Tải bản đầy đủ (.docx) (16 trang)

ĐH KHXHNV - ĐỀ CƯƠNG MÔN VĂN HÓA TRUNG QUỐC GV TS NGUYỄN NGỌC THƠ - USSH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.32 KB, 16 trang )

ĐỀ CƯƠNG MÔN VĂN HÓA TRUNG QUỐC – ĐH KHXHNV

1/ Nguồn gốc và quy luật âm dương. So sánh âm dương và lưỡng nghi?
- Nguồn gốc triết lý âm dương bao gồm 2 cặp đôi cơ bản: Mẹ - Cha; Đất –
Trời. Cặp mẹ và đất gộp chung là thuộc tính, thuộc tính âm. Cha và Trời gộp
chung là thuộc tính Trời, thuộc tính dương. Âm dương phải gắn kết để quy
định nên vạn vật.
- Triết lý lưỡng nghi có 2 cực nóng và lạnh. Nóng  Dương; Lạnh Âm.
- Âm cực sinh dương, dương cực sinh âm.
- Trong âm có dương và trong dương có âm.
2/ So sánh tam tài và tứ tượng?
- Tam tài bao gồm Thiên(+) – Địa(-) – Nhân(+/-)
- Từ âm dương sang tam tài:
Mẹ +Cha  Nhân
Đất + Trời  Địa + Thiên
- Lưỡng nghi có 2 cưc nóng và lạnh. Nóng Dương; Lạnh Âm
Chuyển hóa từ Nóng Lạnh: Có mùa hoa nở (xuân), mùa lá rụng (thu)
Vậy từ lưỡng nghi (2 cực) phát triển thành 4 mùa xuân hạ thu đông, người ta
đã trừ tượng hóa, triết lý hóa thành tứ tượng.
3/ Tam Tài sang Ngũ Hành
- Trong Tam tài có 2 bộ:
+ Đất – Nước – Lửa  Thổ - Thủy – Hỏa
+ Cây – Đất – Kim Loại  Mộc – Thổ - Kim
2 bộ này kết hợp với nhau tạo nên Kim – Mộc – Thủy –Hỏa – Thổ
4/ Tứ Tượng sang Bát Quái


- Tứ tượng có 4 tượng, mỗi tượng có 2 hào: Thái Dương ( ); Thái Âm ( );
Thiếu Dương ( ); Thiếu Âm (==).
- Từ tứ tượng sang bát quái là quá trình nhân đôi của mỗi tượng. Mỗi tượng
được nhân đôi bằng cách lấy 2 hào gốc đặt lên trên nó 1 hào âm hoặc hào


dương để cho ra thêm 2 sản phẩm. Từ đó cho ra Càn, Đoài, Ly, Chấn, Tốn,
Khảm, Cấn, Khôn.

5/ Hệ Can chi và tử vi?
- Hệ can: can gồm 10 yếu tố (Giáp, ất, bính, đinh, mậu, kỷ, canh, tân, nhâm,
quý)xây dựng trên cơ s73 5 hành phối hợp với âm dương (5x2) mà thành. Vì
vậy, hệ này còn gọi là thập cam hoặc thiên can
- Hệ chi: có 12 yếu tố (tí, sửu, dần, mão, thìn, tỵ, ngọ, mùi, thân, dậu, tuất, hợi).
chúng gồm 6 cặp âm dương cũng do ngũ hành biến hóa mà ra, cho nên được
gọi là thập nhị chi hay địa chi. Tên mỗi chi ugn71 với một con vật, toàn là
những con vật sống trên mặt đất, gần gũi với cuộc sống của người nông dân.
- Tử vi:

6/ Bối cảnh ra đời của các học thuyết?
- Thời Xuân Thu loạn (hàng trăm nước đánh nhau trong đó có 14 nước), xuất
hiện nhu cầu thống nhất thiên hạ, thiên hạ thái bình. Xuất hiện rất nhiều nhà
hiền triết. Giai đoạn đó “Bách gia chư tử.”
7/ Nội dung triết lý nho giáo?
*Nội dung cơ bản của triết lý Nho gia: đào tạo quân tử.


