Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Tiểu luận truyền thông đại chúng thế giới hiện đại

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (423.39 KB, 21 trang )

TIỂU LUẬN
MÔN: HỆ THỐNG TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG
THẾ GIỚI HIỆN ĐẠI
Đề tài:

TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG VỚI NHỮNG VẤN ĐỀ
CHÍNH TRỊ - THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU..........................................................................................................1
CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM CƠ BẢN CỦA TRUYỀN THÔNG ĐẠI
CHÚNG............................................................................................................3
1.1. Khái niệm...................................................................................................3
1.2. Các phương tiện truyền thông đại chúng...................................................3
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG VỚI
NHỮNG VẤN ĐỀ CHÍNH TRỊ.....................................................................6
2.1. Quyền tiếp cận thông tin............................................................................8
2.2. Những thông tin hạn chế tiếp cận ở Việt Nam.........................................10
2.3. Hệ thống các cơ quan, tổ chức đảm bảo quyền tiếp cận thông tin...........11
2.4. Những hạn chế trong thực hiện quyền tiếp cận thông tin........................12
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA TRUYỀN
THÔNG ĐẠI CHÚNG VỀ CHÍNH TRỊ.....................................................16
KẾT LUẬN....................................................................................................18
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.....................................................19


MỞ ĐẦU
Sự ra đời của ngành truyền thông là một trong những thành tựu vĩ đại của
nhân loại. Truyền thông đưa con người xích lại gần nhau hơn và giúp con
người phân định thế giới một cách có ý thức thành những mảng màu khác


nhau thông qua việc cung cấp cho con người những thông tin cập nhật và rất
có giá trị. Truyền thông cũng giúp cho con người tự làm mới nhận thức của
mình và nếu thiếu vắng nó, chúng ta sẽ tự giam hãm mình trong những ốc đảo
về nhận thức. Tóm lại, truyền thông đóng một vai trò thiết yếu trong việc xây
dựng và xúc tiến nhận thức của con người về thế giới. Với chính trị cũng vậy,
truyền thông có ảnh hưởng vô cùng lớn. Nó mang tính phản biện xã hội cho
nhân dân, đồng thời cũng là diễn đàn chính hệ thống chính trị xã hội đó.
Hãy tưởng tượng một thế giới không có sự lớn mạnh của ngành truyền
thông sẽ ra sao? Rõ ràng, những sự kiện khủng khiếp ấy sẽ chìm trong lãng
quên một cách nhanh chóng và con người cũng sẽ không cảm thấy lo sợ từ nó.
Tuy nhiên, giới truyền thông rất biết cách khai thác những biến động của thế
giới. Điều này cũng chính là mục đích của truyền thông – làm nên cái mà
chúng ta thường gọi là Quyền lực của Truyền thông.
Đến lượt mình, nó sẽ tạo ra một nguy cơ mới - nguy cơ nhận thức thế
giới bằng bóng, tức nhận thức thế giới qua thông tin và hình ảnh. Nếu chúng
ta tiếp tục khai thác thông tin theo cách này thì truyền thông sẽ không làm con
người mạnh hơn, toàn diện hơn về nhận thức, mà còn tạo ra sự đứt gãy và
nhiễu loạn về nhận thức thế giới. Bản thân hệ thống chính trị cũng khó có thể
đứng vững được khi thiếu vắng truyền thông. Bởi truyền thông vừa là công cụ
vừa là vũ khí sắc bén để thực hiện các nội dung mà những người làm chính trị
cần phải truyền tải, làm vừa lòng dân chúng, xoa dịu dân chúng và hướng dân
chúng đi theo mình.
Có thể nói rằng, tại những nơi mà ngành công nghiệp truyền thông đặt
chân tới, thế giới được nhận thức hoàn toàn khác với những miền mà nó bỏ
1


sót. - những miền đất thiếu thông tin về thế giới - con người vẫn nhận thức thế
giới một cách hoan hỉ và đơn giản. Phải chăng khi những bài ca về nỗi đau
thương được cất lên trong những nhà hát lớn sẽ có sức lan tỏa và lay động gấp

hàng nghìn lần khi nó được hát ở những nơi khác?
Trong xã hội hiện đại, truyền thông đại chúng có vai trò rất quan trọng
đối với đời sống xã hội. Quá trình truyền thông đại chúng không chỉ đơn giản
là quá trình truyền tin mà thông qua các hoạt động của nó, hệ thống chân lý,
giá trị, chuẩn mực xã hội được xây dựng và duy trì. Dư luận xã hội là sự thể
hiện tâm trạng xã hội, phản ánh sự đánh giá của các nhóm xã hội lớn, của
nhân dân nói chung về các hiện tượng đại diện cho lợi ích xã hội cấp bách
trên cơ sở các quan hệ xã hội đang tồn tại. Đối với dư luận xã hội, truyền
thông đại chúng cú vai trò đặc biệt quan trọng trong việc hình thành và thể
hiện. Do đó, đặc điểm của truyền thông là mang tính chính trị sâu sắc. Trong
phạm vi tiểu luận này, tôi chỉ nêu sơ lược một số vấn đề về ảnh hưởng của
truyền thông đại chúng với hệ thống chính trị, mà chủ yếu là chính trị trong
nước. Do thời gian nghiên cứu hạn chế, thiếu thốn về nguồn tài liệu nên Tiểu
luận sẽ còn rất nhiều thiếu sót, mong các thầy cô thông cảm.

