Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên các trường đại học ở việt nam tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (603.78 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

ĐỖ THỊ THANH HƯƠNG

THỊ HIẾU THẨM MỸ CỦA SINH VIÊN
CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành: Mỹ học
Mã số: 92 29 007

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI - 2018


Công trình được hoàn thành tại: Khoa Triết học,
Học viện KHXH - Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam.

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Nguyễn Văn Huyên

Phản biện 1: PGS.TS. Trần Sỹ Phán
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh
Phản biện 2: PGS.TS. Phan Trọng Thưởng
Hội đồng lý luận văn học nghệ thuật Trung Ương
Phản biện 3: PGS.TS. Nguyễn Thị Thọ
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện
KHXH - Viện Hàn lâm KHXH Việt Nam vào hồi


.......giờ........phút, ngày........tháng........năm 2018.

Luận án lưu tại: Thư viện Quốc gia Việt Nam,
Thư viện Khoa học xã hội

...............


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Phát triển con người toàn diện và hài hòa là mục đích lý tưởng của xã
hội ta. Con người phát triển toàn diện và hài hòa nghĩa là con người phát
triển cả về thể chất và tinh thần, cả lý trí và tình cảm, cả năng lực lao động và
kỹ năng hoạt động sống, biết sáng tạo đồng thời biết hưởng thụ các sản phẩm,
các giá trị do chính mình sáng tạo ra.
Tuy nhiên, trong bối cảnh xã hội hiện nay, có sự nhìn nhận về phát
triển con người có phần thiên lệch, đặc biệt, do chạy theo lợi ích vật chất
thuần túy mà không ít người đã tuyệt đối hóa giá trị vật chất, xem nhẹ hoặc
quên đi giá trị tinh thần của con người. Thực tế, đời sống tinh thần là vô
cùng quan trọng đối với mỗi cá nhân nói riêng và đối với xã hội nói chung.
Lịch sử phát triển xã hội cho thấy, nhiều khi đời sống vật chất đầy đủ,
thậm chí dư thừa, nhưng con người lại rơi vào bế tắc trong lý tưởng sống,
mục đích sống. Khủng hoảng tinh thần đã làm cho nhiều quan hệ xã hội bị
đảo lộn, xảy ra nhiều hành vi tiêu cực. Quan niệm không đầy đủ về đời
sống thẩm mỹ làm cho đời sống tinh thần nghèo nàn.
Trong cấu trúc phát triển con người, theo giá trị truyền thống quý báu
của ông cha ta là con người phải phát triển đầy đủ các phương diện của
một nhân cách hoàn thiện: đức, trí, thể, mỹ. Đó là con người phát triển đầy

đủ các phẩm chất, nhân cách ở trình độ cao. Đức - Trí - Thể - Mỹ chính là
tiêu chí xây dựng và phát triển con người của hầu hết các nền giáo dục tiến
bộ trên toàn thế giới, ở mọi thời đại. Tuy nhiên, xã hội ta hiện nay đang
xảy ra nhiều chuyển đổi phức tạp, nhất là sự thay đổi các quan hệ giá trị,
sự quan tâm đến việc giáo dục, xây dựng và phát triển con người theo tiêu
chí Chân - Thiện - Mỹ chưa được đầy đủ, và nhiều khi còn thiên lệch các
hệ giá trị, các thang giá trị, các chuẩn mực đánh giá xã hội, làm đảo lộn
thang giá trị trong việc đánh giá con người và từ đó lệch lạc, phiến diện
trong giáo dục và xây dựng con người toàn diện.
Thị hiếu thẩm mỹ là một bộ phận cấu thành ý thức thẩm mỹ của con
người, là cơ sở cho mọi hoạt động thưởng thức, đánh giá và sáng tạo thẩm
mỹ. Thị hiếu thẩm mỹ lành mạnh có vai trò to lớn trong xây dựng nền văn
hóa mới, con người mới ở nước ta mà mục tiêu trọng tâm là tạo cơ sở đúng
đắn cho mọi hoạt động sống cũng như mọi hoạt động thưởng thức, đánh giá
và sáng tạo thẩm mỹ của chủ thể. Thị hiếu thẩm mỹ không chỉ biểu hiện quá
trình tự phát triển của cá nhân mà còn thể hiện trình độ giáo dục thẩm mỹ


2

trong nhà trường và ngoài xã hội. Luật giáo dục năm 2005 đã nhấn mạnh:
“Quan tâm đầy đủ đến giáo dục phẩm chất, đạo đức, ý thức công dân, giáo
dục sức khỏe và thẩm mỹ cho học sinh, sinh viên là yêu cầu chiến lược phát
triển giáo dục trong giai đoạn mới ở nước ta” [1]. Có thể nói, cùng với giáo
dục đạo đức, trí tuệ, thể chất, giáo dục thị hiếu thẩm mỹ có liên quan sâu sắc
đến sự phát triển nhu cầu lành mạnh, lý tưởng tiên tiến của con người Việt
Nam giai đoạn mới.
Thế hệ trẻ nói chung và sinh viên Việt Nam nói riêng là lực lượng quan
trọng, có vai trò quyết định đến vận mệnh, tương lai của đất nước. Hồ Chí
Minh đã đánh giá cao vai trò của thế hệ trẻ đối với sự phát triển của đất nước.

Người khẳng định tuổi trẻ không những là người kế tục các thế hệ đi trước
mà còn là tương lai của đất nước, của dân tộc. Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn
cầu hóa, hội nhập quốc tế và phát triển nền kinh tế thị trường hiện nay, sự du
nhập ngày một gia tăng các sản phẩm văn hóa, lối sống từ bên ngoài vào
khiến cho nhu cầu, thị hiếu và lí tưởng của sinh viên càng trở nên phức tạp.
Đặc biệt là hiện nay, bên cạnh đa số sinh viên có ước mơ, hoài bão lớn lao,
có phẩm chất đạo đức tốt đẹp, có ý thức thẩm mỹ trong sáng lành
mạnh…vẫn còn một bộ phận sinh viên thờ ơ, sống thực dụng, chạy theo
những trào lưu, xu hướng, thị hiếu lệch lạc.
Trong Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XII, khi đề cập tới văn hóa nghệ
thuật, Đảng ta đã cảnh báo: “môi trường văn hóa còn tồn tại tình trạng thiếu
lành mạnh, ngoại lai, trái với thuần phong mỹ tục,… Còn ít những tác phẩm
văn học, nghệ thuật có giá trị cao về tư tưởng và nghệ thuật, có một số tác
phẩm chạy theo thị hiếu tầm thường, chất lượng thấp, thậm chí có hại. Hoạt
động lý luận, phê bình văn học, nghệ thuật chưa theo kịp thực tiễn sáng
tác…Tình trạng nhập khẩu, quảng bá, tiếp thu dễ dãi, thiếu chọn lọc sản
phẩm văn hóa nước ngoài đã tác động tiêu cực đến đời sống văn hóa của một
bộ phận nhân dân, nhất là lớp trẻ” [2].
Từ những vấn đề cấp bách nêu trên, việc nghiên cứu khoa học thẩm
mỹ và thị hiếu thẩm mỹ nói chung, thị hiếu thẩm mỹ của thanh niên, sinh
viên trong các trường đại học ở Việt Nam nói riêng là một vấn đề cấp bách
hiện nay. Đề góp phần giải quyết những vấn đề cấp bách nêu trên trong đời
[1]

Văn

phòng

chính


phủ,

-

cổng

thông

tin

điện

tử,

/>[ 2 ] Đảng Cộng sản Việt Nam (2016), Văn kiện Hội nghị lần thứ chín, Ban Chấp hành Trung ương khóa XII, Văn
phòng Trung ương Đảng, Hà Nội


3

sống thẩm mỹ nói chung, trong thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên nói riêng,
đặc biệt là thực hiện tinh thần theo quan điểm của Đảng ta, nghiên cứu
sinh chọn đề tài: “Thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên các trường đại học ở
Việt Nam hiện nay” làm luận án tiến sĩ triết học của mình.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận án
* Mục đích: Trên cơ sở lý luận về thị hiếu thẩm mỹ, luận án làm rõ nội
dung, đặc điểm thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên các trường đại học ở Việt
Nam; khảo sát, đánh giá thực trạng thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên đại học
hiện nay, từ đó đề ra phương hướng và các giải pháp nâng cao thị hiếu thẩm
mỹ của sinh viên các trường đại học ở Việt Nam.