+ Người quân tử phải tu thân: có đức, có tài.
+ Tiêu chí làm quân tử:
1. Đạt “đạo”: những mối quan hệ (ngũ luân)
Ngũ Luân thời Khổng Mạnh: Trung : Quân – Thần
Hiếu: Phụ – Tử
Nghĩa: Phu – Thê
Để: Huynh – Đệ
Hữu : Bạn bè
Sang thời Hán còn lại Tam Cương: Trung – Hiếu – Nghĩa.

2. Đạt “ đức”:
Thời Khổng Tử: Nhân – Trí – Dũng
Thời Mạnh Tử: Nhân – Lễ – Nghĩa – Trí
Thời Hán: Nhân – Lễ – Nghĩa – Trí – Tín.
3. Đạt “văn”: nho – y – lý – số (lục nghệ: lễ, nhạc, xạ, ngự, thư, số)
- Làm công dân tốt đạt 2 tiêu chí đầu, muốn làm quan phải đạt thêm tiêu chí
thứ 3
Phương châm của người quân tử là Tu thân, tề gia, trị quốc, bình thiên hạ.
 Muốn thực hiện thành công phải có 2 phương châm cụ thể:
+Nhân trị: cai trị bằng tình người (Khổng Tử bị xua đuổi vì Nhân trị)
+Chính danh: có lý (quân ra quân, thần ra thần) để có tôn ti trật tự.
8/ Hán Nho và Tống nho?
- Thời Tần: TTH là người rất ghét Nho gia, ghét Khổng Tử, do ông thống nhất
và cai trị thiên hạ bằng luật pháp, máu lửa và thanh kiếm trong khi Khổng Tử
lại đề cao “nhân trị”. Vì thế TTH tiến hành việc đốt sách chôn Nho, bộ Lục
Kinh bị đốt trong đó có cuốn Kinh Lễ cháy chỉ còn 2 chương được nhập vào
Kinh Lễ, nên cuối cùng chỉ còn lại Ngũ Kinh. Vào thời kì này Pháp gia thắng
Nho gia ( nhưng Kinh vẫn mạnh hơn Kiếm vì khi Nho sinh về quê, họ phân


công nhau ghi nhớ lời thầy dạy, nguyên bản không đúng 100%, nhưng đại ý thì
không đổi)
- Thời Hán:
+ Nho giáo Khổng – Mạnh trở thành Nho giáo chính thống
+ Hán Vũ Đế sai Đổng Trọng Thư san định lại hệ tư tưởng trong xã hội. Trong
quá trình nghiên cứu, ông nhận thấy lí do vì sao học thuyết của Khổng Tử
không được áp dụng vì tính ủy mị của “nhân trị”. Vì vậy, quyết định nên thay
“nhân trị” bằng “pháp trị”. Tuy nhiên, một mặt nhà Hán đề cao Nho gia, thực tế
họ vẫn cai trị theo lối Pháp gia. Họ chủ trương “ngoại Nho, nội Pháp”. Đây là
chính sách 2 mặt với mục đích là mị dân, lấy “Nho” và “Nhân trị” mềm mỏng

làm cái bình phong để che đậy cho lối cai trị pháp luật cứng rắn.\
+ Lí thuyết này đề cao “thiên nhân cảm ứng” xuất hiện khái niệm “thiên
mệnh”. Trong đó, “mệnh” là do Trời sắp đặt, mệnh Trời đề xuất luân thường
đạo lý (gọi là “thiên đạo”), ai cải mệnh Trời là làm trái đi luân thường đạo lý.
Con người chỉ có thể tuân theo thiên đạo, ai vi phạm thiên đạo thì sẽ bị con của
ông thiên là “thiên tử” trừng trị. Đó là lí do vì sao vua đứng trên luật.
+ Vào thời kì này, Nho gia hấp thụ Pháp gia.
+ Pháp gia là học thuyết do Tôn Tử là người đề xướng và Hàn Phi Tử là người
hoản thiện. Trong học thuyết này đề ra “tôn công phế tư”, nguyên bản là pháp
luật trên vua. Tuy nhiên khi hấp thụ vào Nho gia thì pháp luật lại dưới vua.
Thiên mệnh >< Thiên lý
- Thiên mệnh là của Nho giáo thời Hán phát triển lên thời Tống Nho. Từ thiên
mệnh chuyển thành thiên lý.


