Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM một số đặc điểm của học sinh hệ giáo dục thường xuyên MỘT SỐ ĐẶC ĐIỂM VÀ BIỆN PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (135.27 KB, 21 trang )

A. PHẦN MỞ ĐẦU:
I. Lý do chọn đề tài:
- Bắt đầu từ năm học 2011- 2012, Sở Giáo dục và Đào tạo Long An đã áp
dụng việc dạy hệ giáo dục thường xuyên trong trường Trung học phổ thông. Tính
đến nay ( năm 2018) đã trải qua gần 7 năm học. Một thời gian không quá dài nhưng
cũng khá đủ để nhìn lại, đánh giáo sơ nét về công tác giáo dục này.
- Vào năm học 2011-2012, khi lần đầu tiên đưa hệ giáo dục thường xuyên
trong trường Trung học phổ thông, chúng ta đã thấy được sự đón nhận và phản ứng
khác nhau của nhiều trường. Điều đó đã thể hiện phần nào sự lo lắng, băn khoăn
của những trường có áp dụng dạy chương trình này.
- Khách quan mà nói thì sự băn khoăn và lo lắng ấy là hợp lí. Bởi do rất
nhiều nguyên nhân. Mà nguyên nhân lớn nhất mà ta có thể nhìn thấy được đó là
nhà trường phải chấp nhận dạy cùng lúc hai đối tượng học sinh: Trung học phổ
thông và Giáo dục thường xuyên, điều đó cũng đồng nghĩa là cùng thực hiện quy
chế chuyên môn cũng khác nhau,...Chính điều đó đã phần nào nói lên được khó
khăn nhất định của các cơ sở giáo dục.
- Nhưng hiện nay, khi mà việc áp dụng dạy hệ giáo dục thường xuyên trong
trường Trung học phổ thông đã gần được 3 năm học thì việc nhìn nhận lại vấn đề
này đã có sự khác biệt. Nhìn chung tất cả các trường đã nhận thấy được tầm quan
trọng của việc giáo dục này. Thấy được ý nghĩa chính trị và nhân văn vô cùng to
lớn của nó trong công tác phổ cập giáo dục.
- Đạt được kết quả về mặt tư tưởng ấy là nhờ vào việc tuyên truyền sâu rộng
của các cấp có thẩm quyền. Đặc biệt là sự định hướng tư tưởng đúng đắn cho
nhiệm vụ giáo dục quan trọng này. Và kết quả ấy đã được thể hiện bằng việc hệ
giáo dục thường xuyên trong trường Trung học phổ thông đã bắt đầu hòa chung vào
guồng máy giáo dục và đạt được một số hiệu quả nhất định.
- Mặc dầu vậy, không thể nói rằng việc áp dụng việc dạy hệ giáo dục thường
xuyên trong trường Trung học phổ thông không còn gặp những khó khăn, vướng
mắc. Thực tế cho thấy vẫn còn một số cơ sở giáo dục phổ thông trong tỉnh còn đạt
chất lượng khá thấp ở hệ này. Điều đó, ta có thể thấy qua báo cáo sơ kết hai năm
thực hiện chương trình giáo dục thường xuyên trong trường phổ thông vào tháng 6


năm 2013 của sở Giáo dục và Đào tạo Long An tổ chức.
- Xuất phát từ những điều nói trên, cộng với bản thân là một giáo viên yêu
nghề nên tôi luôn trăn trở tìm phương pháp tốt nhất để nâng cao chất lượng dạy học
hệ giáo dục thường xuyên trong trường phổ thông. Chính vì thế tôi đã chọn đề tài:
" Một số đặc điểm của học sinh hệ giáo dục thường xuyên ở trường THCS & THPT
Mỹ Quý và các biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục".

1


II. Mục đích nhiên cứu:
- Xã hội ngày càng hiện đại thì việc kéo học sinh về với việc say mê hơn
trong học tập ngày càng khó. Điều đó lại càng khó hơn đối với đối tượng học sinh
có năng lực hạn chế như học sinh hệ giáo dục thường xuyên trong trường phổ
thông.
- Mặc dầu đã gần được 3 năm áp dụng dạy ở trường phổ thông nhưng mô
hình này vẫn còn phải vừa tiến hành vừa đúc kết kinh nghiệm. Điều đó lại càng có
ý nghĩa hơn đối với những trường còn nhiều khó khăn. Đặc biệt là các trường thuộc
vùng sâu, vùng xa.
- Với ý muốn cùng chia sẻ và nhận được sự đóng góp nhiều hơn về kinh
nghiệm giảng dạy đối tượng học sinh hệ giáo dục thường xuyên trong trường phổ
thông, tôi đã mạnh dạn viết sáng kiến kinh nghiệm: " Một số đặc điểm của học sinh
hệ giáo dục thường xuyên ở trường THCS & THPT Mỹ Quý và các biện pháp nâng
cao chất lượng giáo dục".
- Với kinh nghiệm qua các năm giảng dạy và chủ nhiệm các lớp hệ giáo dục
thường xuyên, tôi cũng đã từng áp dụng đề tài " Một số đặc điểm của học sinh hệ
giáo dục thường xuyên ở trường THCS & THPT Mỹ Quý và các biện pháp nâng
cao chất lượng giáo dục" và đạt được một số kết quả nhất định. Qua đó, tôi cũng đã
tự nâng cao được năng lực chuyên môn của bản thân nhưng vẫn còn một số hạn
chế, vướng mắc cần được khắc phục. Chính vì điều đó, tôi muốn thông qua việc

nghiên cứu, viết sáng kiến kinh nghiệm này để có thể trao đổi với đồng nghiệp, từ
đó tôi có thể trao dồi, học hỏi nhiều hơn từ những kinh nghiệm quý báu của các
đồng nghiệp trong và ngoài đơn vị.
III. Đối tượng ngiên cứu:
- Đối tượng cụ thể mà đề tài hướng đến đó là đối tượng học sinh thuộc hệ
giáo dục thường xuyên trong trường THCS & THPT Mỹ Quý. Cụ thể là các học
sinh thuộc khối lớp 10, 11, 12.
- Mặc dù vấn đề này ít nhiều đã có người nghiên cứu, song với lòng nhiệt
thành cùng với kinh nghiệm thực tế công tác giảng dạy, tôi đã cố gắng viết sáng
kiến kinh nghiệm này vì đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ và với mong
muốn tiếp tục được trao đổi và mong nhận được nhiều sự góp ý chân thành.
IV. Phương pháp nghiên cứu:
- Để viết được sáng kiến kinh nghiệm này, tôi đã thu nhập thông tin, đúc kết
kinh nghiệm sau một thời gian giảng dạy. Cụ thể là lớp 10B ( năm học 2011- 2012),
lớp 10A5, 11A4 (năm học 2012-2013), lớp 11A4, 12A4 ( năm học 2013- 2014).
- Một số phương pháp chủ yếu được sử dụng: Phương pháp thu thập thông
tin, thống kê, tổng hợp, phân tích, pháp so sánh…
PHẦN B: PHẦN NỘI DUNG:
2


I. Cơ sở lý luận:
- Chúng ta biết rằng ở giai đoạn này các em học sinh có sự phát triển tâm lí
khá phức tạp. Chính điều đó làm ảnh hưởng rất lớn đến hành vi cũng như nhân
cách của các em.
- Hơn thế, ở các học sinh hệ giáo dục thường xuyên do đa số các em có sự
hạn chế về nhận thức nên dễ dàng dẫn đến việc lệch chuẩn về hành vi và nhân cách.
- Ở lứa tuổi các em, đặc biệt là các em hệ giáo dục thường xuyên rất cần có
sự tư vấn, hỗ trợ, giáo dục đúng mực của những người có năng lực và tâm huyết.
Và trong quá trình giáo dục rất cần có sự đầu tư, kiên trì và linh hoạt trong việc áp

