Tải bản đầy đủ (.docx) (17 trang)

Luật dân sự đánh giá quy định về năng lực hành vi dân sự của cá nhân trong bộ luật dân sự 2005 và định hướng hoàn thiện

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (161.6 KB, 17 trang )

MỞ ĐẦU
Luật dân sự với vai trò là “luật gốc”, “luật mẹ” có ý nghĩa vô cùng quan
trọng trong hệ thống pháp luật. Một trong những quy định cơ bản và quan trọng
của Bộ luật dân sự là phần về năng lực chủ thể, đặc biệt là năng lực hành vi dân
sự của cá nhân. Bộ luật dân sự năm 2005 đã có những điều khoản quy định về
vấn đề này, tuy nhiên vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định. Để hiểu rõ hơn
về vấn đề này , em xin chọn tìm hiểu đề bài: “ Đánh giá quy định về năng lực
hành vi dân sự của cá nhân trong Bộ luật dân sự 2005 và định hướng hoàn
thiện”

1


NỘI DUNG
I.Khái quát về năng lực hành vi dân sự của cá nhân trong BLDS năm 2005
1.Năng lực hành vi dân sự của cá nhân
Cá nhân là chủ thể của mọi quan hệ xã hội. Trong quan hệ tài sản và quan
hệ nhân thân do Bộ luật dân sự Việt Nam điều chỉnh thì cá nhân là chủ thể đầu
tiên và cũng là chủ thể quan trọng nhất. Để tham gia vào quan hệ dân sự, cá
nhân phải có năng lực chủ thể bao gồm: năng lực pháp luật dân sự và năng lực
hành vi dân sự.
Theo khoản 1 Điều 14 Bộ luật dân sự Việt Nam: “ Năng lực pháp luật
dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân
sự”. Cùng với năng lưc pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự là điều kiện
hợp thành để phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự cụ thể. “Nếu như năng lực
pháp luật dân sự là “khả năng” mà pháp luật cho phép cá nhân có thể hưởng
quyền và thực hiện các nghĩa vụ dân sự thì năng lực pháp luật dân sự lại là sự “
hiện thực hóa” khả năng này. Do đó, nếu không có năng lực hành vi dân sự của
cá nhân thì năng lực pháp luật dân sự cũng chỉ là khả năng mà không thể trở
thành hiện thực.”1
Theo Điều 17: “ Năng lực hành vi dân sự của cá nhân là khả năng của cá


nhân bằng hành vi của mình xác lập, thực hiện quyền, nghĩa vụ dân sự”. Xét về
phương diện tâm lý và sinh lý của con người thì gồm hai yếu tố: lý trí và mong
muốn chủ quan và “ năng lực hành vi dân sự của cá nhân là sự phù hợp giữa lý
trí với mong muốn chủ quan của cá nhân đó” hay nói cách khác là ‘ khả năng
của cá nhân thực hiện các hành vi dân sự và khả năng nhận thức bằng suy luận
1 Giáo trình luật dân sự Việt Nam tập 1, Ts Lê Đình Nghị chủ biên, trang65, NXB Giáo dục Việt Nam

2


của cá nhân trong việc làm chủ, kiểm soát các hành vi đó”2. Như vậy thì nội
dung của năng lực hành vi dân sự bao gồm 2 yếu tố: Năng lực thực hiện các giao
dịch hoặc các hành vi pháp lý khác và năng lực chịu trách nhiệm cho hành vi trái
pháp luật. Vì vậy, không giống với năng lực pháp luật dân sự phát sinh khi chủ
thể sinh ra, chấm dứt khi chủ thể chết đi; năng lực hành vi dân sự được pháp luật
quy định phụ thuộc vào khả năng nhận thức( trí tuệ) và khả năng thực hiện( thể
lực).
2. Các mức độ của năng lực hành vi dân sự
Cá nhân có năng lực hành vi dân sự đầy đủ khi đã đạt mức hoàn thiện về
thể lực và trí lực. Theo các ngành khoa học y học, tâm lý học, sinh lý học…đã
chứng minh có thể căn cứ vào độ tuổi để xác định mức độ năng lực hành vi dân
sự của cá nhân.
Thứ nhất, năng lực hành vi dân sự đầy đủ: Người từ đủ 18 tuổi được suy
đoán là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và được xác định ở khái niệm
người thành niên. Theo Điều 18,người thành niên là người có độ tuổi từ đủ 18
tuổi trở lên và người chưa thành niên là người chưa đủ 18 tuổi. “ Người thành
niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp quy định tại Điều 22 và
Điều 23 của Bộ luật này”. Như vậy, người thành niên không rơi vào trường hợp
mất năng lực hành vi dân sự - tức mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà
không thể nhận thức, làm chủ được hành vi hay người bị hạn chế năng lực hành