* Nhiệm vụ: Từ yêu cầu trên, luận án cần giải quyết và làm rõ những nội
dung căn bản sau:
Một là: Nghiên cứu tổng quan các công trình tiêu biểu về văn hóa thẩm
mỹ và thị hiếu thẩm mỹ, từ đó đặt ra những vấn đề nghiên cứu tiếp theo.
Hai là: Làm rõ lý luận về thị hiếu thẩm mỹ và thị hiếu thẩm mỹ của sinh
viên đại học ở Việt Nam.
Ba là: Phân tích, đánh giá thực trạng thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên đại
học Việt Nam.
Bốn là: Đề xuất phương hướng và giải pháp cơ bản, khả thi nhằm nâng
cao năng lực thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên đại học ở Việt Nam thời gian
tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu: Thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên các trường đại
học ở nước ta hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu: Do THTM là vấn đề rộng lớn và phức tạp, liên
quan đến nhiều lĩnh vực như xã hội học, văn hóa học, nghệ thuật học, tâm lý
học. Luận án nghiên cứu THTM của sinh viên các trường đại học được tác giả
nghiên cứu từ chuyên ngành triết học, cụ thể là mỹ học. Do dung lượng luận án
có giới hạn và việc xác định mục tiêu của luận án, cho nên chúng tôi giới hạn
phạm vi nghiên cứu như sau:
Đối tượng khảo sát: Luận án tập trung nghiên cứu THTM của sinh
viên khối các trường đại học không thuộc chuyên ngành văn hóa - nghệ
thuật, cụ thể là khối ngành kinh tế, khoa học xã hôi trên phạm vi cả
nước. THTM được khảo sát chủ yếu trong các loại hình: văn học, âm
nhạc, điện ảnh, thời trang.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu


4


- Cơ sở lý luận: Cơ sở lý luận của nghiên cứu, giải quyết các nhiệm vụ,
thực hiện mục đích luận án là các quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin,
những nguyên lý mỹ học Mác - Lênin, các quan điểm Hồ Chí Minh và của
Đảng Cộng sản về đường lối văn hóa văn nghệ, về xây dựng và phát triển
con người toàn diện, hài hòa. Luận án cũng kế thừa kết quả nghiên cứu
liên quan đến đề tài của những người đi trước trong và ngoài nước.
- Phương pháp nghiên cứu: Phương pháp luận của nghiên cứu luận án
là chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Luận án sử
dụng các phương pháp nghiên cứu cụ thể: phân tích số liệu thứ cấp, phỏng
vấn sâu, phân tích số liệu sơ cấp, so sánh và đối chiếu, khái quát hóa; điều
tra xã hội học v.v....
5. Những đóng góp mới của luận án
- Từ góc độ mỹ học, luận án đã góp phần làm sáng tỏ thêm một số vấn đề
lý luận cơ bản về thị hiếu thẩm mỹ theo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin ,
tư tưởng Hồ Chí Minh và của Đảng Cộng sản Việt Nam.
- Trên cơ sở lý luận thị hiếu thẩm mỹ luận án đã phân tích và khái quát
được nội dung và đặc điểm thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên các trường đại
học ở Việt Nam.
- Bằng số liệu gián tiếp và trực tiếp (do nghiên cứu sinh tự khảo sát),
luận án đã phân tích được thực trạng (ưu điểm và hạn chế) trong thị hiếu
thẩm mỹ của sinh viên các trường đại học ở Việt Nam hiện nay.
- Đề xuất được phương hướng và một số giải pháp nhằm nâng cao thị
hiếu thẩm mỹ của sinh viên các trường đại học ở Việt Nam.
- Ý nghĩa lý luận: Luận án góp phần nghiên cứu thị hiếu thẩm mỹ của
sinh viên nước ta trong xây dựng và phát triển con người toàn diện của
Đảng, Nhà nước ta.
- Ý nghĩa thực tiễn: Luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho
việc nghiên cứu, giảng dạy, đào tạo mỹ học nói chung, thị hiếu thẩm mỹ
nói riêng ở các trường Đại học, Học viện và những ai quan tâm đến lĩnh
vực khoa học này.

7. Kết cấu của luận án
Ngoài các nội dung theo quy định, luận án được kết cấu: 3 phần chính
là mở đầu, nội dung và kết luận; được luận giải trong 4 chương 9 tiết.


5

NỘI DUNG
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
TÀI VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI LUẬN ÁN
1.1.Tình hình nghiên cứu những vấn đề lý luận về thị hiếu thẩm mỹ và
thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên
1.1.1. Tình hình nghiên cứu về thị hiếu thẩm mỹ
Thị hiếu thẩm mỹ là một trong những phạm trù trung tâm của mỹ học,
nó cũng là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học khác nhau như
văn học, văn hóa, tâm lý học, v.v.... Từ chuyên ngành triết học nói chung,
mỹ học nói riêng, ngay từ thế kỷ XVII-XVIII, một số nhà triết học phương
Tây đã quan tâm nghiên cứu về THTM.
Tuy nhiên, người có công trình nghiên cứu đồ sộ và đi sâu lý giải vấn
đề THTM phải nói đến I.Kant - nhà triết học cổ điển Đức thế kỷ XVIIIXIX với tác phẩm Phê phán năng lực phán đoán (Bùi Văn Nam Sơn dịch).
Kant gọi THTM là phán đoán thẩm mỹ hay phán đoán sở thích. Kant coi
sự phán đoán thẩm mỹ là sự hài lòng do cách thức cảm nhận của chủ thể
trước đối tượng thẩm mỹ, và ông khẳng định, không có một nguyên tắc
khách quan nào cho sở thích.
Ở Nga, các nhà dân chủ cách mạng Nga cũng bắt đầu đi sâu nghiên
cứu THTM. Tiêu biểu cho các nhà tư tưởng này là Tsecnưsepxki,
Plêkhanốp. Plêkhanốp trong tác phẩm Nghệ thuật và đời sống xã hội (Từ
Lâm dịch) có phần viết về “Bàn về nghệ thuật” đã lý giải mọi THTM đều
có nguồn gốc xã hội, nghĩa là THTM phụ thuộc vào điều kiện sống của

con người. Tsecnưsepxki coi nghệ thuật là cuộc sống, cho nên ông quan
niệm THTM ở mỗi người phụ thuộc vào đời sống vật chất và tinh thần của
con người.
Nhiều vấn đề thị hiếu thẩm mỹ đã được đề cập trong các giáo trình mỹ
học của Liên Xô. Có thể kể đến các giáo trình mỹ học đã được dịch ra
tiếng Việt như: Những phạm trù mỹ học cơ bản của IU.B.Bôrép, Trường
Đại học Tổng hợp xuất bản. Hà Nội 1974; Nguyên lý mỹ học Mác-Lênin
của V.Xcachersiccốp - I.U.A.Lukin; Nxb sách giáo khoa Mác-Lênin, Hà
Nội 1984; Mỹ học Mác-Lênin Tập 1 của M.F.Ốpxiannhicốp, Nxb Văn hóa,
Hà Nội 1987, v.v... Những giáo trình trên không chuyên bàn về thị hiếu


6

thẩm mỹ song ở một số tiết, tiểu tiết đã đi sâu làm rõ những vấn đề của thị
hiếu thẩm mỹ. Tuy nhiên, với tính chất là giáo trình, vấn đề thị hiếu thẩm
mỹ chỉ được nghiên cứu trong hệ thống nguyên lý chung, chưa được tách
ra thành những phần cụ thể, độc lập và chỉ được dành một dung lượng rất
khiêm tốn. Chỉ riêng V.Razumnưi (1962), đã viết cuốn sách nhỏ Bàn về thị
hiếu nghệ thuật tốt, Nxb Văn hóa nghệ thuật, Bộ Văn hóa (do Hồ Quý
Truyện dịch). Trong cuốn Tâm lý văn nghệ (Nxb Thành phố Hồ Chí Minh,
1991) Chu Quang Tiềm tuy không đề cập trực tiếp đến thị hiếu thẩm mỹ
nhưng ông đã làm rõ một số điều kiện cần thiết cho chủ thể thưởng thức và
đánh giá thẩm mỹ.
Ở Việt Nam, vấn đề thị hiếu thẩm mỹ đã được nghiên cứu khá nhiều
từ nửa sau của thế kỷ XX (nhất là những thập niên 70-80). Trước Cách
mạng tháng Tám, một số nhà nghiên cứu đã ít nhiều bàn tới thị hiếu nghệ
thuật thông qua cuộc đấu tranh giữa hai khuynh hướng nghệ thuật vị nghệ
thuật và nghệ thuật vị nhân sinh trong lĩnh vực văn chương nhằm xây dựng
và bảo vệ nền văn học cách mạng. Tiêu biểu là các nhà lý luận Hải Triều,

