Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Phân tích, làm rõ hoạt động kháng nghị về thi hành án dân sự theo Luật THADS 2008 (sửa đổi bổ sung 2014)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.04 KB, 17 trang )

Chủ Đề: Phân tích, làm rõ hoạt động kháng nghị về thi hành án dân sư
A- MỞ ĐẦU
Thi hành án dân sự là hoạt động khá phức tạp, dễ xâm phạm đến quyền, lợi
ích hợp pháp của các chủ thể, do đó, việc kiểm sát các hoạt động thi hành án dân
sự là thực sự cần thiết. Kháng nghị về thi hành án dân sự của Viện kiểm sát nhân
dân là một trong những hoạt động nhằm kiểm sát việc thi hành án dân sự. Trong
công tác kiểm sát thi hành án dân sự, kháng nghị là một trong những nhiệm vụ,
quyền hạn của Viện Kiểm sát được quy định tại Điều 28 Luật Tổ chức Viện
Kiểm sát nhân dân (VKSND) năm 2014; Điều 12 Luật Thi hành án dân sự năm
2008 sửa đổi, bổ sung năm năm 2014. Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt
động kháng nghị về thi hành án dân sự trong việc đảm bảo hiệu quả hoạt động
thi hành án nói chung và hoạt động kiểm sát thi hành án nói riêng, bài tiểu luận
xin được trình bày về vấn đề: “Hoạt động kháng nghị về thi hành án dân sự”.

1


B- NỘI DUNG
I1.

Khái quát chung về hoạt động kháng nghị về thi hành án dân sư
Khái niệm kháng nghị về thi hành án dân sư

Kháng nghị về thi hành án dân sự là một trong các công tác thực hiện chức
năng kiểm sát hoạt động tư pháp của Viện kiểm sát nhân dân theo quy định của
Hiến pháp và Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014. Trong khoa học
pháp lý, việc Viện kiểm sát phát hiện các vi phạm trong các quyết định, hành vi
của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên cơ quan thi hành án
dân sự và đề nghị Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền xem
xét, giải quyết được gọi là hoạt động kháng nghị về thi hành án dân sự.
Có thể hiểu, kháng nghị về thi hành án dân sự là hoạt động của Viện kiểm sát


theo quy định của pháp luật phản đối các quyết định hoặc hành vi vi phạm pháp
luật trong thi hành án của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự và Chấp hành
viên, đề nghị Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có thẩm quyền xem xét lại
quyết định, hành vi vi phạm pháp luật đó.
2.

Đặc điểm của kháng nghị về thi hành án dân sư

Thứ nhất, chủ thể có thẩm quyền kháng nghị về thi hành án dân sự là Viện
kiểm sát, bao gồm Viện kiểm sát nhân dân cấp huyện, Viện kiểm sát nhân dân
cấp tỉnh, Viện kiểm sát nhân dân tối cao, Viện kiểm sát quân sự cấp quân khu và
Viện kiểm sát quân sự trung ương. Theo quy định của pháp luật, Viện kiểm sát
nhân dân là chủ thể duy nhất có quyền kháng nghị về thi hành án dân sự.
Thứ hai, đối tượng của kháng nghị về thi hành án dân sự là quyết định và
hành vi vi phạm pháp luật trong thi hành án của Thủ trưởng cơ quan thi hành án
dân sự và Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự.
Thứ ba, chủ thể có thẩm quyền giải quyết kháng nghị về thi hành án dân sự là
Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, bao gồm Thủ trưởng cơ quan thi hành án
2


dân sự cấp huyện, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, Thủ trưởng
cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp, Thủ trưởng cơ quan thi
hành án cấp quân khu, Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án thuộc Bộ Quốc
phòng; Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án dân sự bao gồm Thủ trưởng cơ
quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp, Thủ trưởng cơ quan quản lý
thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng; Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Bộ trưởng, Bộ Quốc
phòng.
Thứ tư, hoạt động kháng nghị về thi hành án dân sự còn có ý nghĩa trong việc
nâng cao trách nhiệm của cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên trong việc

thi hành án dân sự, sửa chữa những sai phạm nảy sinh trong quá trình thi hành
án dân sự, bảo vệ quyền và lợi ích chính đáng của Nhà nước, của các tổ chức
và công dân.
3.