- Xét về bản chất: giảm đi yếu tố huyễn hoặt, mượn khoa học để nói nhân sinh,
đưa các luân lý, quan hệ xã hội của con người tuân thủ theo quy luật vận động
của vũ trụ và tạo hóa ( bởi vũ trụ và tạo hóa có quy luật âm dương mà không ai
có thể cãi lại được)
Thiên lý mang tính khoa học hơn

10/ Tam Cương có những giá trị nào? Tam Cương khác Ngũ Thường ở chỗ
nào? Tam Cương khác Ngũ Luân ở chỗ nào?
- Tam Cương có vào thời Hán, có 3 giá trị: Trung; Hiếu; Nghĩa.
- Tam Cương là đạo; Ngũ Thường là đức.
- Tam Cương là cái lõi của Ngũ Luân đã gạt đi 2 giá trị là: quan hệ anh em và
quan hệ bằng hữu.
11/ Vẽ bát quái đồ

12/Miên Man là những ai? Vì sao xuống VN/ĐNÁ?



Miên Man: Liên minh nhiều bộ lạc ở Hoàng Hà, sau khi chạy loạn về miền

-

Nam.
- Thời Tam Hoàng gọi là Miêu tộc, Tam Miêu, Vưu Miêu.
- Thời Chu: Nam Man. Phân hóa thành tiền dân nước Sở.
- Thời Nữ Oa: xuất hiện mẫu hệ, tồn tại song song với xã hội phụ hệ (thờ Bàn
Hồ).
- Thời Tần - Hán: Trung Nguyên chinh phục miền Nam. Một bộ phận Miêu
Man hội nhập vào tộc Hán.
- Thời Minh: Miêu Man bị sát hại ở Quý Châu. Số còn lại phát triển thành các
dân tộc Miêu, Dao, Xá,...
13/ Nguồn gốc người Quảng Đông, Triều Châu?
Người Triều Châu: được mệnh danh là người Do Thái của Châu Á, gốc

-

Mân Nam, định cư ở Đông Bắc Quảng Đông. Họ di cư sang VN bằng
đường biển . hiện nay người Triều Châu sống ở: Thái Lan, VN, Miến
Điện, Singapore
Người Quảng Đông: còn được gọi là Quảng Phủ, do người Nam Việt kết

-

hợp với người Hán. Họ di cư sang VN nhiều nhất là vào thời Đường.
Được xem như chị cả của vùng Hoa Nam
Nơi cư trú:

+ SG- Chợ lớn
+ Thủ Dầu 1
+ Biên Hòa
+ các tỉnh miền tây (từ sông Hậu đổ xuống)

Đông Di
TQ tiếp nhận chữ viết từ Đông Di
Truyền thuyết: thủ lĩnh Đông Di là Si Vưu
- Người Tiên Ty: gốc Altai phía Đông, một bộ phận tổ tiên Mông Cổ, tự
-

nguyện Hán hóa.
Người Khitan: thời Bắc Ngụy, Tiên Ty mất, Khiết Đan ở Liêu Đông phát
triển đế quốc Liêu, thịnh hành 100 năm sau thời Đường.


-

Người Nữ Chân / Mãn Châu: cuối Liêu, tộc Nữ Chân phát triển mạnh,
thành lập nước Kim. 1125, Kim diệt Liêu (Khiết Đan). Bộ phận còn lại
lập Tây Liêu, tồn tại 93 năm nữa thì mất hẳn.

