi cho
CSSKBĐ cũng như việc tổ chức các chương trình tuyên truyền sức khỏe để nâng cao
nhận thức cho người dân. Bên cạnh đó, ngày 20/12/2017, Bộ Y tế tổ chức triển khai
mô hình điểm tăng cường năng lực y tế cơ sở tại trạm y tế xã, phường. Theo đó, giai
đoạn 2018-2020 sẽ xây dựng 26 trạm y tế điểm tại tám tỉnh, thành phố: Hà Nội, TP Hồ
Chí Minh, Lào Cai, Yên Bái, Hà Tĩnh, Long An, Khánh Hòa và Lâm Đồng.Nhờ đó sẽ
tăng cường năng lực cho cán bộ y tế, người dân được dùng thiết bị hiện đại ngay từ cơ
sở khám chữa bệnh ban đầu [32].
1.3.2 Thực trạng sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh tại TYT ở Việt Nam
Mặc dù việc tiếp cận đã dễ dàng hơn nhưng tỷ lệ sử dụng dịch vụ y tế ở TYT còn
chưa tương xứng. Theo dự báo của Tổng cục Thống kê năm 2017 Việt Nam sẽ bước
vào giai đoạn già hóa dân số. Nhưng trên thực tế, năm 2011, Việt Nam đã chính thức
bước vào giai đoạn già hóa dân số, trong đó tỷ trọng số người trên 65 tuổi đạt 7% tổng
dân số, sớm hơn dự báo sáu năm. Điều đó làm cho tốc độ già hóa dân số của Việt Nam
6


nhanh hàng đầu châu Á và cũng thuộc diện nhanh nhất thế giới. Đây là một thách thức
đối với gia đình, xã hội và ngành y tế trong cung cấp dịch vụ chăm sóc kéo dài cho
người cao tuổi. Sự thay đổi về mô hình bệnh tật, già hóa dân số… dẫn tới nhu cầu
CSSK của người dân ngày một gia tăng. Trong khi đó thì khả năng đáp ứng của hệ
thống y tế còn hạn chế, nhất là về y tế cơ sở. Tuy nhiên Bộ Y tế cho biết, hiện nay, số
lượng dịch vụ y tế tại trạm y tế xã còn ít so với yêu cầu, mới chỉ cung ứng được 52,2%
dịch vụ khám chữa bệnh; trong đó thuốc thiết yếu, thuốc bảo hiểm y tế chưa đáp ứng

yêu cầu. Nguyên nhân chủ yếu là do cán bộ y tế, trang thiết bị, cơ sở hạ tầng không
đảm bảo. Bên cạnh đó, tỷ lệ xử trí đúng các bệnh thông thường còn thấp, nhiều bệnh
trong đó tỷ lệ xử trí đúng chỉ đạt 30-40%; còn xảy ra tai biến. Điều này dẫn đến việc
người dân chưa tin tưởng vào y tế cơ sở, nên nhiều người đã thông tuyến điều trị. Vì
vậy tỷ lệ người dân sử dụng DVYT ở TYT còn chưa cao ở một số khu vực.
TYT xã đóng vai trò chủ yếu trong việc cung cấp các dịch vụ KCB, điều này đã
được khẳng định thông qua rất nhiều nghiên cứu thực hiện trước đây. Điển hình là
nghiên cứu về tình hình CSSK tại năm tỉnh miền núi phía Bắc và Tây Nguyên được
tiến hành năm 2009. Tại nghiên cứu này, tỷ lệ KCB ngoại trú của người nghèo tại
TYT xã chiếm tỷ lệ rất cao tới 82% [11]. Một nghiên cứu trước can thiệp nhằm tăng
cường tiếp cận, sử dụng dịch vụ khám, chữa bệnh y tế công lập tại huyện Như Xuân,
tỉnh Thanh Hóa năm 2009 cho thấy: tỷ lệ người ốm trong khoảng thời gian 4 tuần
trước thời điểm điều tra sử dụng KCB tại TYT xã là cao nhất với 52,9% [21]. Bên
cạnh việc lựa chọn KCB tại TYT, người dân cũng có rất nhiều lựa chọn khác: tự chữa
trị, không chữa gì, phòng khám khu vực, bệnh viện huyện, bệnh viện tỉnh.
Tùy thuộc vào điều kiện kinh tế, địa lý, kiến thức về CSSK và mức độ bệnh mà
người dân có quyết định tìm kiếm và sử dụng DVYT hay không. Hành vi phổ biến của
người dân khi gặp các vấn đề về sức khỏe là không làm gì để tự khỏi hoặc tự điều trị
nếu mức độ mắc bệnh nhẹ và đi KCB nếu họ cảm thấy mức độ mắc bệnh nặng hơn.
Một nghiên cứu về thực trạng và các yếu tố liên quan tới việc sử dụng DVYT tại TYT
xã (năm 2014) của tác giả Hoàng Thanh Nga cho thấy trong khoảng thời gian 4 tuần
trước thời điểm điều tra thì tỷ lệ người dân bị ốm mà không điều trị gì chỉ chiếm tỷ lệ
2%. Lý do người bệnh không điều trị gì là do không có tiền KCB và bệnh nhẹ tự khỏi
nên họ đã không áp dụng bất cứ hình thức điều trị nào [26]. Tỷ lệ tự điều trị của tác giả
Nguyễn Thị Hoài Thu cũng tương tự như kết quả của Nguyễn Đình Dự [15] hay
7