Mục đích của hoạt động kháng nghị về thi hành án dân sư

Kháng nghị về thi hành án dân sự bảo đảm cho Viện kiểm sát thực hiện có
hiệu quả công tác kiểm sát việc tuân theo pháp luật của các hoạt động thi hành
án dân sự, khắc phục những vi phạm trong hoạt động tư pháp, bảo đảm cho
hoạt động tư pháp được thực hiện nghiêm minh, công bằng, dân chủ và khách
quan, bảo vệ quyền con người, các quyền và lợi ích chính đáng của Nhà nước,
của các tổ chức và công dân đã được Hiến pháp và pháp luật ghi nhận; góp
phần quan trọng trong việc khẳng định và nâng cao vị thế của ngành Kiểm sát
trong hệ thống các cơ quan tư pháp. Ngoài ra, kháng nghị về thi hành án dân sự
còn có ý nghĩa trong việc nâng cao trách nhiệm của cơ quan thi hành án dân sự,
Chấp hành viên trong việc thi hành án dân sự, sửa chữa những sai phạm nảy
sinh trong quá trình thi hành án dân sự, góp phần tăng cường pháp chế xã hội
chủ nghĩa.

3


II1.

Hoạt động kháng nghị về thi hành án dân sư
Thẩm quyền kháng nghị thi hành án dân sư

Thông qua kiểm sát việc thi hành án, khi phát hiện quyết định, hành vi của
Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự và Chấp hành viên cơ quan thi hành án

dân sự có vi phạm pháp luật, Viện trưởng Viện Kiểm sát nhân dân có thẩm
quyền phải ban hành văn bản kháng nghị yêu cầu khắc phục vi phạm.
Điều 5 Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014 quy định quyền kháng
nghị của Viện kiểm sát nhân dân. Theo đó, khi hành vi, bản án, quyết định của cơ
quan, cá nhân có thẩm quyền trong hoạt động tư pháp có vi phạm pháp luật nghiêm
trọng, xâm phạm quyền con người, quyền công dân, lợi ích của Nhà nước, quyền
và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân thì Viện kiểm sát nhân dân phải kháng
nghị.
Theo quy định tại điểm e khoản 2 Điều 12, khoản 1 Điều 160 Luật thi hành
án dân sự năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014 và khoản 8 Điều 28 Luật tổ
chức VKSND năm 2014, cơ quan có thẩm quyền kháng nghị về thi hành án dân
sự là Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp và cấp trên trực tiếp. Cụ thể: Cơ quan có
thẩm quyền kháng nghị đối với quyết định, hành vi của Thủ trưởng cơ quan thi
hành án dân sự, Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện là Viện
kiểm sát nhân dân cấp huyện và Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh. Cơ quan có
thẩm quyền kháng nghị đối với quyết định, hành vi của Thủ trưởng cơ quan thi
hành án dân sự, Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh là Viện
kiểm sát nhân dân cấp tỉnh và Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Cơ quan có thẩm
quyền kháng nghị đối với quyết định, hành vi của Thủ trưởng cơ quan thi hành
án, Chấp hành viên cơ quan thi hành án cấp quân khu là Viện kiểm sát quân sự
quân khu và Viện kiểm sát quân sự trung ương.
2.

Thời hạn kháng nghị thi hành án dân sư

Việc kháng nghị của Viện kiểm sát được thực hiện trong một thời hạn nhất
định. Theo quy định tại khoản 2 Điều 160 Luật thi hành án dân sự năm 2008,
4



sửa đổi bổ sung năm 2014 thì thời hạn kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân
cùng cấp là 15 ngày, của Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp là 30 ngày, kể từ ngày
nhận được quyết định hoặc phát hiện hành vi vi phạm.
Như vậy, về nguyên tắc, khi hết thời hạn kháng nghị thì Viện Kiểm sát không
được kháng nghị nữa. Tuy nhiên, Viện Kiểm sát có quyền kiến nghị yêu cầu cơ
quan có thẩm quyền xem xét, xử lý đối với quyết định, hành vi vi phạm pháp
luật trong thi hành án dân sự theo quy định của Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân
dân (khoản 2 Điều 35 Quy chế công tác kiểm sát thi hành án dân sự ngày 20
tháng 12 năm 2016 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao).
3.

Đối tượng bị kháng nghị về thi hành án dân sư

Đối tượng bị kháng nghị về thi hành án dân sự là các quyết định hoặc hành vi
vi phạm pháp luật trong thi hành án dân sự của Thủ trưởng cơ quan thi hành án
dân sự và Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 160 Luật thi hành án dân sự năm 2008, sửa
đổi bổ sung năm 2014 và khoản 8 Điều 28 Luật tổ chức VKSND năm 2014,
Viện kiểm sát có quyền kháng nghị đối với các quyết định và hành vi vi phạm
pháp luật trong thi hành án dân sự sau đây:
Một là, các quyết định vi phạm pháp luật của Thủ trưởng cơ quan thi hành án
dân sự và Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự như Quyết định thi hành
án; Quyết định ủy thác thi hành án; Quyết định hoãn, tạm đình chỉ, đình chỉ thi
hành án, trả lại đơn yêu cầu thi hành án; Quyết định áp dụng biện pháp cưỡng
chế thi hành án…
Hai là, các hành vi vi phạm pháp luật của Thủ trưởng cơ quan thi hành án
dân sự và Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự. Ví dụ: vi phạm pháp luật
trong việc xác minh, phân loại việc có Điều kiện hoặc không có Điều kiện thi
hành án; vi phạm pháp luật trong việc tổ chức cưỡng chế thể hiện trong tài liệu
thi hành án…

5


4.