Hoài Thanh, Hoài Chân... Sau Cách mạng tháng Tám, trong cuộc kháng
chiến chống Pháp, vấn đề thị hiếu thẩm mỹ dường như bị bỏ ngỏ cho đến
sau 1954 - khi miền Bắc hoàn toàn giải phóng, cùng với việc đẩy mạnh
nghiên cứu Triết học Mác- Lênin, vấn đề thị hiếu thẩm mỹ mới được quan
tâm nhiều hơn.
Năm 1986, Bộ Văn hóa đã tổ chức một hội thảo lớn với chủ đề Thỏa
mãn nhu cầu văn hóa và nâng cao thị hiếu nghệ thuật. Hội thảo đã thu hút sự
tham gia của nhiều nhà nghiên cứu cả trong và ngoài ngành Triết học. Những
bài viết trong hội thảo đã được tập hợp trong cuốn sách Thỏa mãn nhu cầu
văn hóa và nâng cao thị hiếu nghệ thuật, Nxb Văn hóa, Hà Nội, 1987.
Tác giả Đỗ Huy chủ đề thị hiếu thẩm mỹ đã được ông đề cập một số
công trình: Mỹ học khoa học về các quan hệ thẩm mỹ, Nxb Khoa học xã
hội, Hà Nội, 2001 và Mỹ học với tư cách là một khoa học, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà nội, 2006.
Cuốn Thị hiếu thẩm mỹ trong đời sống của tác giả Nguyễn Chương
Nhiếp, năm 2004, Nxb Chính trị Quốc gia. Cuốn sách được triển khai từ
luận án tiến sĩ bảo vệ năm 2000 có tên Thị hiếu thẩm mỹ và vai trò của nó
trong đời sống thẩm mỹ.


7

1.1.2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên
Nghiên cứu của các tác giả nước ngoài liên quan đến thị hiếu thẩm mỹ
của sinh viên hầu hết được đề cập trong các công trình nghiên cứu về giáo
dục thẩm mỹ nói chung. Có thể kể đến công trình có tính căn bản như Văn
hóa thẩm mỹ của người Xôviết của M.X. Cagan (Trường ĐH tổng hợp
Leningrat, 1976); Những vấn đề và sự hình thành hệ thống giáo dục thẩm
mỹ của Liên Xô của N.I.Kiasenko…
Ở Việt Nam, nghiên cứu lý luận về thị hiếu thẩm mỹ gắn với vai trò của

giáo dục thị hiếu thẩm mỹ ở tuổi trẻ được quan tâm nhiều hơn, nhất là khi
vấn đề xây dựng mẫu con người lí tưởng cho xã hội mới xã hội chủ nghĩa
được đặt ra.
Tác giả Đỗ Huy với một số bài viết tiêu biểu về Mấy vấn đề giáo dục
thẩm mỹ ở lứa tuổi thanh niên, Tạp chí Triết học số 2,1981; Giáo dục thẩm
mỹ và sự nghiệp xây dựng con người mới, Tạp chí Triết học số 4, 1982;
Nguyễn Văn Huyên với bài viết Một số vấn đề giáo dục thẩm mỹ cho
thanh niên, Tạp chí Nghiên cứu nghệ thuật, số 4.
Công trình mới nhất nghiên cứu về thị hiếu của thanh niên là cuốn thị
hiếu thẩm mỹ của giới trẻ thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Văn hóa Văn nghệ,
năm 2013, tác giả Nguyễn Thị Hậu chủ biên. Trong đó có một số bài viết
tiêu biểu như Định hướng thị hiếu thẩm mỹ cho giới trẻ hiện nay của Hồ
Bá Thâm, Xây dựng thị hiếu thẩm mỹ cho thanh niên của Lê Thị Ngọc
Dung, Giáo dục thị hiếu thẩm mỹ cho thanh niên thành phố Hồ Chí Minh
đáp ứng nhu cầu vươn tới cái đẹp của tác giả Lê Thị Thanh Tâm.
1.2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến thực trạng và giải pháp về thị
hiếu thẩm mỹ của sinh viên các trường đại học ở Việt Nam.
Ở Việt Nam từ trước đến nay, các công trình nghiên cứu thực trạng và
giải pháp về thị hiếu thẩm mỹ của đối tượng sinh viên không nhiều. Cũng
như ở nước ngoài, vấn đề thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên chỉ được đề cập
chủ yếu trong các công trình viết về giáo dục thẩm mỹ hoặc được đề cập
trong đối tượng thanh niên nói chung. Có thể kể đến các cuốn như: Tuổi
trẻ thẩm mỹ của tác giả Hoàng Thiệu Khang (Nxb Trẻ, TP Hồ Chí Minh
1987), Giáo dục thẩm mỹ - món nợ đối với thế hệ trẻ của Đỗ Xuân Hà
(Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1997); Văn hóa thẩm mỹ và sự phát triển nhân
cách con người Việt Nam trong thế kỉ mới của nhiều tác giả do tác giả
Nguyễn Văn Huyên chủ biên (Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội 2001); Xã


8


hội học Thanh niên của tác của tác giả Đặng Cảnh Khanh (Nxb Chính trị
quốc gia, Hà nội 2006),…
Cuốn Thị hiếu thẩm mỹ của giới trẻ thành phố Hồ Chí Minh, Nxb Văn
hóa -Văn nghệ, năm 2013, Nguyễn Thị Hậu chủ biên tập hợp 18 bài viết
của các nhà khoa học tại hội thảo "Định hướng thị hiếu thẩm mỹ cho giới
trẻ thành phố Hồ Chí Minh" do Viện Nghiên cứu Phát triển thành phố Hồ
Chí Minh tổ chức
1.3. Đánh giá tình hình nghiên cứu và những vấn đề đặt ra đối với
luận án
Qua việc tổng quan nghiên cứu tình hình liên quan đến đề tài, có thể
thấy rằng, vấn đề thị hiếu thẩm mỹ đã được nghiên cứu từ rất lâu và đã đạt
nhiều thành tựu quan trọng. Do phạm vi nghiên cứu của từng công trình,
các tác giả đã xem xét, nghiên cứu thị hiếu thẩm mỹ về nhiều khía cạnh,
nhiều cấp độ khác nhau. Có những công trình chỉ dừng lại ở những bước
nghiên cứu đầu tiên: khảo sát và miêu tả. Một số công trình đề cập đến thị
hiếu thẩm mỹ ở tầm khái quát và lý luận. Một số công trình đã đề cập đến
thực trạng trong thị hiếu thẩm mỹ của con người Việt Nam nói chung và
thanh niên Việt Nam nói riêng. Một số công trình đã nhận diện được xu thế
biến đổi của thị hiếu thẩm mỹ trong giai đoạn hiện nay, đưa ra một số giải
pháp để bồi dưỡng và nâng cao thị hiếu thẩm mỹ hướng tới cái đẹp. Tuy
nhiên, còn ít công trình đi sâu vào đối tượng cụ thể là vấn đề THTM của
sinh viên từ góc độ của triết học. Trong thời kỳ mở cửa, hội nhập quốc tế,
trong nền kinh tế thị trường hiện nay, đặc biệt là trong thế giới phong phú,
đa dạng, THTM của sinh viên các trường đại học ở Việt Nam có nhiều
biến đổi. THTM của sinh viên đang đặt ra nhiều vấn đề cần nghiên cứu.
Những vấn đề luận án cần tiếp tục nghiên cứu là:
- Kế thừa thành tựu nghiên cứu của các tác giả đi trước, luận án sẽ tiếp
tục làm rõ thêm lý luận về THTM và nhất là THTM của sinh viên các
trường đại học ở Việt Nam.

- Khảo sát, đánh giá thực trạng THTM của sinh viên ở các trường đại
học Việt Nam hiện nay, từ đó xác định những vấn đặt ra mà luận án cần
nghiên cứu
- Trên cơ sở thực trạng và yêu cầu mới, luận án đề xuất phương hướng
và giải pháp cơ bản và khả thi nhằm nâng cao THTM của sinh viên các
trường đại học nước ta trong thời gian tới.