dụng các phương pháp tác động tích cực. Nếu được, chúng ta cần chấp nhận sự
sáng tạo riêng nhằm đạt được kết quả tốt nhất.
- Vì vậy, mỗi giáo viên khi được giao trách nhiệm giảng dạy hay chủ nhiệm
các em học sinh hệ giáo dục thường xuyên cần phải đầu tư hơn về chuyên môn và
tăng cường công tác tự rút kinh nghiệm bản thân cũng như thường xuyên học hỏi ở
những đồng nghiệp khác. Vì vậy, đề tài: "Một số đặc điểm của học sinh hệ giáo
dục thường xuyên ở trường THCS & THPT Mỹ Quý và các biện pháp nâng cao
chất lượng giáo dục" cần được nghiên cứu và áp dụng.
II. Cơ sở thực tiễn:
- Trên thực tế, ở trường trung học phổ thông, mặt bằng chung của các em học
sinh hệ giáo dục thường xuyên còn rất thấp so với hệ phổ thông. Hầu hết các em
học sinh đến lớp là chỉ học đối phó, học cho có học. Không dừng lại ở đó, các em
lại thiếu kĩ năng biết lắng nghe từ người khác. Từ đó dẫn đến việc khối lượng kiến
thức và kĩ năng mà các em thu nhận được là rất hạn chế. Và từ việc xuất phát điểm
thấp cộng với việc ý thức hạn chế, lâu dần dễ dẫn đến tình trạng các em sẽ yếu kém
một cách nghiêm trọng.
- Chính vì điều đó, tôi đã mạnh dạn chọn đề tài "Một số đặc điểm của học
sinh hệ giáo dục thường xuyên ở trường THCS & THPT Mỹ Quý và các biện pháp
nâng cao chất lượng giáo dục" nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục học
sinh hệ giáo dục thường xuyên ở nơi công tác nói riêng cũng như góp phần nhỏ vào
việc giáo dục chung của tỉnh nhà.
III. Thực trạng:
- Thông qua việc sơ kết hai năm thực hiện chương trình giáo dục thường
xuyên trong trường phổ thông vào tháng 6 năm 2013 của sở Giáo dục và Đào tạo
Long An, chúng ta thấy rằng những con số biết nói ấy đã khiến cho các nhà giáo
dục tâm huyết cần phải quan tâm. Bởi vì cá biệt có trường có tỉ lệ học sinh bỏ học,
tỉ lệ hạnh kiểm và học lực dưới trung bình đến vài chục phần trăm, gấp nhiều lần so
với hệ trung học phổ thông. Đó là một điều đáng lo ngại và cần có biện pháp cải
thiện, nâng cao hơn nữa chất lượng giáo dục.
3



- Còn riêng đối với các trường trung học phổ thông đóng trên địa bàn vùng
sâu thì điều ấy lại đáng lo ngại hơn. Hầu hết các em ở những vùng này có khả năng
học tập kém, chất lượng tuyển sinh lớp 10 không cao, cùng với việc hầu hết các em
có hoàn cảnh gia đình gặp nhiều khó khăn. Tất cả những điều đó đã ảnh hưởng rất
lớn đến kết quả học tập của các em nói chung và lại càng ảnh hưởng hơn đối với
các em học sinh hệ giáo dục thường xuyên trong nhà trường. Đơn cử như ở trường
THCS & THPT Mỹ Quý, hai năm qua, kết quả đào tạo ở hệ giáo dục thường xuyên
cũng còn khá thấp. Nó được cụ thể hóa thông qua hai bảng sau:
Bảng 1:
Thống kê kết quả học lực, hạnh kiểm của học sinh các lớp giáo dục thường xuyên
KẾT QUẢ GIÁO DỤC
Năm học

2011-2012

2012- 2013

Lớp

Sĩ số

Học lực

Hạnh kiểm

( Dưới Trung
bình)


( Trung bình trở
xuống)

Thi lại

10B

34

16 (47.06%)

3(8.82 %)

15 ( 44.12%)

10A5

21

5 (23.80 %)

4(19.04 %)

5 (23.80 %)

11A4

20

1 (5.0 %)


0 ( 0.0 %)

1 ( 5.0 %)

Bảng 2:
Thống kê kết quả học sinh bỏ học của học sinh các lớp giáo dục thường xuyên

Năm học

Lớp

Sĩ số
đầu
năm

2011-2012

10B

39

34

0

5 ( 12.8 %)

10A5


27

21

0

6 ( 22.22 %)

11A4

24

20

0

4 (16.66 %)

2012- 2013

Sĩ số cuối năm

Số lượng
chuyển đi/
đi học
nghề

Số lượng bỏ
học


- Điều này khiến cho tập thể Hội đồng sư phạm nhà trường cũng như các
giáo viên đảm trách giảng dạy hoặc chủ nhiệm các lớp hệ giáo dục thường xuyên
phải băn khoăn và tìm hướng khắc phục có hiệu quả hơn.
IV. Một số đặc điểm của học sinh hệ giáo dục thường xuyên ở trường THCS &
THPT Mỹ Quý và các biện pháp nâng cao chất lượng giáo dục:
4


1. Một số đặc điểm học sinh hệ GDTX:
1.1. Đặc điểm gia đình:
1.1.1. Đặc điểm kinh tế:
Qua việc nắm bắt thông từ học sinh, phụ huynh học sinh, giáo viên chủ
nhiệm và đặc biệt là thông qua phiếu điều tra, ta có thể thấy được có rất nhiều học
sinh có hoàn cảnh gia đình gặp nhiều khó khăn.
Bảng 3:
Thống kê hoàn cảnh kinh tế gia đình của học sinh các lớp giáo dục thường xuyên
Năm học

2013- 2014

Sĩ số học sinh
(10+11+12)
74

Hoàn cảnh kinh tế gia đình
Nghèo

Trung bình trở lên

29 (39.18 %)


45 (60.8 %)

Để giải thích cho tình trạng nói trên, ta có thể điểm qua một số nguyên nhân.
Thứ nhất là do đa số các em có hộ khẩu tại các xã có hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó
khăn ( Chủ yếu thuộc hai xã: Mỹ Quý Đông và Mỹ Quý Tây). Thứ hai là do đa số
gia đình xuất thân là gốc thuần nông nên thu nhập nhiều khi rất bấp bênh ( Theo
thống kê ở năm học 2013- 2014 có đến 50/74 gia đình các em học sinh ở ba lớp
thường xuyên là làm nghề nông chiếm tỉ lệ 67.50 %). Thứ ba là một vấn đề khá
nhạy cảm đó là có một số gia đình bị ảnh hưởng một số tệ nạ xấu như nạn cờ bạc,
đá gà,…từ nước bạn Campuchia. Từ đó khiến kinh tế gia đình kiệt quệ, thậm chí
mất hết tài sản,…
- Chính những điều nói trên đã ảnh hưởng rất lớn đến việc đầu tư cho việc
học của các em học sinh. Một điều ta dễ thấy đó là các gia đình có hoàn cảnh khó
khăn phải lo bươn chải kiếm sống mà không có thời gian quan tâm đến các em.
Thậm chí không đủ khả năng để lo cho các em học đến hết chương trình THPT.
Hoặc một số em phải bỏ nhiều thời gian để phụ giúp gia đình, đôi khi chiếm hết cả
việc học.
Ví dụ: Em Phan Thanh Dản, học sinh lớp 10A5- năm học 2012-2013( hiện
nay là học sinh 11A4), cư ngụ tại Xã Quý Đông có hoàn cảnh gia đình khá đặc
biệt. Cha mẹ ly dị, em sống cùng mẹ. Hằng ngày, từ 3 giờ sáng em phải chạy xe
hàng chục cây số đến huyện Tân Thạnh- Long An để lấy cá về cho mẹ kịp bán vào
buổi sáng tại chợ. Ngày nào vế sớm cũng đã 5 giờ sáng, khi muộn có lúc đến 6 giờ.
Việc đi học muộn là thường xuyên đối với em. Khi vào học em hay không thuộc bài,
thường xuyên ngủ gục,…Mặc dù giáo viên chủ nhiệm đã có nhiều cố gắng nhưng
kết quả ở học kì I của em rất thấp. Đến cuối năm học, em cố gắng lắm mới có thể
lên được lớp 11.
1.1.2. Đặc điểm tình trạng hôn nhân của cha mẹ:
5