2


CHƯƠNG 1: KHÁI NIỆM CƠ BẢN CỦA
TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG
1.1. Khái niệm
Truyền thông đại chúng là những phương pháp truyền thông chuyển tải
thông điệp đến những nhóm đông người. Có nhiều phương tiện truyền thông
đại chúng (PTTTĐC) khác nhau, phổ biến nhất là Phát thanh, Truyền hình,
Báo chí và nay có thêm internet.
Truyền thông đại chúng là những phương pháp truyền thông chuyển tải
thông điệp đến những nhóm đông người nhằm thay đổi nhận thức dẫn tới điều
chỉnh hành vi cho hợp lý. Có nhiều phương tiện truyền thông đại chúng khác
nhau như sách, điện ảnh, pa nô, áp phích và phổ biến nhất là báo chí với các
loại hình như báo viết, Phát thanh, truyền hình và báo mạng điện tử.

Theo đó, truyền thông đại chúng là một quá trình lịch sử, chịu tác động
của bối cảnh lịch sử như các cuộc vận động chính trị - xã hội, các cuộc cách
mạng khoa học, kỹ thuật và công nghệ, kinh tế, sự giao lưu toàn cầu và sự
bành trướng về quy mô của các tiến trình kinh tế, chính trị, xã hội, môi
trường…
1.2. Các phương tiện truyền thông đại chúng
Phát thanh
Phát thanh có đông đảo người theo dõi hơn bất cứ một loại hình truyền
thông đại chúng nào khác. Máy thu thanh là phương tiện rẻ tiền giúp đem lại
vừa những thông tin cần thiết vừa sự giải trí cho nhiều người kể cả những
người không biết chữ. Các thông báo phát đi có thể cùng một lúc tới được
hàng triệu thính giả và có thể nhắc lại nhiều lần với chi phí thấp. Cũng như
truyền hình và báo chí, phát thanh có nhược điểm là chỉ thông tin được một
chiều do đó có thể gây hiểu lầm. Tuy nhiên, nhược điểm này có thể khắc phục
được một phần bằng cách tổ chức những nhóm người thường xuyên tập trung

3


nghe các chương trình phát thanh rồi cùng nhau thảo luận với sự giúp đỡ của
một hướng dẫn viên đã được huấn luyện.
Truyền hình
Truyền hình là phương tiện truyền thông đại chúng ngày càng có nhiều
khán giả do giá máy thu hình giảm và khả năng phủ sóng ngày càng rộng. Kết
hợp hình ảnh và âm thanh, truyền hình có khả năng truyền đạt các nội dung
gây ấn tượng, mang tính thuyết phục cao mà phát thanh hoặc tài liệu in ấn
không thể làm được với hiệu quả như vậy. Tuy nhiên dù đã giảm giá
máy thu hình vẫn đắt hơn máy thu thanh gấp nhiều lần, và chi phí thực hiện
chương trình truyền hình cũng cao hơn phát thanh rất nhiều. Phát sóng của
Đài truyền hình cũng không đi xa được như phát thanh nên chủ yếu chỉ đến

được những người dân sống gần thành thị.
Báo in và các ấn phẩm in
Hiện nay có khá nhiều tờ báo được xuất bản ở nước ta. Báo và tạp chí
tiếp cận được nhiều đối tượng khác nhau như công nhân-viên chức, sinh viên
học sinh, nhân dân lao động... kể cả các đối tượng chủ chốt như lãnh đạo các
ban ngành, các vị lãnh đạo tôn giáo là những người giữ vai trò quan trọng
trong việc ủng hộ, triển khai và thực hiện các chương trình sức khỏe.
Bên cạnh báo chí, các ấn phẩm trên giấy như sách, sách nhỏ, bướm (tờ
rơi), bích chương, hoặc trên các chất liệu khác như giấy keo, áo thun, miếng
lót ly, đồng hồ, pa-nô v.v… cũng có một tác dụng đáng kể đặc biệt là tạo sự
quan tâm và nâng cao nhận thức nếu được sản xuất và sử dụng đúng cách.
Internet
Internet với sự giao lưu thông tin toàn thế giới đang ngày càng được
nhiều người sử dụng. Ưu điểm nổi bật của nó đó là thông tin trên internet có
thể được cập nhật rất nhanh và truy tìm dễ dàng. Với khả năng lưu trữ thông
tin lâu dài nó đóng luôn vai trò như là một thư viện. Đặc biệt khả năng hồi
báo nhanh chóng trên internet hiện đang được khai thác để giúp thông tin
cung cấp được chính xác và phù hợp hơn với nhu cầu người đọc.
4


Tuy nhiên internet cũng có một số khuyết điểm. Bên cạnh các thông tin
chính xác, cập nhật của các tổ chức có uy tín, ngày càng xuất hiện nhiều
những thông tin sai lệch trên những trang web nhiều khi có tên gọi và vẻ
ngoài rất chuyên nghiệp. Một khuyết điểm nữa đó là nó đòi hỏi người sử dụng
phải có một số kỹ năng nhất định (sử dụng máy vi tính, kỹ năng tìm kiếm
thông tin...) làn hạn chế khả năng truyền thông của internet.