Giải quyết kháng nghị về thi hành án dân sư

Khi nhận được kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân đối với quyết định
hoặc hành vi vi phạm pháp luật trong việc thi hành án dân sự của Thủ trưởng cơ
quan thi hành án dân sự và Chấp hành viên cơ quan thi hành án dân sự thì phải
thực hiện việc trả lời theo quy định của pháp luật.
Việc trả lời kháng nghị của Viện kiểm sát được quy định tại Điều 161 Luật
thi hành án dân sự năm 2008, sửa đổi bổ sung năm 2014. Theo đó:
Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự có trách nhiệm trả lời kháng nghị của
Viện kiểm sát nhân dân đối với quyết định, hành vi về thi hành án của mình hoặc
của Chấp hành viên thuộc quyền quản lý trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày
nhận được kháng nghị.
Trường hợp chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thì trong thời
hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày có văn bản trả lời kháng nghị, Thủ trưởng cơ
quan thi hành án dân sự phải thực hiện kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân.
Như vậy, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự là chủ thể có thẩm quyền
giải quyết kháng nghị về thi hành án dân sự của Viện kiểm sát. Kháng nghị của
Viện kiểm sát nhân dân phải được trả lời trong thời hạn 15 ngày, kể từ ngày
nhận được kháng nghị. Tức là, sau 15 ngày kể từ ngày nhận được kháng nghị
Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự phải có văn bản trả lời kháng nghị. Nếu
chấp nhận kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân thì Thủ trưởng cơ quan thi
hành án dân sự phải thực hiện kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân trong thời
hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày có văn bản trả lời kháng nghị.
Trường hợp Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự không nhất trí với kháng
nghị của Viện kiểm sát thì giải quyết như sau:

Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp huyện nơi có quyết định, hành vi
bị kháng nghị phải báo cáo với Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh
và Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân cấp tỉnh. Thủ trưởng cơ quan thi hành án
dân sự cấp tỉnh phải xem xét, trả lời trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận
6


được báo cáo; văn bản trả lời của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp
tỉnh có hiệu lực thi hành;
Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh có quyết định, hành vi bị
kháng nghị phải báo cáo với Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án dân sự
thuộc Bộ Tư pháp và Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Thủ trưởng cơ quan quản
lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp xem xét và trả lời trong thời hạn 30
ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo. Văn bản trả lời của Thủ trưởng cơ quan
quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp có hiệu lực thi hành;
Thủ trưởng cơ quan thi hành án cấp quân khu có quyết định, hành vi bị
kháng nghị phải báo cáo với Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án thuộc Bộ
Quốc phòng và Viện kiểm sát quân sự trung ương. Thủ trưởng cơ quan quản lý
thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng phải xem xét và trả lời trong thời hạn 30 ngày,
kể từ ngày nhận được báo cáo. Văn bản trả lời của Thủ trưởng cơ quan quản lý
thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng có hiệu lực thi hành.
Như vậy, nếu không đồng ý với kháng nghị của Viện kiểm sát thì Thủ trưởng
cơ quan thi hành án dân sự có quyết định, hành vi bị kháng nghị phải báo cáo
với Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp trên trực tiếp hoặc Thủ trưởng cơ
quan quản lý thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng, Thủ trưởng cơ quan quản lý thi
hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp và Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp. Thủ
trưởng cơ quan thi hành án dân sự được báo cáo phải xem xét và trả lời trong
thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được báo cáo. Văn bản trả lời của Thủ trưởng
cơ quan thi hành án dân sự cấp trên trực tiếp hoặc Thủ trưởng cơ quan quản lý
thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng, Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án dân

sự thuộc Bộ Tư pháp có hiệu lực thi hành.
Trường hợp xét thấy văn bản trả lời kháng nghị được quy định tại khoản 2
Điều này không có căn cứ thì Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao yêu
cầu Bộ trưởng Bộ Tư pháp xem xét lại văn bản trả lời đã có hiệu lực thi hành
của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, Thủ trưởng cơ quan quản lý
thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp; Bộ trưởng Bộ Quốc phòng xem xét lại văn
7