14/ Nguồn gốc Viêm – Hoàng?
- Lưu vực Hoàng Hà và Trường Giang có nhiều thị tộc và bộ lạc sinh sống.
Hoàng Đế là một trong những thủ lĩnh bộ lạc nổi tiếng nhất trong truyền
thuyết.
- Viêm Đế (Thần Nông) là thủ lĩnh một bộ lạc khác đồng thời với Hoàng Đế,
cư trú tại vùng Khương Thuỷ ở tây bắc Trung Quốc.
- Theo truyền thuyết Trung Hoa thì Viêm Đế có họ hàng thân tộc với Hoàng
Đế. Còn Xi Vưu là thủ lĩnh bộ tộc Cửu Lê.

- Có lần, Xi Vưu xâm chiếm vùng đất của Viêm Đế. Viêm Đế đem quân chống
lại nhưng thất bại. Viêm Đế đành chạy đến Trác Lộc, xin Hoàng Đế giúp đỡ.
Hoàng Đế liên kết các bộ lạc quyết chiến với Xi Vưu trên cánh đồng Trác Lộc.

Cuối cùng, Xi Vưu bại vong.
- Hoàng Đế rất được tôn sùng. Người đời sau đều cho rằng Hoàng Đế là thuỷ
tổ của người Hoa Hạ (tức dân tộc Hán ngày nay) và coi mình là con cháu của
Hoàng Đế. Viêm Đế và Hoàng Đế vốn thân thuộc nên sau này hai bộ lạc lại
hoà hợp, nên người Trung Quốc thường tự xưng mình là con cháu ViêmHoàng.
15/ Tại sao người Mông Cổ thờ sói


- Người Mông Cổ tự nhận mình là hậu duệ của chó sói, theo họ thì tổ tiên của
người Mông Cổ có nguồn gốc từ một con sói và một con hươu. Thành Cát Tư
Hãn còn được tôn xưng là Đại mạc Thương Lang (con sói xanh của trời).
Trong nền văn hóa du mục, sói là biểu tượng cho sức mạnh tinh thần của người
Mông Cổ, người Mông Cổ cho rằng sói chính là vị cứu tinh của đồng cỏ, là
biểu tượng mà con người gửi gắm linh hồn..
- Sói lại là kẻ thù hiện hữu của mọi sinh vật trên đồng cỏ. Sự đấu tranh sinh
tồn giữa các loài vật trên đồng cỏ với con vật tàn bạo, thông minh, lạnh lùng là
sói đã không cho phép bất kể một kẻ yếu ớt nào có thể tồn tại trên đồng cỏ.
Người Mông Cổ quan niệm rằng sói là thầy dạy cho những con ngựa Mông
Cổ có thể chạy hàng trăm dặm một ngày.
- Sói cũng dạy cho những chiến binh Mông Cổ gan dạ và mưu lược những kỹ
năng và chiến thuật trong chiến đấu. Người Mông cổ coi mình là con của sói,
ngay cả sau khi chết đi cũng để thân xác của mình trên đồng cỏ cho sói ăn, và
sói lại là phương tiện để đưa hồn người về với trời.
16/ Làng Hoa Tây
-


Trước đây rất nghèo khó, nhưng khởi nghiệp nhờ Ngô Nhân Bảo và con trai
ông, khởi phát từ giai đoạn 1980-1990. Năm 2003 diện tích được mở rộng là

-

-

30.000 km, dân số 30.000 người.
Xin hộ khẩu ở đây còn khó hơn xin ở Mỹ
Ban đầu Ngô Nhân Bảo mở những tập đoàn nhỏ chuyên sản xuát gang thép,
phân bon, xây dựng 1 loạt các công sở để làm việc
Điều kiện để làm rễ ở làng Hoa Tây:
+ Tốt nghiệp ít nhất là tiến sĩ các trường ĐH: Harvard, Oxford, Cambridge,
Singapore, Thanh Hoa, Bắc Kinh
+ Có ngoại hình, sắc đẹp


+ Khi được vào làng Hoa Tây sẽ có cuộc sống sung sướng.