vi dân sự -“ người nghiện ma túy các chất kích thích khác dẫn đến phá tài sản
của gia đình”. Người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ thì có thể tham gia vào
mọi giao dịch dân sự.
Thứ hai, không có năng lực hành vi dân sự: Người chưa đủ 6 tuổi là
người không có năng lực hành vi dân sự (Điều 21). Dưới sáu tuổi, khả năng
2 Tạp chí: Tư cách chủ thể của cá nhân khi tham gia giao dịch dân sự, tạp chí Luật họa số2/2004, trang 56

3


nhận thức cũng như thực hiện hành vi liên quan đến thể lực và trí lực không
được đảm bảo. Do vậy, họ chỉ có năng lực pháp luật dân sự - có quyền và nghĩa
vụ dân sự mà không được tự mình tham gia xác lập các giao dịch dân sự. Các
giao dịch dân sự của người chưa đủ 6 tuổi phải được xác lập và thực hiện bởi
người đại diện theo pháp luật.
Thứ ba, chưa đủ năng lực hành vi dân sự ( Điều 20). Người đủ 6 tuổi đến
chưa đủ 18 tuổi được xem là người có năng lực hành vi dân sự hạn chế. Người ở
độ tuổi này đã bắt đầu có sự nhận thức về hành vi của mình tuy nhiên sự nhận
thức này vẫn ở mức hạn chế. Họ được quyền tham gia các giao dịch dân sự
nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày phù hợp với lứa tuổi: giao dịch có
giá trị nhỏ và độ phức tạp của giao dịch được xác lập theo lứa tuổi với mục đích
đáp ứng nhu cầu sinh hoạt, học tập.
Người từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi, là trường hợp ngoại lệ có thể tự
mình xác lập giao dịch mà “ không cần phải có sự đồng ý của người đại diện
theo pháp luật, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác”. Điều này xuất phát
từ nhu cầu thực tế cuộc sống: người từ đủ 15 tuổi đã có quyền tham gia các hợp
đồng lao động, có thu nhập riêng, nguồn tài sản hợp pháp. Vì vậy có thể trở
thành chủ thể độc lập trong đời sống kinh tế - xã hội. Tuy nhiên, nó không được
áp dụng với trường hợp pháp luật có quy định khác, ví dụ như khoản 2 Điều 652
của Bộ luật này: “Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám

tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ
đồng ý”
Thứ tư, mất năng lực hành vi dân sự ( Điều 22). Theo điều khoản này,
một người được đánh giá là mất năng lực hành vi dân sự khi có đầy đủ các yếu
tố:
4


Một là mắc bệnh tâm thần hoặc bệnh khác dẫn đến hậu quả không thể nhận thức,
làm chủ được hành vi của mình.
Hai là có yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan.
Ba là có kết luận của tổ chức giám định và quyết định của Tòa án.
Đối với những trường hợp này thì giao dịch của họ “ phải do người đại
diện theo pháp luật thực hiện”- Điều 22, nhằm bảo vệ quyền lợi chính đáng của
những người mất năng lực hành vi dân sự khi họ thực hiện giao dịch mà không
bảo đảm về yếu tố nhận thức.
Thứ năm, bị hạn chế năng lực hành vi dân sự( Điều 23). Cần phân biệt
với người có năng lực hành vi dân sự hạn chế, người bị hạn chế năng lực hành vi
dân sự ( được quy định tại Điều 23) là người có năng lực hành vi dân sự đầy đủ
những bị Tòa án ra quyết định tuyên bố là hạn chế. Đó là những người có đầy đủ
các yếu tố sau:
Một là người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích dẫn đến hậu quả phá tán
tài sản của gia đình
Hai là có yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức hữu
quan
Ba là quyết định của Tòa án
Mục đích của việc hạn chế năng lực hành vi dân sự đối với những đối
tượng trên “không chỉ là bảo vệ, bảo đảm sử dụng hợp lý tài sản của người đó,
của gia đình mà còn có ý nghĩa xã hội nhằm hạn chế các tệ nạn này”3