5



CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG TRUYỀN THÔNG ĐẠI CHÚNG VỚI
NHỮNG VẤN ĐỀ CHÍNH TRỊ
Truyền thông đại chúng có vị trí, vai trò rất quan trọng trong sự phát triển
xã hội ngày nay. Nó tác động vào ý thức xã hội để hình thành và củng cố một
hệ thống tư tưởng chính trị lãnh đạo đối với xã hội; liên kết các thành viên
trong xã hội thành một khối đoàn kết, một chỉnh thể trên cơ sở lập trường,
thái độ chính trị chung. Truyền thông đại chúng còn thực hiện chức năng giám
sát và quản lý xã hội, theo dõi, phát hiện, phản ánh kịp thời những vấn đề,
mâu thuẫn mới nảy sinh, góp phần ổn định chính trị, xã hội. Với vị trí, vai trò
quan trọng như vậy, việc tập trung phát triển, hoàn thiện cơ sở lý luận, đào tạo
nhân lực cho ngành truyền thông đại chúng là việc làm cần thiết hiện nay. Báo
chí, với chức năng là giáo dục tư tưởng, tuyên truyền, cổ động, quản lý gián
tiếp và giám sát xã hội… thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng
đưa thông tin, là cơ sở để hình thành và thể hiện dư luận xã hội. Và chính dư
luận xã hội, được ví như một “phương tiện cưỡng chế” sẽ đóng góp tích cực
vào công cuộc xây dựng và phát triển xã hội. Điều này đã được minh chứng
rất nhiều trên các trang báo trong thời gian qua. Trong quá trình quản lý xã
hội Việt Nam đang đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, trong đó có hiện
tượng tham nhũng. Hiện tượng tham nhũng đã làm giảm hiệu lực quản lý, làm
giảm uy tín của Đảng, của Nhà nước, niềm tin của nhân dân vào bộ máy công
quyền bị suy giảm.
Trong những năm qua, chính phủ Việt Nam đã thể hiện quyết tâm chống
tham nhũng. Chủ trương đó nhận được sự đồng tình ủng hộ của đông đảo
quần chúng nhân dân. Thực tế, các chủ trương, đường lối chỉ có thể đi vào
cuộc sống nếu chủ trương, đường lối đó phù hợp với tâm tư và nguyện vọng
của đa số quần chúng nhân dân. Nghiên cứu dư luận xã hội về hiện tượng
tham nhũng một cách nghiêm túc sẽ cung cấp những thông tin khách quan,
chân thực, sát hợp về quan điểm, thái độ, nguyện vọng của những nhóm xã
6



hội lớn. Trong tình hình đó, truyền thông đại chúng đóng một vai trò quan
trọng trong quá trình hình thành và thể hiện dư luận xã hội.
Tạo môi trường thông tin minh bạch và phát huy vai trò của các phương
tiện truyền thông đại chúng được xem như là một trong những giải pháp quan
trọng trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng hiện nay ở Việt Nam.
Bản thân dư luận xã hội là tập hợp các quan điểm, nhận xét, đánh giá
mang tính chủ quan của nhiều người về một sự việc, sự kiện nhưng nó lại là
một hiện tượng xã hội tồn tại một cách khách quan. Sự can thiệp chủ quan
vào một hiện tượng khách quan sẽ là luôn mang tính áp đặt. Bởi vậy phát huy
vai trò của các phương tiện truyền thông đại chúng trong cuộc đấu tranh
chống tham nhũng hiện nay không nên hiểu theo nghĩa can thiệp, áp đặt từ
phía chính quyền, Nhà nước nhằm điều chỉnh dư luận xã hội theo ý muốn của
mình mà nên hiểu rằng thông qua các bài báo, bài phóng sự, chuyên mục,
chuyên đề, các phương tiện truyền thông đại chúng cung cấp những thông tin,
phản ánh trung thực khách quan các vụ án tham nhũng đã và đang được điều
tra, đồng thời dành phần phù hợp đăng tải các ý kiến phản hồi của công
chúng, tạo điều kiện thuận lợi cho sự hình thành và thể hiện dư luận xã hội
Mặc dù, trong xã hội có nhiều các nhóm xã hội lớn khác nhau với những
nhu cầu, lợi ích khác nhau nhưng rõ ràng rằng hiện tượng tham nhũng là một
hiện tượng thu hút được sự quan tâm của đa số quần chúng nhân dân bởi nó
liên quan tới lợi ích trực tiếp của nhân dân. Những đồng tiền bị thất thoát do
tham nhũng chính là những đồng tiền đóng góp của nhân dân từ nhiều nguồn
khác nhau. Nhân dân nhận thức sâu sắc lợi ích của họ đang bị ảnh hưởng
nghiêm trọng bởi tham nhũng. Việc điều tra và phát hiện sai phạm tại PMU18
được xem là "liều thuốc thử nghiệm" cho việc vận hành bộ máy chống tham
nhũng tại Việt Nam từ trung ương tới cơ sở.
Con đường vận động từ ý kiến cá nhân thành ý kiến của nhóm để hình
thành nên dư luận xã hội là một quá trình biện chứng. Con đường hình thành