9

Chương 2
NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ THỊ HIẾU THẨM MỸ VÀ THỊ
HIẾU THẨM MỸ CỦA SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC
Ở VIỆT NAM
2.1. Thị hiếu thẩm mỹ
2.1.1.Thị hiếu
Từ trước đến nay có nhiều quan niệm khác nhau về thị hiếu nói chung.
Trong ngôn ngữ Latinh, người phương Tây gọi thị hiếu là Gustus, nghĩa là
cảm giác, khẩu vị. Trong ngôn ngữ cổ Trung Quốc gọi thị hiếu là sự thích
thú. Một cách chung nhất, có thể hiểu thị hiếu là sở thích. Thị hiếu tồn tại
trong nhiều mặt cuộc sống, từ việc ăn uống, giải trí, lao động cho đến
những vấn đề lớn hơn như chính trị, đạo đức, tôn giáo, khoa học và hoạt
động thẩm mỹ. Sở thích là lĩnh vực rất đa dạng, phong phú và phức tạp.
Người ta có thể thích món ăn này, không thích món ăn kia; thích kiểu nhà
này, không thích kiểu nhà khác; thích trang phục này mà không thích trang
phục kia v.v... Như vậy, sở thích gần giống như thói quen, nếp sống của
con người. Vì thế, thị hiếu là một kiểu ưa thích nào đó. Kiểu ưa thích này
thường bộc lộ ngay lập tức. Nó biểu thị toàn bộ khả năng đánh giá cảm
xúc của chủ thể.
Có thể thấy khái niệm thị hiếu trong đời sống cũng như trong khoa

học đều bao hàm sự ưa thích của một cá nhân hay một nhóm người về một
đối tượng nào đó. Thị hiếu là biểu hiện sự yêu thích của cá nhân, của nhóm
người của xã hội trong một khoảng thời gian nào đó đối với sự vật vật chất
hay hiện tượng tinh thần. Do là sở thích, nên thị hiếu thay đổi theo sự thay
đổi của cá nhân và trước những biến đổi của xã hội trong những thời gian
khác nhau, thậm chí nó có thể thay đổi trong những trạng thái tâm lý khác
nhau của chủ thể cảm thụ.
2.1.2.Thị hiếu thẩm mỹ
Thị hiếu thẩm mỹ là một bộ phận quan trọng của năng lực thẩm mỹ,
thể hiện sự ưa thích, lựa chọn của con người về mặt thẩm mỹ.
Thị hiếu thẩm mỹ là sở thích của con người về phương diện thẩm mỹ.
Đó là thái độ tình cảm của con người trước cái đẹp, cái xấu, cái bi, cái hài,
cái cao cả trong cuộc sống và trong nghệ thuật. Thị hiếu thẩm mỹ có liên


10

quan mật thiết với thị hiếu phổ biến về mặt tình cảm và tinh thần.
Thị hiếu thẩm mỹ là năng lực đánh giá thẩm mỹ của con người dựa
trên sở thích và tri thức thẩm mỹ. Thị hiếu là sở thích, lựa chọn đến với tất
cả các hiện tượng, sự kiện trong thế giới, trong xã hội và cuộc sống, thì thị
hiếu thẩm mỹ là sở thích đối với các hiện tượng thẩm mỹ, cái đẹp.... thị
hiếu thẩm mỹ là một bộ phận của thị hiếu, thị hiếu thẩm mỹ chỉ gắn với
các cảm xúc, các sự ưa thích, các lực chọn của con người về mặt thẩm mỹ;
những ưa thích, các sự lựa chọn, cảm xúc ngoài thẩm mỹ là thuộc lĩnh vực
của thị hiếu khác.
Như vậy, thị hiếu thẩm mỹ là khái niệm chỉ sở thích của con người
trong lĩnh vực thẩm mỹ, bộc lộ năng lực lựa chọn, đánh giá của con người
bằng cảm xúc trước các hiện tượng thẩm mỹ.
2.1.3. Bản chất và đặc trưng của thị hiếu thẩm mỹ

*Bản chất của thị hiếu thẩm mỹ:
Tác giả xem xét bản chất của thị hiếu thẩm mỹ thể hiện ở tính thời
đại, tính giai cấp và tính dân tộc.
Tính thời đại của thị hiếu thẩm mỹ thể hiện qua sự biến đổi của hệ
giá trị thẩm mỹ trong từng thời đại nhất định. Mỗi thời đại có những điều
kiện, hoàn cảnh chính trị, kinh tế, xã hội khác nhau. Điều này tác động mạnh
đến hình thành thị hiếu nói chung và thị hiếu thẩm mỹ nói riêng, làm cho
những sở thích và tiêu chuẩn đánh giá thẩm mỹ của con người trong thời đại
đó cũng biến đổi theo.
Tính giai cấp thị hiếu thẩm mỹ không phải có tính chất nhất thành bất
biến mà nó có thay đổi theo từng giai cấp. Không thể có một thị hiếu thẩm
mỹ cho mọi giai cấp. Mỗi giai cấp khác nhau có hệ thống chuẩn mực khác
nhau. Giai cấp nào thì thị hiếu ấy.
Tính dân tộc đậm nét. Mỗi dân tộc trên thế giới đều hình thành một thị
hiếu thẩm mỹ riêng. Thị hiếu này có được là nhờ những ảnh hưởng của quá
trình sống lâu dài hình thành và phát triển của dân tộc ấy. Có những hiện
tượng thẩm mỹ, dân tộc này thì đánh giá là đẹp, dân tộc khác lại cho nó là
không đẹp.
* Đặc trưng của thị hiếu thẩm mỹ.
Một là, thị hiếu thẩm mỹ là hình thức đánh giá trực tiếp, là sự phản ứng
mau lẹ, sự phản ứng đó gần như là bản năng, nhưng thực chất là phản ứng xã hội


11

gần các đặc điểm cá tính của chủ thể thẩm mỹ trước các hiện tượng thẩm mỹ.
Hai là, thị hiếu thẩm mỹ là sự đánh giá mang tính khoái cảm. Trong
cuộc sống, cũng như trong tình cảm thẩm mỹ, thị hiếu thẩm mỹ đánh giá
hiện tượng xã hội một cách đầy hào hứng. Thụ cảm và đánh giá các hiện
tượng để xác định đâu là tốt, xấu, đẹp.

Ba là, thị hiếu thẩm mỹ là sự đánh giá mang tính cá biệt. Trong thị
hiếu thẩm mỹ, ở mỗi người đều mang yếu tố thích thú cá nhân.
Bốn là, thị hiếu thẩm mỹ là sự đánh giá có tính kế thừa. Thị hiếu thẩm
mỹ gắn bó với quan hệ thần kinh, gắn bó với truyền thống gia đình nhưng
nó không phải là cái cố định bất biến.
2.1.4. Thị hiếu thẩm mỹ và mốt
Trước đây, đặc biệt là hiện nay vấn đề thị hiếu thẩm mỹ và thời thượng
luôn luôn được đề cập đến trong quan hệ của thị hiếu thẩm mỹ và mốt. thị
hiếu thẩm mỹ chi phối nhiều lĩnh vực khác nhau trong đời sống mà “mốt” là
biểu hiện luôn có tính thời sự. Có mốt ăn, mốt ở, mốt mặc, mốt sống… Do
đó, khi nói đến thị hiếu người ta thường quan tâm đặc biệt đến thị hiếu thẩm
mỹ trong lựa chọn mốt. Nếu thị hiếu thẩm mỹ ở mỗi người là trạng thái tình
cảm tương đối ổn định, lặp đi lặp lại trước đối tượng thẩm mỹ thì mốt là cái
chưa ổn định, được đưa ra cho thị hiếu thẩm mỹ thử thách và lựa chọn. Cũng
như thị hiếu thẩm mỹ, mốt luôn luôn biến động.
Thị hiếu thẩm mỹ tốt có vai trò rất quan trọng trong việc chọn lọc,
đánh giá và sáng tạo mốt. Mốt ban đầu là sự đối tượng hóa của thị hiếu
thẩm mỹ của cá nhân hoặc là một nhóm người nhất định. Mốt ấy đẹp hay
xấu, thân quen hay xa lạ phải được đánh giá theo những tiêu chuẩn cơ bản
của thị hiếu thẩm mỹ đương thời.
2.1.5. Biểu hiện của thị hiếu thẩm mỹ trong đời sống xã hội và trong
hoạt động thẩm mỹ.
Trước hết, thị hiếu thẩm mỹ là sự phản ánh đời sống xã hội. Người ta
có thể biết thị hiếu thẩm mỹ của mỗi người thông qua giao tiếp, lao động,
qua thưởng thức, đánh giá và sáng tạo. Như vậy, thị hiếu thẩm mỹ xuất hiện
trong mọi lĩnh vực đời sống. Có thể xuất hiện trong gia đình, trong nhà
trường và trong xã hội.
Thứ hai, thị hiếu thẩm mỹ tạo ra nhu cầu thưởng thức thẩm mỹ.
Thưởng thức thẩm mỹ giống như mọi hoạt động khác của chủ thể, nó được