3 Giáo trình Luật dân sự, Trường đại học luật Hà Nội, TS Lê Đình Nghị (chủ biên), NXB Giáo dục Việt Nam, trang
67

5


Hậu quả pháp lý đối với người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự là giao
dịch liên quan đến tài sản của họ phải có sự đồng ý của người đại diện theo pháp
luật ngoại trừ giao dịch phục vụ nhu cầu hằng ngày.
II. Đánh giá và định hướng hoàn thiện năng lực hành vi dân sự của cá nhân
trong BLDS năm 2005.
Điều 19. Năng lực hành vi dân sự của người thành niên
“ Người thành niên có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, trừ trường hợp quy định
tại Điều 22 và Điều 23 của Bộ luật này”
Xét theo Điều 19, người thành niên là người đủ mười tám tuổi trở lên mà
không thuộc các trường hợp người mất năng lực hành vi dân sự ( Điều 22) và
người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự (Điều 23) thì có năng lực hành vi dân
sự đầy đủ tức có thể tham gia mọi giao dịch dân sự. Như vậy, quy định này chỉ
mới quy định về một yếu tố của năng lực hành vi dân sự của cá nhân mà bỏ qua
yếu tố về thể lực – khả năng bằng hành vi thực hiện quyền và nghĩa vụ. Nó đồng
nghĩa với việc một người bình thường về nhận thức nhưng khuyết tật vẫn có
năng lực hành vi dân sự đầy đủ. Ví dụ, ông A bị lãng tai và khiếm thị vì vậy ông
gặp khó khăn trong việc tham gia vào hợp đồng mua bán nhà.
Khác với pháp luật dân sự của một số nước trên thế giới, Bộ luật dân sự
năm 2005 của Việt Nam không quy định về việc hạn chế năng lực hành vi dân
sự đối với người khuyêt tật, người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành
vi. . Tuy nhiên trong Dự thảo Bộ luật dân sự lấy ý kiến nhân dân đã có sự bổ
[1]

sung về điều này được quy định tại Điều 29. Người có khó khăn trong nhận

thức, làm chủ hành vi :

6


“1. Người do tình trạng thể chất hoặc tinh thần mà không đủ khả năng nhận
thức, làm chủ hành vi của mình nhưng chưa đến mức mất năng lực hành vi dân
sự thì theo yêu cầu của họ, người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ chức
hữu quan, tổ chức y tế có thẩm quyền xác nhận người đó là người có khó khăn
trong nhận thức, làm chủ hành vi.
2. Người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi tự mình xác lập, thực
hiện giao dịch dân sự, trừ giao dịch dân sự theo quy định của luật hoặc theo
quyết định của Tòa án phải được sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật”.
Quy định như vậy là để khắc phục bất cập của Bộ luật hiện hành là chưa
có cơ chế pháp lý để thực hiện, bảo vệ quyền dân sự đối với người do bị khuyết
tật hoặc do tình trạng thể chất, tinh thần dẫn tới tình trạng sức khỏe tâm thần
không tốt, khả năng nhận thức không đầy đủ, thiếu chính xác, không rõ ràng về
hành vi của mình nhưng chưa ở mức mất năng lực hành vi dân sự dẫn tới không
tiếp cận được các quyền dân sự của mình. “ Tuy nhiên việc xác định như thế nào
là người có khó khăn trong nhận thức và làm chủ hành vi cũng như hậu quả
pháp lý của các giao dịch mà họ tham gia lại chưa được làm rõ trong Dự thảo”4
Điều 20. Năng lực hành vi dân sự của người chưa thành niên từ đủ sáu tuổi
đến chưa đủ mười tám tuổi
“1.Người từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi khi xác lập, thực hiện
giao dịch dân sự phải được người đại diện theo pháp luật đồng ý, trừ giao dịch
nhằm phục vụ nhu cầu sinh hoạt hằng ngày phù hợp với lứa tuổi hoặc pháp luật
có quy định khác.
2.Trong trường hợp người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám
tuổi có tài sản riêng bảo đảm thực hiện nghĩa vụ thì có thể tự mình xác lập, thực
4 Ts Vương Thanh Thúy, Góp ý dự thảo BLDS 2005 sửa đổi.