- Cha mẹ là bậc sinh thành mà người con nào cũng xem là hình tượng thiêng
liêng. Chính cha mẹ là người che chắn, bảo vệ cho con suốt cuộc đời mình. Thế
nhưng có không ít một số em học sinh thật không may mắn khi trong cuộc sống
phải vắng bóng cha hoặc mẹ, thậm chí phải mồ côi cha lẫn mẹ. Trong đó, việc cha
mẹ ly hôn thật sự là nỗi bất hạnh lớn đối với con cái. Có những trường hợp sau khi
cha mẹ ly hôn, người con bị trầm cảm nặng, thậm chí rối loạn thần kinh. Đôi khi có
em bắt đầu có những hành vi thô bạo, hư hỏng.
- Có rất nhiều em học sinh ở các lớp thuộc hệ giáo dục thường xuyên phải
chịu sống trong cảnh vắng cha hoặc thiếu mẹ. Đơn cử như lớp 10A5 ( năm học
2012- 2013) là một trường hợp đặc biệt. Sĩ số đầu năm là 27 học sinh thì trong đó
có đến 11 em học sinh có hoàn cảnh gia đình cha mẹ ly thân, ly dị, mồ côi cha hoặc
mẹ (Chiếm tỉ lệ 40.74%) . Điều đó đã ảnh hưởng rất lớn đến tâm lý của các em.
Dẫn đến kết quả học tập của các em là rất thấp. Còn ở năm học này ( 2013- 2014)
các lớp khác thuộc hệ này cũng có con số ấy cũng khá ấn tượng. ( Theo thống kê ở
ba lớp thường xuyên có đến 16/74 gia đình các em học sinh có tình trạng cha mẹ ly
thân, ly dị, mồ côi cha hoặc mẹ, chiếm tỉ lệ 21.62 %).
Ví dụ: Em Mai Văn Vinh là học sinh lớp 10A5 ( năm học 2012- 2013), hiện
nay là học sinh lớp 11A4, cư ngụ tại xã Mỹ Thạnh Bắc. Cha mẹ ly dị khi em còn
nhỏ, em phải sống với mẹ cùng với bà ngoại đã già. Cha em tuy sống không xa đó
nhưng không hề quan tâm cộng với việc kinh tế gặp rất nhiều khó khăn nên ảnh
hưởng rất lớn đến tâm lý của em. Từ lúc học cấp THCS, em đã có hiện tượng trốn
học chơi game, bi da, hay cáu gắt với mẹ và ngoại, lại hay vô lễ với giáo viên,
thậm chí là đánh bạn. Em lại còn thói xấu hút thuốc rất nhiều. Khiến cho kết quả
học tập suốt các năm THCS và đầu học kì I lớp 10 là rất thấp. Khó khăn lắm em
mới có thể lên lớp cuối năm.
1.1.3. Đặc điểm về lối sống của gia đình:
- Ngoài thời gian đến trường thì gia đình là nơi mà các em gắn bó nhiều nhất.
Vì thế, gia đình là yếu tố rất quan trọng để hình thành nên nhân cách của các em.
Những cách cư xử, hành vi, thái độ của những người trong gia đình có tác động rất

lớn đến các em.
- Thật không nay mắn cho các em phải sinh ra trong gia đình mà gặp phải
trường hợp cha mẹ thô bạo, rượu chè, cờ bạc, thiếu sự quan tâm…hoặc ly dị, ly
thân, không còn đủ cha, mẹ. Đơn cử ở lớp 10A4 ( năm học 2013- 2014) có đến
11/38 học sinh cho biết những người thân trong gia đình các em có thói quen xấu
như: cờ bạc, hay uống rượu, thường xuyên gây gỗ, đánh nhau,… (chiếm tỉ lệ 28.94
%). Tình trạng ấy dễ dẫn đến đa số các em hay có hiện tượng trầm cảm, chay lì,…
có sự hạn chế trong việc giao tiếp với mọi người.

6


- Thông qua việc giảng dạy và tiếp xúc với các em học sinh thuộc lớp giáo
dục thường xuyên ở trường, tôi cũng gặp phải một số em ở trong trường hợp như
thế.
Ví dụ: Em Nguyễn Tấn Đạt là học sinh lớp 10A5 (năm học 2012- 2013), nay
là học sinh lớp 11A4, cư ngụ tại xã Mỹ Quý Tây. Cha mẹ ly dị, em phải sống với
mẹ và cha dượng cùng người anh là con riêng của cha dượng. Cha dượng đi làm
ăn xa, mẹ mê cờ bạc, anh thì chạy xe cho bãi xe Casino. Tất cả đều thiếu sự quan
tâm đến em. Khiến em ít nói, hay lêu lỏng, thường xuyên trốn học và có kết quả học
tập kém. Đầu năm học đã bị kỉ luật vì tham gia đánh nhau. Cũng vất vả lắm em
mới có thể lên lớp. Hay em Nguyễn Minh Trí cũng là học sinh cùng lớp,cùng cư
ngụ tại xã Mỹ Quý Tây. Cha mẹ cũng ly dị. Em sống cùng cha. Cha em làm ăn xa,
ít khi về nhà lại hay nhậu nhẹt say sưa. Cha em đã bắt em nghỉ học ở đầu học kì I.
Mặc dù giáo viên chủ nhiệm nhiều lần vận động nhưng cha em không cho em đến
lớp. Và đến năm học này, em lại xin vào học lại ở lớp 10A4. Nhưng qua theo dõi
em cũng còn học yếu và ý thức còn hạn chế.
1.2. Đặc điểm của bản thân học sinh:
1.2.1. Về khả năng học tập:
- Như chúng ta đã biết, đa số các em học sinh thuộc hệ giáo dục thường

xuyên có học lực rất kém. Tất cả các em đều là những học sinh có điểm thấp nhất
trong các kì tuyển sinh lớp 10. Cá biệt có em có tổng điểm ba môn chưa đạt được 2
điểm. Chúng ta có thể theo dõi bảng thống kê sau:
Bảng 4:
Thống kê số điểm tuyển sinh lớp 10 hệ Giáo dục thường xuyên

Năm học

Số lượng tuyển

Hình thức tuyển

Điểm trúng tuyển

2012- 2013

27

Thi tuyển

1.5- 10

2013- 2014

43

Thi tuyển

5.5- 15.25


- Và điều đó cũng là một trở ngại rất lớn đối với các giáo viên đứng lớp. Một
hiện tượng chung, không chỉ riêng gì đối với đơn vị trường, đó là các em có kết quả
học tập rất yếu. Các em ít có thói quen soạn bài, tự học ở nhà, không dành thời gian
cho việc đọc sách và đặc biệt, việc đến thư viện đối với các em là một điều “ quá xa
lạ” ( Theo thống kê ở ba lớp thường xuyên có đến 65/74 học sinh không đến thư
viện, chiếm tỉ lệ 87.832 %). Còn trong giờ học, các em rất ít phát biểu, hay mất trật
tự, làm việc riêng, hay ngủ trong lớp,…Tất cả đã ảnh hưởng không nhỏ đến tâm lí
cũng như chất lượng giờ dạy của các giáo viên.

7


- Điều này được thể hiện khá rõ ở các lớp đầu cấp. Đặc biệt là lớp 10. Chẳng
hạn lớp 10A4 ( năm học 2013- 2014), ở học kì I có kết quả học tập rất đáng lo ngại.
Cụ thể ở bảng sau:
Bảng 5:
Thống kê kết quả học lực của học sinh lớp 10- hệ giáo dục thường xuyên
Sĩ số
Lớp

10A4

(Cuối
HKI năm
20132014)

42

Xếp loại
Giỏi


Khá

Trung
bình

Yếu

Kém

0

4

19

17

2

( 0 %)

( 9.52 %)

( 45.23%)

(40.47 %)

( 4.78%)


- Theo quan sát, ta thấy tỉ lệ học lực của học sinh ở lớp trên có đến 45.23 %
xếp loại yếu, kém. Và tỉ lệ ấy khiến cho hội đồng sư phạm nhà trường và đặc biệt là
các giáo viên phụ trách lớp cần phải có nhiều cố gắng hơn.
1.2.2. Về tâm lý:
- Ở giai đoạn lớp 10, 11, 12 là giai đoạn tuổi mới lớn của các em học sinh.
Cũng như các bạn học sinh khác. Các em đã có sự thay đổi rất lớn về tâm lý. Và sự
thay đổi ấy ảnh hưởng không nhỏ đến hành vi, thái độ ứng xử của các em.
- Nếu ở các lớp thuộc hệ trung học phổ thông cũng có những học sinh có
những hành vi lệch lạc, thiếu ý thức thì ở các lớp thuộc hệ giáo dục thường xuyên
lại tồn tại hiện tượng ấy nhiều hơn cả. Hành vi lệch lạc ấy biểu hiện cụ thể ở một số
nét như: hay có thái độ chống đối, vô lễ; thích gây gỗ, đánh nhau, nói tục; ít khi
tuân thủ nội quy; thường xuyên trốn học, đi trễ,…
- Cũng từ những hạn chế trong hành vi, thái độ trên mà các em học sinh ở
những lớp này có tỉ lệ bị kỉ luật khá cao ( chủ yếu là do đánh nhau, vô lễ với giáo
viên). Và điều đó dẫn đến cuối năm số lượng học sinh có hạnh kiểm từ trung bình
trở xuống khá nhiều.
- Qua tìm hiểu và nắm bắt thông tin, tôi được biết rằng có rất nhiều nguyên
nhân để dẫn đến các hành vi lệch lạc trên của các em. Chẳng hạn: do các em đã
được nuông chiều từ nhỏ; gia đình thiếu sự quan tâm; ảnh hưởng thói xấu từ những
người thân trong gia đình, bạn bè, xã hội; các em thường có tư tưởng không tốt đó
là các em chán học lớp giáo dục thường xuyên vì tự ti,….