bản trả lời đã có hiệu lực thi hành của Thủ trưởng cơ quan thi hành án cấp quân
khu, Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng. Bộ trưởng
Bộ Tư pháp, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng có trách nhiệm xem xét và trả lời bằng
văn bản cho Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao trong thời hạn 30 ngày,
kể từ ngày nhận được yêu cầu.
Quy định này nhằm tránh trường hợp văn bản trả lời kháng nghị của Thủ
trưởng cơ quan thi hành án dân sự cấp tỉnh, Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành
án dân sự thuộc Bộ Tư pháp, Thủ trưởng cơ quan thi hành án cấp quân khu, Thủ
trưởng cơ quan quản lý thi hành án thuộc Bộ Quốc phòng không có căn cứ bởi
vì văn bản trả lời kháng nghị của những người này có hiệu lực thi hành ngay.
Đây là hành vi của những người thuộc sự quản lý của Bộ tư pháp và Bộ quốc
phòng nên Bộ trưởng Bộ tư pháp và Bộ trưởng Bộ quốc phòng có trách nhiệm
xem xét và trả lời đối với yêu cầu Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Trong thời
hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được yêu cầu, Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Bộ trưởng
Bộ Quốc phòng có trách nhiệm xem xét và trả lời bằng văn bản cho Viện trưởng
Viện kiểm sát nhân dân tối cao.
5.

Yêu cầu đối với kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân về thi hành
án dân sư


Theo quy định tại Điều 34 Quy chế công tác kiểm sát thi hành án dân sự
ngày 20 tháng 12 năm 2016 của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao,
việc kháng nghị của Viện kiểm sát nhân dân được thực hiện như sau:
Viện kiểm sát nhân dân thực hiện quyền kháng nghị đối với quyết định và
hành vi của Thủ trưởng, Chấp hành viên Cơ quan thi hành án dân sự cùng cấp và
cấp dưới khi có vi phạm pháp luật nghiêm trọng, ảnh hưởng tới quyền và lợi ích
hợp pháp của đương sự, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan trong thi hành
án dân sự và trong giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi hành án dân sự để yêu cầu
đình chỉ việc thi hành án, thu hồi, sửa đổi, bổ sung, hủy quyết định có vi phạm
pháp Luật trong việc thi hành án và trong việc giải quyết khiếu nại, tố cáo về thi
hành án; chấm dứt hành vi vi phạm pháp Luật theo Điều 28 và Điều 30 Luật tổ
8


chức Viện kiểm sát nhân dân năm 2014, Điều 12 và Điều 160 Luật thi hành án
dân sự năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014;
Việc kháng nghị phải bảo đảm đúng thời hạn theo quy định tại Điều 160 Luật
thi hành án dân sự năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014; phải bằng văn bản theo
mẫu quy định, do lãnh đạo Viện ký. Nội dung kháng nghị phải nêu rõ tên cơ
quan bị kháng nghị; chức vụ, chức danh của cá nhân bị kháng nghị; quyết định
hoặc hành vi vi phạm pháp Luật bị kháng nghị; các yêu cầu cần thực hiện, thời
hạn trả lời kháng nghị. Khi nêu các vi phạm, cần viện dẫn đầy đủ các quy định
của pháp Luật làm căn cứ xác định vi phạm.
Như vậy, để đảm bảo tính chính xác và có căn cứ của văn bản kháng nghị,
yêu cầu nội dung kháng nghị phải được thực hiện đúng quy định tại Quy chế
công tác kiểm sát thi hành án dân sự (ban hành kèm theo Quyết định 255/QĐVKSTC-V10 ngày 19/6/2013 của Viện trưởng VKSND tối cao). Văn bản kháng
nghị phải có nội dung rõ ràng, phân tích, chứng minh khúc chiết và đủ căn cứ.
Phần nhận định: Xác định và chỉ rõ vi phạm pháp luật, hệ quả của vi phạm,
nguyên nhân và trách nhiệm của cơ quan thi hành án dân sự, chấp hành viên…,
vi phạm điều, khoản cụ thể của luật hoặc các văn bản pháp lý có liên quan và

viện dẫn chính xác điều khoản này để làm rõ vi phạm. Phần kết luận: Nêu rõ yêu
cầu đối với đối tượng bị kháng nghị nhằm khắc phục vi phạm.
Kháng nghị được gửi cho đối tượng bị kháng nghị, cho cơ quan chủ quản của
họ và cho Viện kiểm sát cấp trên để báo cáo.
Viện kiểm sát đã kháng nghị có trách nhiệm theo dõi việc trả lời và thực hiện
kháng nghị theo quy định tại Điều 161 Luật thi hành án dân sự năm 2008 sửa
đổi, bổ sung năm 2014. Khi cần thiết thì tổ chức phúc tra việc thực hiện các yêu
cầu trong kháng nghị; hoặc thông qua trực tiếp kiểm sát định kỳ để phúc tra việc
thực hiện kháng nghị.
Trường hợp đối tượng bị kháng nghị không nhất trí với kháng nghị thì Viện
kiểm sát đã kháng nghị phải báo cáo Viện kiểm sát cấp trên trực tiếp (cả trong
trường hợp Viện kiểm sát cấp trên kháng nghị với hành vi, quyết định của Cơ
9