7


hiện giao dịch dân sự mà không cần phải có sự đồng ý của người đại diện theo
pháp luât trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.”
Xét khoản 1Điều 20 có đặt ra vấn đề: các giao dịch dân sự của người từ
đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi đòi hỏi phải có sự đồng ý của người đại
diện theo pháp luật. Về việc “có sự đồng ý của người đại diện theo pháp luật”
làm cho quy định “ không rõ ràng và sẽ có thể dẫn tới những cách áp dụng
pháp luật không đồng nhất”:5
Thứ nhất, nếu hiểu là người đại diện theo pháp luật đồng ý cho phép chủ
thể trong trường hợp này tự mình xác lập, thực hiện giao dịch thì hình thức “
đồng ý” là như thế nào? Chỉ cần bằng lời nói hay thông qua hành động để bộc lộ
sự chấp thuận? Và sự đồng ý này được thể hiện khi xác lập giao dịch hay trong
trường hợp sau khi giao dịch đã được hoàn thành. Ví dụ, theo Điều 130 “Khi
giao dịch dân sự do người chưa thành niên, người mất năng lực hành vi dân sự
hoặc người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự xác lập, thực hiện thì theo yêu
cầu của ngưởi đại diện của người đó”- người đại diện chấp nhận giao dịch đó
thì giao định có hiệu lực. Đây có phải là trường hợp “đồng ý” sau khi giao dịch
đã được hoàn thành?
Thứ hai, nếu quy định như vậy cũng có thể đem lại cách hiểu: người đại
diện theo pháp luật sẽ đại diện cho cá nhân từ đủ sáu tuổi đến chưa đủ mười tám
tuổi xác lập, thực hiện giao dịch. Điều này là không trái pháp luật bởi Điều 17
có quy định về năng lực hành vi dân sự - khả năng bằng hành vi xác lập quyền,
nghĩa vụ dân sự ,tuy nhiên trong trường hợp này cá nhân chỉ có năng lực hành vi
dân sự hạn chế vì vậy người đại diện – người có đủ điều kiện về năng lực hành
vi dân sự có thể thực hiện thay thế. Tuy nhiên xét trong thực tế người đại diện
5 Bình luận khoa học Bộ luật dân sự của nước CHXHCN Việt Nam, NXB Tư pháp, TS Nguyễn Minh Tuấn chủ biên,
trang 45


8


theo pháp luật của các chủ thể bị hạn chế năng lực hành vi dân sự này thường là
bố mẹ mà người từ đủ sáu đến chưa đủ mười tám tuổi tham gia những giao dịch
trong thời gian đến trường, cho nên cha mẹ khó có thể xác lập giao dịch thay
cho con được. Điều này đã bộc lộ sự thiếu hợp lý trong thực tế.
Định hướng: Như vậy, để đảm bảo cách hiểu thống nhất, phù hợp thì
BLDS có thể quy định rõ ràng hơn về hình thức đồng ý của người đại diện theo
pháp luật. Hình thức này có thể căn cứ vào giao dịch được xác lập.Ví dụ, đối với
giao dịch là lời nói thì hình thức đồng ý cũng có thể bằng lời nói của người đại
diện theo pháp luật. Tương tự, nếu giao dich được xác lập bằng văn bản thì sự
đồng ý phải được thể hiện bằng văn bản.
Điều 21.Người không có năng lực hành vi dân sự
“Người chưa đủ sáu tuổi không có năng lực hành vi dân sự. Giao dịch
dân sự của người chưa đủ sáu tuổi phải do người đại diện theo pháp luật xác
lập, thực hiện”
Người chưa đủ sáu tuổi sẽ không đảm bảo đầy đủ về trí lực và thể lực để
bảo đảm tự mình thực hiện các giao dịch dân sự. Vì vậy mọi giao dịch dân sự
của chủ thể này phải do đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện. Tuy không có
năng lực hành vi dân sự nhưng người chưa đủ sáu tuổi đã có năng lực pháp luật
dân sự.
Theo Điều 13 về căn cứ xác lập quyền, nghĩa vụ dân sự
“Quyền, nghĩa vụ dân sự được xác lập từ các căn cứ sau đây:
1.Giao dịch dân sự hợp pháp
2.Quyết định của Tòa án, cơ quan nhà nước có thâm rquyền khác;
9