-

Duy Ngô Nhĩ
Là một dân tộc Trung Á sống chủ yếu ở khu tự trị Tân Cương, Trung

-

Quốc.
585 Ishbara xưng Gokturk (Đột Quyết). Nhà Thanh chiếm năm 1759 và




cai trị đến năm 1864. Uyghur lập Cộng hòa Turkistan năm 1933, 1944

-

-


-

song sau 1949 lại trở thành khu tự trị Tân Cương thuộc Trung Quốc.
Tôn giá: Hồi giáo.
Choang
Gốc Âu Việt, con cháu bà Âu Cơ.
Nổi bật là Tết lồng – tồng (tết xuống đồng) mùng 3 tháng 3 âm lịch, cúng
3 món Tam sinh (heo, dê, bò), dựng cây neo, khấn vái...
Chữ Nôm Choang.
Chế độ thổ ty (12 vị thổ ty).
Tín ngưỡng Lưu Tam Thư, Hoa Bà, Hai Bà Trưng, phồn thực (thờ cóc)
theo “vạn vật hữu linh”.
Kinh Tam Đảo
Gốc Việt Nam.
Khi mưu sinh đánh cá ngoài biển, gặp bão dạt về đảo trú ở 3 hòn đảo Vạn
Vĩ (Quảng Tây) thấy điều kiện tự nhiên thuận lợi nên về dẫn theo bà con

-

dòng họ đến đây làm ăn sinh sống và cư trú đến nay.
Pha trộn văn hóa Việt – Hán.
Thờ Trần Hưng Đạo, tín ngưỡng tờ tổ tiên, Phật, Nho, Đạo..., tháng 8 giỗ

cha tháng 3 giỗ mẹ.

17/ Phật giáo Thiền Tông
- Thiền là tĩnh tâm để trí tuệ phát triển (Thiền và Phật giáo Bắc Tông khác
nhau ở chỗ Thiền chú trọng ở yếu tố cái tâm hơn là các hình thức bên
ngoài)
- Là 1 nhánh của Phật giáo, ra đời ở Ấn Độ, phát triển ở Trung Quốc.
Tổ Thiềm: Phật Thích Ca.


- Truyền đến đời 28 là Bồ Đề Đạt Ma thì được truyền sang TQ. Đến đời thứ 5
của Thiền Tông ở TQ là Hoằng Nhẫn thì được tách ra 2 phái là Bắc Thiền và
Nam Thiền. Bắc Thiền đến đời Đường bị tiêu diệt. Nam Thiền được chia thành
Ngũ Gia Thất Phái và tiếp tục được lưu truyền.
- Sự khác nhau:
+ Bắc Thiềm: tiệm tu (tu hằng ngày)
+ Nam Thiềm: đốn ngộ (vẫn lao động, giữ tâm tịnh và giác ngộ trong lúc lao
động).
Thiềm: tĩnh tâm để phát tuệ.
18/ Sự khác biệt trong tư tưởng của Lão Tử so với Khổng Tử?
- Lão Tử đề cao ĐẠO TỰ NHIÊN. Đạo của Khổng Tử là ĐẠO XÃ HỘI.
- Đạo tự nhiên: là quy luật vận động của tạo hóa, là mối quan hệ cân bằng,
hài hòa giữa con người với vạn vật và vũ trụ.
- Đạo xã hội: Ngũ luân (5 mối quan hệ cơ bản) + ĐỨC = Tam Cương Ngũ
Thường.
+ “Đức” của Khổng Tử: Nhân – Trí – Dũng (th. Hán thành Nhân – Lễ - Nghĩa
– Trí – Tín)
+ “Đức” của Lão Tử: cái thể hiện ra bên ngoài của cái ĐẠO, quy luật vận
động của vũ trụ.
19/ Hiện tượng chuẩn hóa tín ngưỡng dân gian