Nguyễn Khánh Phương khi phát hiện tỷ lệ không điều trị lần lượt là 3,5% và 2,2%
[27]. Với một số đối tượng đặc biệt trong xã hội như người già thì hành vi không làm

gì khi mắc bệnh lại cao hơn hẳn với tỷ lệ là 6,2% [28].
Tự điều trị là một hành vi tương đối phổ biến ở Việt Nam. Tự điều trị là việc
người bệnh tự sử dụng thuốc thông qua việc sử dụng thuốc sẵn có trong gia đình hoặc
tự đi mua thuốc (tây y/đông y) về chữa bệnh. Kết quả từ các nghiên cứu trong khoảng
thời gian qua cho thấy người bệnh tự mua thuốc điều trị dao động trong khoảng từ
20%-70% tùy phạm vi và đối tượng nghiên cứu. Một nghiên cứu mới đây về sử dụng
dịch vụ KCB của người dân tại xã Chí Linh, Hải Dương năm 2011 lại cho kết quả khá
cao với tỷ lệ người dân tự mua thuốc về điều trị là 54% [12]. Hay kết quả nghiên cứu
của Nguyễn Khánh Phương (2011) cho thấy trong số những người ghi nhận có ốm
trong vòng 4 tuần trước khảo sát, tỷ lệ đi KCB là 58,6%, tỷ lệ tự đi mua thuốc hoặc
dùng thuốc sẵn có tự điều trị là 39,2%, còn lại 2,2% người ốm không có điều trị gì
[27]. Tự mua thuốc về điều trị cũng là hành vi chiếm tỷ lệ cao nhất trong cách xử trí
đầu tiên khi bị ốm bệnh của người dân ở xã Dương Liễu, huyện Hoài Đức (năm 2014)
với tỷ lệ 29,5% [26]. So sánh với kết quả từ một số nghiên cứu trước đó thì tỷ lệ này
thấp hơn đáng kể. Đặc biệt trong nghiên cứu ở huyện Ba Vì và nghiên cứu ở một số
tỉnh miền bắc với tỷ lệ người dân tự điều trị lần lượt là 50,7% và 57% [52], [53].
Đi KCB là hành vi thường được người bệnh thực hiện khi họ cho rằng mình bị
bệnh nặng hoặc sau khi họ tự điều trị mà không khỏi. Nơi mà người bệnh tới để KCB
thường là TYT xã, BV đa khoa hoặc chuyên khoa các tuyến… Các nghiên cứu chỉ ra
sự khác biệt đáng kể giữa các vùng, miền và các nhóm dân cư về mô hình tiếp cận và
sử dụng dịch vụ KCB: Kết quả số liệu khảo sát mức sống dân cư Việt Nam năm 2012
của Tổng cục Thống kê (GSO) cho thấy tỷ lệ người sử dụng dịch vụ KCB ngoại trú,
KCB nội trú trong 12 tháng rất khác nhau giữa các vùng sinh thái. Tỷ lệ người sử dụng
dịch vụ KCB ngoại trú trong 12 tháng ở vùng Trung du và miền núi phía Bắc là thấp
nhất (26,5%) và cao nhất ở vùng đồng bằng sông Cửu Long (48,1%).Báo cáo kết quả
khảo sát mức sống dân cư qua các năm cho thấy tỷ lệ sử dụng dịch vụ tăng ở tuyến
trên và có xu thế giảm ở tuyến dưới. Cụ thể, khi xem xét số liệu sử dụng dịch vụ thấy
rằng tỷ lệ lượt sử dụng dịch vụ KCB ngoại trú tại BVĐK huyện năm 2010 là 17,6%,
cao hơn so với tỷ lệ 11,9% vào năm 2004; tỷ lệ lượt điều trị nội trú tại các BVĐK
huyện cũng tăng, đạt tỷ lệ 38,2% vào năm 2010, so với 35,4% vào năm 2004. Tuy