3.Sự kiện pháp lý do pháp luật quy định;
4.Sáng tạo giá trị tinh thần là đối tượng thuộc quyền sở hữu trí tuệ;
5.Chiếm hữu tài sản có căn cứ pháp luật;…..”
Như vậy, “giao dịch dân sự” là một trong chín căn cứ để xác lập quyền
và nghĩa vụ dân sự.
Như đã nói ở trên, Điều 17 năng lực hành vi dân sự gắn với khả năng xác
lập, thực hiện quyền và nghĩa vụ dân sự. Tuy nhiên trong Điều 21khi không có
năng lực hành vi dân sự - không có khả năng tự mình xác lập quyền và nghĩa vụ
dân sự thì chỉ quy định về vấn đề giao dịch( giao cho người đại diện theo pháp
luật thực hiện, xác lập). Một vấn đề đặt ra về việc xác lập quyền và nghĩa vụ dân
sự cho người dưới sáu tuổi xuất phát từ những căn cứ khác ngoài giao dịch dân
sự như “Quyết định của Tòa án, cơ quan nhà nước có thẩm quyền” hay “sự kiện
pháp lý do pháp luật quy định”? Phải chăng chỉ có “ giao dịch dân sự” mới làm
phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự? Điều này tạo ra sự mâu thuẫn giữa Điều 13
với Điều 17 và Điều 21. Vậy từ những căn cứ khác( Điều 13) thì không phát
sinh quyền và nghĩa vụ dân sự đối với người chưa đủ sáu tuổi ngay cả khi có
người đại diện thực hiện thay thế? Ví dụ: trong trường hợp em bé 5 tuổi phát
hiện và nắm giữ tài sản vô chủ. Nó sẽ phát sinh quyền chiếm hữu dựa trên căn
cứ “ chiếm hữu có căn cứ pháp luật”. Vậy, chủ thể nào sẽ là người xác lập quyền
sở hữu trong trường hợp này? Như vậy, để phù hợp với các quy định khác về
năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự của cá nhân, Điều 21 cần
được sửa đổi.
Định hướng: Để tránh sự mâu thuẫn giữa Điều 13 về Căn cứ xác lập
quyền, nghĩa vụ dân sự và Điều 21 về người không có năng lực hành vi dân sự
thì Bộ luật dân sự cần có sự điều chỉnh cho phù hợp. Có thể bổ sung Điều 21 để
10


có thể thống nhất với quy định tại Điều 13: ngoài giao dịch dân sự còn có các
căn cứ khác làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự. Ví dụ : Người chưa đủ sáu

tuổi không có năng lực hành vi dân sự. Những căn cứ làm phát sinh quyền và
nghĩa vụ dân sự được quy định tại Điều 13 của Bộ luật này của người chưa đủ
sáu tuổi phải do người đại diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.
Điều 22.Mất năng lực hành vi dân sự
“1. Khi một người do mắc bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể
nhận thức , làm chủ được hành vi của mình thì theo yêu cầu của người có
quyền, lợi ích liên quan,Tòa án ra quyết định mất năng lực hành vi dân sự trên
cơ sở kết luận của tổ chức giám định.
Khi không còn căn cứ tuyên bố một người mất năng lực hành vi dân sự thì theo
yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích liên quan, Tòa án
ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự.
2.Giao dịch dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự phải do người đại
diện theo pháp luật xác lập, thực hiện.”
Như đã nói ở trên, việc tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự có ý nghĩa
bảo vệ lợi ích của người đang trong tình trạng( một khoảng thời gian nhất định)
mất khả năng nhận thức và làm chủ hành vi tuy nhiên không thể phủ nhận hậu
quả pháp lý từ việc tuyên bố này là rất lớn. Họ sẽ không có quyền được tự mình
tham gia các giao dịch dân sự… Tại khoản 1 Điều 22 này có quy định về vấn đề
khôi phục năng lực hành vi dân sự - đó là khi Tòa án ra quyết định hủy bỏ tuyên
bố. Tuy nhiên một trong những cơ sở để Tòa ra quyết định hủy bỏ là “theo yêu
cầu của chính người đó” . Chính điều này đã đặt ra một câu hỏi: khi yêu cầu của
người đó được đặt ra thì quyết định về tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự
trước đó của Tòa vẫn đang còn hiệu lực – điều đó có nghĩa là cá nhân đó không
11