- Nguồn gốc: là do sức mạnh của chế độ điển chế, là do chịu ảnh hưởng của
tư tưởng Nho gia, người ta rất coi trọng yếu tố sắc phong của Nhà nước và coi
đó là điều bất di bất dịch và là tiêu chuẩn của tất cả các hành vi tín ngưỡng
khác. Vì vậy nó bị lần lượt các các tín ngưỡng nhỏ hơn: bị hòa nhập or bị nuốt
chửng hoặc tồn tại dưới dạng ngụy chuẩn. Thứ nhất là hòa nhập hoàn toàn. Thứ
hai là thụ động bị nuốt chửng. Thứ ba là ngụy chuẩn ( nội dung và hình thức


hoàn toàn khác nhau). Ví dụ: ngay cả bà Thiên hậu cũng phải chịu ảnh hưởng
của quan niệm là “nữ phải có nơi quy thuộc”.
20/ Nguồn gốc và thể của minh hôn
-Nguồn gốc: Nguồn gốc của minh hôn bắt nguồn từ tín ngưỡng sùng bái con
người ở Trung Quốc. Người Trung Quốc rất coi trọng việc thờ cúng tổ tiên.
Các cô gái chết khi chưa lập gia đình sẽ không có ai thờ cúng. Chính vì vậy,
người thân sẽ tổ chức âm hôn để họ được hương khói ở nhà chồng.
- Thể hiện: Về cơ bản, minh hôn cũng được tổ chức tương tự như đám cưới
dành cho người sống: phải thông qua người mai mối, hai bên gia đình qua nhà
nhau dạm ngõ, đến lúc cử hành hôn lễ cũng tổ chức cỗ bàn hết sức thịnh soạn.
Trong "đám cưới ma", họ hàng và bạn bè của người quá cố đều được mời đến
chung vui với "cô dâu, chú rể".
Duy trì liên kết gia tộc
Hôn lễ ở Trung Quốc thường được coi trọng, minh hôn cũng mang tính
chất đó, bởi vì ý nghĩa của nó là nối tiếp nhang khói gia tộc chứ không phải vì
giá trị tình cảm yêu thương của nam nữ. Minh hôn đóng vai trò quan trọng
trong xã hội Trung Quốc đặc biệt là đối với phụ nữ. Nền văn minh Trung Quốc
là theo phụ hệ, và con gái đều không có vị trí quan trọng ở trong gia đình cha
mẹ đẻ của mình. Thông qua cuộc hôn nhân này, cô được ghép vào phả hệ hoặc
được thờ cúng ở bàn thờ tổ tiên của gia đình chồng cô, đảm bảo con cháu để
chăm sóc cho tinh thần của mình từ cõi chết.
Loại minh hôn này cũng khá phổ biến ở một vài tỉnh thành ở Đài Loan,

trước hết người nhà của người con gái dùng bao đỏ gói sinh thần của người


chết lại và đặt trong đó một ít tiền, sau đó mang để ở trên đường, người thân
của cô gái sẽ đứng sẵn gần đó, khi có người nhặt được lập tức la to lên “ Anh rể
(Con rể)”, để người đó khó lòng mà từ chối được. Sau khi lấy bài vị của cô gái
về, nếu sau này người đàn ông đó lấy vợ nữa, trước hết phải tôn người con gái
trên bài vị làm lớn. Lúc động phòng thì phải nói “ Mời chị cả ngủ trước”, lúc
ăn cơm phải nói “ Mời chị cả ăn trước”. Nếu những người con gái chết đi mà
không ai chịu lấy bài vị, thì con trai của anh hay em trai sẽ đem về thờ phụng,
hoặc đem bài vị lên am tự để thờ phụng.
Xã hội phong kiến cho rằng, thân phận phụ nữ thường thấp kém, lại thêm nếu
chẳng may trong gia đình có đứa con gái chưa xuất giá, không may qua đời, thì
đó lại được coi là một điều xui xẻo và không tốt. Thường những cô gái không
chồng yểu mạng này sẽ không được gia đình tiếp nhận, cho phép đưa quan tài
vào nhà vì họ cho rằng âm khí của cô gái sẽ ám ảnh cả gia đình và đem lại
nững điều xui xẻo. Nhưng nếu để quan tài bên ngoài, thì theo “mê tín” linh hồn
của cô gái sẽ trở thành hồn ma lang thang vô định.
Vì thế, để có thể cho phép đưa quan tài vào nhà, gia đình bên cô gái phải tìm
một chàng trai cùng với một khoảng tiền khá lớn, thuyết phục người con trai
chấp nhận thực hiện hôn ma này và theo như quan niệm phong kiến, người con
trai này sẽ phai " rước" vợ mình về nhà. Tất nhiên khác với trường hợp “nữ
sống nam chết ” người con trai này chỉ có nhiệm vụ thay nhà vợ thờ cúng
người vợ ma này và vẫn có thể lấy vợ khác, còn số tiền kia được coi như một
phí chu cấp cho người con trai này.
 Dường như là một “cuộc trao đổi, giao kèo” của gia đình nhà cô gái và “con
rể”.