8


- Một số nguyên nhân kể trên đã ảnh hưởng rất lớn đến kết quả học tập của
các em. Và cũng từ kết quả học tập ấy lại tiếp tục ảnh hưởng đến các em ở các năm
tiếp theo. Cứ thế các em cứ loay hoay trong vòng luẩn quẩn khó tìm được hướng
phát triển tốt nhất.
2. Một số biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục:

2.1.Về phía giáo viên chủ nhiệm:
Hơn ai hết, trong hoạt động giáo dục, giáo viên chủ nhiệm chiếm vị trí vai trò
vô cùng quan trọng. Điều đó lại càng quan trọng hơn đối với các lớp giáo dục
thường xuyên. Giáo viên chủ nhiệm luôn giữ vai trò là cầu nối giữa Ban giám hiệu,
giữa các tổ chức đoàn thể trong và ngoài nhà trường, giữa giáo viên bộ môn,…với
học sinh của lớp mình. Chính vì thế, người giáo viên chủ nhiệm phải quản lý một
cách toàn diện lớp học bằng chính năng lực và tâm huyết của mình.
Thực tế trong thời gian qua tại trường, Ban giám hiệu nhà trường, từ đầu
năm học cũng đã cố gắng sắp xếp công tác chủ nhiệm các lớp giáo dục thường
xuyên cho những giáo viên chủ nhiệm năng nổ, có kinh nghiệm và nhiệt huyết với
nghề. Chính vì điều đó mà ở các lớp này đã đạt được kết quả học tập khá ổn định.
Tuy nhiên, do là thời gian áp dụng việc đưa lớp giáo dục thường xuyên vào
trường phổ thông còn mới cộng với việc kinh nghiệm đúc kết chưa nhiều nên kết
quả đạt được cũng còn hạn chế. Đặc biệt là công tác giáo viên chủ nhiệm. Cũng từ
đó mà qua việc phát phiếu thăm dò ( năm 2014), các em học sinh ở một số lớp vẫn
còn chưa có ấn tượng tốt về giáo viên chủ nhiệm của mình. Đặc biệt có lớp có đến
60% học sinh mong muốn thay giáo viên chủ nhiệm vì cảm thấy giáo viên ấy chưa
hiểu được tâm lý học sinh. Đó cũng là một con số đáng phải suy nghĩ, khiến chúng
ta cần phải có cách nhìn nhận đúng đắn hơn trong công tác chủ nhiệm.
Chính vì thế, là một người tâm huyết với nghề cộng với việc đã công tác ở
các lớp này một thời gian, tôi mạnh dạn đề xuất một số giải pháp sau nhằm đạt
được hiệu quả tốt hơn.
- Trước hết, giáo viên chủ nhiệm cần phải nghiên cứu hoàn cảnh gia đình học
sinh. Việc nắm thông tin ấy có thể làm bằng nhiều cách. Ta có thể tìm hiểu thông
qua giáo viên chủ nhiệm cũ, thông qua việc tìm hiểu trực tiếp từ các em, hoặc tốt
nhất là ta đến nhà các em nếu có thể,…Từ đó, ta có thể có những kế hoạch hỗ trợ,
giúp đỡ các em học sinh có hoàn cảnh khó khăn một cách kịp thời hơn.
- Thứ hai, giáo viên chủ nhiệm phải nắm vững tâm lý của từng em học sinh.
Đó có thể là: tâm tư, nguyện vọng, ước mơ, sở thích, thắc mắc, khó khăn,…Từ đó,
ta có thể điều chỉnh kịp thời các biện pháp giáo dục để đạt được hiệu quả tốt nhất.

- Thứ ba, giáo viên chủ nhiệm phải nghiên cứu kết quả học tập của các em ở
các năm trước đó ngay từ đầu năm. Vì đặc điểm các em học sinh thuộc lớp giáo dục
thường xuyên là học rất yếu nên việc nắm bắt kết quả học tập ấy rất quan trọng.
9


Khi đã năm bắt, phân loại đối tượng xong, ta phải kịp thời tham mưu cùng ban
giám hiệu, trình bày với phụ huynh học sinh để có thể tổ chức các lớp bồi dưỡng
kiến thức cho các em. Đó là cách hiệu quả nâng dần chất lượng học tập của các em.
- Thứ tư, giáo viên chủ nhiệm phải chọn được đội ngũ cán bộ lớp có khả
năng quản lý lớp. Đây là yếu tố cực kì quan trọng. Nếu đội ngũ cán bộ lớp năng nổ,
nhiệt tình, làm việc có hiệu quả thì lớp sẽ có khả năng tự quản cao, giúp cho giáo
viên chủ nhiệm nắm bắt thông tin kịp thời, chính xác ngay cả khi không thể đến
thăm lớp.
- Thứ năm, giáo viên chủ nhiệm phải thường xuyên thăm lớp. Hiện nay, theo
quy định, mỗi giáo viên được phân công tác chủ nhiệm lớp giáo dục thường xuyên
cũng được quy ra 4 tiết chuyên môn như các giáo viên chủ nhiệm khác. Vì thế việc
thường xuyên thăm lớp là hoàn toàn có thể. Nếu được như thế giáo viên chắc chắn
sẽ nắm được thông tin một cách khái quát, kịp thời dồng thời tạo tạo cho các em
học sinh tâm lý tốt đẹp là giáo viên luôn quan tâm mình. Từ đó các em sẽ cố gắng
nghe lời chúng ta và học tốt hơn.
- Thứ sáu, giáo viên chủ nhiệm phải là “người thầy nghiêm khắc” nhưng lại
là “người bạn chân thành”. Do đây là giai đoạn chuẩn bị hình thành tính cách nên
đôi khi các em có sự phát triển tâm lý chưa ổn định, hay phạm phải những sai lầm.
Chính vì thế các em cần phải có người uốn nắn, giảng dạy và tâm sự. Để làm tốt
được hai vai trò cùng một lúc, đòi hỏi người giáo viên chủ nhiệm phải có nghệ
thuật sư phạm vững vàng. Chúng ta phải biết lúc nào nên nghiêm khắc để các em
tôn trọng chúng ta và biết sửa sai qua những lời uốn nắn của thầy. Chúng ta cũng
phải biết lúc nào nên là người bạn chân thành, cho các em một điểm tựa niềm tin để
các em trút bầu tâm sự để ta hiểu các em hơn. Và có hai xu hướng mà ta cần nên

tránh đó là đừng quá nghiêm khắc để các em tránh xa chúng ta hơn và đừng quá
gần gũi đến sỗ sàng khiến các em thiếu sự tôn trọng chúng ta.
- Thứ bảy, giáo viên chủ nhiệm phải có sự kết hợp chặt chẽ với giáo viên bộ
môn. Trong công tác giáo dục, chúng ta luôn đòi hỏi phải có sự “ đồng tay”. Tức là
tất cả các giáo viên đều có nhiệm vụ quan tâm học sinh và tất cả các giáo viên phải
luôn có sự gắn kết với nhau. Đặc biệt, người giáo viên chủ nhiệm phải luôn chủ
động liên hệ với các giáo viên bộ môn để kịp thời nắm bắt tình hình học sinh của
lớp mình hơn. Tránh trường hợp giữa giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ môn
không có mối quan hệ tốt với nhau. Nếu được, giữa giáo viên chủ nhiệm và các
giáo viên bộ môn của mỗi lớp dạy có ít nhất một cuộc họp vào giữa mỗi học kì để
bàn các biện pháp giáo dục hiệu quả hơn. Hoặc giáo viên chủ nhiệm có thể xin dự
giờ nhiều môn học của các giáo viên bộ môn để nắm bắt rõ hơn tình hình học tập
của các em ở từng môn học.
- Thứ tám, giáo viên chủ nhiệm phải có sự liên hệ chặt chẽ với gia đình học
sinh. Trong các phương pháp giáo dục học sinh thì đây là phương pháp khá hiệu
quả. Bởi ngoài nhà trường, gia đình là môi trường giáo dục có sức ảnh hưởng lớn
10