12

thúc đẩy bởi nhu cầu, do nhu cầu quy định. Nhu cầu thưởng thức thẩm mỹ
và nghệ thuật là một nhu cầu tâm lý, khác với nhu cầu khác, nó được nảy
sinh do nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố bên trong và yếu tố bên ngoài. Yếu
tố bên ngoài là khách thể thẩm mỹ, còn đối tượng bên trong là thế giới tình
cảm, sở thích của con người.
Thứ ba, thị hiếu thẩm mỹ được biểu hiện đậm nét qua hoạt động đánh
giá của chủ thể. Trong cấu trúc của chủ thể đánh giá thì không chỉ có lý trí,
tình cảm, vốn kinh nghiệm, trình độ am hiểu nghệ thuât mà còn có quan
điểm thẩm mỹ và thị hiếu thẩm mỹ. Trong đó, thị hiếu thẩm mỹ giữ vai trò
quan trọng.
Thứ tư, thị hiếu thẩm mỹ góp phần tạo nên cá tính sáng tạo. Tính độc
đáo của nghệ sỹ được tạo nên từ nhiều yếu tố như thế giới quan, lý tưởng, tình
cảm, thị hiếu thẩm mỹ đến tri thức của mỗi nghệ sỹ cụ thể, trong đó thị hiếu
thẩm mỹ giữ vai trò quan trọng. Vai trò này của thị hiếu thẩm mỹ bộc lộ rõ
nhất và mạnh mẽ nhất trong nghệ thuật.
2.2. Đặc điểm thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên các trường đại học ở
Việt Nam
2.2.1. Đặc điểm của sinh viên các trường đại học ở Việt Nam.
Sinh viên đối tượng năng động và nhiều hoài bão. Họ đang ở lứa tuổi
sung sức, ham hiểu biết, khám phá, tự thể nghiệm mình. Tích cực và ý
thức trách nhiệm cao cá nhân đối với việc học. Thích nghi với việc học tập
không ngừng để tìm cách hoàn thành các nhiệm vụ khác nhau. Áp dụng tư
duy phản biện và chủ động xây dựng mục tiêu học tập. Sinh viên có điều
kiện thường xuyên tiếp cận với người nước ngoài nên tư duy nhanh nhạy,
thích nghi… thích ứng nhanh với quá trình hội nhập.
Đặc điểm thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên các trường đại học ở Việt
Nam: tác giả đã chỉ ra 6 đặc trưng cơ bản với mục đích là khung lý thuyết

để lấy làm căn cứ khảo sát thực trạng thị hiếu thẩm mỹ: Thị hiếu thẩm mỹ
của sinh viên Việt Nam mang đậm chuẩn mực thẩm mỹ của người Việt
Nam yêu cái đẹp nhuần nhụy, gần gũi với thiên nhiên; thị hiếu thẩm mỹ
của sinh viên Việt Nam hướng tới cái mới, cái tươi vui; thị hiếu thẩm mỹ
của sinh viên Việt Nam hướng tới những giá trị chuẩn mực, có chất trí tuệ;
thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên Việt Nam mang đậm nghệ thuật có tính
chiến đấu, thể hiện khát vọng tự do, hạnh phúc; thị hiếu thẩm mỹ của sinh


13

viên Việt Nam thể hiện rõ tinh thần tìm tòi cái mới, hướng tới tính phong
phú và đa dạng; thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên Việt Nam mang đậm chất
lãng mạn và lạc quan. Trong thời đại đầy biến động ngày nay, thị hiếu
thẩm mỹ của sinh viên đang chịu sự tác động và chi phối nhiều chiều,
phức tạp.
Ngoài những đặc điểm chung này, thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên từng
khối ngành đào tạo, giới tính khác nhau cũng có những đặc điểm khác
nhau, trong đó: Sinh viên khối ngành kinh tế rất năng động, thích bộc lộ
những thế mạnh của bản thân, dám đối mặt với thử thách để khẳng định
mình; Sinh viên khối ngành tự nhiên - khoa học kỹ thuật có tư duy nhận
thức chính xác, tỉ mỉ thích khám phá những điều mới lạ, lập luận lôgíc, trí
tưởng tượng, ý tưởng trừu tượng; Sinh viên khối khoa học xã hội và nhân
văn, là những người yêu cái đẹp, có khả năng thụ cảm nhiều hơn khối
ngành khác, nhiều sinh viên bộc lộ năng khiếu nghệ thuật và có nhiều
đóng góp cho các hoạt động bề nổi.
2.2.2. Những nhân tố tác động đến thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên các
trường đại học hiện nay.
Thứ nhất, ảnh hưởng từ truyền thống gia đình. Gia đình là trường học
đầu tiên, trong đó cha mẹ là người thầy giáo thân thuộc đầu tiên của con

trẻ. Văn hóa trong gia đình đều có sự ảnh hưởng trực tiếp đến sự hình
thành và tác động đến thị hiếu thẩm mỹ của các thành viên trong gia đình.
Thứ hai, tâm lý lứa tuổi sinh viên tác động rõ nét đến thị hiếu thẩm mỹ.
Hầu hết sinh viên trong độ tuổi thanh niên. Đây là lứa tuổi có lý trí, tình
cảm phong phú, đang trong quá trình hình thành thế giới quan và đi tìm lý
tưởng, vì vậy, các quan niệm về cái đẹp cũng đang trong quá trình định
hình và chứa đựng nhiều biến đổi, nhiều thể nghiệm.
Thứ ba, tác động từ nhu cầu, lợi ích của sinh viên trong hoạt động học
tập, nghiên cứu và hoạt động xã hội. Sinh viên đặc biệt đề cao nhu cầu, lợi
ích về tinh thần; nhu cầu ham hiểu biết, tiếp thu, khám phá những điều mới
lạ. Nhu cầu về tình bạn, tình yêu, âm nhạc, thời trang, điện ảnh... thường
chiếm ưu thế cao và cấp bách hơn những tầng lớp khác trong xã hội.
Thứ tư, tác động từ quá trình toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế. Hội nhập
kinh tế quốc tế và toàn cầu đã làm thay đổi nhận thức và đánh giá trong
quần chúng nhân dân. Trước đây, trong nền kinh tế bao cấp con người ít có


14

điều kiện thể hiện mình hoặc có thì trong sự hòa đồng, gắn bó với tập thể,
cộng đồng xã hội. Hiện nay, xuất hiện một yêu cầu mới: vươn lên chiếm
lĩnh từng đỉnh cao trong mọi lĩnh vực hoạt động của từng cá nhân.
Thứ năm, sự tác động từ khoa học - công nghệ hiện đại, sự phát triển
của công nghệ thông tin và mạng xã hội. Sự phát triển của công nghệ giúp
sinh viên Việt Nam tiếp xúc nhanh với giá trị hiện đại, biết kế thừa, lược
bỏ những yếu tố truyền thống không còn phù hợp với thời đại. Mặt khác,
sự phát triển của kỹ thuật số, của phương tiện điện tử truyền thông,
internet và mạng xã hội đã làm cho nghệ thuật không chỉ còn là hình thái ý
thức xã hội mà là một ngành công nghiệp sản xuất, vận động theo quy luật
của thị trường.