dư luận xã hội diễn ra liên tục và chứa đầy các yếu tố tự phát nhưng là một
7


quá trình có tính quy luật. Mặc dù sự phát triển của dư luận xã hội được xác
định bởi các quy luật khách quan, song trong một xã hội phát triển có định
hướng thì quá trình hình thành dư luận xã hội theo con đường tự phát tất yếu
cần tới sự điều khiển của hoạt động quản lý và tổ chức xã hội. Để hoạt động
này đạt hiệu quả cần thường xuyên quan tâm tới lợi ích của các tầng lớp dân
cư, các nhóm xã hội. Việc khắc phục những khác biệt, trước hết là những khác
biệt về lợi ích kinh tế, nhằm hướng tới mục tiêu chung, vì sự tiến bộ chung
của xã hội sẽ làm cho hoạt động điều khiển dư luận xã hội có kết quả. Định
hướng dư luận xã hội được hình thành thuận lợi khi có sự nhất quán trong chủ
trương, chính sách và quá trình tổ chức, chỉ đạo thực hiện. Sự hình thành dư
luận xã hội thông qua các phương tiện truyền thông đại chúng có mối liên hệ
ngược. Nghĩa là các phương tiện này không chỉ tạo nên dư luận xã hội mà đến
lượt nó, dư luận xã hội cũng sẽ tác động ngược trở lại tới hoạt động của
truyền thông đại chúng. Phản hồi là dòng chảy của thông tin từ nguồn tin đến
nơi nhận và ngược lại. Dòng phản hồi chỉ hình thành khi người nhận giải mã
được thông tin và người cung cấp thông tin đáp ứng nhu cầu thông tin của
người nhận. Phản hồi là yếu tố quan trọng nhất của quy trình truyền thông.
Nếu chúng ta xem thang đo về phản hồi là một chỉ báo cho hiệu quả
hoạt động của các phương tiện truyền thông đại chúng thì có thể khẳng định,
trong cuộc đấu tranh chống tham nhũng hiện nay, hoạt động của các phương
tiện truyền thông đại chúng rất có hiệu quả trong việc hình thành và thể hiện
dư luận xã hội.
2.1. Quyền tiếp cận thông tin
Quyền tiếp cận thông tin hay quyền được thông tin là quyền cơ bản của
con người. Trong lịch sử, khái niệm quyền được thông tin xuất hiện trong
Thời kỳ Ánh sáng (TK 18) ở một vài quốc gia như Thụy Điển, Pháp. Quyền

tiếp cận thông tin trở thành mối quan tâm trên phạm vi quốc tế sau khi Liên
hợp quốc (LHQ) ra đời. Ngay trong phiên họp thứ nhất, Đại hội đồng LHQ đã
thông qua Nghị quyết số 59, quy định: “tự do thông tin là quyền con người
8


cơ bản và là nền tảng của tất cả các tự do khác…” sau đó, quyền tiếp cận
thông tin cũng được đề cập trong “Tuyên ngôn thế giới về quyền con người”
năm 1948 và “Công ước quốc tế về các quyền dân sự và chính trị” năm 1966.
Đến nay, các nước trên thế giới cho dù có khác nhau về thể chế chính trị,
trình độ phát triển kinh tế hay sự khác biệt về văn hoá nhưng trong pháp luật
quốc gia đều có quy định về quyền tiếp cận thông tin của công dân. Tính đến
nay trên thế giới đã có trên 80 quốc gia ban hành các bộ luật riêng để bảo đảm
quyền tiếp cận thông tin công như: Canađa ban hành năm 1983, Hunggari
năm 1992, Vương quốc Anh năm 2000, Nam Phi năm 2000, Mỹ năm 1966,
Liên bang Nga năm 2006, Thái Lan năm 1997, Hàn Quốc năm 1998, Nhật
Bản năm 2004 và Ấn Độ năm 2005, Trung Quốc năm 2007. Nhìn chung, hầu
hết các luật tiếp cận thông tin (có thể khác nhau về tên gọi) trên thế giới đều
khẳng định rằng: mọi công dân đều có quyền tiếp cận thông tin, có quyền yêu
cầu các cơ quan công quyền cung cấp thông tin mà không có nghĩa vụ giải
thích lý do với điều kiện những thông tin này là thông tin chính thức và không
nằm trong những ngoại trừ. Có thể nói: các đạo luật về tiếp cận thông tin trên
thế giới đều nhằm bảo đảm quyền tiếp cận thông tin của người dân, từ đó thúc
đẩy sự trong sạch, minh bạch về việc công khai thông tin trong các cơ quan
công quyền.
Quyền tiếp cận thông tin hay quyền được thông tin ở nước ta đã được thể
hiện trong nhiều chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước. Cương lĩnh
xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội thông qua đại hội VII
năm 1991 khẳng định: bảo đảm quyền được thông tin... của công dân. Thể chế
hoá đường lối của Đảng, Hiến pháp năm 1992 quy định rõ: “Công dân có

quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí, có quyền được thông tin…”. Cụ thể
hoá quy định của Hiến pháp nhiều văn bản pháp luật đã được ban hành có các
quy định về quyền được thông tin và trách nhiệm của các cơ quan nhà nước
trong việc cung cấp thông tin do cơ quan nhà nước đang nắm giữ như: Luật
Báo chí; Pháp lệnh về Bảo vệ bí mật nhà nước, Luật Ban hành văn bản quy
9


phạm pháp luật của Hội đông nhân dân, Uỷ ban nhân dân năm 2004, Luật
phòng chống tham nhũng v.v... Thông qua việc ban hành các văn bản có các
nội dung quy định về quyền được thông tin của người dân, nhà nước ta luôn
quan tâm đến quyền được thông tin của người dân nhằm thực hiện chủ trương
“dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”.
2.2. Những thông tin hạn chế tiếp cận ở Việt Nam
Ở Việt Nam, một trong những quyền cơ bản của con người được nhà
nước ta xác định, chính là quyền tiếp cận thông tin, nhưng những van bản
pháp luật cũng có những quy định rất rõ về quyền này. Cụ thể hơn, chúng ta
hiểu rằng, không phái bất kỳ thông tin nào người dân cũng được tiếp cận, mà
để đảm bảo cho an ninh khoa học và an ninh quốc gia, người dân được tự do
tiếp cận các chính thức và không nằm trong những ngoại trừ. Vậy những
thông tin nào hạn chế tiếp cận theo pháp luật Việt Nam?
* Những thông tin thuộc về bí mật nhà nước: Pháp lệnh số 30/2000/PL
- UBTVQH10 về bảo vệ bí mật nhà nước ngày 28 tháng 12 năm 2000. Trong
điều 1 Pháp lệnh quy định “Bí mật nhà nước là những tin về vụ, việc, tài liệu,
vật, địa điểm, thời gian, lời nói có nội dung quan trọng thuộc lĩnh vực chính
trị, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, kinh tế, khoa học, công nghệ, các lĩnh vực
khác mà Nhà nước không công bố hoặc chưa công bố…”.
Bên cạnh đó, điều 1 Nghị định số 33/2002/NĐ-CP ban hành ngày
28/03/2002 hướng dẫn thi hành Pháp lệnh về bảo vệ bí mật Nhà nước năm
2000 quy định: “Chánh án Tòa án nhân dân tối cao, Viện trưởng Viện Kiểm