quan thi hành án dân sự cấp dưới), kèm theo tài liệu cần thiết. Báo cáo phải nêu
rõ nội dung sự việc, quan điểm của Viện kiểm sát về kháng nghị và về quan
điểm không chấp nhận kháng nghị của cơ quan bị kháng nghị.
Kể từ ngày nhận được báo cáo và tài liệu kèm theo của Viện kiểm sát cấp
dưới và báo cáo của Cơ quan thi hành án dân sự cấp dưới bị kháng nghị, Viện
kiểm sát cấp trên có trách nhiệm xem xét và trong thời hạn không quá 15 ngày
làm việc phải ban hành văn bản trả lời. Trường hợp đồng ý với kháng nghị của
Viện kiểm sát cấp dưới thì nêu rõ quan điểm của mình. Trường hợp không đồng
ý với một phần hoặc toàn bộ kháng nghị của Viện kiểm sát cấp dưới thì nêu rõ
quan điểm, đồng thời yêu cầu Viện kiểm sát đã kháng nghị rút, sửa đổi kháng
nghị hoặc trực tiếp ra quyết định rút một phần hoặc toàn bộ kháng nghị của Viện
kiểm sát cấp dưới.
Trường hợp xét thấy văn bản trả lời của Thủ trưởng Cơ quan thi hành án dân
sự cấp tỉnh hoặc của Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ
Tư pháp không có căn cứ, trái với quan điểm của Viện kiểm sát thì Viện kiểm sát

nhân dân cấp tỉnh báo cáo Vụ kiểm sát thi hành án dân sự để báo cáo lãnh đạo
Viện kiểm sát nhân dân tối cao. Nếu thấy kháng nghị có căn cứ, đúng pháp Luật
thì Lãnh đạo Viện kiểm sát nhân dân tối cao có văn bản yêu cầu lãnh đạo Bộ Tư
pháp xem xét lại văn bản trả lời của Thủ trưởng Cơ quan thi hành án dân sự cấp
tỉnh và Thủ trưởng cơ quan quản lý thi hành án dân sự thuộc Bộ Tư pháp.
III1.

Thưc tiễn hoạt động kháng nghị về thi hành án dân sư
Thưc trạng hoạt động kháng nghị về thi hành án dân sư

Những năm qua, Viện kiểm sát nhân dân các cấp đã thực hiện kiểm sát chặt
chẽ các quyết định, hành vi của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, Chấp
hành viên cơ quan thi hành án dân sự bằng nhiều phương thức kiểm sát khác
nhau. Qua đó phát hiện và xử lý kịp thời những vi phạm pháp luật trong các
quyết định, hành vi của Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự, Chấp hành viên
cơ quan thi hành án dân sự, thu hồi, hủy bỏ các quyết định thi hành án ban hành
10


không đúng quy định pháp luật; yêu cầu chấn chỉnh, sửa chữa và khắc phục các
vi phạm pháp luật đã được phát hiện.
Các vi phạm của cơ quan THADS bị kháng nghị chủ yếu là ra quyết định
thi hành án không đúng nội dung đơn yêu cầu thi hành án; trùng lặp với nội
dung quyết định đã ban hành trước đó; ban hành quyết định thi hành trước
ngày người được thi hành án làm đơn yêu cầu; ra quyết định đình chỉ chưa
đúng nội dung thỏa thuận của đương sự và đối với trường hợp bản án tuyên
phải thực hiện nghĩa vụ liên đới.
Nhìn chung, các bản kháng nghị phần lớn được các Cơ quan Thi hành án
chấp nhận và có biện pháp khắc phục sửa chữa. Đối với các quyết định về thi
hành án ban hành không đủ điều kiện và trái quy định pháp luật, Cơ quan Thi

hành án đã ban hành ngay các quyết định thu hồi, hủy bỏ các quyết định có vi
phạm pháp luật mà không đợi Viện Kiểm sát ban hành kết luận. Những trường
hợp khắc phục kịp thời các vi phạm phát hiện qua kiểm sát, vẫn kết luận vi
phạm nhưng chỉ ban hành kiến nghị yêu cầu chấn chỉnh.
Thông qua công tác kháng nghị, VKSND đã phân tích, đánh giá các nguyên
nhân chủ quan, khách quan dẫn đến vi phạm và đề ra giải pháp yêu cầu khắc
phục và hầu hết được các cơ quan, tổ chức, cá nhân chấp nhận. Các kháng nghị
của VKSND đã có những tác động tích cực trong công tác thi hành án dân sự,
góp phần giúp cho Viện kiểm sát thực hiện có hiệu quả công tác kiểm sát việc
tuân theo pháp luật của các hoạt động thi hành án dân sự, khắc phục những vi
phạm trong hoạt động tư pháp, bảo đảm cho hoạt động tư pháp được thực hiện
nghiêm minh, công bằng, dân chủ và khách quan bảo đảm quyền, lợi ích hợp
pháp của đương sự, người có quyền lợi và nghĩa vụ liên quan, hạn chế vi phạm
và tội phạm xảy ra trong lĩnh vực thi hành án dân sự.
Bên cạnh những điểm đạt được như trên, hoạt động kháng nghị về thi hành
án dân sự vẫn còn những điểm hạn chế.