8


nhiên, tại TYT xã, tỷ lệ lượt KCB ngoại trú lại giảm từ 26% vào năm 2008 xuống còn
23,8% vào năm 2012. Như vậy có thể thấy TYT xã là nơi người bệnh có khả năng tiếp
cận cao nhất nhưng trên thực tế tỷ lệ sử dụng dịch vụ tại đây lại giảm dần qua các năm.
Một số các rào cản dẫn tới thực trạng này đã được các nghiên cứu chỉ ra đó là do chất
lượng dịch vụ KCB, trang thiết bị và trình độ chuyên môn của cán bộ y tế [40].
Việc sử dụng DVYT nói chung và TYT nói riêng liên quan đến rất nhiều yếu tố.
Một nghiên cứu trước can thiệp nhằm tăng cường tiếp cận, sử dụng dịch vụ khám,
chữa bệnh y tế công lập tại huyện Như Xuân, tỉnh Thanh Hóa năm 2009 cho thấy: Tỷ
lệ người ốm trong khoảng thời gian 4 tuần trước thời điểm điều tra sử dụng KCB tại
TYT xã là cao nhất với 52,9%, BV huyện là 24,8% và BV tỉnh/TƯ chiếm 11,4%.
Nhóm người có thu nhập thấp tiếp cận với dịch vụ KCB tại TYT xã với tỷ lệ cao nhất
(68,9%) và thấp nhất ở nhóm giàu với tỷ lệ (25,0%). Ngược lại, người giàu có tỷ lệ
tiếp cận dịch vụ KCB tại BV huyện và BV tỉnh/TƯ là cao nhất với tỷ lệ lần lượt là
46,9% và 18,8%, và thấp nhất ở nhóm thu nhập thấp (15,6% và 7,1%). Liên quan tới
sự khác biệt trong CSSK và sử dụng dịch vụ giữa các nhóm dân cư, Phạm Huy Dũng
và cộng sự đã tiến hành nghiên cứu phân tích số liệu theo dõi dọc ở huyện Ba Vì, Hà
Tây. Kết quả cho thấy có sự chênh lệch về tỷ lệ tử vong, tỷ lệ mắc bệnh và khả năng
tiếp cận DVYT giữa các nhóm xã hội khác nhau. Nhóm nghèo, cận nghèo có tỷ lệ tử
vong, tỷ lệ mắc bệnh cao hơn nhưng khả năng tiếp cận các dịch vụ CSSK lại thấp hơn
so với nhóm khá, giàu [16].
1.3.3 Khả năng đáp ứng nhu cầu của trạm y tế về dịch vụ khám chữa bệnh
Việc đáp ứng nhu cầu người dân của TYT có liên quan mật thiết đến việc lựa chọn
hình thức sử dụng DVYT. Tuyến YTCS có các cơ sở vật chất, trang thiết bị và nhân
lực y tế, và những dịch vụ hỗ trợ thích hợp như chẩn đoán và hậu cần, xét nghiệm.
Qua nhiều nghiên cứu trước đó, lý do chủ yếu người dân không đến trạm là vì không
tin tưởng trình độ chuyên môn bác sĩ, thiếu trang thiết bị, thiếu thuốc. Nghiên cứu tại
xã Dương Liễu đã đưa ra kết quả rằng 30,9% người dân cho rằng TTB ở trạm y tế xã

không đủ và lạc hậu nên họ không lựa chọn hình thức KCB ở đây [26]. Khi nhu cầu
không được đáp ứng thì người dân chắc chắn sẽ không sử dụng DVYT ở tuyến dưới
mà thông tuyến lên trên.

9


Hình 1.1: Sơ đồ cơ cấu tổ chức trạm y tế
Cơ cấu cán bộ ở TYT còn yếu và chưa đáp ứng được nhu cầu KCB của người dân.
Nhân lực của trạm y tế được quy định theo khu vực; được bố trí từ 4 đến 6 cán bộ/trạm
y tế; tối thiểu là 5, tối đa là 10 biên chế/trạm y tế. Cán bộ y tế xã phải có trình độ theo
tiêu chuẩn nghiệp vụ ngạch viên chức ngành y tế với cơ cấu các chức danh chuyên
môn như: Bác sỹ, Y sỹ đa khoa, Y sỹ Y học dân tộc, Y sỹ sản nhi, Hộ sinh, Y tá để
thực hiện và phối hợp thực hiện các nhiệm vụ theo quy định. Nhu cầu chăm sóc sức
khỏe ban đầu là những yêu cầu cấp thiết của nhân dân được cán bộ y tế xác định nhằm
dự phòng bệnh tật, kéo dài cuộc sống với mục tiêu cuối cùng là nâng cao chất lượng
cuộc sống của nhân dân. Nhu cầu chăm sóc sức khỏe ban đầu của nhân dân chính là
những nhu cầu theo 10 nội dung chăm sóc sức khỏe ban đầu và mô hình bệnh. Hiện
nay, theo quy định mới thì cần 12 cán bộ/ trạm tuy nhiên rất ít nơi đáp ứng đủ điều
kiện này.
Một nghiên cứu về hoạt động khám chữa bệnh tại trạm y tế xã phường cho kết quả
hoạt động khám chữa bệnh : trung bình một TYT xã là 7760 lượt người/ năm. Số
lượng khám, chữa bệnh tại TYT xã có BS (7951 lượt/người/năm) cao hơn số lượt
khám tại TYT xã không có BS (6545 lượt/người/ năm). Tần suất một người dân khám
trong năm là 0,89 lần (qui định chuẩn 0,6 lần/người/ năm). Tỷ lệ đối tượng BHYT
10