sát nhân dân tối cao, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ, Thủ trưởng cơ
quan thuộc Chính phủ; người đứng đầu các tổ chức chính trị, tổ chức chính trị
- xã hội, tổ chức xã hội ở cấp Trung ương chịu trách nhiệm lập danh mục bí
mật Nhà nước ở cơ quan, tổ chức của mình. Chủ tịch Ủy ban Nhân dân cấp
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương chịu trách nhiệm lập danh mục bí mật
nhà nước của địa phương mình trên cơ sở đề xuất của các Ban, ngành và Uỷ
ban nhân dân cấp dưới trực tiếp”. Căn cứ vào Pháp lệnh về bảo vệ Bí mật Nhà
10


nước, Nghị định số 33/2002/NĐ-CP quy định: bí mật nhà nước được lập
thành các danh mục và được phân cấp độ tối mật, tuyệt mật hoặc mật. Các
danh mục bí mật này có thể được công bố hoặc không công bố. Các danh mục
bí mật do Thủ tướng hoặc Bộ trưởng Bộ Công an quyết định. Như vậy, các
thông tin được xem là bí mật Nhà nước thực ra rộng hơn cả khái niệm thông
tin Nhà nước vì người đứng đầu các tổ chức chính trị, chính trị - xã hội cũng
có thể lập danh mục các thông tin bí mật Nhà nước. Điều này áp dụng đối với
các thông tin của Đảng, của Ủy ban Mặt trận Tổ quốc và các thông tin được
cho là bí mật Nhà nước do các tổ chức chính trị - xã hội khác đề xuất.
* Những thông tin không thuộc quyền hạn phát ngôn
Quy chế phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí quy định: người
phát ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí có quyền từ chối, không phát
ngôn và cung cấp thông tin cho báo chí trong trường hợp những vấn đề
đó thuộc bí mật nhà nước, vấn đề không thuộc quyền hạn phát ngôn.
Việc quy định chung chung như vậy có thể là kẽ hở cho người phát ngôn đưa
ra lý do né tránh việc cung cấp thông tin không có lợi cho bản thân họ bằng
cách lấy cớ đó là những thông tin thuộc bí mật nhà nước hoặc thông tin không
thuộc quyền phát ngôn của họ.
2.3. Hệ thống các cơ quan, tổ chức đảm bảo quyền tiếp cận thông tin
* Quốc hội là cơ quan quyền lực cao nhất trong những năm gần đây đã

có nhiều cố gắng trong việc thiết lập cơ sở pháp lý cho việc tiếp cận thông tin
của người dân. Cụ thể việc các dự án luật được đăng tải công khai trên các
phương tiện thông tin đại chúng hoặc được tham vấn ý kiến công chúng rộng
rãi để người dân có thể tham gia góp ý kiến; truyền hình trực tiếp các phiên
chất vấn tại kỳ họp Quốc hội; thảo luận tập thể, công khai những vấn đề quan
trọng của đất nước…
* Chính phủ: việc thông tin đến người dân về tình hình đất nước, quản lý
điều hành của Chính phủ được Luật tổ chức Chính phủ, quy chế làm việc của
Chính phủ quy định và được cụ thể hóa ở các Nghị định. Người dân hoàn toàn
11


có thể tiếp cận với các thông tin chính phủ thông qua các phương tiện thông
tin đại chúng, đặc biệt là qua các trang tin điện tử của các cấp chính quyền,
trước hết là Trang tin Điện tử Chính phủ (Website Chính phủ) với tên miền
là phương tiện tỏ ra có độ tin cậy cao với tính kịp
thời, chính thống và liên tục khi cung cấp các thông tin cho công chúng. Hình
thức công khai thông tin hoạt động của các cơ quan của Chính phủ, Quốc hội,
các bộ, ngành… trên các trang web, trang thông tin điện tử đã giải quyết được
phần nào nhu cầu tiếp cận thông tin của người dân. Đến nay, hầu hết các Bộ,
cơ quan ngang Bộ, tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương đã có trang thông
tin điện tử hoặc cổng thông tin điện tử để cung cấp thông tin và dịch vụ công
phục vụ người dân và doanh nghiệp (20/22 Bộ, 59/63 tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương đã có trang thông tin điện tử). (1)
2.4. Những hạn chế trong thực hiện quyền tiếp cận thông tin
Hiện nay, người dân chủ yếu thực hiện quyền tiếp cận thông tin thông qua
các cơ quan báo chí; qua sóng phát thanh của mạng lưới đài phát sóng trong cả
nước; qua hình ảnh của hệ thống đài truyền hình từ Trung ương đến địa
phương; thông tin qua mạng internet; Thông tấn xã Việt Nam, vv…Tính đến
năm 2008, cả nước có hơn 700 cơ quan báo chí in với 850 ấn phẩm, gần 15.000