nhất đến các em. Việc duy trì mối liên hệ với gia đình học sinh có nhều cách. Ta có
thể trao đổi với phụ huynh học sinh qua các cuộc họp phụ huynh học sinh của lóp.
Ta có thể mời riêng phụ huynh của từng em để trao đổi cụ thể. Và tốt nhất là ta trao
đổi thông qua việc đến thăm nhà học sinh. Và cuối cùng là cách đơn giản mà mang
lại nhiều hiệu quả đó là trao đổi qua kênh điện thoại.
- Ngoài các biện pháp trên, người giáo viên chủ nhiệm cần phải lưu ý một số
vấn đề khác trong công tác giáo dục học sinh. Mặc dù chủ nhiệm một lớp có rất
nhiều học sinh cá biệt nhưng ta không nên gọi các em là học sinh cá biệt để tránh
gây ảnh hưởng tâm lý mặc cảm, bị xúc phạm ở các em. Trong việc giao tiếp tránh
việc quá nghiêm khắc, vụng về thiếu tình cảm đối với các em. Nếu muốn phạt học
sinh phải phạt theo hướng tích cực. Chẳng hạn những em vi phạm ta cho các em đi

lao động ( giáo viên cùng đi lao động với các em) để các em thấy việc ấy là đáng
làm và cảm nhận được tình cảm quan tâm của giáo viên dành cho mình. Luôn luôn
lắng nghe mọi sự đóng góp của các đồng nghiệp góp ý cho học sinh lớp mình nếu
nó là đúng. Tránh trường hợp vì xếp hạng thi đua hàng tuần mà có những thái độ
không tốt đối với giáo viên nhận xét không tốt về lớp mình trong một tiết dạy nào
đó. Luôn lắng nghe tâm tư, nguyện vọng của các em. Kể cả sự đóng góp ý kiến của
các em cho bản thân mình,… Và hơn hết, ta cần có một yếu tố mà như bao giáo
viên khác cần phải có, đó là sự yêu thương học sinh chân thành. Được như thế tôi
tin chắc rằng ta sẽ hoàn toàn có khả năng giáo dục học sinh “cá biệt” trở thành học
sinh “đặc biệt”.
2.2. Về phía giáo viên bộ môn:
Ngoài giáo viên chủ nhiệm, giáo viên bộ môn là người đóng vai trò cực kì
quan trọng trong từng tiết học cụ thể. Bởi vì trong mỗi tiết học, giáo viên bộ môn
có toàn quyền quyết định mọi tình huống phát sinh. Trong thời gian qua, hầu hết
các giáo viên bộ môn đã thực hiện tốt vai trò vừa dạy chữ vừa dạy người này. Tuy
nhiên, vẫn còn một số giáo viên bộ môn còn nhiều hạn chế trong việc dạy học và
uốn nắn học sinh. Đặc biệt là các em học sinh ở lớp giáo dục thường xuyên.
Với quan niệm trách nhiệm của mình chỉ là truyền dạy kiến thức còn mọi
chuyện khác liên quan đến học sinh là trách nhiệm của giáo viên chủ nhiệm. Từ đó
mặc cho các em vi phạm, xong tiết dạy phê sổ và than phiền với giáo viên chủ
nhiệm thế là xong. Từ đó giải thích vì sao có em học sinh bị ghi lỗi vi phạm vào sổ
nhiều lần từ tuần này sang tuần khác mà vẫn không hề có sự chuyển biến tốt. Bên
cạnh đó, vẫn có một số giáo viên cố gắng uốn nắn học sinh bằng những hình thức
hết sức khắt khe. Chẳng hạn phạt học sinh đứng suốt tiết, đuổi ra khỏi lớp, bắt chép
bài phạt hàng chục lần bài học, đánh giá tiết học yếu, cho những nhận xét mang
tính áp đặt, thậm chí có một số giáo viên do không thể kiềm chế nên dùng lời lẽ
thiếu tôn trọng, hành dộng quá đáng xúc phạm đến các em,…Từ đó gây ra không ít
hiện tượng học sinh chống đối, vô lễ giáo viên hoặc trốn học cả tiết học vì không
thích giáo viên ấy.
11



Từ những thực tế trên, cấp quản lý nhà trường cần đánh giá và xác định lại
đúng đắn hơn vai trò và trách nhiệm của giáo viên bộ môn trong từng tiết học. Còn
đối với giáo viên bộ môn cần thể hiện và nâng cao hơn nữa khả năng sư phạm của
mình trong từng tiết học.
Thiết nghĩ, giáo viên bộ môn trước tiên cần đầu tư hơn về bộ môn của mình,
cần đơn giản hóa kiến thức để phù hợp với đối tượng học sinh nhằm tạo ra sự thoải
mái và hứng thú hơn đối với các em trong giờ học. Chúng ta xem việc truyền đạt tri
thức là quan trọng nhưng quan trọng hơn là em có sẵn sàng tâm thế để đón nhận nó
chưa. Vì thế trong trường hợp đó, chúng ta mạnh dạn dành ra một khoảng thời gian
nhất định để giảng giải, phân tích, tâm sự, thậm chí là kể chuyện,…miễn là có ích
cho sự phát triển tâm lý của các em để các em bớt căng thẳng và tập trung hơn vào
việc học.
Ví dụ: Trong quá trình dạy lớp 10A5 (năm học 2012-2013), lúc đầu tôi đã
có cảm giác rất vất vả. Các em thường xuyên nói chuyện, ít phát biểu trong giờ
học, hay phát biểu tinh tinh,…Điều đó làm tôi thường xuyên mất hứng thú trong
từng tiết dạy. Sau đó, tôi đã băn khoăn rất nhiều. Tôi đã áp dụng rất nhiều cách và
cuối cùng đã có hiệu quả đáng kể. Vào đầu tiết học tôi cố gắng thân thiện với các
em bằng cách hỏi thăm các em bằng nột số câu hỏi nhỏ về chuyện gia đình, về
chuyện bạn bè, chuyện học hành,…Đôi khi tôi bắt chuyện bằng một câu chuyện
vui, hoặc câu chuyện có ý nghĩa đối với các em. Trong tiết học, nếu có học sinh
nào vi phạm tôi cố gắng kiềm chế dùng lời lẽ thật khéo léo và ghi vào sổ theo dõi
cá nhân đề có dịp gặp riêng em ( nếu có thể) để khuyên răn, uốn năn các em một
cách nhẹ nhàng. Trong quá trình học thì thỉnh thoảng xuống gần lớp hơn, hoặc
xem vở các em, nhắc nhở nhẹ nhàng những em không chép bài,…Cố gắng dùng
nhiều lời khen hơn để tạo sự khích lệ cho các em. Từ đó, tôi cảm nhận rằng các em
thật sự là những học trò cũng có nét thật đáng mến và những lúc dạy tôi cảm nhận
các em luôn xem tôi là người thân của mình. Các em sẵn sàng tâm sự những điều
các em băn khoăn nếu có thể. Chính vì thế, sau gần ba năm gắn bó với các lớp

giáo dục thường xuyên, tôi luôn cảm thấy vui vẻ và thoải má trong từng tiết dạy.
- Bên cạnh đó, ta cần tăng cường sự liên hệ chặt với giáo viên chủ nhiệm.
Hãy xem họ là một “ cộng sự” trong công tác giáo dục của mình. Cần sẵn sàng
đóng góp cho họ về công tác giáo dục, uốn nắn học sinh nếu có thể. Bên cạnh đó, ta
cần có những tham mưu kịp thời với ban giám hiệu nhà trường về những vấn đề
thiết thực nhất cho học sinh nếu thấy cần thiết. Có như thế, giáo viên bộ môn mới
phát huy hết vai trò và trách nhiệm giáo dục của mình.
2.3. Về phía đoàn thể nhà trường:
Việc giáo dục học sinh- đặc biệt là các em học sinh ớ các lớp giáo dục
thường xuyên là công tác đòi hỏi có sự chung tay góp sức của tất cả các tổ chức
đoàn thể trong và ngoài nhà trường. Trong đó, các tổ chức đoàn thể trong nhà
trường đóng vai trò rất quan trọng. Đặc biệt là vai trò của tổ chức Đoàn Thanh niên
12