khám chữa bệnh tại TYT xã là 84,6% [17]. Tỷ lệ BS Đại học làm việc ở TYT còn
thấp, chủ yếu học chuyên khoa hoặc liên thông, thậm chí có nhiều trạm còn không có

bác sĩ. Chính vì thế nhiều nhu cầu của người dân cũng không được đáp ứng ở cơ sở
tuyến dưới [3].
Trong hệ thống chăm sóc sức khỏe công lập, TYT là nơi đầu tiên người dân có thể
tiếp cận khi ốm đau, dịch bệnh và các vấn đề sức khỏe liên quan. Nhiệm vụ của TYT
là thực hiện các dịch vụ kỹ thuật chăm sóc sức khỏe ban đầu, bao gồm triển khai các
dịch vụ khám chữa bệnh, các chương trình y tế quốc gia (tiêm chủng mở rộng, chăm
sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em, phòng, chống các bệnh xã hội, các bệnh không lây
nhiễm...), đồng thời phát hiện sớm và triển khai các biện pháp phòng, chống dịch bệnh
xảy ra trên địa bàn. Thực tế cho thấy, TYT là những đơn vị y tế phát hiện bệnh sớm
nhất và giải quyết hầu hết (khoảng 80%) những chứng bệnh đơn giản cho nên được
xác định là người gác cổng của ngành y tế. Các dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu
được cung cấp đến tất cả mọi người dân, kể cả khu vực miền núi, vùng sâu, vùng xa,
vùng đồng bào dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo. Việt Nam đã được cộng đồng quốc
tế công nhận là điểm sáng trong việc thực hiện các Mục tiêu Phát triển thiên niên kỷ về
y tế như: tuổi thọ trung bình tăng, giảm tỷ lệ suy dinh dưỡng ở trẻ em, giảm tỷ lệ tử
vong mẹ, tử vong trẻ em dưới 5 tuổi. Việt Nam cũng là một trong mười quốc gia được
quốc tế đánh giá có tốc độ giảm tỷ lệ tử vong mẹ và tử vong trẻ sơ sinh nhanh nhất.
Tuy rất thành công trong công tác y tế dự phòng và CSSK nhưng chúng ta vẫn cần tiếp
tục hoàn thiện, nâng cao hệ thống cán bộ để đáp ứng tốt hơn nhu cầu KCB của người
dân.
1.4 Các yếu tố ảnh hưởng đến việc sử dụng dịch vụ khám chữa bệnh
Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra một số những yếu tố ảnh hưởng đến việc KCB ở
TYT gồm khoảng cách đến TYT, yếu tố bệnh, giá cả, yếu tố nhân khẩu học (tuổi, giới
tính, nghề nghiệp, trình độ học vấn), BHYT.
1.4.1 Tiếp cận
Khoảng cách từ nơi ở đến các cơ sở khám chữa bệnh có ảnh hưởng đến cơ hội tiếp
cận dịch vụ y tế và CSSK của người dân, đặc biệt là người nghèo. Phần lớn người
nghèo sống ở nơi có vị trí địa lý khó khăn, dân số sống thưa thớt nên việc đi lại thường
khó khăn và việc đi từ nơi ở đến cơ sở khám chữa bệnh cũng xa hơn. Mối liên quan
này đã được chứng minh trong các nghiên cứu trong và ngoài nước. Nghiên cứu trên 3