nhà báo được cấp thẻ, 68 đài phát thanh, truyền hình của trung ương, cấp tỉnh
và đài truyền hình kỹ thuật số mặt đất (đài truyền hình Việt Nam phủ sóng đến
85% hộ gia đình Việt Nam), 80 báo điện tử và hàng nghìn trang tin điện tử trên
mạng Internet, 55 nhà xuất bản (2). Người dân ngày càng tiếp cận tốt hơn với
công nghệ thông tin hiện đại, đặc biệt là Internet, với khoảng 20 triệu người
truy cập, chiếm 23,5% dân số, cao hơn mức trung bình của châu Á (18%).
Ngoài hệ thống thông tin, báo chí, truyền thông trong nước, người dân còn
được tiếp cận với hàng chục hãng thông tấn, báo chí và kênh truyền hình nước
ngoài, như Reuters, BBC, VOA, AP, AFP, CNN và nhiều báo, tạp chí quốc tế
lớn khác”. Tuy nhiên, chúng ta cần nhìn nhận thực tế còn nhiều bất cập trong

12


thực hiện quyền tiếp cận thông tin của người dân. Cụ thể hơn những hạn chế
trong tiếp cận thông tin của người dân được thể hiện ở những điểm sau:
- Hoạt động công khai thông tin của các cơ quan Nhà nước, các sở, ban,
ngành, và các tỉnh thành phố trên các trang thông tin điện tử chưa thực sự
đem lại hiệu quả cao. Theo thông tư số 26 năm 2009 của Bộ Thông tin và
Truyền thông về cung cấp thông tin và đảm bảo khả năng truy cập thuận tiện
đối với trang thông tin điện tử của cơ quan nhà nước, kể từ 15/9/2009, các
website của cơ quan nhà nước sẽ phải cập nhật thông tin mới ít nhất mỗi
ngày/lần trong những ngày làm việc. Hơn nữa, Thông tư cũng khuyến khích
các website của cơ quan nhà nước cập nhật thông tin đều đặn trong những
ngày nghỉ. Đối với những văn bản pháp luật thì phải cập nhật chậm nhất là hai
ngày kể từ ngày cơ quan của website đó ký ban hành. Mỗi cơ quan nhà nước
có website phải cử đơn vị đầu mối để tiếp nhận ý kiến của công dân, tổ chức.
Sau đó, đơn vị đầu mối sẽ chuyển các phản hồi đến những đơn vị được phân
công phụ trách trả lời. Trong thời gian 10 ngày kể từ ngày tiếp nhận thông tin,
cơ quan nhà nước có trách nhiệm trả lời kết quả hoặc thông báo quá trình xử

lý tới tổ chức, cá nhân.Tuy nhiên, Thông tư này có hiệu lực kể từ ngày
15/9/2009. Như vậy, từ 15/9/2009 trở về trước, những quy định về mặt pháp
lý liên quan đến lĩnh vực này còn thiếu và lỏng lẻo. Điều này dẫn đến một
thực trạng nhiều trang thông tin điện tử của các cơ quan Nhà nước, của các
tỉnh thành phố không cập nhật tin tức thường xuyên. Tình trạng các trang
thông tin điện tử, website của các sở, ban, ngành và các tỉnh thành phố nghèo
nàn về thông tin diễn ra phổ biến hiện nay.
- Do những trang thông tin điện tử, website chính thức của các cơ quan
Nhà nước, các tỉnh thành phố không đáp ứng được nhu cầu tiếp cận thông tin
của người dân nên chủ yếu người dân tìm đến những phương tiện thông tin
đại chúng phổ biến hiện nay: đài, báo, tivi... đặc biệt là qua mạng internet.
Đây là một trong những điều bất cập bởi không phải tất cả những thông tin
liên quan đến những hoạt động của các cơ quan Nhà nước, tỉnh/thành phố trên
13


mạng internet đều là những thông tin chính thống. Thực tế trong thời gian vừa
qua, người tiêu dùng cả nước vô cùng bất bình về thông tin về an toàn vệ sinh
thực phẩm như nước tương có chứa chất 3MCPD, sữa chứa Melamil, hay
thực phẩm chứa chất gây ung thư, chất gây ảnh hưởng đến sức khỏe người
tiêu dùng… Theo Pháp lệnh về Vệ sinh An toàn Thực phẩm năm 2003 nêu rõ
“người tiêu dùng có quyền được thông tin về vệ sinh an toàn thực phẩm...”,
tuy nhiên sau khi những sự việc này được làm sáng tỏ, các cơ quan chức năng
chỉ cung cấp kết luận giám định ATVS thực phẩm cho một số cơ sở chế biến
liên quan, trong khi người tiêu dùng cần biết về thông tin này nhưng không
biết lấy ở đâu. Điều này cho thấy sự cần thiết phải công bố và cập nhật thông
tin từ chính các cơ quan có trách nhiệm. không chỉ trong lĩnh vực ATVS thực
phẩm., những bất cập trong việc tiếp cận thông tin của người dân còn rất rõ ở
các lĩnh vực đất đai, đền bù giải tỏa, dự án ưu đãi, các khoản tín dụng, cứu trợ
thiên tai, những thông tin về sản phẩm, hàng hoá, dịch vụ có tác động tiêu cực