được không được xác lập và thực hiện hành vi của mình một cách độc lập trong
giao dịch dân sự hay các quan hệ pháp luật dân sự. Vì vậy, bằng cách nào lời
yêu cầu của họ có giá trị để Tòa đưa ra quyết định hủy bỏ? Như vậy, quy định “
theo yêu cầu của chính người đó” sẽ không có ý nghĩa pháp lý gì trong điều

khoản này.
Tiếp theo, quy định tại khoản 2 điều này cũng tương tự như quy định của
Điều 21 đã được đề cập trước đó về vấn đề “ việc xác lập, thực hiện giao dịch
dân sự của người mất năng lực hành vi dân sự được thông qua hành vi của
người đại diện theo pháp luật là không bao trùm hết nội hàm của các căn cứ
phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự”( quy định tại Điều 13)..6
Định hướng: Như vậy, trước một số điểm bất hợp lý của Điều 22 thì có
thể xem xét và hoàn thiện cho quy định trở nên hợp lý hơn. Thứ nhất về vấn đề
khôi phục năng lực hành vi dân sự sau khi căn cứ tuyên bố mất năng lực hành vi
dân sự không còn có thể không chỉ theo “ yêu cầu của chính người đó” mà có
thể dựa theo căn cứ kết luận của cơ quan y tế, giám định giống như thủ tục tuyên
bố mất năng lực hành vi dân sự. Tòa án có thể căn cứ vào đây để xác định về
khả năng nhận thức và làm chủ hành vi của cá nhân đó để từ đó đưa ra qyết định
hủy bỏ quyết định đã tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự trước đó. Thứ hai,
giống như Điều 21, bên cạnh quy định về giao dịch dân sự có thể bổ sung các
căn cứ làm phát sinh quyền và nghĩa vụ dân sự của chủ thể.
Điều 23 Hạn chế năng lực hành vi dân sự
‘1.Người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích khác dẫn đến phá tán tài sản
của gia đình thì theo yêu cầu của người có quyền, lợi ích liên quan, cơ quan, tổ

6 Bình luận khoa học Bộ luật dân sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, TS Nguyễn Minh Tuấn chủ
biên, trang 50

12


chức hữu quan, Tòa án có thể ra quyết định tuyên bố là người bị hạn chế năng
lực hành vi dân sự.
2.Người đại diện theo pháp luật của người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
và phạm vi đại diện do Tòa án quyết định. Giao dịch liên quan đến tài sản của

người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự phải có sự đồng ý của người đại diện
theo pháp luật,trừ giao dịch nhằm phục vụ nhu cầu hàng ngày.
3.Khi không còn căn cứ tuyên bố một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự
thhì theo yêu cầu của chính người đó hoặc của người có quyền, lợi ích iên quan,
cơ quan, tổ chức hữu quan, Tòa án ra quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố
hạn chế năng lực hành vi dân sự.”
Tình trạng nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích được xem là căn cứ
để xác định năng lực hành vi dân sự của cá nhân. Ở mức độ thấp hơn về việc
mất khả năng nhận thức so với người mắc bệnh tâm thần, cá nhân rơi vào tình
trạng này thì khả năng nhận thức và làm chủ hành vi không được đảm bảo vì
vậy được pháp luật quy đinh là bị hạn chế về năng lực hành vi dân sự. Đồng
thời, việc kết luận một người hạn chế năng lực hành vi dân sự cũng kéo theo
những hậu quả pháp lý lớn .Tuy nhiên, theo khoản 1 Điều này thì chỉ quy định “
người nghiện ma túy, nghiện các chất kích thích” mà không chỉ rõ thế nào là
chất kích thích đó và những chất được quy định là những chất nào. Bên cạnh đó
khoản 1 cũng chỉ ra hậu quả của việc nghiện chất kích thíchlà dẫn đến phá tán
tài sản của gia đình. Đó là tài sản chung của gia đình do các thành viên cùng
đóng góp nhưng mức độ phá tán để dẫn đến hậu quả pháp lý là mất năng lực
hành vi dân sự thì pháp luật lại chưa chỉ rõ.Vậy, ở mức độ bao nhiêu thì được
coi là phá tán tài sản gia đình? Việc chưa chỉ rõ về các loại chất kích thích và
mức độ phá tán tài sản gia đình tạo nên những căn cứ không rõ ràng và thiếu
thuyết phục cho việc xác định một người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự.
13