11


TYT về sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu tại Pakistan, kết quả nghiên cứu
cho thấy có mối liên quan giữa sử dụng dịch vụ tại TYT với khoảng cách và thời gian
tiếp cận dịch vụ [46]. Ngoài ra nghiên cứu tại Enugu, Nigeria cũng cho thấy 37%
người dân không đến trạm chữa bệnh vì khoảng cách quá xa [48]. Các nghiên cứu tại
Santa Cruz, Brazil và South Africa cũng cho thấy rằng khoảng cách có ảnh hưởng đến
việc người dân có đến trạm khám chữa bệnh hay không [54],[55]. Không chỉ nghiên
cứu ngoài nước mà cả những nghiên cứu trong nước cũng tìm thấy mối mối liên quan
này. Nghiên cứu tại xã Dương Liễu cho thấy mối liên quan giữa người có khoảng cách
tới trạm dưới 5km và trên 5km với việc sử dụng KCB tại TYT xã. Sự khác biệt này là
có ý nghĩa thống kê ( X2= 4,82 , p=0,006) [26].
Do đó, khoảng cách giữa nơi ở và cơ sở khám chữa bệnh xa cũng là rào cản lớn
đối với việc tiếp cận DVYT và CSSK của người dân nói chung và người nghèo nói
riêng. Mặc dù tính đến năm 2007 số lượng TYT tăng rất mạnh, hầu như xã nào cũng
có TYT. Theo Thống kê: 98,2% số xã phường có trạm y tế; 100% xã phường có cán
bộ y tế hoạt động; 69,4% số xã có bác sĩ; 93,7% số xã có nữ hộ sinh hoặc y sĩ sản nhi;
84,5% số thôn bản có cán bộ y tế hoạt động nhưng việc tiếp cận với các cơ sở khám
chữa bệnh của người dân ở những vùng khó khăn và người nghèo vẫn còn khá xa [1].
Nhờ chương trình 135 (xây dựng cơ sở hạ tầng cho những xã nghèo) nên trong những
năm gần đây, tỷ lệ các xã có trạm y tế xã đã tăng lên, nhờ đó khoảng cách từ các hộ
gia đình ở những xã này đến trạm y tế đã ngắn hơn nhiều. Năm 2008, từ nơi ở đến
trạm y tế xã gần nhất là 7,9 km, đến năm 2010 chỉ còn 1,6 km. Bộ y tế vẫn đang có
những chính sách giúp người dân dễ dàng tiếp cận với TYT thông qua truyền thông
sức khỏe và cán bộ thôn bản [10].
1.4.2 Yếu tố bệnh
Yếu tố bệnh ảnh hưởng rất nhiều tới việc lựa chọn hình thức khám chữa bệnh của
người dân tại TYT. Ở Việt Nam, thông thường với những bệnh nhẹ như cảm cúm,
nhức đầu người dân thường dùng thuốc theo kinh nghiệm hoặc để tự khỏi. Họ chỉ tới

các CSYT khi bệnh không khỏi hay có tiến triển nặng hơn. Hiện nay các chương trình
khám và phát thuốc hàng tháng cho các bệnh mãn tính như tăng huyết áp, tiểu
đường…đang được tiến hành ở TYT. Do đó tỷ lệ người bệnh mãn tính ở trạm rất cao
và gần như không thay đổi nhiều. Không chỉ ở nước ta mà trên thế giới các nghiên cứu
cũng chỉ ra mối liên quan giữa yếu tố bệnh và lựa chọn dịch vụ y tế của người dân. Tại
12


South Africa, người dân khi mắc các bệnh tiểu đường, huyết áp, lao, hen phế quản chủ
yếu sử dụng dịch vụ tại TYT [55]. Bên cạnh đó, nghiên cứu tại 16 trạm y tế xã của tỉnh
Hải Dương cho thấy 25% người bệnh chuyển tuyến vì bệnh nặng[18]. Ngoài ra, 38,6%
người dân trong nghiên cứu ở Quảng Xương, Thanh Hóa không đến trạm vì bệnh nhẹ.
Tuy vậy vẫn có rất nhiều nghiên cứu chỉ ra bệnh nhẹ là lý do chính để người dân lựa
chon trạm y tế là nơi khám chữa bệnh. Theo nghiên cứu của Hoàng Trung Kiên tiến
hành tại xã Ngũ Hiệp, huyện Thanh Trì, thành phố Hà Nội có 80% người ốm sử dụng
dịch vụ KCB tại TYT với lý do bệnh nhẹ [19]. Tỷ lệ này trong nghiên cứu của Lê
Thục Lan là 50,7% [23]. Nghiên cứu của Phạm Khánh Tùng cho thấy việc lựa chọn
TYT là nơi KCB chiếm đến 67,6% người được hỏi trong khi tỷ lệ lựa chọn bệnh viện
chỉ chiếm 20,4% [33]. Vì vậy có thể nói yếu tố bệnh có liên quan đến việc người dân
lựa chọn nơi khám chữa bệnh.
1.4.3 Yếu tố giá cả
Trong các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng chi phí cho dịch vụ cao và không
hợp lý có liên quan đến việc người dân không sử dụng DVYT. Nghiên cứu tại Nigeria
có 27% người dân không sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu vì giá quá đắt
[48]. Còn đối với nghiên cứu ở trong nước thì tỷ lệ không sử dụng KCB tại trạm y tế
vì giá không phù hợp thấp hơn nhiều. Trong nghiên cứu ở xã Dương Liễu tỷ lệ này chỉ
chiếm 3.3 % [26]. Tuy tỷ lệ khác nhau nhưng không thể phủ nhận giá cả chưa phù hợp
là rào cản cho người dân đến KCB ở TYT cũng như các CSYT khác. Hầu như người
sử dụng dịch vụ phải chấp nhận sử dụng dịch vụ khi có vấn đề về sức khỏe, đặc biệt
trong các trường hợp cấp cứu nghiêm trọng hay ảnh hưởng tới tính mạng; việc lựa