đến sức khoẻ, môi trường; thông tin về thanh tra, kiểm tra, giám sát việc bảo
vệ môi trường, sức khỏe cộng đồng, an toàn thực phẩm, an toàn lao động…
- Những hạn chế của các văn bản luật hiện hành như thiếu các quy định
ràng buộc trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước trong việc công khai thông
tin, trong một số trường hợp là nguyên nhân dẫn đến tình trạng lợi dụng vị trí
đặc quyền trong tiếp cận thông tin để trục lợi, gây nên sự bất bình đẳng trong
xã hội. Quá trình thực thi pháp luật về tiếp cận thông tin thiếu công khai, minh
bạch dẫn đến tình trạng áp dụng pháp luật không thống nhất và cũng là một
trong những nguyên nhân làm gia tăng sự tuỳ tiện, tham nhũng, tiêu cực của
một bộ phận cán bộ, công chức, biểu hiện rõ nhất trong lĩnh vực đất đai, đền bù
giải toả, dự án ưu đãi… dẫn đến khiếu kiện kéo dài, khiếu kiện vượt cấp.
- Tuy nhiều văn bản hiện hành quy định quyền được tiếp cận thông tin
của người dân nhưng trên thực tế, các cơ quan công quyền chưa thực hiện các
quy định trên một cách nghiêm túc. Theo kết quả khảo sát của chuyên gia
ngành luật tại một số địa phương, hầu hết cán bộ đều lúng túng khi được yêu
14


cầu cung cấp thông tin, thường thì họ sẽ chuyển yêu cầu đó lên cấp trên. Đây
là biểu hiện của tâm lý lo sợ trách nhiệm của một số cán bộ ở các cơ quan
công quyền.
- Luật Báo chí quy định “trong phạm vi quyền hạn, nhiệm vụ của mình,
các tổ chức có quyền và nghĩa vụ cung cấp thông tin cho báo chí...”. Nhưng
trên thực tế để tránh cung cấp thông tin cho nhà báo, người ta đóng dấu “mật”
lên cả các tài liệu không phải là tài liệu “mật”, thậm chí có nơi người ta đóng
cả dấu “mật” lên danh bạ đại biểu Hội đồng nhân dân.
- Một thực tế đáng buồn là người dân có quyền được biết thông tin theo
quy định của pháp luật nhưng hiện rất ít người nhận thức được họ có quyền
được cung cấp các thông tin có liên quan đến các chương trình phát triển kinh
tế, xã hội, các quy định pháp luật và hành chính, liên quan đến cuộc sống của

họ. Đáng buồn hơn nữa là những người nhận thức được quyền tiếp cận thông
tin thì cho rằng họ luôn bị “đói” thông tin trong thời buổi công nghệ thông tin
hiện đại này, vì khi họ muốn biết về một thông tin nào đó, họ không biết nơi
nào có thể đáp ứng nhu cầu của họ. Luật Vệ sinh an toàn thực phẩm năm 2003
nêu rõ “người tiêu dùng có quyền được thông tin về vệ sinh an toàn thực
phẩm...”. Nhưng sau khi có kết luận về kết quả giám định các mẫu nước tương,
cơ quan chức năng chỉ cung cấp kết luận giám định những mẫu nước tương có
chất 3MCPD cho một số cơ sở chế biến liên quan, trong khi người tiêu dùng
cần biết về thông tin này không biết tìm thông tin đó ở đâu…Điều đó cho thấy,
các quy định của các văn bản luật chưa thực sự đi vào cuộc sống.
Những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn quyền tiếp cận thông tin và
việc thực thi quyền tiếp cận của công dân hiện đang đặt ra nhiệm vụ của nhà
nước ta là phải khẩn trương hoàn thiện cơ sở pháp lý, cơ chế thực hiện và
triển khai mạnh mẽ vấn đề đảm bảo quyền tiếp cận thông tin của người dân,
qua đó nhằm tăng cường phát huy sự tham gia của người dân vào sự nghiệp
xây dựng đất nước theo đúng nghĩa “của dân, do dân, vì dân”./.

15


CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP NHẰM NÂNG CAO VAI TRÒ CỦA TRUYỀN
THÔNG ĐẠI CHÚNG VỀ CHÍNH TRỊ
- Thông tin một cách công khai, trung thực, kịp thời và minh bạch cho
nhân dân về tình trạng của chính trị trên các vấn đề đang tạo nên mối quan
tâm chung của toàn thể xã hội, nhất là các vấn đề có tính chất cấp thiết. Quá
trình thông tin cũng là quá trình tạo ra định hướng tư tưởng và tạo ra những
tác động tích cực. Bản chất của sự hình thành tư tưởng có sự tương tác giữa
các nhóm xã hội lớn. Vì thế, thông tin cho nhân dân về tình hình chính trị trên
các vấn đề đang tạo nên mối quan tâm chung của toàn thể xã hội sẽ tạo nên
hiệu quả rất cao.

- Tác động lên các thiết chế xã hội và đề xuất các phương án hành động.
Bên cạnh việc nêu lên các thông tin liên quan đến các vấn đề chính trị, cũng
như hình thành và thể hiện luồng tư tưởng, các cơ quan truyền thông đại
chúng cần phải biết kiến nghị, yêu cầu các cơ quan có thẩm quyền, các đại
biểu phúc đáp thỏa đáng các vấn đề được nêu ra.
- Xây dựng lòng tin, thế giới quan và ý thức quần chúng. Đây là yêu cầu
có ý nghĩa quan trọng của cơ quan truyền thông đại chúng, bởi vì hình thành
và thể hiện dư luận xã hội không chỉ có những vụ việc tiêu cực mà phải biết
tạo ra dư luận xã hội về sự công minh của pháp luật, sự tồn tại của cái tốt, cái
đẹp, những giá trị nhân văn.
- Truyền thông đại chúng càng có tầm vóc quan trọng to lớn thì những
người làm truyền thông càng phải tìm hiểu nguồn tin, cung cấp những thông
tin chính xác nhất để định hướng dư luận theo hướng tích cực. Điều đó đòi
hỏi người cung cấp thông tin cần phải có những kiến thức chuyên môn cũng
như những kiến thức sâu rộng về vấn đề chính trị trong nước và quốc tế
- Cách đưa thông tin của phương tiện truyền thông đại chúng phải làm
sao giúp độc giả nhìn vấn đề dưới một góc nhìn trọn vẹn nhất, từng câu, từng
chữ phải được cân nhắc sao cho khách quan, trung thực. Từ đó, giúp độc giả
16