21/Nhà Chu – các thành tựu cơ bản?

- Chu là bộ lạc có lịch sử lâu đời, cư trú ở vùng cao nguyên hoàng thổ thuộc
miền Trung Thiểm Tây và miền đông Cam Túc. Đây là khu vực có đất đai màu
mỡ, sản vật phong phú.
- Nhà Chu sau khi thành lập, một mặt vẫn duy trì chế độ thống trị theo huyết
thống của nhà Thương, mặt khác thức hiện chính sách cải cách văn hóa.
- Xây dựng chế độ tông pháp (nhấn mạnh trật tự luân thường, coi trọng huyết
thống vẫn được duy trì và thấm sauau vào ý thức, tính cách, tập quán của dân
tộc Trung Hoa.)
- Ngoài ra thi hành Chế độ phân phong đất đai cho người cùng họ và những ng
có công với nhà Chu.
Song hành giữa hình và lễ (Hình là thứ dân, lễ là quý tộc đại phu) [ Lễ bất hạ
thứ dân, hình bất thượng đại phu]

-

22. Hung Nô : Hung Nô + TQ
Giới khoa học vẫn chưa thống nhất được lai lịch, nguồn gốc
Theo Sử kí, họ là hậu duệ của vua Kiệt, gọi là Thuần Duy.
Là một tập đoàn dân tộc giống Altai ở Trung Á, sống bằng nghề du mục.
Nỗ lực xuống đồng bằng Hoàng Hòa nhưng thất bại do các nước Hoàng Hà

-

xây Trường Thành ngăn cách.
Năm 209 TCN, người Hung Nô đã liên kết lại với nhau thành một liên minh

-

hùng mạnh dưới quyền của một thiền vu mới có tên gọi là thiền vu Mặc Đốn.
-


-

Kinh đô Long Thành gần Koshu-Tsaidam ở Mông Cổ
215 TCN, quân đội nhà Tần do Mông Điềm chỉ huy đã xua đuổi họ ra khỏi các
đồng cỏ bên sông Hoàng Hà.[3]
201 TCN, Mặc Đốn tấn công Hán, Hán thua, Lưu Bang thoát chết.
192, 166, 162, 158 TCN: tấn công Hán
Chiến tranh Tây Hán – Hung Nô: 127 TCN mở chiến dịch đến 51 TCN. Hán
thắng -> Hung Nô về Trung Á.

23/ Bái đường:


- Sau khi chú rể rước cô dâu về nhà, nghi thức quan trọng nhất đó là “bái
đường” . Bởi vì, chỉ có kinh qua nghi thức này mới được xã hội công nhận
là vợ chồng, hôn nhân mới có thể thành lập.
- “Bái đường” còn được gọi là “ bái thiên địa” , nhưng nội dung của bái
đường không chỉ là bái thiên địa mà còn bái bài vị tổ tông.
- Ngày xưa có gia miếu phải đến gia miếu bái liệt tổ liệt tông, đây là nghi thức
rất quan trọng. Bởi cô dâu là người ngoài tộc được gã về trở thành thành viên
của gia tộc nhà trai, phải bái cáo tổ tông, cầu mong tổ tông thừa nhận. Đây là
sự khởi đầu thể hiện cụ thể hàm nghĩa “hoà hợp hai họ, trên để thờ phụng tông
miếu, dưới để nối tiếp dòng họ” của hôn nhân. Sau khi bái tổ tông là bái phụ
mẫu, cầu mong phụ mẫu thừa nhận. Tiếp đó, phu thê giao bái, biểu thị từ nay
về sau luôn kính yêu lẫn nhau.
24/ Lên đèn
- Trong ngày rước dâu, nhà trai phải mang hai cây nến lớn có khắc hình rồng,
phượng sang nhà gái, kích cỡ trùng với chân đèn trên bàn thờ. Một người lớn
tuổi, uy tín đại diện bên họ nhà gái sẽ làm lễ tuyên bố xin được lên đèn. Đây là