cộng sản Hồ Chí Minh ( Đoàn), Hội Liên hiệp Thanh niên Việt Nam ( Hội), Đội
Thiếu niên tiền phong Hồ Chí Minh ( Đội).
Trường THCS- THPT Mỹ Quý là trường có hai cấp học nên các tổ chức trên
hiện nay đều có. Đó cũng là điều kiện thuận lợi trong công tác giáo dục học sinh.
Thực tế trong nhiều năm qua, Đoàn- Hội- Đội đã góp phần rất lớn trong việc
nâng cao hiệu quả giáo dục học sinh. Đặc biệt là đã tạo ra nhiều sân chơi bổ ích cho
các em học sinh, giúp các em “ học mà vui- vui để học”, góp phần xây dựng thành
công phong trào “ Xây dựng trường học thân thiện, học sinh tích cực”, giúp các em
học sinh có điều kiện phát triển nhân cách một cách toàn diện hơn.
Nhưng công bằng mà nói, hoạt động của Đoàn- Hội- Đội trong thời gian qua
vẫn còn một số hạn chế cần phải khắc phục. Đó là Đoàn- Hội- Đội vẫn chưa thật sự
thu hút được đông đảo sự tham gia các hoạt động phong trào của nhà trường; Sự
phân công, phân nhiệm giữa ba tổ chức thật sự chưa rõ ràng dẫn đến hoạt động
chưa hiệu quả, thiếu sự khoa học; vẫn còn để cho hiện tượng học sinh bị kỉ luật khá
nhiều. Và đặc biệt là trong công tác giáo dục học sinh cá biệt nói chung và học sinh

cá biệt lớp giáo dục thường xuyên nói riêng.
Qua đó, tôi mạnh dạn đề xuất một số biện pháp sau để hoạt động của ĐoànHội- Đội đạt hiệu quả hơn.
- Thứ nhất, ta cần đổi mới mạnh mẽ hơn hình thức sinh hoạt cờ. Hãy giảm
mạnh những thông báo, sinh hoạt chung chung hay những lời quở trách huyên
thuyên về các lỗi vi phạm của các em. Vấn đề này trường ta đã có áp dụng nhưng
chưa thật rõ nét và hiệu quả. Để cải tiến triệt để, thiết nghĩ mỗi buổi sinh hoạt cờ ta
cần có một giáo án hẳn hoi. Và giáo án ấy có sự chung tay góp sức của những
người có liên quan và có năng lực. Đó có thể là bí thư đoàn, tổng phụ trách, giáo
viên phụ trách giáo dục- tuyên truyền pháp luật, cán bộ phụ trách tư vấn học
đường, giáo viên phụ trách văn nghệ,…Yêu cầu cơ bản của nội dung sinh hoạt mỗi
tiết sinh hoạt cờ phải đảm bảo có sự nhận xét ngắn gọn, có đưa ra kế hoạch tuần
tới, và thời gian văn nghệ, trò chơi, tuyên truyền, giáo dục kĩ năng sống,…và nhất
thiết có những phần thưởng nhỏ để khích lệ tinh thần các em, để các em thích thú
hơn. Và chú ý chọn người tuyên truyền, giáo dục kĩ năng sống hay quản trò phải có
sự gần gũi, tạo được sự hứng thú, lôi cuốn được học sinh. Tránh trường hợp buổi
tuyên truyền, giáo dục chỉ là một bài đọc nói suông nhàm chán.
- Thứ hai, ta cần đẩy mạnh việc xây dựng các mô hình, câu lạc bộ, đội, nhóm
nhằm thu hút, tập hợp thanh thiếu niên tham gia sinh hoạt, vui chơi theo năng
khiếu, sở trường,…Hiện nay, công tác này đã được nhà trường khá quan tâm.
Trường đã xây dựng được hai câu lạc bộ ( Văn học và Văn nghệ), một đội An toàn
giao thông và đã thu hút nhiều học sinh tham gia đồng thời đạt hiệu quả đáng khích
lệ.

13


Ví dụ: Mô hình Câu lạc bộ Văn học của trường đã được thành lập năm
2011. Từ đó đến nay, câu lạc bộ đã hoạt động định kì ít nhất hai lần/ năm, đã phát
động được nhiều đợt sáng tác văn học và nhận được sự đóng góp của rất nhiều học
sinh và giáo viên, kể cả học sinh giáo dục thường xuyên. Hiện nay, Câu lạc bộ đã

cho ra mắt hai Nội san rất công phu mang tên “Ước mơ xanh” tập hợp nhiều sáng
tác hay của các em học sinh và giáo viên trong lẫn ngoài trường. Qua đó, câu lạc
bộ đã phần nào tạo được sân chơi bổ ích cho các em học sinh, giúp các em có dịp
phát huy năng khiếu của mình đồng thời giúp các em thích thú hơn trong học tập,
đặc biệt là môn văn.
- Thứ ba, ta cần đẩy mạnh công tác tư vấn học đường. Trước đây, nhà trường
cũng đã có sự phân công cụ thể nhưng khi đi vào hoạt động chưa được rõ nét, chưa
đạt được hiệu quả vì nhiều lý do. Nếu có thể, ta cần đưa tổ tư vấn học đường vào
hoạt động một cách hẳn hoi và cần phải bố trí phòng làm việc độc lập. Sở dĩ nói
như thế là vì hiện nay nhu cầu tư vấn tâm lý, học tập, giải bày tâm tư, nguyện vọng,
thắc mắc,… của các em học sinh là rất nhiều. Nếu có nơi đáng tin cậy để các em
thổ lộ thì rất tốt trong việc giáo dục học sinh. Đặc biệt là các em học sinh cá biệt hệ
giáo dục thường xuyên. Mặt lợi của vấn đề này nữa là ta sẽ đẩy mạnh công tác
“phòng” hơn là “ trị” trong công tác giáo dục học sinh. Thông qua tổ tư vấn này có
thể hạn chế đến thấp nhất những trường hợp đáng tiếc có thể xảy ra.
- Thứ tư, Đoàn- Hội- Đội cần đẩy mạnh hơn trong công tác tham mưu với
ban giám hiệu nhà trường trong những nội dung hoạt động mà mình đảm nhiệm.
Chúng ta cần hết sức tránh trường hợp “ đến hẹn lại lên” hoặc “ mưa rào không
thấm đất”. Tức là đừng nên cứng nhắc cứ năm nào cũng chỉ thực hiện bấy nhiêu nội
dung, nội dung nào cũng thực hiện một lần rồi thôi chẳng để lại ấn tượng sâu sắc
cho học sinh. Chúng ta cần có kế hoạch cho từng năm học sao cho thật khoa học,
phù hợp với tình hình đơn vị, đối tượng học sinh. Từ kế hoạch ấy, ta sẽ tham mưu
trực tiếp với ban giám hiệu để tranh thủ sự quan tâm, giúp đỡ nếu có thể. Và đặc
biệt, trong hoạt động cần phải linh hoạt, sáng tạo để tạo sự thu hút, tạo sự gần gũi
hơn đối với các em học sinh. Từ đó có thể gắn kết các em hơn với các phong trào
của Đoàn- Hội- Đội hơn.
2.4. Về phía Ban giám hiệu:
Vai trò của ban giám hiệu trong công tác giáo dục học sinh là đặc biệt quan
trọng. Họ chính là đầu tàu trên mọi con đường thành công trong công tác giáo dục
học sinh. Đặc biệt, trong công tác giáo dục thường xuyên thì những sự chỉ đạo,

định hướng và giúp đỡ của họ là rất cần thiết.
Từ năm 2008, trường chính thức trở thành trường có hai cấp học. Điều đó
mang lại nhiều niềm vui cho mọi người. Đặc biệt là đối với các em học sinh và
những bậc phụ huynh.