15

Chương 3
THỰC TRẠNG THỊ HIẾU THẨM MỸ CỦA SINH VIÊN CÁC
TRƯỜNG ĐẠI HỌC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
3.1. Ưu điểm của thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên các trường đại học ở
Việt Nam hiện nay.
Thị hiếu thẩm mỹ có phạm vi hoạt động cơ bản trong ba lĩnh vực:
thưởng thức thẩm mỹ, đánh giá thẩm mỹ và sáng tạo thẩm mỹ. Việc tách
bạch hoạt động của chủ thể thẩm mỹ trên ba mặt như trên chỉ là tương đối.
Điều này cũng tương tự như đối với nghệ thuật: người ta thường phân biệt
giữa sự thưởng thức của công chúng, sự đánh giá của nhà phê bình và sự
sáng tạo của người nghệ sỹ. Trong thực tế, thưởng thức thẩm mỹ đồng thời
gắn liền với sự đánh giá, gắn liền với đánh giá lại ít nhiều có cả yếu tố sáng
tạo. Ngược lại, sự sáng tạo và đánh giá thẩm mỹ cũng vậy, ba mặt của chủ
thể thẩm mỹ trong đời sống thẩm mỹ là không có ranh giới tuyệt đối.
3.1.1. Trong hoạt động thưởng thức thẩm mỹ.
Sinh viên được tiếp cận các thông tin thẩm mỹ ngày càng nhiều, theo
đó nhu cầu thưởng thức cũng đa dạng và phong phú hơn. So với thời kỳ
trước đổi mới, đời sống tinh thần, thưởng thức thẩm mỹ của sinh viên của
sinh viên các trường đại học được cải thiện hơn.
Sinh viên ngày càng chủ động, tự tin hơn trong thưởng thức thẩm mỹ.
Các thông tin về ca nhạc trong nước và quốc tế ngày càng phong phú và
liên tục được cập nhật.
Sinh viên Việt Nam có sắc thái xúc cảm và sự lụa chọn tư tưởng nghệ
thuật đa chiều khi thưởng thức thẩm mỹ.
Xu hướng trong thưởng thức có sự thay đổi chuyển từ nhu cầu đọc, nghe
truyền thống sang nhu cầu nghe nhìn công nghệ số. Phương thức tiếp cận các

tác phẩm nghệ thuật gắn liền với công nghệ, đặc biệt là thành tựu từ cách
mạng công nghiệp 4.0.
2.1.2. Trong hoạt động đánh giá thẩm mỹ.
Sinh viên đã có đánh giá thẩm mỹ ngày càng nhanh nhạy và thẳng
thắn. Đặc biệt đối với các hiện tượng thẩm mỹ mà họ quan tâm, yêu thích,
thể hiện rõ quan điểm thế giới quan, nhân sinh quan của cá nhân.
Sinh viên Việt Nam có những đánh giá thẩm mỹ hiện đại và tiến bộ về
các hiện tượng thẩm mỹ. Ít chịu ảnh hưởng của những tiêu cực và thành


16

kiến của quá khứ. Một bộ phận trong số sinh viên đã dựa vào tiêu chí tính
truyền thống, tính dân tộc, tiêu chuẩn đạo đức để phê phán những tác phẩm
thô tục, thỏa mãn nhu cầu bản năng thú tính của con người. Đi đôi với việc
lên án là sự ủng hộ của họ với những tác phẩm ca ngợi tình yêu quê hương,
đất nước.
2.1.3. Trong hoạt động sáng tạo thẩm mỹ.
Sinh viên hiện nay là những người có trí tưởng tượng và tư duy liên
tưởng phong phú. Sinh viên khám phá thế giới theo cách riêng của mình,
tùy thuộc vào điểm nhìn của họ thể hiện dấu ấn cá nhân sâu sắc. Dựa vào
hiểu biết của mình về cuộc sống và sự giúp sức từ năng lực tưởng tượng,
sinh viên sáng tạo nên những hình tượng chân thực nhưng vô cùng sinh
động.
Sinh viên cập nhật nhanh và ứng dụng những xu hướng sáng tạo mới
trên thế giới. Hiện nay, trong sáng tạo của giới trẻ nói chung và sinh viên
nói riêng đang có bước phát triển vô cùng đa dạng với nhiều tác phẩm
nghệ thuật ở tất cả các lĩnh vực hoạt động từ văn học, hội họa đến âm nhạc,
điện ảnh, v.v… hướng tới nhiều đề tài cũng như chất liệu khác nhau.
3.2. Hạn chế, nguyên nhân và vấn đề đặt ra đối với thị hiếu của sinh viên

các trường đại học ở Việt Nam hiện nay.
3.2.1.Những hạn chế của thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên các trường đại
học ở Việt Nam hiện nay.
3.2.1.1.Trong hoạt động thưởng thức thẩm mỹ.
Lựa chọn đối tượng thưởng thức còn chưa phù hợp với chuẩn mực xã
hội và truyền thống tốt đẹp của dân tộc cũng như không có lợi cho bản
thân họ: dễ dãi, tùy tiện trong thưởng thức thẩm mỹ chủ yếu nhằm mục
đích giải trí và chạy theo "phong trào", theo "mốt".
Một bộ phận sinh viên còn hạn chế tri thức và thiếu xúc cảm thẩm mỹ
và có những quan niệm lệch lạc khi thưởng thức thẩm mỹ, mục đích chủ
yếu khi thưởng thức là giải trí.
Thưởng thức thẩm mỹ của sinh viên đang có sự chuyển đổi: nghiêng về
nhu cầu thưởng thức các loại hình hiện đại, tập trung hình thức nhiều hơn nội
dung.
3.2.1.2.Trong hoạt động đánh giá thẩm mỹ.
Xu hướng đánh giá nhanh nhạy nhưng chưa đạt đến độ ổn định để


17

đánh giá chuẩn xác các hiện tượng thẩm mỹ. Chủ yếu là cách đánh giá chủ
quan, phân giới giá trị - phản giá trị, tốt - xấu, thẩm mỹ - phản thẩm mỹ
còn mờ nhạt và lầm lẫn.
Nội dung và chỉ số đánh giá thẩm mỹ do một bộ phận sinh viên đưa ra
chưa thật sự phù hợp với thẩm mỹ dân tộc.
Trình độ đánh giá phổ biến hiện nay chủ yếu là kinh nghiệm, cảm tính,
đa phần đánh giá ở bề ngoài về chất liệu hiện hàm, còn tầng sâu hàm ẩn
trong hiện tượng thẩm mỹ thì chưa đạt tới.
3.2.1.3.Trong hoạt động sáng tạo thẩm mỹ.
Khát vọng và kết quả sáng tạo thẩm mỹ của sinh viên còn khiêm tốn,

chưa xứng đáng với tiềm năng sáng tạo trong họ.
Chất lượng các sáng tạo thẩm mỹ chưa cao. Một bộ phận sinh viên
hiện nay có sự nhầm lẫn giữa sáng tạo với sao chép, vay mượn thiếu sự
cân nhắc yếu tố nước ngoài, làm mất đi bản sắc văn hóa dân tộc.
Hiện tượng những sáng tạo thẩm mỹ tự phát và có xu hướng chiều
theo thị hiếu tầm thường của khán giả trẻ.
3.2.2. Nguyên nhân của hạn chế về thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên các
trường đại học ở Việt Nam hiện nay.
3.2.2.1. Nguyên nhân chủ quan
Thứ nhất, do tâm lý lứa tuổi chi phối năng lực lựa chọn thẩm mỹ, nghệ
thuật. Đối với các loại hình nghệ thuật họ thích lựa chọn cái mới.
Thứ hai, do thiếu hụt các tri thức thẩm mỹ, tri thức nghệ thuật cơ bản.
Sự thiếu hụt này có nguồn gốc từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường phổ
thông. Các môn như âm nhạc, hội họa chỉ được giảng dạy ở trung tâm đô
thị lớn nhưng cũng chỉ mang tính hình thức, chiếu lệ.
Thứ ba, do lối sống của một bộ phận sinh viên. Một bộ phận sinh viên
có tâm lý thờ ơ, thực dụng, sống nhanh, sống vội, thiếu tính hướng đích,
nhiều bạn còn chưa ý thức được vai trò của việc nâng cao thị hiếu thẩm mỹ
cả nghệ thuật lẫn trong cuộc sống, chưa có khát vọng sáng tạo cái đẹp.
Thứ tư, do thiếu sự quan tâm từ phía gia đình. Các gia đình hiện nay
mong muốn con em họ thành công trong quá trình lập thân, lập nghiệp
mang ý nghĩa thực dụng với đích đến là địa vị cao trong xã hội và sự giàu
có về vật chất hơn là sự phong phú tâm hồn và tinh tế trong lối sống.
3.2.2.2. Nguyên nhân khách quan