người phải có hoàn cảnh gia đình êm ấm, hạnh phúc, con cái đủ đầy để mang
đến khởi đầu may mắn cho đôi uyên ương. Sau khi tuyên bố, cô dâu và chú rể
phải tự tay đốt nến và cùng nhau đặt lên chân đèn trên bàn thờ.
- Lưu ý, khi đốt đôi đèn hình long phụng phải thật chậm rãi, cẩn thận, chờ cho
tim đèn cháy tốt và hai ngọn cháy bằng nhau. Nếu cây nào còn cháy yếu, phải
nghiêng tim cho lửa cháy đều rồi mới bắt đầu nghi thức lên đèn. Khi cầm đèn,
cô dâu chú rể phải để cho hàm rồng và mỏ phượng giao nhau mới được cho là
tốt.


-Sau khi cắm đèn xong, cô dâu, chú rể cúi lạy tổ tiên, hoàn tất nghi thức lên
đèn. Cặp đèn long phụng sẽ được phát sáng trong suốt buổi lễ. Sau khi nghi lễ
hoàn tất, đèn sẽ được tắt lửa và cất lại vào hộp, để trên bàn thờ, gìn giữ trong
suốt nhiều năm về sau.
Ý nghĩa lễ lên đèn
- Nghi lễ truyền thống này mang ý nghĩa thể hiện tấm lòng hiếu kính của con cháu đối với các vị tổ tiên, giúp gắn kết tình cảm thông gia giữa hai gia đình.
Bên cạnh đó, lễ lên đèn còn thay cho lời tuyên bố với họ hàng hai bên về tình
yêu của đôi uyên ương, cũng là lời hứa gắn kết trọn đời trước các vị tổ tiên và
mong được chứng giám.
- Có một quan niệm đi cùng với nghi thức này, nếu đèn tắt sẽ là điềm báo
không lành nên gia chủ thường đóng hết cửa sổ và tắt quạt để tránh gió khi làm
lễ lên đèn. Một quan niệm khác, nếu đèn cháy bên cao bên thấp, dự đoán cô
dâu sẽ lấn át chồng. Tuy nhiên, điều này không có cơ sở vì thực tế ai giữ vai trò
chủ chốt trong gia đình còn tùy thuộc vào tính cách và sự bàn bạc nhất trí của
cả hai vợ chồng.

23/ Lạc thần phú đồ
- “Lạc thần phú đồ” (bức họa về nữ thần sông Lạc) là một trong những tác
phẩm xuất sắc nhất của họa sỹ, nhà thơ, nhà thư pháp nổi danh Cố Khải Chi,
người thường được coi là ông tổ của nền hội họa Trung Hoa.

- Cố Khải Chi vẽ bức “Lạc thần phú đồ” họa theo bài phú “Lạc thần đồ” của
Tào Thực (192 – 232) viết về mối tình huyền hoặc với Lạc thần Mật Phi. Qua


nhiều triều đại, bức họa này vẫn được coi là bảo vật quốc gia. Đến đời nhà
Tống đã có 3 bản sao của “Lạc thần phú đồ” được lưu truyền.
- Năm 1900, khi liên quân 8 nước tấn công vào Bắc Kinh, bức “Lạc đồ thần
phú” đã bị mang đi. Hiện một bản sao đang được trưng bày ở bảo tàng Cố cung
Bắc Kinh, một bản khác nằm ở bảo tàng Feer Gallery



×