14


Nhưng từ đó việc quản lý cùng lúc hai cấp học cũng lại là một áp lực khá lớn
đối với ban giám hiệu. Đặc biệt là năm học 2011- 2012 lại càng áp lực ơn khi đưa
mô hình giáo dục thường xuyên vào trường THPT. Tuy vậy, với quyết tâm cao cùng
với năng lực lãnh đạo hiệu quả việc chỉ đạo công tác giáo dục học sinh nói chung
và học sinh lớp giáo dục thường xuyên có nhiều điểm đáng ghi nhận.
Với mong muốn công tác giáo dục học sinh các lớp giáo dục thường xuyên
đã đạt được nhiều hiệu quả hơn nữa, tôi mạnh dạn đề xuất một số biện pháp mang
tính tham khảo sau:
- Thứ nhất, ban giám hiệu cần đánh giá hằng năm hiệu quả công tác giáo dục
thường xuyên tại đơn vị vào cuối năm học ở hội đồng sư phạm. Từ cuộc đánh giá
ấy mà ban giám hiệu nắm bắt được nhiều vấn đề từ ý kiến của tất cả các giáo viên
( đặc biệt là các giáo viên dạy lớp và giáo các giáo viên chủ nhệm các lớp này). Và
cũng từ đó vào đầu mỗi năm học, ban giám hiệu sẽ có cái nhìn khái quát hơn về
những mặt làm được và chưa được để có sự điều chỉnh, phân công cho phù hợp
hơn.
- Thứ hai, ban giám hiệu cần đẩy mạnh hơn nữa công tác kiểm tra, đánh giá
hiệu quả công tác giáo dục học sinh của những giáo viên có đảm nhiệm dạy và chủ
nhiệm các lớp giáo dục thường xuyên. Cần có sự kiểm tra thường xuyên hơn kể cả
đột xuất các tiết dạy, tiết sinh hoạt lớp. Thường xuyên kiểm tra sổ chủ nhiệm, kiểm
tra qua sĩ số học sinh hằng ngày. Đặc biệt là phải có bộ phận kiểm tra, theo dõi việc
thực hiện nề nếp, nội quy của các em học sinh. Và không dừng lại ở việc kiểm tra,
thống kê, báo cáo số liệu hằng ngày mà phải có sự làm việc, đôn đốc, bàn giao cụ

thể với từng giáo viên còn mắc nhiều hạn chế, thiếu sót trong công tác. Đặc biệt là
còn để cho lớp mình dạy, chủ nhiệm mắc nhiều khuyết điểm trong thời gian dài mà
chậm khắc phục sửa chữa. Có như thế tin chắc rằng các giáo viên phụ trách lớp sẽ
nâng cao trách nhiệm của mình hơn.
- Thứ ba, ban giám hiệu cần thường xuyên nắm bắt tâm tư nguyện vọng của
học sinh bằng nhiều hình thức. Đặc biệt là thông qua việc gặp gỡ lớp trực tiếp hoặc
thông qua phiếu thăm dò ý kiến học sinh. Và quan trọng hơn là khâu xử lý thôn tin
ấy như thế nào. Các em học sinh sẽ cảm thấy bất mãn nếu yêu cầu chính đáng của
mình chưa hoặc chậm được đáp ứng hay không được đáp ứng mà chưa hề có lời
giải thích nào từ phía ban giám hiệu. Vì thế ta cần hết sức thận trọng trong việc
nắm bắt thông tin từ học sinh cũng như việc xử lý thông tin và phúc đáp các yêu
cầu của các em. Từ đó, các sẽ cảm thấy nhà trường quan tâm mình và xem trường
học thật sự là ngôi nhà thứ hai của mình để các em yên tâm và nổ lực học hành
hơn.
- Thứ tư, ban giám hiệu cần có sự phân công hỗ trợ công tác giáo viên chủ
nhiệm ở các lớp giáo dục thường xuyên ( đặc biệt là lớp 10). Hiện nay, giáo viên
chủ nhiệm ở các lớp giáo dục thường xuyên vẫn không hề có sự ưu tiên về quy chế
chuyên môn so với các giáo viên khác. Trong khi đó, họ phải đảm nhận một lớp có
15


rất nhiều học sinh cá biệt thì quả là rất khó, và khó lại càng khó hơn đối với những
giáo viên chưa đủ năng lực hoặc chưa đủ kinh nghiệm. Vì thế ban giám hiệu cần có
sự phân công hoặc kiến nghị các đoàn thể, cá nhân có năng lực,… để hỗ trợ, giúp
đỡ họ.
Ví dụ: Ban giám hiệu có thể kiến nghị bí thư, phó bí thư đoàn, chủ tịch hội
Liên hiệp thanh niên Việt Nam, chủ tịch công đoàn, …các đồng chí Đảng viên
trong nhà trường đảm nhiệm “đỡ đầu” một hoặc một số em học sinh cá biệt, học
sinh có hoàn cảnh khó khăn…khắc phục hạn chế, vươn lê hoàn cảnh để học tập tốt
hơn. Trong quá trình giúp đỡ cần có sự báo cáo và tham mưu thường xuyên với

ban giám hiệu để có hướng giải quyết kịp thời và hiệu quả hơn.Và cần thiết có
những khen ngợi kịp thời cho các cá nhân có thành tích tốt trong công việc ấy.
- Thứ sáu, ban giám hiệu cần nâng cao hơn nữa hiệu quả tác động của hoạt
động hướng nghiệp cho các em học sinh. Đặc biệt ở các em học sinh ở lớp giáo dục
thường xuyên. Vì sao tôi lại nói thế. Bởi lẽ, do phần lớn các em học rất yếu,
phương pháp học tập không khoa học,…dẫn đến các em không biết thật sự mình
học giỏi môn nào, có năng khiếu về lĩnh vực nào,…khiến các em không biết hoặc
không tha thiết việc chọn nghề. Theo thống kê ở năm học 2013- 2014 có đến trên
50% các em học sinh ở lớp 12A4 thuộc hệ giáo dục thường xuyên mong muốn nhà
trường tư vấn riêng cho đối tượng lớp các em, tư vấn sâu, tư vấn kĩ hơn nữa. Vì các
em cho rằng, mặc dù nhà trường đã có rất nhiều cuộc tư vấn hướng nghiệp, thậm
chí tham quan thực tế các trường đại học, cao đẳng nhưng các em còn cảm thấy khá
mơ hồ, còn nhiều băn khoăn chưa dám trao dổi do ngại trình bày trước các lớp
không phải thuộc hệ giáo dục thường xuyên như mình. Nếu nhà trường đáp ứng
được yêu cầy ấy, tin chắc rằng nó sẽ là động lực rất lớn tác động tích cực đến thái
độ học tập của các em hơn.
2.5. Về phía Sở GD- ĐT:
Trong thời gian vừa qua, Sở Giáo dục và đào tạo cũng đã có nhiều cố gắng
trong việc nâng cao chất lượng giáo dục các lớp giáo dục thường xuyên trong
trường phổ thông. Cụ thể qua việc sơ kết hai năm thực hiện chương trình giáo dục
thường xuyên trong trường phổ thông vào tháng 6 năm 2013, việc kiểm tra và chỉ
đạo thường xuyên trong công tác chuyên môn giáo dục thường xuyên,…Từ đó,
việc giáo dục thường xuyên trong trường phổ thông đã dần đi vào ổn định và đạt
được một số hiệu quả nhất định.
Qua thực tế công tác, tôi xin thẳng thắn đưa ra một số biện pháp nâng cao
chất lượng giáo dục thường xuyên trong trường phổ thông như sau:
- Thứ nhất, Sở Giáo dục và đào tạo cần có cơ chế tổ chức sĩ số học sinh các
lớp giáo dục thường xuyên ít hơn so với lớp trung học phổ thông. Vì tôi nhận thấy
với lớp học hơn 40 học sinh sẽ gây khó khăn và áp lực rất lớn cho việc quản lý lẫn
giảng dạy của giáo viên.

16


- Thứ hai, Sở Giáo dục và đào tạo cần tổ chức cho học sinh lớp 12 hệ giáo
dục thường xuyên được kiểm tra học kì bằng đề chung do Sở ra đề như học sinh
lớp 12 trung học phổ thông. Việc ấy sẽ giúp cho các em cố gắng phấn đấu hơn, có
động lực hơn trong học tập.
2.6. Về phía gia đình:
Như đã nói ở trên, gia đình đóng vai trò rất quan trọng trong việc giáo dục
học sinh. Đặc biệt là đối với học sinh ở lớp giáo dục thường xuyên. Do đó sự quan
tâm của phụ huynh học sinh đối với con mình là yếu tố rất lớn khiến học sinh học
tốt hay yếu. Thiết nghĩ, với vai trò là một người phụ huynh có trách nhiệm, chúng
ta cần thiết phải có các biện pháp sau:
- Thứ nhất, phụ huynh cần thường xuyên kiểm tra kết quả học tập của các em
tại nhà. Chúng ta kiểm tra việc chép bài, học thuộc bài, chuẩn bị bài của các em. Từ
đó nhắc nhở nhẹ nhàng các em khi các em chưa hoàn thành nhiệm vụ của mình.
- Thứ hai, phụ huynh cần liên hệ chặt chẽ, thường xuyên với giáo viên chủ
nhiệm và cả giáo viên bộ môn. Việc ấy giúp chúng ta theo dõi được tình hình học
tập của các em ở trường. Tránh tình trạng một năm chỉ gặp giáo viên chủ nhiệm
thông qua những lần họp phụ huynh học sinh và ký thác “ trăm sự nhờ thầy”.
- Thứ ba, phụ huynh cần phải dành sự quan tâm cần thiết đối với các em học
sinh. Mọi sự răn dạy đều phải khéo léo, nhẹ nhàng, tránh sự xúc phạm đến tinh thần
và thể xác mà ảnh hưởng xấu đến các em.
2.7. Về phía đoàn thể xã hội:
Đoàn thể ngoài xã hội là thành phần quan trọng. Nó góp phần rất lớn trong
công tác giáo dục học sinh của gia đình và nhà trường. Vì thế, nhà trường cần tăng
cường tận dụng sự giúp đỡ của thành phần này để giáo dục các em học sinh, đặc
biệt là các em hệ giáo dục thường xuyên đạt hiệu quả hơn. Thông qua việc:
- Thứ nhất, các đoàn thể ngoài xã hội có thể vận động học sinh bỏ học đến
lớp trở lại. Hiện nay, các em học sinh hay có tư tưởng ngại học lớp giáo dục thường