18

Thứ nhất, do hoàn cảnh kinh tế của sinh viên. Sinh viên phần lớn xuất
thân từ nông thôn, trong đó dân tộc thiểu nên việc nâng cao thị hiếu

thưởng thức thẩm mỹ đối với họ gặp không ít khó khăn. Không phải ai
cũng đủ điều kiện vật chất để chăm lo đời sống tinh thần, nhất là sinh viên
từ nông thôn có hoàn cảnh gia đình khó khăn.
Thứ hai, do tác động của hoàn cảnh lịch sử đất nước. Sau Đổi mới,
khi đời sống thời chiến chuyển sang thời bình con người có thêm thời gian
để thỏa mãn thị hiếu của cá nhân. Thế giới quan và nhân sinh quan đã có
một sự vận động mang tính bước ngoặt. Thế giới quan dân tộc, thời đại
dần dịch chuyển vào thế giới quan của con người cá nhân đặt trong bối
cảnh phức tạp, phong phú.
Thứ ba, do tác động tiêu cực từ các phương tiện truyền thông. Việc
đưa tin với tỉ lệ vượt trội các nhân vật trong giới showbiz, đặc biệt là các
nhân vật nhiều tai tiếng là một nguyên nhân cơ bản góp phần làm cho thị
hiếu thẩm mỹ của sinh có nhiều biểu hiện lệch lạc. Sự bùng nổ của các báo
mạng và trang thông tin điện tử đã khiến công chúng trẻ bị nhiễu loạn
thông tin.
Thứ tư, do tác động tiêu cực từ quá trình hội nhập quốc tế. Hội nhập
đặt ra nhiều thách thức đó là du nhập văn hóa nước ngoài vào một cách
khó kiểm soát đồng thời đã khiến cho văn hóa ở trong nước bị lép vế.
Thứ năm, do mặt trái của kinh tế thị trường. đã tạo ra trong xã hội
những nhân cách và lối sống đi ngược với yêu cầu phát triển của con người.
Con người với những phẩm chất cần thiết để tồn tại và phát triển đang có
nguy cơ bị thực dụng hóa.
Thứ sáu, do ảnh hưởng của đội ngũ sáng tác, biểu diễn và lý luận phê
bình. Ngày nay, bên cạnh những nghệ sỹ lao động nghệ thuật chân chính vẫn
còn nhiều văn nghệ sỹ, nhất là văn nghệ sỹ trẻ tuổi "đạo" văn, thơ, nhạc.
Thứ bảy, do yếu kém trong quản lý văn hóa văn nghệ. Sự buông lỏng,
thiếu trách nhiệm của các cơ quan quản lý văn hóa.. Cơ chế quản lý xử
phạt lỗi vi phạm còn nhẹ không đủ sức răn đe. Văn bản hướng dẫn chồng
chéo, không thống thống nhất.
Tám là, do yếu kém trong quản lý văn hóa. Thực trạng xảy ra hiện

tượng tiêu cực trong đời sống văn hóa góp phần làm THTM của sinh viên
có những biểu hiện lệch lạc có nguyên nhân từ sự buông lỏng, thiếu trách


19

nhiệm của các cơ quan quản lý văn hóa.
Chín là, do tổ chức Đoàn – Hội của Thanh niên. Sinh viên chưa phát
huy được hết vai trò tiên phong trong việc nâng cao đời sống văn hóa tinh
thần cho sinh viên. Thực tế, ở một số trường đại học hoạt động các hoạt
động của Đoàn Thanh niên, Hội Sinh viên còn bộc lộ nhiều hạn chế.
Mười là, do ngân sách đầu tư nâng cao đời sống văn hóa tinh thần
cho sinh viên còn hạn chế. Thiếu kinh phí hoạt động là một trong những
nguyên nhân khiến chất lượng hoạt động Đoàn thể giảm sút, gây khó
khăn trong việc xây dựng các chương trình, nội dung hoạt động.
3.2.3. Những vấn đề đặt ra
Vấn đề đặt ra hiện nay là, một mặt, phải nhận thức sự xu hướng biến
đổi về thị hiếu thẩm mỹ là quy luật khách quan, là tất yếu, và mặt khác,
phải chăm lo xây dựng và nuôi dưỡng thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên các
trường đại học hiện nay phát triển đúng hướng, vừa phong phú, đa dạng
vừa phải tốt đẹp, trong sáng, lành mạnh. Điều này không chỉ quan trọng
đối với thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên mà còn có tác động đến sự phát
triển nhân cách của họ.
Trước những biến đổi, thực trạng phức tạp của thị hiếu thẩm mỹ của
sinh viên hiện nay và những năm sắp tới, việc chú trọng hơn nữa nhiệm vụ
nâng cao thị hiếu thẩm mỹ ngày càng trở nên bức thiết, góp phần đáp ứng
nhu cầu chính đáng, lành mạnh đang phát triển. Mặt khác, định hướng và
điều chỉnh kịp thời cho chính sự phát triển đó để gạt bỏ, phê phán, ngăn
chặn các nhu cầu và thị hiếu tầm thường, mất đi bản sắc văn hóa dân tộc.
Đáp ứng đòi hỏi đó, các hoạt động thẩm mỹ trong hoạt động của mình phải

đảm bảo vừa có tác dụng định hướng vừa đáp ứng nhu cầu văn hóa – tinh
thần ngày càng cao của sinh viên. Đi chệch ra khỏi đòi hỏi đó, chúng ta
không thể làm tốt chức năng, nhiệm vụ nâng cao thị hiếu thẩm mỹ trong
điều kiện mới hiện nay.


20

Chương 4
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NÂNG CAO
THỊ HIẾU THẨM MỸ CHO SINH VIÊN CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
4.1.Phương hướng nâng cao thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên các
trường đại học ở Việt Nam.
4.1.1 Xây dựng thị hiếu thẩm mỹ khoa học, tiên tiến gắn liền với phát huy
giá trị truyền thống dân tộc Việt Nam.
Để hình thành thị hiếu thẩm mỹ tốt, nâng cao thị hiếu thẩm mỹ cho sinh
viên đòi hỏi nhiều yếu tố, trong đó cơ bản nhất vẫn là có một nền văn hóa
tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm cơ sở. Đây cũng là quan điểm chỉ đạo
cơ bản, thống nhất và xuyên suốt trong xây dựng nền văn hóa nghệ thuật do
Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đề xướng.
4.1.2. Hình thành thị hiếu thẩm mỹ phong phú, đa dạng.
Bảo vệ tính đa dạng của thị hiếu không có nghĩa là chấp nhận sự phát
triển của mọi loại thị hiếu, kể cả thị hiếu thấp kém, không lành mạnh. Như
chúng ta đã biết thị hiếu tuy hết sức phong phú và đa dạng song vẫn có
những tiêu chuẩn chung cho mọi loại thị hiếu đó. Chúng ta khuyến khích sự
phát triển phong phú của thị hiếu cá nhân, tôn trọng tính độc đáo của thị hiếu
thẩm mỹ, phát huy mọi năng lực độc đáo của cá nhân trong thưởng thức
đánh giá và sáng tạo nghệ thuật đồng thời với nó kiên quyết loại trừ những
thị hiếu lệch lạc, thấp kém.

4.1.3. Xây dựng thị hiếu thẩm mỹ gắn liền với mục tiêu xây dựng và
phát triển con người toàn diện.
Mọi người Việt Nam đều hiểu biết sâu sắc, tự hào, tôn vinh lịch sử, văn
hóa dân tộc; hướng các hoạt động văn hóa, giáo dục, khoa học vào việc xây
dựng con người có thế giới quan khoa học, hướng tới Chân - Thiện - Mỹ.
Bên cạnh những giá trị chung có tính toàn cầu, tính thời đại đặt ra, việc bảo
tồn, phát huy những giá trị tinh thần truyền thống và bồi dưỡng phát triển hệ
giá trị mới là điều cần được khẳng định.
4.2. Những giải pháp chủ yếu nâng cao thị hiếu thẩm mỹ cho sinh viên
các trường đại học ở Việt Nam.
Căn cứ vào thực trạng thị hiếu thẩm mỹ của sinh viên các trường đại
học ở nước ta hiện nay cùng nguyên nhân của thực trạng đó, tác giả đề


21

xuất 3 nhóm giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao thị hiếu thẩm mỹ cho sinh
viên như sau:
- Nhóm giải pháp nâng cao văn hóa thẩm mỹ cho sinh viên
- Nhóm giải pháp nâng cao hoạt động thưởng thức thẩm mỹ cho sinh viên
- Nhóm giải pháp nâng cao hoạt động đánh giá thẩm mỹ cho sinh viên
- Nhóm giải pháp nâng cao hoạt động sáng tạo thẩm mỹ cho sinh viên
4.2.1. Nhóm giải pháp nâng cao văn hóa thẩm mỹ cho sinh viên các
trường đại học.
Tăng cường sự liên kết giữa gia đình - nhà trường - xã hội. Cần có
sự phối kết hợp chặt chẽ, sự thống nhất giữa gia đình - nhà trường - xã hội
về mục tiêu, nội dung và phương pháp giáo dục.
Đầu tư ngân sách thỏa đáng vào nâng cao văn hóa thẩm mỹ cho sinh
viên. Cần thay đổi cách tư duy và phương thức tổ chức, điều hành văn hóa,
khắc phục cung cách quan liêu, chủ quan trong đầu tư ngân sách.