Bên cạnh đó quy định này cũng không đề cập đến mức độ của việc nghiện
chất kích thích, đồng thời cũng không quy định về những căn cứ rõ ràng để xác
định việc nghiện này. Trong khi đó, một trong những yếu tố để Tòa án kết luận
một người bị mất năng lực hành vi dân sự đòi hỏi phải có “ kết luận của tổ chức
giám định” thì đối với người được quy định trong điều này lại không đòi hỏi

phải có. Kết luận của Tòa án về một người bị mất năng lực hành vi dân sự dựa
trên ý chí chủ quan của quan tòa – người có chuyên môn pháp luật mà không có
sự chứng thực của các cơ quan chuyên môn (cơ quan y tế). Điều này tạo nên sự
thiếu khách quan trong phán quyết và có thể dẫn tới hậu quả nhiều tòa án đưa ra
những quyết định khác nhau về sự hạn chế này.
Thêm vào đó, giống như Điều 22 quy định về vấn đề căn cứ để Tòa án ra
quyết định hủy bỏ quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự khi có
yêu cầu của chính người đó là không khả thi.
Định hướng: Để được hiểu và thực hiện cụ thể rõ ràng đồng thời hạn chế
tình trạng chủ quan, duy ý chí của người đưa ra phán quyết thì tại Điều 23 có thể
bổ sung những quy định rõ ràng hơn về vấn đề chất kích thích( khái niệm, danh
sách các chất kích thích) và mức độ của hậu quả phá tán tài sản. Ngoài ra, về
điều kiện để Tòa đưa ra quyết định một người bị hạn chế năng lực hành vi dân
sự cần có yếu tố dựa trên cơ sở kết luận của tổ chức giám định giống như khoản
1 Điều 22 Bộ luật này. Đồng thời cũng cần có sự xác định của các cơ quan
chuyên môn trong lĩnh vực y tế khi xác định căn cứ để Tòa án ra quyết định hủy
bỏ quyết định tuyên bố hạn chế năng lực hành vi dân sự của một người.
Trong Dự thảo sửa đổi Bộ luật dân sự lấy ý kiến nhân dân có quy định về
năng lực hành vi dân sự của cá nhân từ Điều 22 đến Điều 29, có bổ sung đối với
trường hợp người có khó khăn trong nhận thức, làm chủ hành vi. Đây có thể
đánh giá như một điểm tiến bộ của dự thảo đổi mới.
14


Kết luận
Trong khi cuộc sống xã hội luôn thay đổi mà phạm vi điều chỉnh của pháp
luật dân sự là rất rộng, vì vậy nhà làm luật không thể dự liệu hết được tất cả
những trường hợp có thể xảy ra. Bên cạnh những thành tựu đã được từ sự kế
thừa và xây dựng, Bộ luật dân sự 2005 vẫn còn tồn tại một số hạn chế nhất định.
Với sự ra đời của bộ luật dự thảo và sự đóng góp ý kiến của nhân dân, những

quy định về năng lực hành vi dân sự của cá nhân nói riêng, bộ luật nói chung
đang được dần hoàn thiện. Chúng ta có thể tin tưởng vào một Bộ luật Dân sự với
đúng vai trò của nó – luật gốc.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
A. GIÁO TRÌNH
1. Trường Đại học Luật Hà Nội, Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập I, Nxb.
CAND, Hà Nội, 2009.
2. Lê Đình Nghị (chủ biên), Giáo trình luật dân sự Việt Nam, Tập 1, Nxb. Giáo
dục, Hà Nội, 2009.
B. Văn bản quy phạm pháp luật
1. Bộ luật dân sự năm 2005 và các văn bản hướng dẫn.
2. Dự thảo BLDS sửa đổi
C. Sách
15


1. Phạm Văn Tuyết, Lê Kim Giang, Hướng dẫn môn học luật dân sự: học phần
1, Nxb. Lao động, Hà Nội, 2013.
2. Nguyễn Minh Tuấn (chủ biên), Bình luận khoa học Bộ luật dân sự của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2014.
3. Viện nhà nước và pháp luật, Th.s Đinh Thế Hưng – T.s Trần Văn Biên, Bình
luận khoa học Bộ luật dân sự của nước CHXHCN Việt Nam, Nxb Lao động, Hà
Nội - 2013
D. Tạp chí
1. Phạm Văn Tuyết, “Tư cách chủ thể của cá nhân khi tham gia GDDS”, Tạp chí
luật học, số 2/2004
Website
1.
2.

/>3. aspx? ItemID=274
4. />%20Sua%20doi
5. GOP-Y-DUTHAO-BO-LUAT-DAN-SU2005-SUA-DOI.htlm

16


17



×