xuyên vì sợ các bạn chê cười. Vì thế ta có thể nhờ các đoàn thể ( có thể là hội
khuyến học, hội phụ nữ,…) mà thông qua đó phụ huynh các em học sinh là hội
viên, đến nhà vận động cùng giáo viên chủ nhiệm nhằm tăng sức thuyết phục hơn.
- Thứ hai, hiện nay các cơ sở kinh doanh dịch vụ ngoài trường học ( đặc biệt
là các quán bida, game,…) mở rất nhiều. Nó đã khiến nhiều em học sinh ( trong đó
có nhiều học sinh giáo dục thường xuyên) phải nghiện nên mê chơi rồi trốn học
hoặc học tập rất sa sút. Thông qua các đoàn thể ( đoàn thanh niên xã, công an xã,
…), nhà trường xin hỗ trợ kiểm tra, vận động họ kí cam kết kinh doanh đúng giờ,
không cho học sinh đến và sử dụng vào giờ học của các em, không cho các em chơi
quá thời gian quy định,… Từ đó sẽ giảm bớt các em học sinh sa vào các tệ nạn xã
hội hơn và ngăn các em không còn lơ là trong học tập.
17


PHẦN C. PHẦN KẾT LUẬN:
I. Kết quả:
Sau một thời gian công tác, qua những nỗ lực của bản thân cùng với sự học
hỏi kinh nghiệm từ các đồng nghiệp, tôi luôn vận dụng linh hoạt các biện pháp nói
trên và cũng đã gặt hái được một số kết quả khả quan:
Lớp giáo dục thường xuyên mà tôi đã chủ nhiệm, do lần đầu đảm nhận nên
có những hạn chế nhất định nhưng có có những thành công khá khả quan. Lớp tôi
luôn tham gia tốt các phong trào, các hoạt động của nhà trường. Các em học sinh đa
số ngoan, có mối quan hệ bạn bè tốt. Mối quan hệ giữa thầy và trò luôn thân thiện,
có sự hợp tác khá hiệu quả. Giáo viên bộ môn đánh giá khá tốt về nề nếp và việc
thực hiện nội quy của lớp. Riêng phụ huynh học sinh, tôi đã tạo ra được niềm tin rất
lớn nơi họ.
Ở các lớp giáo dục thường xuyên mà tôi giảng dạy, đa số các em chăm chú
lắng nghe giảng bài và hợp tác với giáo viên. Tôi luôn cố gắng giao tiếp với các em
thật nhẹ nhàng, chân tình, sẵn sàng nghe các em tâm sự, giãi bày. Trước khi đến
lớp, tôi luôn cố gắng soạn giảng nghiêm túc, cố gắng mang lại cách truyền đạt tốt

nhất cho các em. Từ đó kết quả học tập của các em cũng ngày một nâng lên.
II. Kinh nghiệm:
Giáo viên không ngừng học hỏi và trao đổi kinh nghiệm từ các đồng nghiệp.
Đồng thời giáo viên phải không ngừng tự đúc kết kinh nghiệm của bản thân thông
qua những tình huống sư phạm cụ thể, thông qua các kết quả giáo dục của mình và
đặc biệt là thông qua nhận xét, đánh giá, ý kiến trực tiếp từ các em học sinh.
Giáo viên cần có sự giao tiếp với học sinh một cách nhẹ nhàng, thân thiện.
Trong quá trình giáo dục, cần tránh sự nóng vội mà hãy kiên trì và tin tưởng các em
sẽ tiến bộ. Hãy luôn xem việc cảm hóa các em là nhiệm vụ thiêng liêng, trách
nhiệm cao cả mà ta thực hiện. Hãy dùng cả trái tim chân thành của mình để dẫn dắt
các em dần dần trở về với con đường học tập đúng đắn.
Giáo viên phải luôn chủ động giữ được mối liên hệ chặt chẽ với tất cả các
giáo viên dạy khác, đặc biệt là giáo viên chủ nhiệm, với các đoàn thể trong nhà
trường, với phụ huynh học sinh,…Để có biện pháp toàn diện và đạt hiệu quả tốt
nhất.
III. Đề xuất và kiến nghị:
Ban giám hiệu cần thường xuyên họp giáo viên chủ nhiệm hơn. Và trong
cuộc họp cần thẳng thắn đánh giá, phê bình những lớp còn nhiều hạn chế và khen
ngợi, nhân rộng các mô hình ở các lớp có hoạt động hiệu quả. Từ đó giúp các giáo
viên chủ nhiệm thật sự gắn bó với lớp, với học trò hơn.

18


Đoàn- Hội- Đội nên có hướng giáo dục một cách thường xuyên và nghiêm
khắc hơn nữa đối với những học sinh “cá biệt”. Đặc biệt là đối với học sinh ở lớp
giáo dục thường xuyên. Tránh lối làm việc theo “thời vụ”. Nên chăng thường xuyên
cập nhật con số học sinh cá biệt ở từng lớp giáo dục thường xuyên để có sự theo
dõi, có biện pháp và có sự phân công cán bộ hỗ trợ công tác chủ nhiệm đạt hiệu quả
hơn.

Tất cả các giáo viên cần có sự gắn bó, đoàn kết hơn nữa trong công tác quản
lý và giảng dạy các em học sinh ở các lớp giáo dục thường xuyên. Hãy đặt lợi ích
chung lên trên hết. Tất cả vì học sinh thân yêu và vì trách nhiệm của chúng ta với
sự nghiệp giáo dục.

19


TÀI LIỆU THAM KHẢO
---1. Giáo trình tâm lí giáo dục.
2. Tài liệu giáo dục học.
3. Tài liệu tập huấn giáo viên chủ nhiệm với công tác tư vấn tâm
lý- giáo dục cho học sinh trung học.
4. Tạp chí giáo dục.
5. Và một số báo, tạp chí khác.

20


MỤC LỤC
-----

Trang

A. PHẦN MỞ ĐẦU
I. Lý do chọn đề tài
II. Mục đích nghiên cứu
III. Đối tượng nghiên cứu
IV. Phương pháp nghiên cứu


1
1
2
2
2
3

B. PHẦN NỘI DUNG
I. Cơ sở lý luận
II. Cơ sở thực tiễn
III. Thực trạng
IV. Một số đặc điểm học sinh hệ giáo dục thường xuyên ở trường THCSTHPT Mỹ Quý và các biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục
1. Một số đặc điểm học sinh hệ giáo dục thường xuyên ở trường THCSTHPT Mỹ Quý
1.1. Đặc điểm gia đình
1.1.1. Đặc điểm kinh tế
1.1.2.Đặc điểm tình trạng hôn nhân của cha mẹ
1.1.3. Đặc điểm về lối sống của gia đình
1.2. Đặc điểm của bản thân học sinh
1.2.1. Về khả năng học tập
1.2.2. Về tâm lý
2. Các biện pháp nâng cao hiệu quả giáo dục
2.1. Về phía giáo viên chủ nhiệm
2.2. Về phía giáo viên bộ môn
2.3. Về phía đoàn thể nhà trường
2.4. Về phía ban giám hiệu
2.5. Về phía Sở GD- ĐT
2.6. Về phía gia đình
2.7. Về phía đoàn thể xã hội

3

3
3
4
4

C. PHẦN KẾT LUẬN

4
4
6
6
7
7
8
9
9
11
12
14
16
17
17
18

I. Kết quả
II. Kinh nghiệm
III. Đề xuất và kiến nghị
* Tài liệu tham khảo

18

18
18
20

21



×