11


Về hình thức, một số kháng nghị ban hành không đúng theo mẫu, nội dung
kháng nghị, kiến nghị còn trích dẫn chưa cụ thể, thiếu căn cứ không đúng trọng
tâm cần kháng nghị, kiến nghị.
Việc kháng nghị của Viện kiểm sát còn mang tính hình thức, số lượng kháng
nghị ít. Có kháng nghị đã quá hạn theo quy định tại khoản 2 Điều 160 của Luật
THADS năm 2008 sửa đổi bổ sung 2014. Do vậy mặc dù nội dung kháng nghị
đúng nhưng không được cơ quan THADS chấp nhận. Các đơn vị VKSND cấp
huyện ban hành kháng nghị, văn bản kháng nghị chung trong kết luận trực tiếp
kiểm sát, nội dung kháng nghị những hành vi của Chấp hành viên không thực
hiện hoặc thực hiện chậm chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật về

trình tự, thủ tục THADS, nhưng kháng nghị không nêu rõ trách nhiệm của
Chấp hành viên phải khắc phục vi phạm mà chỉ nêu trách nhiệm chung để yêu
cầu tập thể hoặc yêu cầu Chi cục trưởng khắc phục vi phạm.
Có trường hợp vi phạm phát hiện là các quyết định thi hành án cần thu hồi do
ban hành không đúng pháp luật, nhưng lại ban hành kiến nghị, trong khi những
trường hợp này cần ban hành kháng nghị yêu cầu thu hồi, hủy bỏ các quyết định
thi hành án có vi phạm pháp luật.
Nhiều trường hợp thực hiện kiểm sát nhưng cán bộ, Kiểm sát viên thực hiện
nhiệm vụ kiểm sát không phát hiện được hoặc phát hiện không hết vi phạm; có
phát hiện vi phạm nhưng kết luận sai dạng vi phạm và không đúng với điều luật.
Nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trên là do công tác kiểm sát thi hành án
dân sự chưa được chú trọng đầu tư nghiên cứu, tập huấn chuyên sâu, chưa
thường xuyên nghiên cứu, nắm bắt kịp thời các quy định pháp luật mới về thi
hành án dân sự. Đội ngũ cán bộ, Kiểm sát viên làm công tác kiểm sát thi hành án
dân sự còn thiếu về số lượng, chưa tinh thông về chuyên môn, nghiệp vụ, việc
bố trí cán bộ làm công tác này không được ổn định và thường xuyên bị chuyển
đổi nên khả năng nắm bắt làm quen công việc chưa đáp ứng, do vậy việc phát
hiện vi phạm và ban hành kháng nghị, kiến nghị vẫn còn hạn chế. Còn xảy ra
mâu thuẫn trong quan điểm giải quyết vụ việc giữa Viện kiểm sát với cơ quan thi
12


hành án cũng như giữa các cấp Viện kiểm sát với nhau, do đó, việc giải quyết
kháng nghị về thi hành án dân sự còn gặp phải nhiều khó khăn, mất nhiều thời
gian.
2.

Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động kháng nghị về thi hành án
dân sư