chọn DVYT không còn phụ thuộc vào giá dịch vụ. Tuy nhiên, trong các trường hợp
bệnh nhẹ và vừa thì vấn đề giá cả dịch vụ có những ảnh hưởng trực tiếp tới việc lựa
chọn và sử dụng DVYT.
Hiện nay, chi phí KCB đến từ hai nguồn chính: BHYT và tiền từ túi người dân.
Tuy vậy, nguồn tài chính công (mà chủ yếu ở đây là ngân sách nhà nước và bảo hiểm
y tế) chiếm tỷ trọng nhỏ so với nguồn tài chính tư (chi trả trực tiếp từ tiền túi của
người bệnh) trong công tác khám chữa bệnh. Theo báo cáo chung tổng quan ngành y
tế năm 2013, ở nước ta, chi phí từ tiền túi của hộ gia đình chiếm khoảng 92,7% số chi
tư cho y tế và trên 50% tổng chi của toàn xã hội cho y tế [7]. Tỷ lệ này ở Việt Nam cao
hơn đáng kể so với mức trung bình của thế giới (54,8% so với 17,7%). Còn so với các
13


nước thu nhập trung bình thấp, tỷ lệ này ở nước ta vẫn cao hơn 2,7% (54,8% so với
52,1%) [17]. Như vậy, có thể thấy tỷ lệ chi phí từ tiền túi của hộ gia đình so với tổng
chi cho y tế là khá lớn, trong khi thu nhập của người dân thấp, đây là lí do người dân
gặp nhiều khó khăn trong việc tiếp cận với các DVYT. Hiện nay nhà nước đang cố
gắng tăng ngân sách cho chi tiêu công trong y tế nhưng chưa dạt được kết quả mong
muốn. Báo cáo chung tổng quan ngành y tế năm 2015 cho biết tỷ lệ tiền túi của hộ gia
đình cho y tế trong tổng chi y tế đã tăng từ 44,8% năm 2010 lên 48,8% năm 2012 [3].
Chính vì thế cần có những chính sách phù hợp để giảm chi phí tư từ người dân để họ
có thể sử dụng DVYT dễ dàng hơn.
1.4.4 Yếu tố bên cung
Hiện nay có thể thấy rất rõ khả năng cung ứng các DVKCB của TYT có ảnh hưởng
đến sử dụng DVYT của người dân. Như trong nghiên cứu xã Dương Liễu có đến 50%
người dân không đến TYT vì cho rằng TYT không có đủ TBT cũng như không tin
tưởng trình độ chuyên môn của bác sĩ [26]. Điều này cũng được đề cập trong nghiên cứu
ở Như Xuân, Thanh Hóa [20]. Thực tế, sự phân bổ các cơ sở y tế cũng như nhân lực
trong ngành y tế ở nước ta hiện nay vẫn còn những bất cập. Phần lớn các cơ sở khám
chữa bệnh có cơ sở vật chất tốt và đội ngũ cán bộ y tế có trình độ chuyên môn cao tập

trung ở tuyến trung ương, các thành phố lớn và các khu vực thành thị (số cán bộ y tế ở
đô thị chiếm 51,3% trong khi dân số đô thị chỉ chiếm 28,1% dân số cả nước). Trong khi
đó phần đông người nghèo ở nước ta lại sống ở các vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu,
vùng xa,... Vì vậy, việc tiếp cận với các dịch vụ y tế và CSSK có chất lượng của người
nghèo ở những vùng này là khá khó khăn.
Bảng 1.2: Tỉ lệ nhân lực y tế phân theo trình độ chuyên môn và theo tuyến năm
2008 [8]