Tăng cường vai trò tiên phong của Đoàn Thanh niên và Hội sinh viên.
Triển khai thực hiện Đề án và Chương trình hành động của tổ chức
Đoàn cần được coi là nhiệm vụ trọng tâm. phải đổi mới và tăng cường
tuyên truyền, giáo dục thanh niên sống có lý tưởng, tránh tình trạng “nhạt
Đảng, khô Đoàn, xa rời chính trị”.
Hoàn thiện, bổ sung mới các văn bản pháp luật nhằm quản lý có hiệu
quả các hoạt động văn hóa thẩm mỹ. Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp
luật nhằm tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động văn
hóa; , cần rà soát, hoàn chỉnh và bổ sung kịp thời, tránh tình trạng chồng
chéo.
Nâng cao vốn văn hóa chung là điều kiện có tính nền tảng để nâng
cao văn hóa thẩm mỹ cho sinh viên. Vốn văn hóa chung đầy đủ chính là
điều kiện cho việc thưởng thức, đánh giá thẩm mỹ một cách đúng đắn. Nếu
người nghệ sĩ sáng tác hay biểu diễn cần có một vốn sống và vốn tri thức
để xây dựng một hình tượng nghệ thuật, thì người thưởng thức cũng cần
phải nâng cao những hiểu biết, tri thức mới đón được cái hay, cái đẹp của
tác phẩm.
Giáo dục định hướng văn hóa thẩm mỹ cho sinh viên trong môi trường
giáo dục nhà trường. Giáo dục trong nhà trường được xem là con đường
cơ bản, có giá trị lâu dài và có tác dụng định hướng thẩm mỹ đúng đắn cho


22

thế hệ trẻ, nơi phát hiện - ươm mầm - bồi dưỡng tài năng nghệ thuật nói
chung. Mặt khác, giáo dục nhà trường phải dựa trên quan điểm toàn diện.
Cụ thể là: Xây dựng môi trường văn hóa trong nhà trường, Đổi mới
phương pháp trong việc giảng dạy: Đổi mới nội dung, kết cấu chương trình
phù hợp; Khuyến khích phổ biến các môn nghệ thuật, nhất là nghệ thuật
truyền thống vào trong các hoạt động ngoại khóa…

4.2.2. Nhóm giải pháp nâng cao thị hiếu thẩm mỹ trong hoạt động
thưởng thức thẩm mỹ của sinh viên các trường đại học.
Nâng cao trách nhiệm của cơ quan quản lý văn hóa trong hoạt động
thưởng thức thẩm mỹ. Tiếp tục hoàn chỉnh hệ thống văn bản pháp luật
nhằm tăng cường công tác quản lý nhà nước đối với các hoạt động văn
hóa; Phối hợp với các ngành chức năng, các lực lượng kiểm soát chặt chẽ
các sản phẩm văn hóa du nhập từ bên ngoài vào dưới mọi hình thức. Đồng
thời, kiên quyết xử lý nghiêm các hành vi vi phạm trong các lĩnh vực kinh
doanh, dịch vụ văn hóa. Đặc biệt, tạo điều kiện về nhân sự, đặc biệt là đầu
tư tài chính có cơ chế giám sát, quản lý trong việc sử dụng nguồn kinh phí
đúng mục đích cải thiện và nâng cao đời sống văn hóa tinh thần trong các
trường Đại học.
Tăng cường tính định hướng thẩm mỹ của truyền thông đại chúng. Một
là, tìm hiểu nguồn tin, cung cấp những thông tin chính xác nhất để định
hướng dư luận theo hướng tích cực. Hai là, áp dụng phương pháp thiết kế
thông điệp giáo dục gắn bó chặt chẽ với kỹ thuật quản lý hình ảnh và phân
tích nhân vật trong truyền thông giáo dục. Từ đó, giúp công chúng nói
chung và sinh viên nói riêng có những suy nghĩ, tình cảm, hành động đúng.
Ba là, cần quan tâm cả hai mặt nội dung và hình thức thể hiện đối với các
sản phẩm, các chương trình của truyền thông đại chúng. Cuối cùng, bản
thân mỗi nhà báo, nhà truyền thông trước hết phải là một nhà giáo dục và
hơn thế là một nhà báo có đủ kiến thức, kỹ năng, trách nhiệm xã hội và
tuân thủ, tôn trọng các chuẩn mực đạo đức xã hội và đạo đức nghề nghiêp.
4.2.3. Nhóm giải pháp nâng cao thị hiếu thẩm mỹ trong hoạt động đánh
giá thẩm mỹ của sinh viên các trường đại học.
Nâng cao nhận thức, trình độ và trách nhiệm của chủ thể đánh giá
thẩm mỹ. Việc trang bị cho sinh viên các tri thức lý luận mỹ học cơ bản,
theo chúng tôi là biện pháp quan trọng hàng đầu vì những tri thức đóng vai



23

trò là cơ sở khoa học và phương pháp luận để sinh viên có thể đánh giá các
giá trị thẩm mỹ ở mức độ sâu sắc và toàn diện, khắc phục được hạn chế về
sự hời hợt, cảm tính trong đánh giá thẩm mỹ.
Nâng cao tinh thần trách nhiệm của nghệ sĩ, nhà lý luận phê bình trong
việc định hướng hoạt động đánh giá thẩm mỹ cho sinh viên. Đội ngũ sáng
tác và lý luận phê bình cần nâng cao trau dồi đạo đức, nâng cao năng lực
của mình trong việc gián tiếp truyền bá, định hướng thị hiếu thẩm mỹ cho
sinh viên thông sản phẩm nghệ thuật của mình. Bởi vì, họ là những người
nắm vững và có nền tảng về nghệ thuật, được xem là những người "cầm
cân nảy mực", giúp cho sinh viên cảm nhận đúng đắn và phân biệt đâu là
giá trị nghệ thuật đích thực.
4.2.4. Nhóm giải pháp nâng cao thị hiếu thẩm mỹ trong hoạt động sáng
tạo thẩm mỹ của sinh viên các trường đại học.
Thẩm mỹ hóa môi trường nhằm tạo điều kiện phát huy năng lực sáng
tạo của sinh viên. Tạo điều kiện cho họ được tiếp xúc thường xuyên với
môi trường thẩm mỹ, nhất là văn hóa nghệ thuật. Đây là một biện pháp có
tầm quan trọng đặc biệt bởi đến với nghệ thuật, sinh viên không chỉ được
thỏa mãn nhu cầu thẩm mỹ mà thỏa mãn giác quan thẩm mỹ và cảm xúc
thẩm mỹ.
Tạo ra nhiều "sân chơi" để sinh viên thể hiện tài năng. Trong các
trường Đại học, phòng chức năng như Phòng Công tác học sinh sinh viên,
Bạn quản lý kí túc xá và các tổ chức đoàn thể như Đoàn Thanh Niên, Hội
sinh viên cần phối hợp với các Khoa tổ chức nhiều cuộc thi sáng tạo để
sinh viên có cơ hội để thể hiện năng khiếu của mình.
Phát huy tính tích cực, chủ động của sinh viên trong quá trình rèn luyện
hoạt động sáng tạo thẩm mỹ. Khi có điều kiện sinh viên cần chủ động
chuẩn bị trước và nắm lấy cơ hội để thể hiện tài năng của bản thân.
Sinh viên cần tích cực tích lũy vốn sống và trau dồi đạo đức. Cảm hứng

sáng tạo là nhân tố chủ đạo tự nhiên. Đây không phải là sự bùng phát nhất
thời mà là quá trình tích lũy chất liệu từ những quan sát cuộc sống.
Để khắc phục những mặt hạn chế trong sáng tạo thẩm mỹ như đã từng diễn
ra, sinh viên Việt Nam rất cần được quan tâm đến việc rèn luyện đạo đức. Sinh
viên tài năng trong sáng tạo trước hết phải là sinh viên có đạo đức.


×