Thứ nhất, từ thực tiễn công tác kháng nghị trong hoạt động kiểm sát thi hành
án dân sự cần phải sơ kết rút ra kinh nghiệm và đề ra giải pháp nâng cao hiệu
quả kháng nghị của VKSND về công tác thi hành án dân sự. Kịp thời quán triệt
và thực hiện nghiêm chỉ thị của Viện trưởng VKSND tối cao, chương trình kế
hoạch công tác kiểm sát của ngành Kiểm sát nói chung và chương trình công tác
kiểm sát thi hành án dân sự nói riêng ngay từ đầu năm, trong đó cần phải xác
định nhiệm vụ trong tâm của năm để làm cơ sở định hướng đảm bảo đạt các chỉ
tiêu Quốc hội và ngành Kiểm sát giao cho. Tuân thủ và thực hiện các quy định
pháp luật, quy chế công tác kiểm sát thi hành án dân sự, quy định của ngành
trong hoạt động nghiệp vụ. Không chạy theo chỉ tiêu, thành tích trong quá trình
thực hiện nhiệm vụ.
Thứ hai, phải thường xuyên quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ, Kiểm sát
viên làm công tác kiểm sát thi hành án dân sự đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ. Tạo
điều kiện tập huấn nghiệp vụ chuyên sâu để kịp thời nắm chắc các quy định của
pháp luật và nghiệp vụ kiểm sát về thi hành án dân sự. Đối với cán bộ, Kiểm sát
viên làm công tác kiểm sát thi hành án dân sự cần phải nêu cao tinh thần trách
nhiệm trong công việc và không ngừng rèn kỹ năng nghiệp vụ. Luôn ra sức học
tập nghiên cứu, trau dồi, học hỏi các kỹ năng nghiệp vụ thi hành án dân sự đáp
ứng yêu cầu ngày càng cao trong tình hình hiện nay.
Thứ ba, kháng nghị phải đảm bảo tính chính xác, khách quan và có căn cứ
đồng thời đảm bảo được sự chấp nhận của các cơ quan, tổ chức và cá nhân bị
kháng nghị. Đối với những vấn đề, nội dung còn nhận thức khác nhau thì cần
thực hiện thỉnh thị, báo cáo Viện Kiểm sát cấp trên để đảm bảo sự thống nhất về
quan điểm trong quá trình thực hiện chức năng, nhiệm vụ của ngành.
13


Thứ tư, thông qua việc kháng nghị, từng bước giảm và hạn chế các sai sót, vi
phạm trong công tác thi hành án dân sự, mà nhiệm vụ chủ yếu là phải thường
xuyên kiểm tra, kiểm sát, đồng thời khơi dậy tinh thần tự giác chấp hành và luôn

luôn kịp thời đôn đốc thực hiện nghiêm túc, đầy đủ đúng quy trình các quy định
của lực lượng Chấp hành viên hai cấp.
Thứ năm, VKSND cấp huyện cần phối hợp chặt chẽ với Phòng kiểm sát thi
hành án dân sự, VKSND tỉnh để thống nhất về đường lối giải quyết, từ đó có cơ
sở để bảo vệ kháng nghị của cấp huyện; VKSND cấp tỉnh phối hợp chặt chẽ với
Vụ kiểm sát thi hành án dân sự, VKSND tối cao để thống nhất về đường lối giải
quyết, từ đó có cơ sở để bảo vệ kháng nghị của cấp tỉnh.
Thứ sáu, trong quá trình kiểm sát cần áp dụng linh hoạt các phương thức
kiểm sát sao cho phù hợp với tình hình thực tế, sớm phát hiện vi phạm của cơ
quan thi hành án dân sự, kịp thời ban hành văn bản kháng nghị để nâng cao chất
lượng và hiệu quả công tác thi hành án dân sự.
Thứ bảy, trong việc phát hiện vi phạm: Cán bộ, Kiểm sát viên được phân
công cần mở sổ theo dõi, tổng hợp vi phạm và thường xuyên cập nhật, phản ánh
đầy đủ, chính xác các vi phạm đã phát hiện; ghi chép khoa học, đảm bảo dễ tổng
hợp; việc giao, nhận quyết định thi hành án dân sự phải được vào sổ theo dõi
nhận quyết định và có chữ ký của cán bộ giao. Số thứ tự nhận quyết định và
ngày nhận quyết định phải được thể hiện ngay trên góc phải của quyết định để
thuận tiện cho việc kiểm sát quyết định (bao gồm cả việc tính thời hạn kháng
nghị) của Kiểm sát viên được phân công nhiệm vụ kiểm sát; kiểm sát chặt chẽ
các quyết định thi hành án ngay từ đầu bằng việc so sánh nội dung bản án, quyết
định của Tòa án với nội dung quyết định thi hành án bởi đây là một trong những
giải pháp quan trọng nhằm kịp thời phát hiện vi phạm; Đối với các việc thi hành
án có khiếu nại của đương sự cần nghiên cứu, chủ động kịp thời ban hành văn
bản yêu cầu cơ quan thi hành án dân sự cung cấp hồ sơ để thực hiện kiểm sát.
Đối với mỗi trường hợp phát hiện vi phạm thông qua trực tiếp kiểm sát cần kịp
thời lập biên bản xác định thời điểm xảy ra việc vi phạm, thời điểm phát hiện vi
14