Cơ cấu trình độ
chung
Phân theo tuyến (%)
Trung ương
Tỉnh
Huyện

Tổng

Tổng số
NLYT
100

Sau đại
học
2,2

Đại học

14,5
36,8
27,6

21,1
100,0

54,2
41,1
5,0
0,0
100,0
14

Sơ học

23,0

Cao đẳng,
Trung học
54,6

22,1
35,7
22,9
22,1
100,0

8,4
30,9
28,2
26,1
100,0


13,3
32,5
18,6
12,9
100,0

17,3


Từ bảng trên thấy rằng: Phần lớn nhân lực y tế được đào tạo trình độ cao (trên đại
học) tập trung ở tuyến trung ương (54,2%) tỉnh (41,1%). Tuyến huyện và xã, nhân lực
y tế chủ yếu có trình độ cao đẳng và trung học. Số liệu báo cáo của Bộ Y tế Việt Nam
cũng như một số nghiên cứu gần đây về nguồn nhân lực y tế cũng phản ánh tình trạng
thiếu nguồn nhân lực y tế ở khu vực nông thôn cả về số lượng, cơ cấu và chất lượng
cán bộ y tế [2],[42]. Do vậy Bộ Y tế cần có thêm chính sách để đảm bảo và duy trì
nguồn nhân lực có chất lượng ở khu vực nông thôn, đủ khả năng cung ứng dịch vụ
CSSKBĐ cho người dân ở khu vực này.
1.4.5 Yếu tố cá nhân
1.4.5.1 Tuổi:
Thực trạng sử dụng dịch vụ y tế bị ảnh hưởng bởi tình trạng sức khỏe (yếu tố
bệnh) và nhu cầu CSSK của đối tượng. Trên thực tế, nguy cơ mắc bệnh và nhu cầu của
các đối tượng ở độ tuổi khác nhau là không giống nhau. Trẻ em là một trong những
đối tượng dành được sự quan tâm nhiều nhất của gia đình cũng như xã hội - đây cũng
là đối tượng dễ nhiễm bệnh, do đó nhu cầu sử dụng DVYT của nhóm đối tượng này
khá cao. Ngoài ra, do đặc tính suy thoái về thể chất, người già thường có nhiều nguy
cơ mắc bệnh hơn so với lứa tuổi trẻ hơn, do vậy mà nhu cầu CSSK ở nhóm tuổi này
thường cao hơn. Theo tác giả Dương Huy Lương khi nghiên cứu tình hình sức khỏe
của người già ở một vùng nông thôn thì tỷ lệ sử dụng DVYT ở nhóm tuổi trên 60 là
70,7% trong khi tỷ lệ này nhóm tuổi khác chỉ dao động 45 – 60% [22]. Điều tra mức
sống dân cư năm 2012 cũng cho kết quả tỷ lệ sử dụng DVYT cao nhất ở người trên 60

tuổi, chiếm 64,8% và trong các nhóm 0-4 tuổi, 5 – 14 tuổi, 15-24 tuổi, 25 – 39 tuổi, 40
– 59 tuổi lần lượt là 59,7%;33,7%; 21,9%; 32,4% và 43,0% [37]. Ngoài ra các nghiên
cứu của nước ngoài cũng cho thấy sự khác biệt này. Theo nghiên cứu ở Guganda, tuổi
có ảnh hưởng đến việc sử dụng DVYT (p=0,0281) [47].
1.4.5.2 Giới tính
Hiện nay chưa có nhiều nghiên cứu tìm thấy mối liên quan giữa giới tính và việc
sử dụng DVYT. Tuy nhiên, trong nghiên cứu ở Pakistan thì lại nói rằng phụ nữ ít tiếp
cận dịch vụ y tế hơn nam. Điều này là do địa vị trong gia đình và xã hội thấp hơn so
với nam giới [46]. Hiện nay, ở nước ta sự phân biệt giữa nam nữ đã được kiểm soát
nhưng vẫn còn xuất hiện ở rất nhiều nơi. Bên cạnh đó, nguy cơ mắc nhiều bệnh cũng
15