có những suy nghĩ, tình cảm, hành động đúng để bảo vệ cái tốt, cái tiến bộ,
đấu tranh với cái xấu, cái ác. Đồng thời, cần tỏ rõ thái độ ủng hộ cái tốt, cái
tích cực và đấu tranh không khoan nhượng với những tiêu cực trong các vấn
đề chính trị.
- Các cơ quan quản lý nhà nước cần phải tạo điều kiện về mọi mặt giúp
cho các phương tiện truyền thông đại chúng phản ánh thông tin một cách
chính xác, chân thực và khách quan về các vấn đề chính trị. Điều đó đòi hỏi
các cơ quan quản lý cần phải đề cao vai trò tự do ngôn luận, tự do báo chí trên
các phương tiện truyền thông đại chúng để công chúng độc giả có được cái

nhìn khách quan nhất về tình hình chính trị của đất nước.
Những vướng mắc, bất cập trong thực tiễn quyền tiếp cận thông tin và
việc thực thi quyền tiếp cận của công dân hiện đang đặt ra nhiệm vụ của nhà
nước ta là phải khẩn trương hoàn thiện cơ sở pháp lý, cơ chế thực hiện và
triển khai mạnh mẽ vấn đề đảm bảo quyền tiếp cận thông tin của người dân,
qua đó nhằm tăng cường phát huy sự tham gia của người dân vào sự nghiệp
xây dựng đất nước theo đúng nghĩa “của dân, do dân, vì dân”./.

17


KẾT LUẬN
Các phương tiện truyền thông đại chúng là một quyền lực thực sự trong
thế giới hôm nay. Chúng tạo ra dư luận, chi phối dư luận, kiểm soát cuộc
chuyện trò trao đổi công cộng. Điều đó cũng có nghĩa là một cách nào đó
chúng cũng chi phối cách suy nghĩ, chọn lựa và hành động của mỗi người
chúng ta.
Nhờ các phương tiện truyền thông ngày nay, đặc biệt nhất là Internet,
chúng ta có thể tiếp cận một khối lượng thông tin khổng lồ, hầu như vô tận
(thông tin ở đây hiểu theo nghĩa rộng) bao gồm hết mọi lĩnh vực của tri thức
và đời sống, nhưng trong đó vàng thau, tốt xấu, đúng sai, thật ảo lẫn lộn. Nếu
không có những chọn lựa rõ ràng theo những định hướng hữu ích cho bản
thân, ta sẽ bị lạc lối và phung phí thời giờ vô ích, –không phải chỉ vô ích mà
còn rất có hại nữa. Điều này đòi hỏi một sự rèn luyện kỷ luật bản thân kiên
quyết và kiên trì.
Bởi vậy truyền thông đại chúng càng có tầm vóc quan trọng to lớn thì
những người làm truyền thông càng phải tìm hiểu nguồn tin, cung cấp những
thông tin chính xác nhất để định hướng dư luận theo hướng tích cực.
Truyền thông phải góp phần định hướng dư luận xã hội. Khi đứng trước
một vấn đề nảy sinh trong đời sống xã hội, bên cạnh trách nhiệm thông tin kịp

thời, truyền thông đại chúng phải đặt trách nhiệm công dân, trách nhiệm xã
hội lên trên; tức là trăn trở, tìm hiểu và lý giải vấn đề một cách thấu đáo với
cái nhìn sắc nét, biện chứng.
Truyền thông đại chúng đã góp phần trong định hướng dư luận xã hội,
tạo ra những luồng dư luận tích cực làm lành mạnh hoá đời sống xã hội, tạo
đà khai thác tốt sức mạnh nội lực cho quá trình phát triển phát triển kinh tế-xã
hội của từng địa phương và của cả nước. Và, đó chính là góp phần vào hoat
động tư tưởng của Đảng - xây dựng một xã hội công bằng văn minh

18


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người, Đại hội đồng Liên Hợp
Quốc thông qua và công bố theo Nghị quyết số 217A (III), ngày 10/12/1948.
2. Công ước về tiếp cận thông tin, sự tham gia của công chúng trong việc
ra quyết định và tiếp cận tư pháp trong các vấn đề về môi trường, ngày 25
tháng 6 năm 1998.
3. Luật báo chí, Quốc hội thông qua khóa VIII, kỳ họp thứ 6, ngày
28/12/1989.
4. Viện nghiên cứu quyền con người, (2007), Các văn kiện quốc tế và
luật của một số nước về tiếp cận thông tin, NXB Công an Nhân dân, Hà Nội,
654 trang.
5. Bộ Chính trị, Về "Tiếp tục đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý
về lý luận và thực tiễn, định hướng cho sự phát triển báo chí, xuất bản theo
tinh thần Nghị quyết đại hội VIII của Đảng", Chỉ thị 22-CT/TW ngày
17/10/1997
6. Hà Đăng (2002), Nâng cao năng lực và phẩm chất của phóng viên báo
chí trong thời kỳ CNH-HĐH, Nxb Chính trị quốc gia,
7. Đinh Văn Hường (2000), Vai trò của báo chí trong sự nghiệp công

nghiệp hoá- hiện đại hoá đất nước, NXB Đại học Khoa học xã hội và nhân
văn Hà Nội

19



×