phạm nhằm đảm bảo thực hiện kháng nghị đúng hạn luật định. Khi phát hiện có

vi phạm, cán bộ, Kiểm sát viên được phân công nghiên cứu phải báo cáo lãnh
đạo Viện để có hướng xử lý kịp thời, tránh tình trạng nể nang, xuề xòa. Đồng
thời, đề xuất quan điểm xử lý và có ý kiến bằng văn bản. Lãnh đạo Viện cần tổ
chức thảo luận, lấy ý kiến trước tập thể và cân nhắc quyết định.
Thứ tám, trước khi ban hành kháng nghị: Cán bộ, Kiểm sát viên phải nắm
chắc các tài liệu có trong hồ sơ thi hành án và các tài liệu khác thu thập được
trong quá trình kiểm sát; thận trọng đối chiếu với quy định của pháp luật về trình
tự, thủ tục, các bước tiến hành… để xác định chính xác vi phạm, từ đó áp dụng
đúng căn cứ; bám sát vào Luật thi hành án dân sự, các luật, Bộ luật liên quan
khác, Quy chế và các văn bản hướng dẫn về nghiệp vụ thi hành án dân sự để làm
cơ sở khẳng định có hay không có vi phạm; kiểm tra, xem xét kỹ thời hạn kháng
nghị theo quy định của Luật thi hành án dân sự (Khoản 2 Điều 160). Trường hợp
phức tạp và có nhiều ý kiến trái chiều giữa các cơ quan ban ngành liên quan, cần
báo cáo và tham khảo ý kiến của VKS cấp trên trực tiếp trước khi ban hành
kháng nghị nhằm hạn chế tối đa việc rút kháng nghị.
Thứ chín, sau khi ban hành kháng nghị: Cần theo dõi việc trả lời của cơ quan
bị kháng nghị và kết quả thực hiện kháng nghị. Trường hợp kháng nghị được
chấp nhận một phần hoặc không được chấp nhận: Cá nhân hoặc cơ quan khi
nhận được văn bản không chấp nhận kháng nghị của cơ quan bị kháng nghị cần
nghiên cứu, xem xét kỹ các lập luận, lý lẽ của cơ quan bị kháng nghị. Khi thấy
kháng nghị, nội dung kháng nghị thiếu căn cứ, có sai sót phải báo cáo lãnh đạo
Viện đã ký kháng nghị cân nhắc, rút kháng nghị. Đối với trường hợp còn nhiều ý
kiến, quan điểm khác nhau thì đưa ra tập thể lãnh đạo Viện quyết định hoặc đề
nghị VKS cấp trên hỗ trợ. VKS cấp trên cần trực tiếp nghiên cứu cả hồ sơ thi
hành án để quyết định bảo vệ hoặc không bảo vệ kháng nghị. Nếu cần thiết thì
thực hiện việc xác minh một số căn cứ chứng minh vi phạm, tổng hợp các vi
phạm từ nội dung, hình thức trong việc thi hành án. Kiên quyết bảo vệ kháng
nghị của VKS cấp dưới nếu kháng nghị đúng, có căn cứ. Trường hợp vẫn không
15



được đơn vị bị kháng nghị chấp nhận thì phải xem xét lại và báo cáo bằng văn
bản đối với VKS cấp trên để có biện pháp kiến nghị với cơ quan thi hành án dân
sự cùng cấp chỉ đạo cơ quan thi hành án dân sự cấp dưới thực hiện.
C- KẾT LUẬN

Như vậy, qua việc tìm hiểu một số vấn đề liên quan đến “hoạt động kháng
nghị về thi hành án dân sự”, chúng ta đã có cái nhìn tổng quan về các vấn đề
liên quan đến thẩm quyền, thời hạn cũng như việc giải quyết kháng nghị về thi
hành án dân sự. Đây là cơ sở pháp lý áp dụng điều chỉnh các vấn đề liên quan
đến hoạt động kháng nghị thi hành án dân sự. Đồng thời, đảm bảo quyền và lợi
ích chính đáng của Nhà nước, của các tổ chức và công dân.

16


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Luật thi hành án dân sự 2008 sửa đổi bổ sung 2014.
2. Luật tổ chức Viện kiểm sát nhân dân 2014.
3. Quy chế công tác kiểm sát thi hành án dân sự ngày 20 tháng 12 năm 2016
của Viện trưởng Viện kiểm sát nhân dân tối cao (ban hành kèm theo
Quyết định 255/QĐ-VKSTC-V10 ngày 19/6/2013 của Viện trưởng
VKSND tối cao)
4. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình Luật thi hành án dân sự Việt
Nam, Nhà xuất bản Công an nhân dân, Hà Nội - 2012
5. Một số kinh nghiệm khi thực hiện công tác kiến nghị, kháng nghị trong
hoạt động kiểm sát thi hành án dân sự
/>6. Tấn Lực (VKSND tỉnh Kiên Giang), Thực trạng và giải pháp nâng cao
hiệu lực kiến nghị, kháng nghị của Viện Kiểm sát về công tác kiểm sát thi
hành án dân sự năm 2016

/>
17



×