khác nhau đáng kể theo giới tính vì những đặc điểm cả về về sinh học cơ thể và thói
quen sinh hoạt, lao động. Do đó, tỷ lệ sử dụng DVYT cũng có sự khác nhau ở nam và
nữ giới. Theo Trần Thị Kim Lý, phụ nữ có nhiều gánh nặng công việc gia đình cũng
như tiếp xúc các yếu tố bất lợi cho sức khỏe nhiều hơn dẫn đến khả năng mắc bệnh
cao hơn đàn ông [25]. Ngoài ra, người sử dụng các DVYT không nhất thiết là người
có vấn đề về sức khỏe như ốm đau bệnh tật, chấn thương; họ có thể là người đi kiểm
tra sức khỏe định kì, hoặc phụ nữ đi khám thai, nạo thai, đặt vòng, đẻ, tiêm phòng…
Các cuộc điều tra mức sống dân cư gần đây cũng cho những kết quả về tỷ lệ sử dụng
DVYT cao hơn ở nữ giới; cụ thể, tỷ lệ này lần lượt qua các năm 2008, 2010, 2012 là
37,1%; 45,1%; 43,6%, trong khi tỷ lệ tương ứng ở nam giới thấp hơn chỉ là 30,6%;
36,6% và 34,6% [38].
1.4.5.3 Trình độ học vấn
Trình độ học vấn có ảnh hưởng đến việc sử dụng dịch vụ KCB của người dân.
Điều này lý giải do học vấn cao không chỉ thể hiện sự hiểu biết chung của mọi người
rộng hơn mà còn nâng cao nhận thức về sức khỏe và chăm sóc sức khỏe. Vì vậy, trình
độ học vấn cũng là một trong những yếu tố quan trọng tác động đến sức khỏe con
người. Nhóm người có trình độ học vấn cao thường có tình trạng sức khỏe tốt và tuổi

thọ cao. Họ có thói quen chăm sóc sức khỏe thường xuyên như khám định kỳ, khám
tổng thể hằng tháng hằng năm trong khi những người có trình độ thấp hơn lại không
thấy được tầm quan trọng của việc này. Chính vì thế họ có sử dụng DVYT thường
xuyên hơn. Nghiên cứu ở Enugu cũng chỉ ra trình độ học vấn, hiểu biết đóng vai trò
quan trọng trong việc sử dụng CSSKBĐ: 80% người có nhận thức, hiểu biết về CSSK
thì sử dụng dịch vụ KCB [48]. Không chỉ vậy, rất nhiều nghiên cứu trong nước đã tìm
ra mối liên quan đến học vấn và việc sử dụng dịch vụ KCB: nghiên cứu tại xã Dương
Liễu, nghiên cứu tại Ngô Quyền, Hải Phòng [24],[26]. Nghiên cứu của Nguyễn Thị
Loan năm 2013 chỉ ra mối liên quan về trình độ học vấn giữa người có trình độ học
vấn trung học phổ thông trở xuống có xu hướng sử dụng dịch vụ tại TYT nhiều hơn
người có trình độ từ trung cấp trở lên (15,7% và 4,5%), sự khác biệt có ý nghĩa thống
kê (X=5,3 và p=0,021) [24]. Kết quả của nhóm nghiên cứu tại Chí Linh, Hải Dương
tìm thấy có mối liên quan giữa trình độ học vấn cụ thể là việc tự đi mua thuốc về điều
trị, KCB nội trú và ngoại trú (p<0,05) [12].

16


1.4.5.4 Nghề nghiệp
Nhiều nghề do đặc trưng ngành dẫn tới người lao động có nguy cơ cao mắc bệnh.
Ví dụ như bệnh về đường hô hấp với các giáo viên hay bệnh đau lưng với dân văn
phòng. Chính vì thế, những người có công việc khác nhau thì khả năng mắc bệnh
cũng khác nhau tùy theo môi trường làm việc và cách làm việc. Nghiên cứu ở
Uganda cũng cho kết quả rằng sự khác biệt về nghề nghiệp thì lựa chọn DVYT khác
nhau (p=0,009) [47]. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu tại xã Dương Liễu cũng cho thấy
nghề nghiệp (OR= 3,83, p<0,05) có mối liên quan đến việc sử dụng dịch vụ KCB tại
TYT [26].
1.5 Khung lý thuyết
Khung lý thuyết được xây dựng chính dựa trên mô hình tiếp cận và sử dụng dịch
vụ y tế của Ann Day Lu và Andersen xác định các biến số và công cụ nghiên cứu

[44],[45],[57]. Khung bao gồm 5 thành phần: chính sách y tế, đặc điểm hệ thống
phân phối y tế, đặc tính dân số, sử dụng dịch vụ y tế và sự hài lòng của người dân,
trong đó chính sách y tế đóng vai trò trung tâm. Ngoài ra nghiên cứu có tham khảo
mô hình “Khung tiếp cận” của Obrist (2007) thuộc dự án ACCESS (ACCESS
Project). Đây là khung lý thuyết để phân tích nhằm đánh giá và can thiệp để tăng
cường việc tiếp cận CSSK tại các quốc gia đang phát triển. Khuôn khổ bao gồm 5
khía cạnh tiếp cận để CSSK như tính sẵn có, khả năng tiếp cận, khả năng chi trả, tính
đầy đủ và tính chấp nhận [43].

17


×